bài mẫu luận văn thạc sĩ luật kinh tế 2 tại tri thức cộng đồng.docx

hoangvanminh10031995 14 views 118 slides Apr 08, 2025
Slide 1
Slide 1 of 118
Slide 1
1
Slide 2
2
Slide 3
3
Slide 4
4
Slide 5
5
Slide 6
6
Slide 7
7
Slide 8
8
Slide 9
9
Slide 10
10
Slide 11
11
Slide 12
12
Slide 13
13
Slide 14
14
Slide 15
15
Slide 16
16
Slide 17
17
Slide 18
18
Slide 19
19
Slide 20
20
Slide 21
21
Slide 22
22
Slide 23
23
Slide 24
24
Slide 25
25
Slide 26
26
Slide 27
27
Slide 28
28
Slide 29
29
Slide 30
30
Slide 31
31
Slide 32
32
Slide 33
33
Slide 34
34
Slide 35
35
Slide 36
36
Slide 37
37
Slide 38
38
Slide 39
39
Slide 40
40
Slide 41
41
Slide 42
42
Slide 43
43
Slide 44
44
Slide 45
45
Slide 46
46
Slide 47
47
Slide 48
48
Slide 49
49
Slide 50
50
Slide 51
51
Slide 52
52
Slide 53
53
Slide 54
54
Slide 55
55
Slide 56
56
Slide 57
57
Slide 58
58
Slide 59
59
Slide 60
60
Slide 61
61
Slide 62
62
Slide 63
63
Slide 64
64
Slide 65
65
Slide 66
66
Slide 67
67
Slide 68
68
Slide 69
69
Slide 70
70
Slide 71
71
Slide 72
72
Slide 73
73
Slide 74
74
Slide 75
75
Slide 76
76
Slide 77
77
Slide 78
78
Slide 79
79
Slide 80
80
Slide 81
81
Slide 82
82
Slide 83
83
Slide 84
84
Slide 85
85
Slide 86
86
Slide 87
87
Slide 88
88
Slide 89
89
Slide 90
90
Slide 91
91
Slide 92
92
Slide 93
93
Slide 94
94
Slide 95
95
Slide 96
96
Slide 97
97
Slide 98
98
Slide 99
99
Slide 100
100
Slide 101
101
Slide 102
102
Slide 103
103
Slide 104
104
Slide 105
105
Slide 106
106
Slide 107
107
Slide 108
108
Slide 109
109
Slide 110
110
Slide 111
111
Slide 112
112
Slide 113
113
Slide 114
114
Slide 115
115
Slide 116
116
Slide 117
117
Slide 118
118

About This Presentation

Viết thuê luận văn thạc sĩ - đại học - tiểu luận - báo cáo thực tập. Zalo: 0983 018 995


Slide Content

HÀ NỘI,
2025
LUẬN VĂN UY TÍN
VIẾT THUÊ LUẬN VĂN THẠC SĨ – TỐT NGHIỆP
ZALO: 0983.018.995
NGUYỄN HOÀNG DŨNG
TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA CÔNG CHỨNG VIÊN
TRONG CÁC GIAO DỊCH VỀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI,
2025
LUẬN VĂN UY TÍN
VIẾT THUÊ LUẬN VĂN THẠC SĨ – TỐT NGHIỆP
ZALO: 0983.018.995
NGUYỄN HOÀNG DŨNG
TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA CÔNG CHỨNG VIÊN
TRONG CÁC GIAO DỊCH VỀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH
Chuyên ngành : Luật Kinh Tế
Mã số: 83.80.107
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN TRUNG TÍN

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các
kết quả nêu trong luận văn chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình khoa
học nào khác, số liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác và trung
thực.
Vậy tôi viết lời cam đoan này kính đề nghị Học viện Khoa học xã hội xem
xét cho phép tôi được bảo vệ luận văn.
Tôi xin trân thành cảm ơn!
Người cam đoan
Nguyễn Hoàng Dũng

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ
CỦA CÔNG CHỨNG VIÊN TRONG CÁC GIAO DỊCH VỀ QUYỀN SỬ
DỤNG ĐẤT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM................................................7
1.1Pháp luật về công chứng, tổ chức hành nghề công chứng............................7
1.2Pháp luật về các giao dịch quyền sử dụng đất............................................12
1.3Pháp luật về công chứng viên và những vấn đề liên quan đến trách nhiệm
pháp lý của công chứng viên............................................................................16
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ
CỦA CÔNG CHỨNG VIÊN TRONG CÁC GIAO DỊCH VỀ QUYỀN SỬ
DỤNG ĐẤT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH
BẮC NINH.........................................................................................................31
2.1Khái quát tình hình địa phương liên quan đến vấn đề nghiên cứu.............31
2.2Văn phòng công chứng, phòng công chứng tại tỉnh Bắc Ninh...................35
2.3Thực trạng vấn đề trách nhiệm pháp lý của công chứng viên trong các giao
dịch về quyền sử dụng đất theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc
Ninh..................................................................................................................38
2.4Những tồn tại, hạn chế thuộc về trách nhiệm pháp lý của công chứng viên
trong các giao dịch về quyền sử dụng đất theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn
tỉnh Bắc Ninh................................................................................................49
Chương 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ
CỦA CÔNG CHỨNG VIÊN KHI THỰC HIỆN CÔNG CHỨNG CÁC
GIAO DỊCH VỀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT THEO PHÁP LUẬT VIỆT
NAM...................................................................................................................63
3.1Định hướng bảo đảm pháp luật về trách nhiệm pháp lý của công chứng
viên trong các tổ chức hành nghề công chứng theo pháp luật Việt Nam 63

3.2Giải pháp hoàn thiện trách nhiệm pháp lý của công chứng viên trong các
giao dịch về quyền sử dụng đất theo pháp luật Việt Nam................................68
KẾT LUẬN........................................................................................................78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................80

1
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài sản đặc biệt luôn gắn liền với mọi giao dịch, hoạt động kinh
doanh. Bắc Ninh đang dần trở thành một trong những tỉnh có tiến độ phát triển
công nghiệp khá mạnh trong cả nước. Tại đây các vấn đề liên quan đến đất đai
như: chuyển nhượng, tặng cho, thừa kế, thế chấp quyền sử dụng đất, cầm cố, thế
chấp, cho thuê đất, các tranh chấp về quyền sử dụng đất diễn ra ngày càng nhiều
và phức tạp. Theo khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai 2013 [39], các loại hợp đồng,
văn bản thực hiện các quyền của người sử dụng đất phải được công chứng,
chứng thực gồm: Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng
quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Ngoài ra, văn
bản về thừa kế quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất
cũng được công chứng hoặc chứng thực theo quy định. Có hiệu lực thi hành kể
từ ngày 1/1/2015, Luật Công chứng 2014 tập trung sửa đổi, bổ sung quy định về
Công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng nhằm nâng cao chất lượng đội
ngũ Công chứng viên, phát triển các tổ chức hành nghề công chứng quy mô lớn,
hoạt động ổn định, bền vững, tăng cường chất lượng hoạt động, tiếp tục đẩy
mạnh xã hội hóa hoạt động công chứng. Đồng thời, bảo đảm an toàn pháp lý cho
các bên tham gia hợp đồng, giao dịch, phòng ngừa tranh chấp, góp phần bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, ổn định và phát triển kinh tế - xã
hội. Luật Công chứng 2014 có nhiều quy định mới tác động đến tổ chức và hoạt
động công chứng, chế độ hành nghề của Công chứng viên. Tinh thần của Luật là
tiếp tục phát triển mạnh mẽ xã hội hóa hoạt động công chứng, kiện toàn hơn nữa
chất lượng đội ngũ Công chứng viên ngang tầm với nhiệm vụ trong thời kỳ mới
và hội nhập quốc tế, đề cao vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của
Công chứng viên. Theo Luật Công chứng 2014 [40], Công chứng viên phải đảm
bảo và chịu trách nhiệm đối với tính xác thực, tính hợp pháp của các loại giấy tờ
trong hồ sơ mà người yêu cầu công chứng cung cấp. Trong trường hợp có căn cứ
cho rằng hồ sơ yêu cầu công chứng có

2
dấu hiệu bị đe dọa, cưỡng ép hoặc cần được làm rõ thì Công chứng viên đề nghị
làm rõ hoặc xác minh, yêu cầu giám định theo đề nghị của người yêu cầu công
chứng; nếu không làm rõ được thì từ chối công chứng.
Để làm rõ hơn phần trách nhiệm pháp lý của Công chứng viên tôi
chọn đề tài : “Trách nhiệm pháp lý của Công chứng viên trong các giao dịch
về quyền sử dụng đất theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh”
làm đề tài luận văn Thạc sĩ Luật học.
2.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Sự hình thành và phát triển của công chứng Việt Nam gắn liền với các giai
đoạn của lịch sử nước ta, đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận trong quá trình phát
triển, nhất là từ khi đất nước bước vào giai đoạn đổi mới. Ngay sau khi Cách
mạng tháng Tám thành công, hoạt động công chứng ở nước ta đã được đặt nền
móng với Sắc lệnh số 59/SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, mãi đến năm
2006, hoạt động công chứng mới chính thức được luật hóa với sự ra đời của Luật
Công chứng năm 2006 và tiếp đó là Luật Công chứng năm 2014. Trên cơ sở quy
định của pháp luật và tình hình thực tiễn việc thực hiện pháp luật của Công
chứng viên tại các địa phương, đã có một số đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này
như:
-Đề tài Luận văn mang mã số 60.38.01.03 về “ Quy chế Công chứng viên
theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Chu Hồng Sơn năm 2015 [48, tr. 2]. Luận
văn đã thể hiện rõ những quy định đã được thực tiễn kiểm nghiệm của Luật hiện
hành, luật hoá các quy định có tính nguyên tắc trong các văn bản hướng dẫn thi
hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, đồng thời phân tích rõ về điều kiện
hành nghề công chứng, thành lập các Văn phòng công chứng, quy hoạch phát
triển các tổ chức hành nghề công chứng, điều kiện bổ nhiệm Công chứng viên,
nâng cao chất lượng đội ngũ Công chứng viên, chất lượng hoạt động công
chứng, tăng cường trách nhiệm của Công chứng viên trong hoạt động công
chứng để công chứng thực sự trở thành một công cụ "bảo vệ" người dân trong
quan hệ dân sự, qua đó bảo đảm tốt hơn cho cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp sử

3
dụng dịch vụ công chứng trong điều

4
kiện các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại ngày càng đa dạng, phong phú và
phức tạp.
-Luận văn thạc sĩ mang mã số 60.85.01.03 “ Đánh giá thực trạng công
tác công chứng, chứng thực các giao dịch về đất đai trên địa bàn quận Đống Đa,
Thành phố Hà Nội” của tác giả Hà Lan Hương năm 2013 [31, tr. 3]. Đề tài
nghiên cứu khoa học đã làm rõ hoạt động công chứng, chứng thực những giao
dịch liên quan đến Đất đai trên địa bàn quận Đống Đa để từ đó có những nhận
xét đánh giá chính xác về thực tiễn thi hành luật công chứng. Luận văn cũng chỉ
ra những tồn tại và hạn chế trong hoạt động công chứng, chứng thực các giao
dịch liên quan đến đất đai của quận Đống Đa và cũng đưa ra những giải pháp để
khắc phục những tồn tại hạn chế đó.
-Luận văn thạc sĩ mang mã số 8.38.01.02 “ Quản lý nhà nước đối với các
tổ chức hành nghề công chứng từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” của tác giả Nguyễn
Thị Cẩm Lai năm 2018 [33, tr. 12]. Luận văn đã nêu lên những thực trạng về
tình hình quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng trên địa
bàn tỉnh Quảng Ngãi và từ đó đưa ra những quan điểm giải pháp hoàn thiện quản
lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng.
-Luận văn thạc sĩ mang mã số 8.38.01.02 “ Quản lý nhà nước về công
chứng trong lĩnh vực chuyển nhượng tài sản từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí
Minh” của tác giả Vi Châu Khánh năm 2018 [32]. Luận văn đã chỉ ra những vấn
đề lý luận và pháp luật của quản lý nhà nước về lĩnh vực công chứng trong
chuyển nhượng tài sản. Trên thực tế tại Thành phố Hồ Chí Minh phát sinh những
giao dịch về chuyển nhượng tài sản mà pháp luật công chứng gắn liền thì tác giả
cũng đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về công chứng
trong lĩnh vực chuyển nhượng tài sản.
-Luận văn Thạc sĩ mang mã số 60.38.01.07 “ Chuyển nhượng quyền sử
dụng đất của tổ chức kinh tế theo quy định của luật đất đai 2013” của tác giả
Nguyễn Ngọc Anh năm 2015 [1]. Luận văn nêu rõ trọng tâm các khó khăn
vướng

5
mắc về chuyển nhượng quyền sử dụng đất của tổ chức kinh tế theo luật đất đai
2013 và đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi các quy định của luật đất
đai 2013 về chuyển nhượng quyền sử dụng đất của tổ chức kinh tế.
-Luận văn Thạc sĩ mang mã số 8.38.01.07 “ Thế chấp bằng quyền sử
dụng đất ở để đảm bảo hợp đồng tín dụng ngân hàng theo pháp luật Việt Nam
hiện nay từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng” của tác giả Lương Đình Thí năm
2018 [63]. Luận văn nêu lên thực trạng của pháp luật về thế chấp quyền sử dụng
đất ở để bảo đảm hợp đồng tín dụng ngân hàng và thực tiễn áp dụng tại tổ chức
tín dụng ở Thành phố Đà Nẵng. Cùng với đó tác giả cũng nêu ra các phương
hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về
thế chấp quyền sử dụng đất ở để đảm bảo hợp đồng tín dụng ngân hàng ở Việt
Nam hiện nay.
-Luận văn Thạc sĩ mang mã số 60.38.01.03 “ Thừa kế quyền sử dụng đất
theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Trần Huy Nam năm 2016[34]. Luận văn đã
làm rõ những vấn đề lý luận về thừa kế quyền sử dụng đất. Trên cơ sở nghiên
cứu lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về thừa kế quyền sử
dụng đất, luận văn đã đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của
pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất.
Những luận văn đã được công bố nêu trên đã góp phần làm rõ những vấn
đề lý luận về công chứng nói chung và công chứng viên nói riêng. Cùng với đó
là những lý luận về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất như chuyển
nhượng, thế chấp, thừa kế. Tuy nhiên cũng cho thấy rằng chưa có công trình
nghiên cứu nào nói về “ Trách nhiệm pháp lý của công chứng viên trong các
giao dịch về quyền sử dụng đất theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc
Ninh”
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ thêm về mặt lý luận, trách nhiệm pháp lý của công chứng
viên trong các giao dịch về quyền sử dụng đất.

6
3.2Nhiệm vụ nghiên cứu

7
Phân tích và làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật
về hoạt động công chứng và trách nhiệm pháp lý của Công chứng viên gắn liền
với hoạt động công chứng liên quan đến các giao dịch về quyền sử dụng đất
Phân tích và đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về hoạt động công
chứng trong đó có trách nhiệm pháp lý của Công chứng viên đối với các hợp
đồng , giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất. Trên cơ sở đó, tìm ra những
vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật, xác định được những bất cập, qua
đó tiến hành tìm hiểu những nguyên nhân để đề xuất những giải pháp, kiến nghị
cụ thể cho việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật đối
của Công chứng viên trong các giao dịch về quyền sử dụng đất từ thực tiễn tỉnh
Bắc Ninh
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quan hệ phát sinh trong việc
thực hiện pháp luật khi công chứng các giao dịch về quyền sử dụng đất.
4.2Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là những quan hệ phát sinh trong việc thực hiện pháp
luật khi công chứng các giao dịch về quyền sử dụng đất từ thực tiễn trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015 đến nay.
5.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở sử dụng cơ sở lý luận của phương
pháp luận nghiên cứu duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; Sự chỉ đạo của đảng
và nhà nước nói chung về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
5.2Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của luận văn, tác giả đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu: Phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương
pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp điều tra, phương pháp khảo

8
sát thực tiễn về trách nhiệm pháp lý của Công chứng viên trong các giao dịch về
quyền sử dụng đất từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh.
6.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1Ý nghĩa lý luận
Luận văn đã hệ thống, phân tích, bổ sung những vấn đề có tính lý luận về
trách nhiệm pháp lý của Công chứng viên và các giao dịch liên quan đến quyền
sử dụng đất.
6.2Ý nghĩa thực tiễn
Các luận cứ và giải pháp của đề tài có thể sử dụng cho việc hoàn thiện các
chế định pháp luật có liên quan đến tổ chức hành nghề công chứng nói chung và
Công chứng viên nói riêng.
7.Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu luận
văn gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về trách nhiệm pháp lý của công chứng
viên trong các giao dịch về quyền sử dụng đất theo pháp luật Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về trách nhiệm pháp lý của công chứng
viên trong các giao dịch về quyền sử dụng đất theo pháp luật Việt Nam từ thực
tiễn tỉnh Bắc Ninh.
Chương 3: Định hướng và giải pháp về trách nhiệm pháp lý của công
chứng viên khi thực hiện công chứng các giao dịch về quyền sử dụng đất theo
pháp luật Việt Nam.

9
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP
LÝ CỦA CÔNG CHỨNG VIÊN TRONG CÁC GIAO DỊCH
VỀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT THEO PHÁP LUẬT VIỆT
NAM
1.1Pháp luật về công chứng, tổ chức hành nghề công chứng
1.1.1Khái niệm và đặc điểm về công chứng
1.1.1.1Khái niệm công chứng
Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ra đời. Trong hoàn cảnh đầy khó khăn, phức tạp lúc bấy giờ, Chính phủ
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vẫn không quên việc giải quyết vấn đề về thể
chế công chứng. Ngày 1 tháng 10 năm 1945 (một tháng sau khi tuyên bố độc
lập), Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Trọng Khánh đã ký quyết định về một số việc
liên quan đến hoạt động công chứng như: bãi chức công chứng viên người Pháp
tên là Deroche tại Văn phòng công chứng; bổ nhiệm một công chứng viên người
Việt Nam là ông Vũ Quý Vỹ (luật khoa cử nhân, luật sư tập sự tại Tòa thượng
thẩm Hà Nội) thay thế cho công chứng viên người Pháp tại Hà Nội. Trong nghị
định này đã chỉ rõ: những quy định cũ về công chứng của Pháp vẫn được áp
dụng, trừ những quy định trái với chính thể Việt Nam dân chủ cộng hòa; công
chứng viên chịu trách nhiệm và chịu sự kiểm tra giám sát của Ủy ban hành chính
các cấp.
Như vậy, có thể thấy rằng, tổ chức công chứng đầu tiên của nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa là sự kế thừa tổ chức công chứng của Pháp để lại, tuy
nhiên cũng chỉ còn một phòng công chứng tại Hà Nội[5]. Các nguyên tắc quy
chế hoạt động công chứng vẫn như cũ, trừ những quy định trái với nền độc lập
và chính thể Dân chủ công hòa của nước ta lúc bấy giờ. Điểm mới của thể chế
công chứng này được thể hiện ở chỗ: Đó là thể chế công chứng của nhà nước
Việt Nam Dân chủ cộng hòa, công chứng viên là người Việt Nam và đây cũng là

10
lần đầu tiên trong một văn bản pháp lý nhà nước ta đã sử dụng thuật ngữ “công
chứng”.

11
Sang đầu thập kỷ chín mươi, sự nghiệp đổi mới toàn diện ở đất nước ta
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thu được nhiều thành tựu rực rỡ.
Cụ thể, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 là một bước ngoặt lịch sử
trong tiến trình phát triển đất nước ta – Đại hội của sự đổi mới, mở cửa, chúng ta
tiến hành đổi mới quản lý kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Tiếp theo sự thành công của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI,
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII năm 1991 với cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời lỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chiến lược kinh tế –
xã hội đã vạch ra những định hướng lớn về kinh tế, tiếp tục phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo quan điểm
chỉ đạo của Nghị quyết Đảng, ngày 27 tháng 2 năm 1991 Hội đồng Bộ trưởng
ban hành Nghị định số 45/HĐBT về tổ chức và hoạt động công chứng Nhà nước,
đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo giá trị pháp lý của
các văn bản pháp luật về công chứng. Theo Nghị định này thì “ Phòng Công
chứng Nhà nước là cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh có tư cách pháp nhân, có
tài khoản riêng ở Ngân hàng, có con dấu mang hình quốc huy”, theo đó, mỗi tỉnh
sẽ có một phòng công chứng riêng. Ở những nơi chưa thành lập được phòng
công chứng thì Ủy ban nhân dân được thực hiện một số việc công chứng.
Sau hơn 5 năm thực hiện (từ tháng 2/1991-5/1996) Nghị định 45/HĐBT,
chúng ta đã thu được khá nhiều thành công trong việc tổ chức và hoạt động công
chứng. Thể chế công chứng ở nước ta đã được hình thành và phát triển khá
nhanh trên thực tế do gặp được môi trường thuận lợi, đó là cơ chế thị trường.
Tuy nhiên, với sự phát triển nhanh chóng của cơ chế kinh tế thị trường ở nước ta,
nhu cầu về giao kết dân sự, hợp đồng kinh tế,… của các tổ chức, cá nhân ngày
càng tăng và có nhiều thay đổi liên quan đến hoạt động công chứng và Nghị định
45/HĐBT không còn đáp ứng được. Chính vì thế, ngày 18 tháng 5 năm 1996,
Chính phủ ban hành Nghị định số 31/CP về tổ chức và hoạt động công chứng
Nhà nước thay thế cho Nghị định số 45/HĐBT, theo đó, Phòng công chứng
thuộc Sở Tư pháp nhằm

12
chuyên môn hóa hoạt động công chứng và giảm tính trạng quá tải cho Ủy ban
nhân dân. Ngày 03 tháng 10 năm 1996, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 411-
TT/CC hướng dẫn thực hiện Nghị định 31/CP.Tuy nhiên, những văn bản này vừa
quy định về công chứng, vừa quy định về chứng thực và sự phân biệt giữa công
chứng và chứng thực là không rõ ràng.
Do nhu cầu giao kết ngày càng phong phú, đa dạng về số lượng cũng như
nội dung các lĩnh vực giao kết, nên Nghị định 31/CP đã bộc lệ nhiều điểm bất
cập. Do đó, ngày 08 tháng 12 năm 2000, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
75/2000/NĐ- CP về công chứng, chứng thực. Nghị định này quy định về phạm
vi công chứng, chứng thực; tổ chức phòng công chứng; nguyên tắc hoạt động;
trình tự thủ tục thực hiện việc công chứng, chứng thực; công tác chứng thực của
Ủy ban nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và Ủy ban nhân
dân cấp xã, phường, thị trấn. Cũng trong Nghị định này, thuật ngữ phòng công
chứng đã được sử dụng để thay thế cho thuật ngữ phòng công chứng Nhà nước,
góp phần vào yêu cầu quan trọng trong việc xã hội hóa hoạt động công chứng ở
nước ta. Trước nhu cầu công chứng ngày càng lớn, để đáp ứng nhu cầu của
những người yêu cầu công chứng và thực hiện hiệu quả hơn nữa chủ trương xã
hội hóa hoạt động công chứng. Ngày 29 tháng 11 năm 2006, tại kỳ họp thứ 10
Quốc hội khóa XI, Luật Công chứng đã được thông qua và có hiệu lực thi hành
vào ngày 01 tháng 07 năm 2007. Theo Luật Công chứng 2006, công chứng viên
được thừa nhận là một nghề, ghi nhận tổ chức hành nghề công chứng tư và công
chứng viên chứng nhận các hợp đồng, giao dịch và không thực hiện các việc
chứng thực như: sao y, chứng nhận chữ ký. Để góp phần vào việc thực hiện hoạt
động công chứng tốt hơn, các văn bản hướng dẫn thi hành luật công chứng cũng
lần lượt ra đời như Nghị định số 79/2007/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày
18 tháng 5 năm 2007 về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính,
chứng thực chữ ký giao về Phòng Tư pháp cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp
xã; Nghị định số 02/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 04 tháng 01 năm 2008 quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng.

13
Trước yêu cầu thực tiễn của hoạt động công chứng và để tiếp tục thể chế
hoá Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, tạo cơ sở pháp lý cho việc đẩy mạnh
xã hội hoá hoạt động công chứng, đảm bảo thực hiện tốt các nghĩa vụ thành viên
của Liên minh công chứng Quốc tế, Luật công chứng mới đã được Quốc hội
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII, kỳ họp thứ bảy thông qua
ngày 20/6/2014 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2015 (sau đây gọi là
Luật công chứng năm 2014).
Để thực hiện Luật Công chứng đạt được những thành tựu trong quá trình
phát triển của hoạt động công chứng, Chính phủ, Bộ Tư pháp đã ban hành các
văn bản hướng dẫn dân chi tiết bao gồm: Nghị định 29/2015/NĐ-CP quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng (có hiệu lực ngày
1/5/2015) về chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng; hợp
nhất, sáp nhập, chuyển nhượng Văn phòng công chứng; chính sách ưu đãi đối với
Văn phòng công chứng thành lập tại các địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội
khó khăn, đặc biệt khó khăn; điều kiện về trụ sở của Văn phòng công chứng;
niêm yết việc thụ lý công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản, văn bản
khai nhận di sản; bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên và tổ
chức xã hội – nghề nghiệp của công chứng viên; Thông tư số 06/2015/TT-BTP
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng (có
hiệu lực ngày 1/8/2015) về thủ tục đề nghị bổ nhiệm công chứng viên, đăng ký
hành nghề, cấp Thẻ công chứng viên; đào tạo nghề công chứng, khoá bồi dưỡng
nghề công chứng, bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng hàng năm; tổ chức và hoạt
động công chứng; một số mẫu giấy tờ trong hoạt động công chứng.
1.1.1.2Đặc điểm công chứng
Hoạt động công chứng do công chứng viên thực hiện.
Nội dung công chứng là xác định tính xác thực, tính hợp pháp của hợp
đồng giao dịch. Tính xác thực của các tình tiết, sự kiện có trong văn bản đó đã

14
được công chứng viên xác nhận. Công chứng viên kiểm chứng và xác nhận
các tình tiết, sự kiện có xảy ra trong thực tế, trong số đó có cả tình tiết, sự
kiện chỉ xảy ra một lần, không để lại hình dạng, dấu vết về sau, đó do, nếu
không có công chứng viên xác nhận thì về sau rất dễ xảy ra tranh chấp mà toà
án không thể xác minh được. Đồng thời, công chứng viên cũng kiểm tra và
xác nhận tính hợp pháp của hợp đồng giao dịch.
Có hai loại hợp đồng giao dịch thực hiện hoạt động công chứng, đó là các
loại hợp đồng giao dịch theo yêu cầu của pháp luật bắt buộc phải công chứng và
các hợp đồng giao dịch do cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng.
Ý nghĩa pháp lý của hoạt động công chứng là bảo đảm giá trị thực hiện
cho các hợp đồng giao ý dịch, phòng ngừa tranh chấp và cung cấp chứng cứ nếu
có tranh chấp xảy ra.
Như vậy có thể hiểu, Công chứng là hành vi của công chứng viên lập,
chứng nhận tính xác thực của các giao dịch nhằm đảm bảo an toàn pháp lý cho
các chủ thể tham gia giao dịch, phòng ngừa tranh chấp và vi phạm pháp luật.
Văn bản công chứng có giá trị thực hiện và giá trị chứng cứ.
1.1.2Tổ chức hành nghề công chứng
Tổ chức hành nghề công chứng bao gồm Phòng công chứng và Văn phòng
công chứng được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật công chứng do
Quốc hội Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bàn hành ngày 20/06/2014
[2] và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan. Tổ chức hành nghề
công chứng thực hiện hai nghiệp vụ chính là công chứng và chứng thực.
Phòng công chứng do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập; là
đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở Tư pháp, có trụ sở, con dấu và tài khoản
riêng. Tổ chức, hoạt động gồm các công chức, viên chức hưởng chế độ lương
theo đơn vị sự nghiệp công lập và trưởng phòng Phòng công chứng do Chủ tịch
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Thành lập do Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập theo quy định tại Điều 20 Luật công
chứng 2014 [40]: Căn cứ

15
vào nhu cầu công chứng tại địa phương, Sở Tư pháp chủ trì phối hợp với Sở Kế
hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính, Sở Nội vụ xây dựng đề án thành lập Phòng công
chứng trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định.
Văn phòng công chứng được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật
công chứng 2014 và Luật Doanh nghiệp. Văn phòng công chứng phải có từ hai
công chứng viên hợp danh trở lên, văn phòng công chứng không có thành viên
góp vốn. Tổ chức hoạt động phải có từ hai công chứng viên hợp danh trở lên và
không có thành viên góp vốn. Nếu như Trưởng Phòng công chứng được hình
thành theo con đường bổ nhiệm thì Trường phòng Văn phòng công chứng do các
thành viên hợp danh tự bầu, tự thỏa thuận theo quy định của pháp luật liên quan
về loại hình công ty hợp danh. Việc thành lập do các công chứng viên thành lập
được quy định tại Điều 23 Luật công chứng 2014. Văn phòng công chứng phải
có hồ sơ đề nghị thành lập Văn phòng công chứng gửi Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
xem xét, quyết định.
1.2Pháp luật về các giao dịch quyền sử dụng đất
1.2.1Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Khái niệm: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được hiểu là sự
thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất giao đất
và quyền sử dụng cho bên nhận chuyển nhượng, còn bên nhận chuyển nhượng
trả tiền cho bên chuyển nhượng theo quy định. Hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực và phải làm
thủ tục tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất có các nghĩa vụ: Chuyển giao đất
cho bên nhận chuyển nhượng đủ diện tích, đúng hạng đất, loại đất, ví trí, số hiệu
và tình trạng đất như đã thỏa thuận; giao giấy tờ có liên quan đến quyền sử dụng
đất cho bên nhận chuyển nhượng. Bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất có
quyền được nhận tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

16
Bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất có các nghĩa vụ: trả đủ
tiền, đúng thời hạn và đúng phương thức đã thỏa thuận cho bên chuyển nhượng
quyền sử dụng đất; đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về
đất đai; đảm bảo quyền của người thứ ba đối với đất chuyển nhượng; thực hiện
các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật về đất đai. Bên nhận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất có quyền: yêu cầu bên chuyển nhượng quyền sử dụng
đất giao đất đủ diện tích, đúng hạng đất, loại đất, vị trí, số hiệu và tình trạng đất
như đã thỏa thuận; được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với đất
được chuyển nhượng; được sử dụng đất theo đúng mục đích, đúng thời hạn. Loại
đất, hạng đất, diện tích, vị trí, số hiệu, ranh giới và tình trạng đất (ghi theo giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất). Thời hạn sử dụng đất của bên chuyển nhượng;
thời hạn sử dụng đất con lại của bên nhận chuyển nhượng. Giá chuyển nhượng
(do các bên thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật). Phương thức, thời hạn
thanh toán (có đặt cọc không? Trả tiền một lần hay nhiều lần, việc giải quyết tiền
đặt cọc đã nhận, trả bằng tiền mặt hay chuyển khoản…). Quyền của người thứ ba
đối với đất chuyển nhượng (nếu có).
1.2.2Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất là sự thoả thuận giữa các bên, theo
đó bên tặng cho giao quyền sử dụng đất cho bên được tặng cho mà không yêu
cầu đền bù, còn bên được tặng cho đồng ý nhận theo quy định của Bộ luật Dân
sự và pháp luật về đất đai.
Bên tặng cho quyền sử dụng đất có các nghĩa vụ sau đây: Giao đất đủ diện
tích, đúng hạng đất, loại đất, vị trí, số hiệu và tình trạng đất như đã thoả thuận;
Giao giấy tờ có liên quan đến quyền sử dụng đất cho bên được tặng cho để làm
thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất.
Bên được tặng cho quyền sử dụng đất có các nghĩa vụ sau đây: Đăng ký
quyền sử dụng đất tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp
luật về đất đai; Bảo đảm quyền của người thứ ba đối với đất được tặng cho; Thực

17
hiện các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật về đất đai. Bên được tặng
cho quyền sử dụng đất có các quyền sau đây: Yêu cầu bên tặng cho giao đủ diện
tích, đúng hạng đất, loại đất, vị trí, số hiệu và tình trạng đất như đã thoả thuận;
Được sử dụng đất theo đúng mục đích, đúng thời hạn; Được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất.
1.2.3Thừa kế quyền sử dụng đất
Thừa kế quyền sử dụng đất là việc chuyển giao quyền sử dụng đất từ
người chết sang người thừa kế thông qua di chúc hợp pháp hoặc theo quy định
pháp luật. Thừa kế quyền sử dụng đất xảy ra người có quyền sử dụng đất mất đi
để lại quyền sử dụng đất cho những người khác theo di chúc hợp pháp hoặc theo
quy định pháp luật.
Đối với đất do người chết để lại (không phân biệt có tài sản hay không có
tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất) mà người đó đã có giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất
đai năm 2003 thì quyền sử dụng đất đó là di sản. Đối với trường hợp đất do
người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy quy định tại các Khoản
1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, thì kể từ ngày 01/7/2004 quyền sử
dụng đất đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế.
Tuy nhiên Luật đất đai 2013 ra đời thay thế Luật Đất đai 2003 [39], và Bộ
luật Dân sự 2015 ra đời thay thế Bộ luật Dân sự 2005 đã có những quy định rõ
hơn và thiết thực hơn về thừa kế quyền sử dụng đất. Về bản chất, thừa kế nhà ở
và quyền sử dụng đất ở cũng giống như thừa kế các loại tài sản khác. Tuy nhiên
thừa kế nhà ở và quyền sử dụng đất ở còn có những đặc điểm tương đối độc lập
với thừa kế các loại tài sản khác: Do chế độ sở hữu toàn dân về đất đai nên đất
đai trước hết thuộc quyền sở hữu của Nhà nước và do Nhà nước thống nhất quản
lí. Do vậy thừa kế quyền sử dụng đất ở cũng không nằm ngoài nguyên tắc thừa
kế quyền sử dụng đất nói chung, tuy rằng thừa kế quyền sử dụng đất ở không cần
phải có các điều kiện như đối với thừa kế đất nông nghiệp trồng cây nông
nghiệp hằng năm, nuôi

18
trồng thủy hải sản. Đất đai thuộc sở hữu Nhà nước, cá nhân có quyền sử dụng,
khai thác đất ở chứ không có quyền chiếm hữu. Vì vậy, di sản thừa kế không
phải là đất ở hay diện tích đất ở mà phải được hiểu là thừa kế quyền sử dụng đất
ở. Hơn nữa đất đai nói chung và đất ở nói riêng đều thuộc quyền sở hữu của Nhà
nước, vì vậy việc để lại thừa kế quyền sử dụng đất không những phải tuân theo
qui định về thừa kế trong Bộ Luật Dân sự mà còn phải thỏa mãn các điều kiện về
thừa kế quyền sử dụng đất ở theo qui định của Luật đất đai năm 2013.
1.2.4Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
Hợp đồng vay thế chấp quyền sử dụng đất là sự thỏa thuận giữa các bên,
theo đó bên sử dụng đất dùng quyền sử dụng đất của mình để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự với bên nhận thế chấp. Bên vay thế chấp quyền sử dụng đất
được tiếp tục sử dụng đất trong thời hạn thế chấp.
Trước hết, hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất có hiệu lực pháp luật khi
nó đảm bảo được các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự tại Điều 117 Bộ
luật Dân sự 2015 cụ thể [45]: Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực
hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập; Chủ thể tham gia giao
dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện; Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự
không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
Về hình thức, Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất phải được công
chứng hoặc chứng thực theo quy định tại Khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai 2013.
Trong trường hợp nhận thấy hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất bị vô
hiệu thì một bên trong hợp đồng thế chấp có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp
đồng đó vô hiệu. Theo Điều 132 Bộ luật Dân sự thì thời hiệu để yêu cầu Tòa án
tuyên bố hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất vô hiệu do mục đích và nội dung
của hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội hoặc do hợp
đồng thế chấp là giả tạo thì không bị hạn chế về thời hiệu; đối với các trường
hợp còn lại thì thời hiệu là 2 năm kế từ ngày hợp đồng thế chấp quyền sử dụng
đất được xác lập [45].

19
Hậu quả của việc hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất bị vô hiệu được
quy định tại Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015 [45], theo đó: không làm phát sinh,
thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập
hợp đồng thế chấp; Các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau
những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng
tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo
quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.
1.3.Pháp luật về công chứng viên và những vấn đề liên quan đến
trách nhiệm pháp lý của công chứng viên
1.3.1.Công chứng viên
Công chứng viên, một người hành nghề luật, là một chức danh công, do
Nhà nước bổ nhiệm để xác thực các văn bản pháp lý và hợp đồng mà công
chứng viên soạn thảo và để tư vấn cho những người cần đến dịch vụ công chứng.
Công chứng viên là người nắm giữ quyền lực công nhưng thực hiện chức năng
của mình một cách khách quan và độc lập ngoài hệ thống thứ bậc hành chính của
cơ quan Nhà nước.
Trước hết, để trở thành công chứng viên, một người bắt buộc phải là công
dân Việt Nam, được đào tạo và có bằng cử nhân luật; có đủ sức khỏe và tư cách
đạo đức tốt. Sau khi có bằng cử nhân luật, người đó phải tham gia khóa đào tạo
nghề công chứng trong 12 tháng tại Học viện Tư pháp. Sau khóa đào tạo chuyên
môn, Học viện Tư pháp cấp giấy chứng nhận tốt nghiệp khóa học cho người học.
Việc tham gia khóa đào tạo hành nghề công chứng không bị áp dụng cho tất cả
các trường hợp. Cụ thể, theo Điều 10 Luật Công chứng 2014, những đối tượng
sau sẽ được miễn đào tạo hành nghề công chứng:
-Người đã có thời gian làm thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên từ 05
năm trở lên;
-Luật sư đã hành nghề từ 05 năm trở lên;
-Giáo sư, phó giáo sư chuyên ngành luật, tiến sĩ luật;

20
-Người đã là thẩm tra viên cao cấp ngành tòa án, kiểm tra viên cao cấp
ngành kiểm sát; chuyên viên cao cấp, nghiên cứu viên cao cấp, giảng viên pháp
luật cao cấp.
Các trường hợp được miễn đào tạo hành nghề công chứng vẫn phải tham
gia khóa bồi dưỡng kỹ năng hành nghề công chứng và quy tắc đạo đức hành
nghề công chứng tại Học viện Tư pháp trong 03 tháng và tập sự hành nghề.
Người đã hoàn thành khóa đào tạo hành nghề công chứng hoặc khóa học
bồi dưỡng hành nghề công chứng đăng ký việc tập sự hành nghề với Sở Tư pháp
nơi có Phòng công chứng hoặc Văn phòng công chứng nhận tập sự. Trường hợp
không tìm được tổ chức hành nghề công chứng để tập sự hoặc gặp khó khăn
trong việc tự liên lạc, người tập sự có thể liên hệ với Sở Tư pháp đại phương nơi
mình muốn tập sự để được bố trí phù hợp (Khoản 1, Điều 11 Luật Công chứng
2014) [40]. Thời gian thực tập hành nghề công chứng là 12 tháng đối với những
người tốt nghiệp khóa đào tạo hành nghề công chứng, 03 tháng đối với người tốt
nghiệp khóa bồi dưỡng nghề công chứng. Người có nguyện vọng được quyền
thay đổi nơi tập sự nhưng phải đảm bảo tổng thời gian tập sự tối thiểu tại mỗi tổ
chức hành nghề là 03 tháng (Khoản 2, Điều 3, Thông tư 04/2015/TT-BTP).
Việc đăng ký kiểm tra kết quả tập sự có thể được thực hiện tại Sở Tư pháp
nơi đăng ký tập sự khi có kỳ kiểm tra do Bộ Tư pháp tổ chức hoặc ngay khi
người tâp sự nộp báo cáo kết quả tập sự. Một năm, Bộ Tư pháp tổ chức 02 kỳ
kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng. Trong trường hợp không đạt yêu
cầu trong kỳ kiểm tra trước, người tập sự được phép đăng ký kiểm tra lại trong
đợt sau nhưng tổng số lần kiểm tra tối đa chỉ 03 lần (Điều 16, Điều 17, Thông tư
04/2015/TT- BTP). Người đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công
chứng được cấp giấy chứng nhận kết quả kiểm tra tập sự hành nghề công chứng.
Khi đạt tiêu chuẩn hành nghề và đã tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng
chuyên môn, có giấy chứng nhận hoàn thành tập sự hành nghề công chứng,
người có nguyện vọng đủ điều kiện nộp hồ sơ xin bổ nhiệm công chứng viên
theo quy

21
định tại Điều 12 của Luật Công chứng 2014. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày
nhận được văn bản và hồ sơ đề nghị bổ nhiệm công chứng viên của Sở Tư pháp,
Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét, quyết định bổ nhiệm công chứng viên. Đây là
thời điểm xác định một người chính thức trở thành công chứng viên.
Khoản 1 Điều 7 Luật Công chứng năm 2014 [40] quy định về việc nghiêm
cấm tổ chức hành nghề công chứng và công chứng viên có các hành vị như sau:
Tiết lộ thông tin về nội dung công chứng, trừ trường hợp được người yêu cầu
công chứng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác; sử dụng
thông tin về nội dung công chứng để xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức; Thực hiện công chứng trong trường hợp mục đích và nội dung của
hợp đồng, giao dịch, nội dung bản dịch vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội;
xúi giục, tạo điều kiện cho người tham gia hợp đồng, giao dịch thực hiện giao
dịch giả tạo hoặc hành vi gian dối khác; Công chứng hợp đồng, giao dịch, bản
dịch có liên quan đến tài sản, lợi ích của bản thân mình hoặc của những người
thân thích là vợ hoặc chồng; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi
của vợ hoặc chồng; con đẻ, con nuôi, con dâu, con rể; ông, bà; anh chị em ruột,
anh chị em ruột của vợ hoặc chồng; cháu là con của con đẻ, con nuôi; Từ chối
yêu cầu công chứng mà không có lý do chính đáng; sách nhiễu, gây khó khăn cho
người yêu cầu công chứng; Nhận, đòi hỏi tiền hoặc lợi ích khác từ người yêu cầu
công chứng ngoài phí công chứng, thù lao công chứng và chi phí khác đã được
xác định, thỏa thuận; nhận, đòi hỏi tiền hoặc lợi ích khác từ người thứ ba để thực
hiện hoặc không thực hiện việc công chứng gây thiệt hại cho người yêu cầu công
chứng và cá nhân, tổ chức có liên quan; Ép buộc người khác sử dụng dịch vụ của
mình; cấu kết, thông đồng với người yêu cầu công chứng và những người có liên
quan làm sai lệch nội dung của văn bản công chứng, hồ sơ công chứng; Gây áp
lực, đe dọa hoặc thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội để
giành lợi thế cho mình hoặc cho tổ chức mình trong việc hành nghề công chứng;
Quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng về công chứng viên và tổ
chức mình; Tổ chức hành nghề công chứng mở chi nhánh, văn

22
phòng đại diện, cơ sở, địa điểm giao dịch khác ngoài trụ sở của tổ chức hành
nghề công chứng; thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ngoài
phạm vi hoạt động đã đăng ký; Công chứng viên đồng thời hành nghề tại hai tổ
chức hành nghề công chứng trở lên hoặc kiêm nhiệm công việc thường xuyên
khác; Công chứng viên tham gia quản lý doanh nghiệp ngoài tổ chức hành nghề
công chứng; thực hiện hoạt động môi giới, đại lý; tham gia chia lợi nhuận trong
hợp đồng, giao dịch mà mình nhận công chứng; Vi phạm pháp luật, vi phạm quy
tắc đạo đức hành nghề công chứng.
1.3.2.Quyền và nghĩa vụ của Công chứng viên
Hoạt động công chứng bao gồm toàn bộ các hoạt động pháp lý ngoài tố
tụng, nhằm đảm bảo an toàn pháp lý cho các chủ thể pháp luật, phòng ngừa các
tranh chấp có thể phát sinh mà công chứng viên có thể giải quyết được bằng việc
thực hiện nhiệm vụ trung gian pháp lý và là một công cụ không thể thiếu được
để quản lý một nền tư pháp hiệu quả. Các văn bản công chứng về các giao dịch
pháp lý khác nhau là những văn bản mà công chứng viên xác thực. Tính xác thực
của những văn bản này dựa trên chữ ký, nội dung và ngày tháng trên văn bản đó.
Những văn bản này do chính công chứng viên lưu giữ và sắp xếp thành các sổ bộ
công chứng. Luôn tuân thủ pháp luật, khi soạn thảo các văn bản công chứng,
công chứng viên hiểu rõ ý chí của các bên liên quan và thể hiện ý chí đó theo
đúng các quy định pháp luật. Công chứng viên kiểm tra nhân thân, năng lực và
trong trường hợp cần thiết, công chứng viên kiểm tra cả quyền của các bên.
Công chứng viên kiểm tra tính hợp pháp của các văn bản và đảm bảo rằng ý chí
của các bên đã được thể hiện một cách tự do trước công chứng viên mà không
ảnh hưởng bởi cách thức thể hiện ý chí trong các văn bản mà công chứng viên
soạn thảo. Công chứng viên hoàn toàn chủ động trong việc soạn thảo các văn
bản. Công chứng viên có toàn quyền chấp nhận hoặc từ chối các dự thảo văn bản
mà các bên đề xuất, hoặc có thể có những sửa đổi, bổ sung phù hợp trên cơ sở
thỏa thuận với các bên. Các bên của văn bản đã được công chứng có quyền có
bản sao y bản gốc do công chứng viên

23
lưu trữ. Các bản sao công chứng có giá trị pháp lý như bản gốc. Công chứng viên
có thể cấp các bản sao cho các đối tượng có quyền lợi chính đáng liên quan theo
quy định của pháp luật. Các văn bản công chứng có hiệu lực hợp pháp và chính
xác và chỉ có thể phản bác theo trình tự tố tụng tư pháp. Văn bản công chứng có
giá trị chứng cứ và hiệu lực thi hành. Công chứng viên cũng có thẩm quyền xác
nhận chữ ký của các cá nhân tại các tài liệu tư chứng thư, chứng thực bản sao y
bản gốc và thực hiện tất cả các hoạt động khác do pháp luật của quốc gia quy
định. Các văn bản công chứng tuân thủ các nguyên tắc nêu trên cần phải được
thừa nhận tại tất cả các quốc gia và có giá trị chứng cứ cũng như hiệu lực thi
hành, xác lập các quyền và nghĩa vụ như tại quốc gia gốc nơi văn bản công
chứng đó đã được ban hành. Luật quốc gia xác định phạm vi về thẩm quyền theo
địa hạt lãnh thổ của mỗi công chứng viên cũng như là ấn định số lượng công
chứng viên để đảm bảo đáp ứng nhu cầu cung cấp dịch vụ công chứng. Luật
quốc gia cũng xác định địa điểm đặt của mỗi văn phòng công chứng đồng thời
đảm bảo việc phân bổ đồng đều các văn phòng công chứng trên toàn bộ lãnh thổ
quốc gia đó. Các công chứng viên đều phải trực thuộc một hiệp hội công chứng.
Một cơ quan duy nhất bao gồm các công chứng viên thực hiện chức năng đại
diện ngành công chứng của quốc gia. Luật quốc gia xác định các điều kiện hành
nghề công chứng và điều kiện thực hiện chức năng công chứng nhà nước. Để
thực hiện điều này, Luật quốc gia quy định các kỳ thi, môn thi cần thiết để đánh
giá các ứng viên về kiến thức pháp luật và các phẩm chất cần thiết để được hành
nghề công chứng. Điều 17 Luật công chứng năm 2014 quy định rõ quyền và
nghĩa vụ của công chứng viên nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ công chứng
viên, từ đó nâng cao chất lượng hoạt động công chứng, trong đó có các quyền và
nghĩa vụ mới như quyền được pháp luật bảo đảm quyền hành nghề công chứng,
quyền tham gia thành lập Văn phòng công chứng hoặc làm việc theo chế độ hợp
đồng cho tổ chức hành nghề công chứng, được từ chối công chứng hợp đồng,
giao dịch, bản dịch vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội, công chứng hợp đồng,
giao dịch, bản dịch theo quy định của Luật này và các nghĩa vụ mới như giải

24
thích

25
cho người yêu cầu công chứng hiểu rõ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của
họ, ý nghĩa và hậu quả pháp lý của việc công chứng; trường hợp từ chối yêu cầu
công chứng thì phải giải thích rõ lý do cho người yêu cầu công chứng, giữ bí mật
về nội dung công chứng, trừ trường hợp được người yêu cầu công chứng đồng ý
bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác; tham gia bồi dưỡng nghiệp vụ
công chứng hàng năm; chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước người yêu cầu
công chứng về văn bản công chứng của mình; chịu trách nhiệm trước pháp luật
về hoạt động của Văn phòng công chứng mà mình là công chứng viên hợp danh;
đặc biệt, công chứng viên có trách nhiệm tham gia tổ chức xã hội - nghề nghiệp
của công chứng viên; chịu sự quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, của
tổ chức hành nghề công chứng mà mình làm công chứng viên và tổ chức xã hội -
nghề nghiệp của công chứng viên mà mình là thành viên; và các nghĩa vụ khác
theo quy định của Luật này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên
quan.
1.3.3.Trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn trong hoạt động công chứng của
công chứng viên
Luật công chứng năm 2014 quy định rõ nét hơn về trách nhiệm của tổ
chức hành nghề công chứng, công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động hành nghề của mình, phải bồi
thường khi gây thiệt hại cho người yêu cầu công chứng, cá nhân, tổ chức, theo
đó, tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu
công chứng và cá nhân, tổ chức khác do lỗi mà công chứng viên, nhân viên hoặc
người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức mình gây ra trong quá trình công
chứng; công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên gây
thiệt hại phải hoàn trả lại một khoản tiền cho tổ chức hành nghề công chứng đã
chi trả khoản tiền bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật;
trường hợp không hoàn trả thì tổ chức hành nghề công chứng có quyền yêu cầu
Tòa án giải quyết.
Hành vi gây thiệt hại của công chứng viên trong quá trình tác nghiệp là

26
việc công chứng viên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quy trình,
thủ tục

27
công chứng, gây thiệt hại cho người yêu cầu công chứng. Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do công chứng viên gây ra trong hoạt động công chứng là một
dạng trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do cá nhân công chứng
viên gây ra khi thi hành nhiệm vụ. Hiện nay, làm việc tại phòng công chứng có
công chứng viên là công chức và công chứng viên là viên chức. Theo đó, công
chứng viên giữ chức vụ lãnh đạo được bổ nhiệm giữ các vị trí trong bộ máy lãnh
đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập (Trưởng phòng công chứng) là công
chức; công chứng viên làm việc trong đơn vị sự nghiệp (phòng công chứng) theo
chế độ hợp đồng là viên chức. Như vậy, nếu trong phòng công chứng có công
chứng viên là công chức thì khi gây thiệt hại phải áp dụng những quy định trong
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 và thiệt hại do công
chứng viên là viên chức gây ra sẽ tuân thủ quy định của Luật Viên chức 2010.
Trước hết, về cơ chế bồi thường thiệt hại do công chứng viên là công chức
gây ra trong hoạt động công chứng. Theo quy định tại Điều 7, Luật trách nhiệm
bồi thường nhà nước năm 2017, nếu công chứng viên là công chức gây thiệt hại
thì chỉ cần xác định có thiệt hại thực tế xảy ra do hành vi trái pháp luật của công
chứng viên gây ra và có văn bản của cơ quan có thẩm quyền xác định hành vi
trái pháp luật này của công chứng viên. Nếu công chứng viên là công chức gây
thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại trên cơ sở thương lượng giữa người bị thiệt
hại và công chứng viên gây thiệt hại. Thiệt hại ở đây được xác định chi trả bằng
tiền và trả một lần trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Kinh phí để thực
hiện bồi thường thiệt hại từ ngân sách Nhà nước theo Điều 60, Luật trách nhiệm
bồi thường nhà nước 2017. Theo đó, trình tự, thủ tục cấp và chi trả tiền bồi
thường được quy định như sau: Trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận
được đầy đủ hồ sơ theo quy định, cơ quan tài chính phải hoàn thành việc cấp
phát kinh phí bồi thường cho cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ
gây thiệt hại; trong thời hạn 2 ngày làm việc kể từ ngày nhận được kinh phí do
cơ quan tài chính cấp, cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt
hại phải thông báo bằng văn bản cho

28
người yêu cầu bồi thường về việc chi trả tiền bồi thường. Trong thời hạn 2 ngày
làm việc kể từ ngày người yêu cầu bồi thường nhận được thông báo, cơ quan
trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại phải tiến hành chi trả tiền
bồi thường.
Căn cứ vào các quy định của pháp luật về trình tự thủ tục cấp và chi trả
bồi thường nêu trên ta thấy rằng, để người bị thiệt hại nhận được tiền bồi thường
phải tuân theo một quy trình khá dài và chặt chẽ. Từ việc chứng minh thiệt hại,
có văn bản xác định thiệt hại do hành vi trái pháp luật của công chứng viên gây
ra, có quyết định hoặc bản án của Tòa án theo trình tự của Luật Tố tụng Dân sự
năm 2015, có hồ sơ đề nghị bồi thường thì cơ quan có thẩm quyền mới tiến hành
trả tiền bồi thường cho người bị thiệt hại. Sau khi được Nhà nước đứng ra bồi
thường do hành vi trái pháp luật của mình gây ra khi thi hành công vụ thì công
chức phải có nghĩa vụ hoàn trả số tiền đã bồi thường cho Nhà nước và bị xử lý
trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Việc Luật trách nhiệm bồi thường nhà
nước 2017 quy định trách nhiệm hoàn trả của công chức khi thi hành công vụ
gây thiệt hại là hoàn toàn hợp lý, phù hợp với quy định tại Điều 598, Bộ luật Dân
sự năm 2015. Điều này một mặt tránh sự lợi dụng cố tình làm sai gây thất thu
ngân sách nhà nước, mặt khác góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của công
chức khi thi hành công vụ. Việc xác định mức hoàn trả được thực hiện tại khoản
1, Điều 56, Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước năm 2017 dựa vào căn cứ
mức độ lỗi của người thi hành công vụ và số tiền Nhà nước đã bồi thường. Yếu
tố lỗi cố ý hay vô ý gây thiệt hại sẽ là căn cứ để xác định mức hoàn trả là bao
nhiêu. Nếu người thi hành công vụ do lỗi cố ý gây thiệt hại thì phải hoàn trả cao
hơn so với trường hợp vô ý gây thiệt hại. Cách quy định này hoàn toàn phù hợp
với nguyên lý chung và bản chất của yếu tố lỗi khi xem xét trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Về cơ chế bồi thường thiệt hại do công chứng viên là viên chức gây ra
trong hoạt động công chứng: Đối với những công chứng viên là viên chức hành
nghề tại các phòng công chứng, nếu gây thiệt hại thì có trách nhiệm hoàn trả lại

29
cho đơn vị sự nghiệp công lập khoản tiền mà đơn vị này đã bồi thường cho
người bị thiệt hại

30
do hành vi có lỗi gây thiệt hại cho người khác trong quá trình tác nghiệp. Quy
định trên được cụ thể hóa tại Nghị định số 27/2012/NĐ-CP ngày 6-4-2012 của
Chính phủ quy định về xử lý kỷ luật viên chức và trách nhiệm bồi thường, hoàn
trả của viên chức, trong đó xác định các trường hợp xử lý trách nhiệm bồi
thường hoàn trả. Đối với công chứng viên là viên chức thì có hai dạng trách
nhiệm: Thứ nhất, trách nhiệm bồi thường phát sinh khi công chứng viên làm mất
mát, hư hỏng trang thiết bị hoặc có hành vi khác gây hại tài sản của phòng công
chứng. Thứ hai, trách nhiệm hoàn lại cho phòng công chứng khi phòng công
chứng với tư cách là cơ quan quản lý viên chức đó đã đứng ra bồi thường thiệt
hại cho người yêu cầu công chứng. Theo quy định của Luật Viên chức năm
2010, công chứng viên là viên chức chỉ có trách nhiệm hoàn lại nếu công chứng
viên đó có lỗi gây thiệt hại cho người yêu cầu công chứng. Viên chức gây thiệt
hại nếu tự nguyện bồi thường và được người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập
đồng ý thì không phải thành lập Hội đồng xử lý trách nhiệm bồi thường hoặc
trách nhiệm hoàn trả.
Việc thành lập Hội đồng xử lý trách nhiệm bồi thường, Hội đồng xử lý
trách nhiệm hoàn trả cũng như nhiệm vụ và các nguyên tắc hoạt động của các
hội đồng này, hồ sơ xử lý về bồi thường, hoàn trả cũng được quy định cụ thể tại
Nghị định số 27/2012/NĐ-CP. So sánh quy định về bồi thường thiệt hại do công
chứng viên là công chức gây ra theo Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước năm
2017 với quy định về trách nhiệm bồi thường, hoàn trả đối với công chứng viên
là viên chức gây ra theo Luật Viên chức năm 2010 và Nghị định số 27/2012/NĐ-
CP quy định về xử lý kỷ luật viên chức và trách nhiệm bồi thường, hoàn trả của
viên chức chúng ta thấy rằng, quy định đối với viên chức chặt chẽ hơn, cụ thể
hơn. Công chứng viên là viên chức nếu gây thiệt hại thì phòng công chứng với tư
cách là đơn vị sự nghiệp công lập phải có trách nhiệm đứng ra bồi thường thiệt
hại do hành vi công chứng viên của tổ chức mình gây ra. Sau đó công chứng
viên có trách nhiệm hoàn lại toàn bộ số tiền cho phòng công chứng nếu hành vi
gây thiệt hại được xác định do lỗi của công chứng viên trong quá trình tác

31
nghiệp.

32
1.3.4.Bảo hiểm nghề nghiệp của công chứng viên
Theo quy định của Luật Công chứng, tổ chức hành nghề công chứng có
nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do lỗi mà công chứng viên của tổ chức hành nghề
công chứng gây ra cho người yêu cầu công chứng; văn phòng công chứng có
nghĩa vụ mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên của tổ
chức mình. Đây là quy định được xem là có lợi cho cả công chứng viên và người
dân trong trường hợp chẳng may có rủi ro, nếu đã tham gia bảo hiểm thì khoản
bồi thường cho khách hàng công chứng viên sẽ không phải “móc tiền túi” cá
nhân mà việc này sẽ do bảo hiểm chi trả. Thấy rõ những lợi ích của việc mua bảo
hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên nên ngay sau khi Luật Công
chứng có hiệu lực, nhiều văn phòng công chứng đã tự nguyện mua bảo hiểm.
Ban đầu việc này còn khó khăn do nhiều công ty bảo hiểm không muốn bán vì
còn xa lạ với hoạt động công chứng. Tuy nhiên, đến nay việc mua bảo hiểm đã
trở nên phổ biến với nhiều văn phòng công chứng, tuy mức bảo hiểm ở mỗi văn
phòng là khác nhau.
Luật công chứng 2014 quy định tại Điều 37. Bảo hiểm trách nhiệm nghề
nghiệp của công chứng viên:
1.Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên là loại hình
bảo hiểm bắt buộc. Việc mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng
viên phải được duy trì trong suốt thời gian hoạt động của tổ chức hành nghề công
chứng.
2.Tổ chức hành nghề công chứng có nghĩa vụ mua bảo hiểm trách nhiệm
nghề nghiệp cho công chứng viên hành nghề tại tổ chức mình.
Chậm nhất là 10 ngày làm việc kể từ ngày mua bảo hiểm hoặc kể từ ngày
thay đổi, gia hạn hợp đồng bảo hiểm, tổ chức hành nghề công chứng có trách
nhiệm thông báo và gửi bản sao hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng thay đổi, gia hạn
hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên cho Sở Tư
pháp.
3.Chính phủ quy định chi tiết điều kiện bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, số

33
tiền bảo hiểm tối thiểu đối với bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công
chứng viên.

34
1.3.5 Đạo đức hành nghề công chứng của công chứng viên
Quy tắc Đạo đức hành nghề công chứng được ban hành kèm theo Thông
tư số 11/2012/TT-BTP ngày 30/10/2012 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp (gồm 4
chương, 15 điều) quy định các chuẩn mực đạo đức, hành vi ứng xử của công
chứng viên trong hành nghề công chứng, là cơ sở để công chứng viên tự giác rèn
luyện, tu dưỡng đạo đức trong hành nghề và trong đời sống nhằm nâng cao trách
nhiệm nghề nghiệp, nâng cao uy tín của công chứng viên, góp phần tôn vinh
nghề công chứng trong xã hội. Đạo đức, hiểu theo nghĩa chung nhất, là một hình
thái của ý thức, bao gồm những nguyên tắc, chuẩn mực và thang bậc giá trị được
xã hội thừa nhận. Đạo đức có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi của mỗi
người, phù hợp với lợi ích của xã hội. Đạo đức của mỗi cá nhân chịu sự tác động
của dư luận xã hội, sự kiểm tra của những người khác trong xã hội, cũng như sự
tự kiểm tra bởi chính mình.
Có thể khẳng định rằng, khi làm bất cứ ngành nghề nào cũng cần phải
có đạo đức nghề nghiệp. Công chứng là một nghề cao quý, bởi hoạt động công
chứng bảo đảm tính an toàn pháp lý, ngăn ngừa tranh chấp, giảm thiểu rủi ro cho
các hợp đồng, giao dịch, qua đó bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức - Đó là một nghề mang tính công quyền.
Trong đó, công chứng viên là người được Nhà nước giao quyền, thay mặt Nhà
nước chứng nhận tính xác thực và tính hợp pháp của các hợp đồng, giao dịch
bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc tổ chức, cá
nhân tự nguyện yêu cầu công chứng. Thông qua hoạt động nghề công chứng,
công chứng viên là người góp phần bảo vệ pháp luật, bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của người yêu cầu công chứng khi tham gia giao kết các hợp đồng,
giao dịch tại tổ chức hành nghề công chứng. Do vậy, việc tuân thủ hiến pháp,
pháp luật; khách quan, trung thực; chịu trách nhiệm trước pháp luật về văn bản
công chứng; tuân theo đạo đức hành nghề công chứng là nguyên tắc không thể
thiếu đối với hoạt động hành nghề công chứng của công chứng viên. Với tư cách
là một công chứng viên đang hành nghề, ngoài việc thực hiện nghiêm túc và đầy

35
đủ những quy định của Luật Công chứng và

36
các văn bản quy phạm có liên quan, công chứng viên phải tuân theo và tôn trọng
Quy tắc đạo đức nghề nghiệp. Đó chính là quy tắc ứng xử đã được luật hoá bằng
Thông tư số 11/2012/TT-BTP của Bộ Tư pháp, cho nên không chỉ mang tính
chất tự nguyện mà còn mang tính chất bắt buộc phải thực hiện. Quy tắc Đạo đức
hành nghề công chứng đòi hỏi thái độ của công chứng viên khi ứng xử và hành
nghề phải đi vào khuôn phép pháp luật, đó là:
-Phải thật sự khách quan, trung thực, không thiên vị, không vì lợi ích cá
nhân, sự quen thân làm ảnh hưởng đến lợi ích người khác;
-Không công chứng hợp đồng, giao dịch có nội dung trái đạo đức xã hội.
Công chứng viên phải luôn coi trọng uy tín của mình đối với công việc chuyên
môn, không thực hiện những hành vi làm tổn hại đến danh dự cá nhân, thanh
danh nghề nghiệp;
-Không sử dụng trình độ chuyên môn, hiểu biết của mình để trục lợi, gây
thiệt hại cho người yêu cầu công chứng;
-Để hoàn thành công việc được Nhà nước trao quyền, công chứng viên
phải gương mẫu trong hành vi, lối sống, tôn trọng người dân, thực hiện công
việc tuân theo quy định pháp luật.
Để thực hiện tốt Quy tắc Đạo đức hành nghề công chứng, đòi hỏi mỗi
công chứng viên phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện để giữ gìn uy tín, thanh
danh nghề nghiệp, xứng đáng với sự ủy thác của Nhà nước, sự tôn trọng và tin
cậy của nhân dân. Đạo đức hành nghề công chứng là sự chuẩn mực về phẩm
chất, chuẩn mực về xử sự trong khi hành nghề. Sự chuẩn mực đó được thể hiện
trong quan hệ với đồng nghiệp, với người yêu cầu công chứng nói riêng và với
nhân dân nói chung, với Nhà nước và xã hội:
-Đối với đồng nghiệp, tổ chức hành nghề công chứng nơi mình làm việc
và các tổ chức xã hội nghề nghiệp khác, đạo đức hành nghề công chứng là thể
hiện sự tôn trọng, thân thiện, đoàn kết giúp đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ; giám
sát lẫn nhau, kiên quyết đấu tranh loại bỏ những hành vi sai trái; khi phát hiện
đồng nghiệp

37
có sai sót thì góp ý thẳng thắn nhưng không hạ thấp danh dự, uy tín của đồng
nghiệp, hướng dẫn giúp đỡ đồng nghiệp mới vào nghề; Chấp hành các nội quy,
quy chế của tổ chức hành nghề công chứng, Hội công chứng.
-Đối với người yêu cầu công chứng, đạo đức hành nghề công chứng là
thể hiện sự văn minh, lịch sự khi tiếp xúc với người dân, khi thực hiện việc công
chứng, công chứng viên cần có thiện chí và phải tư vấn cho người yêu cầu công
chứng hiểu rõ về hệ quả pháp lý phát sinh sau khi hợp đồng, giao dịch được công
chứng. Công chứng viên phải có trách nhiệm hướng dẫn cho người yêu cầu công
chứng lựa chọn hình thức văn bản công chứng phù hợp để bảo đảm tính hợp
pháp của hợp đồng, giao dịch. Công chứng viên cần tận tình, hòa nhã giải đáp
thắc mắc của người yêu cầu công chứng để họ hiểu đúng pháp luật, ý chí của các
bên tham gia hợp đồng, giao dịch phải phù hợp với các quy định của pháp luật.
Đồng thời, giải thích cho người yêu cầu công chứng về quyền, nghĩa vụ, trách
nhiệm đối với Nhà nước, về quyền được khiếu nại, tố cáo của người yêu cầu
công chứng khi tham gia ký kết hợp đồng, giao dịch.
Công chứng viên đối xử bình đẳng giữa những người yêu cầu công
chứng; không phân biệt giới tính, dân tộc, chủng tộc, quốc tịch, tôn giáo, địa vị
xã hội, khả năng tài chính… Thu đúng, thu đủ, thu công khai phí và thù lao công
chứng đã quy định và niêm yết, khi thu phải có chứng từ đầy đủ. Đồng thời, chấp
hành nghiêm chỉnh các hành vi bị nghiêm cấm đối với công chứng viên quy định
tại Luật Công chứng:
-Không được sách nhiễu, gây khó khăn cho người yêu cầu công chứng;
-Không đòi hỏi bất kỳ một khoản tiền, lợi ích nào khác ngoài phí, thù lao
công chứng và chi phí khác đã được thoả thuận;
-Không nhận tiền hoặc bất kỳ lợi ích vật chất nào khác để thực hiện hoặc
không thực hiện việc công chứng,
-Không sử dụng thông tin biết được từ việc công chứng để phục vụ lợi
ích cá nhân;

38
-Không công chứng đối với trường hợp mục đích và nội dung của hợp
đồng, giao dịch vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Tiểu kết Chương
Công chứng xuất hiện tại Việt Nam là vào những năm 30 của thế kỷ XX,
do người Pháp đưa vào Việt Nam. Nhưng mãi đến năm 1987, công chứng mới
được đề cập lần đầu tiên trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Tại thời điểm này,
công chứng được hiểu là “Công quyền đứng ra làm chứng”, cụ thể là nhà nước
trao thẩm quyền cho một cơ quan được phép nhân danh nhà nước để làm chứng
cho các giao dịch dân sự và thương mại, sao y bản chính các loại giấy tờ. Luật
Công chứng 2014 định nghĩa: "Công chứng là việc công chứng viên của một tổ
chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng,
giao dịch dân sự khác bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch), tính
chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ
tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau
đây gọi là bản dịch) mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá
nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng." Trải qua những thời kỳ khác
nhau, định nghĩa về hoạt động công chứng có những thay đổi nhất định, tuy
nhiên, có thể hiểu một cách nôm na nhất, công chứng là việc tạo lập và lưu giữ
chứng cứ được thực hiển bởi công chứng viên, theo đó công chứng viên sẽ: Nhân
danh nhà nước đứng ra làm chứng, ghi nhận lại sự thỏa thuận của các bên; Bảo
đảm tính xác thực, tính hợp pháp của giao dịch, văn bản giấy tờ, bản dịch.
Công chứng viên là người có đủ tiêu chuẩn theo quy định của Luật, được
Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm để hành nghề công chứng. Công chứng viên là
một chức danh tư pháp có vị trí tương đương với thẩm phán, kiểm sát viên hay
chấp hành viên thi hành án. Để được bổ nhiệm trở thành công chứng viên, người
đó phải đáp ứng những tiêu chuẩn khắt khe về quá trình đào tạo và tuyển chọn
(tốt nghiệp đại học chuyên ngành luật, tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng
viên tại Học viện Tư pháp, có kinh nghiệm làm việc về pháp luật tối thiểu là 05
năm và phải

39
vượt qua được kỳ thi sát hạch của Bộ Tư pháp). Công chứng viên được coi là
"Thẩm phán phòng ngừa", hay "Thẩm phán hợp đồng", đó chính là người có đủ
năng lực để nhận biết và phong ngừa rủi ro pháp lý cho các bên tham gia giao
dịch.
Giao dịch quyền sử dụng đất là việc người sử dụng đất thực hiện quyền tài
sản của mình đối với quyền sử dụng đất bằng cách đưa quyền sử dụng đất của
mình vào giao dịch dân sự theo nội dung và hình thức nhất định phù hợp quy
định của pháp luật đất đai.

40
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM
PHÁP LÝ CỦA CÔNG CHỨNG VIÊN TRONG CÁC GIAO
DỊCH
VỀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT THEO PHÁP LUẬT VIỆT
NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH
2.1Khái quát tình hình địa phương liên quan đến vấn đề nghiên cứu
2.1.1Tình hình phát triển nông thôn và đô thị tại tỉnh Bắc Ninh
Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, chỉ cách trung tâm Thủ đô
khoảng 30km, là đầu mối quan trọng giữa Hà Nội với các tỉnh phía Bắc, nằm
trên hành lang kinh tế Việt – Trung và trong tam giác tăng trưởng Hà Nội – Hải
Phòng – Quảng Ninh, Bắc Ninh có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển về mọi
mặt. Năm 2018, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm (GRDP) của tỉnh Bắc Ninh
ước tăng 10,6% so với năm 2017, tiếp tục khẳng định vững chắc là cực tăng
trưởng của vùng Bắc Bộ và cả nước. Được mệnh danh là “Thủ phủ FDI”, Bắc
Ninh đón nhận được đầu tư khủng từ nhiều tập đoàn lớn và thương hiệu toàn cầu
như: Cannon (Nhật Bản), Samsung (Hàn Quốc), Nokia (Phần Lan), Pepsico
(Hoa Kỳ), ABB (Thụy Điển). Không chỉ các doanh nghiệp FDI, các tên tuổi lớn
của Việt Nam như: Vinamik, Vinasoy, Kinh Đô... cũng góp mặt tại đây hình
thành lên các khu công nghiệp lớn như: Tiên Sơn, Quế Võ, Thuận Thành, Yên
Sơn, Gia Bình. Đây chính là một trong những xúc tác quan trọng thúc đẩy sự
phát triển mạnh mẽ của miền đất Kinh Bắc đồng thời tạo công ăn việc làm ổn
định cho hàng vạn lao động từ khắp cả nước đến sinh sống và làm việc tại các
khu công nghiệp trên địa bàn. Bên cạnh đó, Bắc Ninh còn có thế mạnh về hệ
thống giao thông đồng bộ và thông suốt với rất nhiều trục giao thông lớn chạy
qua bao gồm: QL1A, QL1B mới, QL18, QL38, đường cao tốc đi Sân bay quốc tế
Nội Bài, đường đi đến cảng nước sâu Cái Lân - Quảng Ninh, tuyến đường sắt
xuyên Việt đi Trung Quốc giúp Bắc Ninh dễ dàng kết nối với các trung tâm kinh
tế, văn hóa, chính trị và thương mại phía Bắc. Song song với hạ tầng giao thông,

41
hạ tầng xã hội của Bắc Ninh cũng đã và đang được đồng bộ hóa toàn

42
diện. Từ hệ thống đường xá như đường H2, đường vành đai đến những con
đường liên xã liên thôn đều được xây dựng đồng bộ. Đặc biệt, theo kế hoạch đến
năm 2022, Thành phố Bắc Ninh sẽ phấn đấu xây dựng trở thành thành phố trực
thuộc Trung ương, theo đó việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng của Bắc Ninh sẽ được
đẩy mạnh. Điều này không chỉ là một bước tiến mới cho Thành phố Bắc Ninh
mà còn tạo ra những tác động mạnh đến nhiều lĩnh vực khác, trong đó bất động
sản được đánh giá là sẽ có nhiều biến động tích cực. Dự báo trong năm 2019, các
giao dịch về bất động sản tại Bắc Ninh sẽ tạo được sức bật lớn.
Báo cáo của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bắc Ninh nêu rõ, theo điều
chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và Kế hoạch sử dụng đất kỳ cuối
(2016- 2020), tỉnh được Chính phủ phê duyệt cho phép chuyển mục đích sử dụng
đất, trong đó chỉ tiêu sử dụng đất nông nghiệp giảm 11.110ha; chỉ tiêu sử dụng
đất phi nông nghiệp tăng 11.326ha; ưu tiên cho đất khu công nghiệp 3.695ha, đất
phát triển hạ tầng 3.166ha, đất ở tại nông thôn 992ha, đất cụm công nghiệp
262ha, đất thương mại, dịch vụ 335ha. Đặc biệt, hiện có 41/43 thủ tục hành
chính trong lĩnh vực đất đai được triển khai thực hiện dịch vụ công trực tuyến ở
mức độ 3, đạt tỷ lệ hơn 95%, trong đó cấp tỉnh 36/36 thủ tục, cấp huyện 5/6 thủ
tục; 100% thủ tục hành chính trong lĩnh vực đất đai được hướng dẫn, tiếp nhận,
giải quyết tại Trung tâm Hành chính công tỉnh, cấp huyện, Bộ phận tiếp nhận và
trả kết quả cấp xã. Các thủ tục được triển khai thực hiện cơ chế một cửa, một cửa
liên thông, liên thông điện tử, trong đó có hai thủ tục được thực hiện “bốn tại
chỗ” tại Trung tâm Hành chính công tỉnh. Tính từ tháng 1/2018 đến tháng
5/2019, tỉnh đã tiếp nhận 2.085 hồ sơ thủ tục hành chính trong lĩnh vực đất đai
tại Trung tâm Hành chính công tỉnh, đã giải quyết được 1.997 hồ sơ, đạt 95,78%;
53.185 hồ sơ tại Trung tâm Hành chính công cấp huyện, đã giải quyết được
45.704 hồ sơ, đạt 85,93%.
Với số lượng hồ sơ đất đai rất lớn, việc thực hiện các dịch vụ công trực
tuyến sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, người dân tiếp cận, giải quyết
thủ tục hành chính. Các bước giải quyết được công khai, minh bạch loại bỏ tình

43
trạng sách

44
nhiễu, gây phiền hà của đội ngũ công chức thực thi công vụ, giảm số hồ sơ phải
yêu cầu bổ sung và trễ hẹn trả kết quả. Theo nhu cầu của các huyện, thị xã, thành
phố trong tỉnh, Kế hoạch sử dụng đất năm 2019 đăng ký 1.544 dự án, tổng diện
tích thu hồi, chuyển mục đích sử dụng đất khoảng hơn 6.891ha. Cụ thể, thành phố
Bắc Ninh 233 dự án, diện tích trên 941ha; thị xã Từ Sơn 269 dự án, diện tích hơn
1.291ha; huyện Tiên Du 262 dự án, diện tích hơn 1.139ha; Quế Võ 189 dự án,
diện tích gần 516ha; Gia Bình 153 dự án, diện tích gần 395ha; Lương Tài 58 dự
án, diện tích hơn 125ha; Thuận Thành 192 dự án, diện tích 1.206ha; Yên Phong
161 dự án, diện tích hơn 1.278ha. Bên cạnh việc bám sát sự điều chỉnh quy hoạch
sử dụng đất của Chính phủ, Sở Tài nguyên và Môi trường tham mưu với Ủy ban
Nhân dân tỉnh tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, kịp thời sửa đổi, bổ sung
các quy định của pháp luật về đất đai. Bắc Ninh tăng cường sự lãnh đạo của các
cấp ủy Đảng, chính quyền, ngành chức năng đối với công tác tuyên truyền quản
lý đất đai, nhất là công tác quản lý đất đai ở cấp xã, thôn. Nhờ đó, việc thu hồi,
bồi thường, giải phóng mặt bằng trên địa bàn Bắc Ninh thực hiện đúng trình tự,
thủ tục, công khai, dân chủ và đúng quy định của pháp luật. Mặt khác, các cơ
quan chức năng của Bắc Ninh tiến hành rà soát các dự án BT, dự án giao đất,
cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất để có phương án giải quyết hợp lý;
tập trung thẩm định, tham mưu với tỉnh phê duyệt Kế hoạch sử dụng đất năm
2020 của các huyện, thị xã, thành phố, danh mục dự án chuyển mục đích sử dụng
đất dưới 10ha đất trồng lúa năm 2019 và 2020. Tỉnh thực hiện kiểm kê đất đai
năm 2019, hoàn thành công tác thống kê đất đai năm 2018 và lập dự án, tổ chức
xây dựng bảng giá đất năm năm (2020-2024) sát với thực tế. Các huyện, thị xã,
thành phố tích cực giải quyết việc giao đất dân cư, dịch vụ cho hộ gia đình, cá
nhân bị thu hồi đất nông nghiệp theo chỉ đạo của Trung ương và tỉnh. Tỉnh điều
tra, đánh giá sát chất lượng, tiềm năng đất đai, có phương án sử dụng hợp lý,
đóng góp vào phát triển kinh tế-xã hội theo hướng an toàn, bền vững.
Tiêu biểu như việc giải quyết “điểm nóng” về đất đai tại xã Đông Tiến,
huyện Yên Phong. Từ nhiều năm trước, vi phạm Luật Đất đai ở xã Đông Tiến đã

45
xảy ra nhưng không được giải quyết dứt điểm, nhiều cuộc cưỡng chế không
thành, đặc biệt là ở thôn Ô Cách đã gây ra sự bức xúc của người dân đối với
công tác quản lý nhà nước của chính quyền địa phương. Với mục tiêu giải quyết
dứt điểm tình trạng vi phạm Luật Đất đai trên địa bàn, năm 2018 Đảng ủy xã
Đông Tiến đã xác định đây là một trong ba nhiệm vụ chính trị trọng tâm của xã
cần tập trung thực hiện. Đảng ủy xã đã ban hành nhiều nghị quyết chuyên đề và
tập trung rà soát toàn bộ các hộ vi phạm luật đất đai trên địa bàn, tổ chức lực
lượng cưỡng chế thành công 61 trường hợp xây dựng trái phép trên đất vi phạm,
tập trung chủ yếu ở thôn Ô Cách; kịp thời lập biên bản và ngăn chặn hàng chục
lượt vi phạm đất đai, tổ chức tuyên truyền, vận động ba trường hợp vi phạm mới
tự giác tháo dỡ công trình vi phạm, trả lại mặt bằng cho địa phương quản lý. Đến
nay, cơ bản tình trạng vi phạm Luật Đất đai trên địa bàn xã được kiểm soát,
100% các trường hợp vi phạm Luật đã lập biên bản, công tác quản lý đi vào nền
nếp, có hiệu quả. Để có được kết quả này, cấp ủy, chính quyền xã Đông Tiến đã
đoàn kết, thống nhất nội bộ, đưa ra các giải pháp, mục tiêu cụ thể để thực hiện.
Xã phân công rõ người rõ việc, giao thời gian hoàn thành công việc, đặc biệt chú
trọng việc quy trách nhiệm cho người đứng đầu. Khi tổ chức cưỡng chế, chuẩn bị
mọi phương án, không để bị động, được người dân trong xã đồng tình ủng hộ.
Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường Nguyễn Đại Đồng khẳng định
từ khi Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực, tỉnh Bắc Ninh thực hiện quản lý, quy
hoạch đất đô thị có sự thống nhất cao giữa quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy
hoạch đô thị và các quy hoạch ngành, lĩnh vực khác có sử dụng đất. Theo điều
chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và Kế hoạch sử dụng đất kỳ cuối
(2016-2020) của tỉnh, đã có sự gắn kết với quy hoạch đô thị, quy hoạch xây dựng.
Đây là cơ sở pháp lý trong công tác giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử
dụng đất đô thị. Hiện tỉnh đã hoàn thành việc đo đạc bản đồ địa chính diện tích
82.271ha, đạt 100% diện tích tự nhiên, trong đó bản đồ tỷ lệ 1/500 diện tích
3.960,9ha; bản đồ tỷ lệ 1/1000 diện tích 39.462,65ha; bản đồ tỷ lệ 1/2000 diện
tích 38.847,6ha. Tổng số thửa đất đã đo đạc,

46
lập bản đồ địa chính là 1.008.765 thửa. Công tác thu hồi đất, giao đất, cho thuê
đất được thực hiện đúng trình tự, thủ tục và đúng quy định về quản lý, sử dụng
đất. Công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được thực hiện công khai, dân chủ,
lấy ý kiến của người có đất bị thu hồi, ít để xảy ra khiếu kiện. Công tác đăng ký,
lập hồ sơ địa chính, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài
sản gắn liền với đất bảo đảm tính pháp lý, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người
sử dụng đất, ngăn chặn kịp thời các giao dịch không đăng ký tại cơ quan nhà
nước.
2.1.2Nhu cầu công chứng các giao dịch về quyền sử dụng đất
Thống kê số liệu hợp đồng, giao dịch về quyền sử dụng đất từ năm 2014
đến năm 2018 thì số lượng các hợp đồng, giao dịch có nhu cầu công chứng đều
tăng qua từng năm. Các tổ chức hành nghề công chứng và hoạt động công chứng
trên địa bàn tỉnh đã có bước phát triển vượt bậc cả về số lượng và chất lượng
trung bình mỗi năm chứng nhận gần 40 nghìn hợp đồng giao dịch, góp phần bảo
đảm an toàn pháp lý cho các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại. Hoạt động
công chứng không chỉ giúp giảm tải cho các phòng công chứng nhà nước, mà
còn giúp hoạt động công chứng chuyển dần từ độc quyền nhà nước sang hoạt
động dịch vụ với mục tiêu phục vụ khách hàng. Việc mở ra nhiều văn phòng
công chứng đã tạo sự cạnh tranh bình đẳng giữa văn phòng công chứng và phòng
công chứng của Nhà nước, cũng như chính các văn phòng công chứng với nhau.
Các tổ chức công chứng cũng buộc phải thay đổi cung cách phục vụ theo hướng
linh hoạt, thuận tiện, nhanh chóng hơn, để có được khách hàng và những phần
việc cụ thể. Một vấn đề cấp bách được đặt ra hiện nay là mặc dù có tới 90% số
lượng hợp đồng công chứng liên quan đến các giao dịch bất động sản
2.2Văn phòng công chứng, phòng công chứng tại tỉnh Bắc Ninh
Công tác tuyên truyền pháp luật nói chung, pháp luật về công chứng nói
riêng được đẩy mạnh thông qua nhiều hình thức khác nhau như: tuyên truyền
trên các phương tiện thông tin đại chúng; thông qua các Hội nghị tuyên truyền
pháp luật, trợ giúp pháp lý, tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ tư pháp cơ sở hoạt

47
động tiếp công

48
dân, tổ chức của các tổ chức hành nghề công chứng, cơ quan tư pháp các cấp,
các tổ chức hành nghề luật sư... nhằm góp phần đưa pháp luật công chứng đi vào
đời sống, nâng cao nhận thức về vai trò và ý nghĩa của công chứng trong xã hội.
Thực hiện chủ trương xã hội hóa công chứng, Sở Tư pháp đã tham mưu
cho UBND tỉnh xây dựng Đề án “Quy hoạch phát triển tổ chức hành nghề công
chứng trên địa bàn tỉnh, giai đoạn 2011- 2020” theo Quyết định số 250/QĐ-TTg
ngày 10.02.2010 và Quyết định số 240/QĐ-TTg ngày 17.02.2011 của Thủ tướng
Chính phủ về Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng ở
Việt Nam đến năm 2020 [61]; ban hành Quyết định số 144/2009/QĐ-UBND
ngày 16.9.2009 của UBND tỉnh về việc chuyển giao thẩm quyền công chứng
hợp đồng, giao dịch sang tổ chức hành nghề công chứng [66]; thẩm định và trình
UBND tỉnh quyết định thành lập các Văn phòng công chứng theo quy định của
pháp luật. Số lượng tổ chức chức hành nghề công chứng và công chứng viên đều
tăng lên rõ rệt. Chất lượng hoạt động công chứng cũng có nhiều chuyển biến tích
cực theo hướng chuyên nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, tổ chức,
doanh nghiệp, góp phần đảm bảo an toàn pháp lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên khi tham gia hợp đồng, giao dịch. Trước năm 2014, toàn tỉnh
chỉ có 3 Phòng công chứng Nhà nước, với 5- 7 Công chứng viên và 8 Văn phòng
công chứng tư nhân với 16 Công chứng viên. Đến nay cả tỉnh đã có 19 tổ chức
hành nghề công chứng (3 Phòng Công chứng, 16 Văn phòng Công chứng), với
46 Công chứng viên và được phân bổ tại 8 đơn vị hành chính cấp huyện. Tính từ
ngày 01/01/2016 đến ngày 01/01/2019, các tổ chức hành nghề công chứng đã
thực hiện được 85.706 việc làm công chứng, chứng thực 132.353 bản sao, giải
quyết việc làm cho hơn 100 lao động.
Nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước, tăng cường cơ chế giám sát,
minh bạch hóa hoạt động công chứng, Sở Tư pháp đã tham mưu cho Ban thường
vụ Tỉnh ủy tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo đối với hoạt động công chứng trên địa
bàn tỉnh. Hàng năm, Sở ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, chấn chỉnh hoạt động
công chứng; tiến hành kiểm tra, thanh tra đối với các tổ chức hành nghề công

49
chứng; giao

50
ban chuyên đề công chứng định kỳ hàng quý để đánh giá, kiểm điểm, trao đổi
nghiệp vụ; yêu cầu các tổ chức hành nghề công chứng niêm yết công khai trình
tự, thủ tục công chứng, lịch làm việc, nội quy công chứng, bảng thu phí, thù lao
công chứng, thực hiện tư vấn và hướng dẫn, giải đáp cho người yêu cầu công
chứng.
Ngoài ra, Sở Tư pháp còn yêu cầu các tổ chức hành nghề công chứng phải
niêm yết Thông tin đường dây nóng tại trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng
để các cơ quan, tổ chức, cá nhân giám sát, phản ánh về hoạt động công chứng. Sở
cũng đề nghị Công an tỉnh, Đoàn Luật sư, các tổ chức hành nghề luật sư trên địa
bàn tỉnh phối hợp cung cấp thông tin, tài liệu phản ánh về hoạt động công chứng,
nhất là những giao dịch có dấu hiệu vi phạm pháp luật do Công chứng viên thực
hiện. Việc niêm yết công khai thông tin đường dây nóng phản ánh về hoạt động
công chứng đã phát huy tác dụng rất tốt. Nhiều tổ chức, cá nhân đã thông tin
phản ánh về hoạt động công chứng một cách kịp thời, toàn diện hơn. Qua đó
giúp Sở Tư pháp có thêm cơ chế giám sát thường trực đối với hoạt động công
chứng và tiếp nhận nhiều thông tin bổ ích trong công tác quản lý, đồng thời cũng
trở thành kênh thông tin tư vấn, giải thích, tuyên truyền pháp luật khá hiệu quả,
giảm bớt khiếu kiện đối với hoạt động công chứng.
Tuy nhiên, hoạt động công chứng trong những năm qua còn một số tồn
tại, khó khăn như: Nhận thức của một bộ phận nhân dân, cán bộ về ý nghĩa, giá
trị pháp lý của công chứng còn hạn chế; thể chế về công chứng chưa hoàn thiện;
quy mô của tổ chức hành nghề công chứng còn nhỏ, một số công chứng viên,
nhân viên không qua đào tạo nghề công chứng nên nghiệp vụ, kinh nghiệm và kỹ
năng nghề công chứng còn hạn chế; quy định pháp luật liên quan đến công
chứng đang trong quá trình hoàn thiện, có rất nhiều vấn đề chồng chéo, bất cập,
thủ tục hành chính còn rườm rà... khiến người dân gặp khó khăn khi phải hoàn
thiện hồ sơ yêu cầu công chứng và cảm thấy rất phiền hà.
Trong thời gian tới, để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu công chứng của
xã hội thì công tác tuyên truyền pháp luật về công chứng cần được tiếp tục đẩy

51
mạnh; nhà nước sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật về công chứng; các tổ chức
hành nghề công chứng cần chủ động và tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng
dịch vụ theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại. Bên cạnh đó, nhà nước thường
xuyên quan tâm đến các biện pháp hỗ trợ, phát triển nghề công chứng cũng như
tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng.
2.3Thực trạng trách nhiệm pháp lý của công chứng viên trong các
giao dịch về quyền sử dụng theo pháp luật Việt Nam đất từ thực tiễn tỉnh
Bắc Ninh
2.3.1Phát triển tổ chức hành nghề công chứng nói chung và công chứng
viên nói riêng tại tỉnh Bắc Ninh
Triển khai thực hiện Kế hoạch của Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh thực
hiện Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đến năm 2020
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, thời gian qua Sở Tư pháp đã tích cực đề ra các giải
pháp triển khai thực hiện phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương; tổ
chức tuyên truyền, phổ biến các nội dung của Luật Công chứng, vị trí, vai trò của
công chứng và các văn bản pháp luật có liên quan dưới nhiều hình thức khác
nhau đến toàn thể cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân trên địa bàn tỉnh
nhằm nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành về bản chất, vai trò, ý nghĩa
của hoạt động công chứng đối với công tác cải cách tư pháp, sự ổn định và phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương, nâng cao ý thức trách nhiệm của các cấp,
các ngành đối với công tác công chứng.
Công tác phát triển đội ngũ Công chứng viên cũng được Sở Tư pháp quan
tâm thực hiện, khi nhận được thông báo của Bộ Tư pháp về việc mở lớp đào tạo
nghề công chứng tại tỉnh Bắc Ninh, Sở Tư pháp đã thực hiện thông báo công
khai rộng rãi cho toàn thể cán bộ, công chức trong ngành và những người có nhu
cầu trên địa bàn tỉnh tham gia. Công tác bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, kiến thức
pháp luật mới, kỹ năng hành nghề công chứng, quy tắc đạo đức hành nghề công
chứng cho Công chứng viên cũng được Sở Tư pháp quan tâm thực hiện nhằm
đảm bảo mục tiêu phát triển đội ngũ Công chứng viên giỏi về chuyên môn

52
nghiệp vụ, vững

53
vàng về bản lĩnh chính trị, trong sáng về đạo đức nghề nghiệp và nâng cao chất
lượng, uy tín của hoạt động công chứng để công chứng trở thành nhu cầu tự
nguyện của nhân dân.
Ngoài ra, Sở Tư pháp đã chủ động tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh ban
hành Quyết định thực hiện chuyển giao việc chứng thực hợp đồng, giao dịch từ
Uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp xã sang tổ chức hành nghề công chứng đối với
địa bàn cấp huyện có tổ chức hành nghề công chứng; Quyết định ban hành quy
định tiêu chí và cách thức thẩm định hồ sơ thành lập Văn phòng công chứng trên
địa bàn tỉnh Bắc Ninh nhằm bảo đảm việc cho phép thành lập Văn phòng công
chứng được phù hợp với quy hoạch, công khai và minh bạch và ban hành quy
chế phối hợp trong quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm đối với
quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nhằm đẩy
mạnh mối quan hệ phối hợp giữa các tổ chức hành nghề công chứng với cơ quan
đăng ký nhà, đất, tạo tiền đề cho cơ chế liên thông trong việc thực hiện các thủ
tục hành chính liên quan đến giao dịch về bất động sản.
2.3.2Thực hiện pháp luật của Công chứng viên trong các giao dịch về
quyền sử dụng đất từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
Việc thực hiện pháp luật của Công chứng viên tại Bắc Ninh vẫn còn gặp
một số vướng mắc như:
Vướng mắc trong việc xác định số lượng và tư cách tham gia ý kiến của
thành viên hộ gia đình sử dụng đất.
Khái niệm hộ gia đình sử dụng đất theo khoản 29 Điều 3 Luật Đất đai năm
2013 có nội hàm khác biệt so với khái niệm “gia đình” theo pháp luật hôn nhân
và gia đình, cũng như khái niệm “hộ gia đình” theo Bộ luật Dân sự. Theo đó,
không phải bất cứ thành viên nào của gia đình cũng đồng thời là thành viên của
hộ gia đình sử dụng đất. Khi hộ gia đình sử dụng đất muốn chuyển quyền sử
dụng đất của hộ cho một chủ thể khác thì theo quy định của pháp luật dân sự,
giao dịch này phải do người đại diện của hộ trực tiếp giao kết nhưng phải có sự
thỏa thuận của tất cả thành

54
viên là người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ (khoản 2 Điều 212
Bộ luật Dân sự năm 2015) [44]. Điều này cho thấy, trong công chứng giao dịch
về quyền sử dụng đất của hộ gia đình sử dụng đất cần phải xác định số lượng
thành viên hộ gia đình sử dụng đất được tham gia ý kiến đối với giao dịch và đó
là những thành viên cụ thể nào của hộ. Nếu xác định không chính xác vấn đề
này, về nguyên tắc giao dịch đó sẽ bị vô hiệu. Nhưng công chứng viên lại thực
hiện xem xét, đánh giá vấn đề trong môi trường hồ sơ, do đó, hồ sơ yêu cầu công
chứng cần có loại giấy tờ có giá trị pháp lý và đầy đủ thông tin để cho phép xác
định vấn đề này. Tuy nhiên, từ trước đến nay, trong các quy định của pháp luật
và kể cả trong thực tế, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ gia đình chỉ
thể hiện tên của một thành viên đại diện mà không có bất kỳ thông tin về các
thành viên trong hộ gia đình sử dụng đất. Do vậy, trong thực tiễn, khi công
chứng giao dịch về quyền sử dụng đất của hộ gia đình do chủ hộ trực tiếp xác
lập, công chứng viên phải xem xét tư cách của các thành viên trong hộ để xác
định giao dịch có hội đủ điều kiện có hiệu lực hay không. Việc xem xét này dựa
trên thông tin ở sổ hộ khẩu. Vấn đề đặt ra là, việc căn cứ vào sổ hộ khẩu có cho
phép người công chứng xác định được chính xác thành viên nào có tư cách được
hỏi ý kiến đối với giao dịch hay không? Quy định của khoản 29 Điều 3 Luật Đất
đai năm 2013 đã có thể tạo cơ sở pháp lý cho người công chứng xác định số
thành viên của hộ gia đình sử dụng đất tại thời điểm mà hộ nhận chuyển nhượng
hay được Nhà nước giao, cho thuê hay công nhận quyền sử dụng đất, căn cứ vào
các mốc thời gian mà thành viên đó tách hoặc nhập vào hộ khẩu. Ví dụ, thời
điểm được Nhà nước giao đất là năm 1992, nhưng K nhập hộ khẩu năm 2005 thì
dù K đã thành niên và có năng lực hành vi dân sự cũng không cần hỏi ý kiến về
giao dịch. Tuy nhiên, sổ hộ khẩu với tính chất là loại giấy tờ để quản lý về cư trú,
nên nó chỉ có khả năng xác định nơi thường trú hợp pháp của công dân mà
không phản ánh, thể hiện được các tiêu chí xác định thành viên của hộ gia đình
sử dụng đất. Nơi thường trú thì không cho phép suy luận một cách đương nhiên
là công dân đang sống chung với nhau, cùng nhau sản xuất kinh tế (ví dụ là

55
đất nông nghiệp), trong khi “đang sống chung” tại thời điểm được giao đất, cho
thuê đất, công nhận, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất là điều kiện cơ bản
để xem xét tư cách tham gia ý kiến của người này đối với giao dịch do chủ hộ
trực tiếp xác lập. Trong thực tế, có trường hợp, một thành viên của gia đình thoát
ly khỏi quê hương, gia đình để làm ăn, công tác, học tập lâu dài ở nơi khác rất
lâu (trước thời điểm tạo lập quyền sử dụng đất) nhưng chưa tạo lập được nhà ở
riêng thì vẫn được coi là có cùng hộ khẩu với gia đình. Trường hợp khác, một
người tuy không có tên trên sổ hộ khẩu do bị xóa thường trú sau khi tạo lập
quyền sử dụng đất nhưng lại là thành viên sử dụng đất do tại thời điểm tạo lập tài
sản đó, người này là thành viên của gia đình và còn sống chung thì vẫn là thành
viên của hộ gia đình sử dụng đất.
Vướng mắc trong việc xác định tư cách người ký giao dịch quyền sử dụng
đất của hộ gia đình sử dụng đất. Khoản 5 Điều 14 Thông tư số 02/2015/TT-
BTNMT ngày 27/01/2015 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết
một số điều của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP và Nghị định số 44/2014/NĐ-CP
ngày 15/5/2014 của Chính phủ (Thông tư số 02/2015/TT-BTNMT) quy định:
“Người có tên trên giấy chứng nhận hoặc người được ủy quyền theo quy định
của pháp luật về dân sự quy định tại khoản 1 Điều 64 của Nghị định số
43/2014/NĐ-CP chỉ được thực hiện việc ký hợp đồng, văn bản giao dịch về
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất khi đã được các thành
viên trong hộ gia đình sử dụng đất đồng ý bằng văn bản và văn bản đó đã được
công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật” [17]. Quy định này có
sự khác biệt đáng kể so với pháp luật về dân sự. Trong Bộ luật Dân sự năm
2005, việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ
gia đình phải được các thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý mà không
nhất thiết phải tất cả các thành viên của hộ đồng ý. Trong Bộ luật Dân sự năm
2015 thì sự khác biệt lại càng lớn hơn: Việc định đoạt tài sản là bất động sản
phải có sự thỏa thuận của tất cả các thành viên gia đình là người thành niên có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp luật có quy định khác. Ở đây,

56
theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, chỉ khi có “luật” quy định khác

57
thì mới áp dụng quy định đó. Do vậy, sự tồn tại của khoản 5 Điều 14 Thông tư
số 02/2015/TT-BTNMT không những không cụ thể hóa được các quy định của
pháp luật dân sự mà còn có sự mâu thuẫn nhất định, gây ra những vướng mắc,
thiếu thống nhất trong công chứng, chứng thực quyền sử dụng đất của hộ gia
đình. Ngoài ra, khoản 2 Điều 117 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Hình
thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp
luật có quy định”. Như vậy, vấn đề ở đây là ngay trong các quy định của Bộ luật
này, cũng như Luật Đất đai năm 2013 đã không đưa ra điều kiện về hình thức
đối với giao dịch ủy quyền giữa các thành viên trong hộ gia đình với người trực
tiếp ký giao dịch đó, do đó, quy định trên của Thông tư số 02/2015/TT-BTNMT
sẽ tạo ra môi trường thiếu minh bạch, gây lúng túng, vướng mắc trong khi nó lại
quy định là bắt buộc phải có công chứng, chứng thực. Trong thực tế, nếu trường
hợp người yêu cầu công chứng, chứng thực chứng minh được các thành viên còn
lại của hộ gia đình đã ủy quyền cho mình giao dịch về quyền sử dụng đất (như
bằng email, bằng video hoặc thông điệp dữ liệu phản ánh chính xác và có khả
năng lưu trữ), thì hồ sơ công chứng đó có hợp lệ không? Theo tác giả, trường
hợp này cần cho phép công chứng viên được công chứng hợp đồng.
2.3.3. Trách nhiệm pháp lý phải bồi thường thiệt hại khi công chứng viên
để xảy ra vi phạm trong các giao dịch về quyền sử dụng đất từ thực tiễn tỉnh Bắc
Ninh
Luật công chứng trao cho công chứng viên nhiệm vụ “chứng nhận tính
xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản”; chứng
nhận “tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ,
văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng
Việt” (Điều 2 Luật Công chứng 2014). Trong hệ thống tư pháp của các quốc gia,
công chứng viên được coi như những “Thẩm phán phòng ngừa”, là hàng rào
quan trọng để bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên tham gia giao dịch dân sự.
Kết quả của việc thực hiện nhiệm vụ đó được thể hiện qua giá trị pháp
lý của văn bản công chứng, cụ thể tại Điều 5 Luật công chứng quy định: “Hợp

58
đồng,

59
giao dịch được công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan”; “Hợp
đồng, giao dịch được công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện
trong hợp đồng, giao dịch được công chứng không phải chứng minh”; “Bản dịch
được công chứng có giá trị sử dụng như giấy tờ, văn bản được dịch”.
Để thực hiện những nhiệm vụ trên, pháp luật quy định những điều kiện
khắt khe về đạo đức, năng lực chuyên môn và kinh nghiệm của công chứng viên.
Sau khi có bằng cử nhân Luật, một người cần thêm từ 5 đến 7 năm học tập và
tích lũy kinh nghiệm mới đủ tiêu chuẩn trở thành công chứng viên. Thế nhưng
để hoạt động công chứng đạt kết quả thì công chứng viên và tổ chức hành nghề
cần phải có những công cụ để thực thi nhiệm vụ của mình chứ không thể chỉ dựa
vào đạo đức nghề nghiệp, chuyên môn pháp lý và kinh nghiệm.
Trên thực tế hoạt động công chứng tại tỉnh Bắc Ninh trong các giao
dịch về quyền sử dụng đất để xác định giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là thật
hay giả, thông tin có chính xác hay không thì ngoài việc quan sát, công chứng
viên cần tiếp cận được với thông tin từ cơ quan cấp giấy chứng nhận; để xác
định nhân thân của một người, ngoài việc kiểm tra giấy tờ tùy thân, công chứng
viên cần đối chiếu được thông tin đó với cơ sở dữ liệu công dân; để xác định một
bộ hợp đồng mua bán nhà chung cư là thật hay giả, công chứng viên cần phải
kiểm tra được thông tin từ chủ đầu tư.
Tuy nhiên, không có bất kỳ quy định nào của pháp luật cho phép công
chứng viên có được “đặc quyền” hơn công dân bình thường để có thể tiếp cận
với những dữ liệu nêu trên, mặc dù công chứng viên là một chức danh tư pháp
và việc tiếp cận thông tin là để bảo đảm cho việc thực hiện chức năng nhiệm vụ
của công chứng viên, bảo đảm an toàn pháp lý cho công dân, cho xã hội, trong
đó có cả các cơ quan quản lý nhà nước.
Trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh Công nghệ làm giả giấy tờ đã đạt đến mức
tinh xảo, các loại mẫu khó làm giả nhất như tiền hay tem chống hàng giả cũng bị
làm giả. Các tài liệu thông thường như con dấu, chữ ký vào bản in trên giấy trắng

60
thể bị làm giả và dễ dàng qua mặt các công chứng viên lành nghề nhất. Ngay cả
Viện Khoa học kỹ thuật hình sự, với các mẫu so sánh và thiết bị hiện đại thì việc
phát hiện tài liệu giả cũng khó khăn và mất nhiều thời gian. Vậy mà theo quy
định của Luật công chứng, chỉ với thời hạn tối đa 2 ngày, còn trên thực tế thông
thường là chỉ vài phút, công chứng viên phải xác định được một hoặc nhiều tài
liệu là thật hay giả để thực hiện việc công chứng cho công dân - như vậy thì
không thể bảo đảm rằng công chứng viên phân biệt được các tài liệu thật hay giả
với độ chính xác tuyệt đối. Rất dễ nhận thấy rằng, trước vấn nạn giấy tờ giả thì
các công chứng viên đang phải làm nhiệm vụ trong tình trạng “tay không bắt
giặc”.
Luật công chứng quy định rõ trách nhiệm bảo đảm tính chính xác, hợp
pháp của hồ sơ, giấy tờ công chứng thuộc về người yêu cầu công chứng (Điều
47) và nhấn mạnh bằng một điều cấm, kèm theo các hình thức chế tài áp dụng
cho người yêu cầu công chứng liên quan đến việc cung cấp hồ sơ công chứng,
giấy tờ giả.
Thuật ngữ “người yêu cầu công chứng” hiện nay được hiểu bao gồm tất cả
các bên tham gia giao dịch dân sự mà công chứng viên sẽ công chứng. Nếu cho
rằng các chủ thể trong mối quan hệ cung cấp dịch vụ công chứng chỉ bao gồm
bên cung cấp dịch vụ là tổ chức hành nghề công chứng và bên yêu cầu dịch vụ là
người yêu cầu công chứng thì người yêu cầu công chứng có thể bao gồm cả bên
gây thiệt hại lẫn bên bị thiệt hại.
Do đó, một số ý kiến của công chứng viên tại Bắc Ninh cho rằng trách
nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức hành nghề công chứng phải được loại trừ
nếu công chứng viên tuân thủ đầy đủ quy trình công chứng mà vẫn không phát
hiện ra giấy tờ bị làm giả, bởi lỗi lúc này thuộc hoàn toàn về người yêu cầu công
chứng. Mặt khác, theo quy định tại Điều 38 Luật công chứng thì trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của tổ chức hành nghề công chứng chỉ được đặt ra khi có lỗi của
công chứng viên hoặc nhân viên của tổ chức hành nghề công chứng, nếu việc
làm giả giấy tờ là tinh vi, nằm ngoài khả năng nhận biết của công chứng viên thì

61
không thể cho rằng công chứng viên có lỗi.

62
Trên thực tế, tại tỉnh Bắc Ninh vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của công chứng viên đang được các công chứng viên tại đây hiểu và thực hiện
theo một cách khác, rất bất lợi cho công chứng viên và tổ chức hành nghề công
chứng. Một số bài viết, phóng sự trên báo chí, truyền hình của tỉnh đã đưa ra
quan điểm làm cho người xem hiểu rằng trong mọi trường hợp nếu công chứng
viên không phát hiện được giấy tờ, hồ sơ giả dẫn đến thiệt hại cho khách hàng
thì tổ chức hành nghề công chứng phải có trách nhiệm bồi thường.
Một số bản án đã được xét xử tại Bắc Ninh cũng thể hiện rằng công chứng
viên phải chịu một phần trách nhiệm khi bị giấy tờ giả là quyền sử dụng đất. Cơ
sở pháp lý của quan điểm này là Điều 584 Bộ luật Dân sự, trong đó quy định:
“Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi
của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định
khác”, nghĩa là chỉ cần có hành vi gây thiệt hại và có thiệt hại thì đã phát sinh
trách nhiệm bồi thường chứ chưa cần xét đến yếu tố lỗi (trách nhiệm chỉ được
loại trừ khi lỗi hoàn toàn thuộc về bên bị thiệt hại). Cùng với đó, tại Điều 364 Bộ
Luật Dân sự nêu rõ “Lỗi vô ý là trường hợp một người không thấy trước hành vi
của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt
hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng
cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được”. Quy định này
đang tạo ra cách hiểu rằng hành vi công chứng của công chứng viên thỏa mãn
các điều kiện cấu thành nên lỗi vô ý.
Cách hiểu này gây ra nỗi hoang mang và bất an cho các công chứng viên
tại tỉnh Bắc Ninh, bởi nếu hiểu và thực hiện theo như vậy thì cứ đặt bút ký chứng
nhận bất kỳ một giao dịch nào, đặc biệt là các giao dịch về quyền sử dụng đất là
thứ tài sản rất lớn cũng đồng nghĩa với việc công chứng viên cấu thành lỗi vô ý
và mặc nhiên phát sinh trách nhiệm bồi thường khi có thiệt hại xảy ra dù công
chứng viên có tuân thủ hay không tuân thủ quy định của Luật công chứng. Đây
là điều hết sức

63
vô lý, vì đòi hỏi về mức độ bảo đảm trách nhiệm của công chứng viên vượt quá
khả năng kiểm soát của họ cho dù họ tuân thủ đúng luật.
Trên thực tế có một số đối tượng lừa đảo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh đã
khai thác triệt để hai điểm yếu trên của hệ thống công chứng và có hàng loạt vụ
lừa đảo gây thiệt hại lớn trong thời gian vừa qua cho các tổ chức hành nghề công
chứng tại tỉnh. Sau khi làm giả giấy tờ một cách tinh vi, qua mặt được hàng loạt
công chứng viên, kẻ lừa đảo bỏ trốn, người bị thiệt hại sử dụng các biện pháp
gây sức ép đòi bồi thường đối với công chứng viên và tổ chức hành nghề công
chứng, trong đó có cả việc sử các băng nhóm xã hội đen gây rối.
Nghiêm trọng hơn, có trường hợp kẻ lừa đảo đóng giả cả bên mua lẫn bên
bán, sử dụng giấy tờ nhà đất giả giao dịch, qua mặt công chứng viên và cả Văn
phòng đăng ký đất đai tại tỉnh. Một số tổ chức hành nghề công chứng đã phải bồi
thường bởi họ lo ngại rằng khi bị khởi kiện thì vẫn phải bồi thường mà công
việc, uy tín và chi phí còn lớn hơn. Công chứng viên mặc dù biết là rủi ro, nhưng
họ vẫn phải làm công việc của mình mà không có cách khác để lựa chọn.
Công chứng viên gặp rủi ro với vấn nạn giấy tờ giả cũng đồng nghĩa với
việc an toàn pháp lý của giao dịch bị đe dọa, quyền lợi của người yêu cầu công
chứng và cả các cơ quan quản lý nhà nước có thể bị ảnh hưởng. Có nhiều cách
để giảm bớt rủi ro từ những giao dịch liên quan đến giấy tờ giả, và cần được cân
nhắc áp dụng càng sớm càng tốt.
Lỗi của công chứng viên khi công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất tại tỉnh Bắc Ninh
Khoản 1 điều 46 Luật công chứng 2014 có quy định hợp đồng giao
dịch được công chứng phải đóng dấu của văn phòng công chứng. Có trường hợp
công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được công chứng
nhưng không tuân thủ hình thức là sử dụng không đúng con dấu của văn phòng
công chứng nên hợp đồng vô hiệu theo quy định tại điều 129 Bộ luật dân sự
2015. Do đó, văn phòng đăng ký đất đai không tiếp nhận hồ sơ đăng ký biến
động đất đai. Hai

64
bên phải tiến hành ký lại hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tuân thủ
đúng hình thức. Tuy nhiên, bên bán lại không đồng ý và làm khó cho bên mua.
Hai bên không thể thương lượng và thỏa thuận để ký lại hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất. Như vậy, giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng
đất không thể thực hiện được là do lỗi của công chứng viên và tổ chức hành nghề
công chứng phải bồi thường thiệt hại cho theo quy định tại Điều 38 Luật công
chứng 2014
Như vậy, văn phòng công chứng phải có biện pháp khắc phục việc giao
dịch dân sự của không thực hiện. Việc xác định thiệt hại thực tế mà bên yêu cầu
công chứng phải gánh chịu là rất khó và bên yêu cầu thiệt hại phải chứng minh
thiệt hại cụ thể của mình. Nếu người yêu cầu công chứng đưa ra yêu cầu bồi
thường thiệt hại mà bên văn phòng công chứng cho rằng không phù hợp thì hai
bên phải nhờ Tòa án có thẩm quyền giải quyết để xác định mức bồi thường thiệt
hại hợp lý.
2.3.4Việc thực hiện bảo hiểm nghề nghiệp của công chứng viên từ thực
tiễn tỉnh Bắc Ninh
Không quy định một cách rải rác, chưa đầy đủ về bảo hiểm trách nhiệm
nghề nghiệp cho công chứng viên như Luật công chứng năm 2006, Luật công
chứng năm 2014 dành hẳn một điều quy định về vấn đề này, xuất phát từ quan
điểm đề cao sự cần thiết, vai trò của bảo hiểm cho trách nhiệm nghề nghiệp cho
công chứng viên đối với tính an toàn cho hoạt động của các công chứng viên và
các tổ chức hành nghề công chứng, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho
người yêu cầu công chứng và các tổ chức, cá nhân có liên quan. Theo đó, tổ chức
hành nghề công chứng có nghĩa vụ mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho
công chứng viên của tổ chức mình thông qua hợp đồng bảo hiểm giữa tổ chức
hành nghề công chứng với doanh nghiệp bảo hiểm. Thời điểm mua bảo hiểm
được xác định chậm nhất là chín mươi ngày, kể từ ngày Văn phòng công chứng
được cấp giấy đăng ký hoạt động hoặc kể từ ngày Phòng công chứng được thành
lập và bắt đầu hoạt động. Nguyên tắc duy trì bảo hiểm hoặc nguyên tắc thỏa

65
thuận giữa tổ chức hành nghề

66
công chứng và doanh nghiệp bảo hiểm về các vấn đề có liên quan đến bảo hiểm
cũng được Luật công chứng năm 2014 quy định về nguyên tắc.
Theo Nghị định số 29/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15/03/2015 quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng, tổ chức
hành nghề công chứng phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công
chứng viên chậm nhất trong vòng 60 ngày, kể từ ngày công chứng viên được
đăng ký hành nghề với mức phí theo thỏa thuận giữa doanh nghiệp bảo hiểm và
tổ chức hành nghề công chứng hoặc tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công
chứng viên (trường hợp được ủy quyền mua bảo hiểm), nhưng tối thiểu là 03
triệu đồng/năm đối với mỗi công chứng viên.
Theo đó, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ chi trả và bồi thường thiệt hại về vật
chất của người tham gia ký kết và cá nhân, tổ chức liên quan trực tiếp đến hợp
đồng, giao dịch đã được công chứng. Trong đó, thiệt hại phải do lỗi của công
chứng viên gây ra trong thời hạn bảo hiểm; trường hợp công chứng viên câu kết,
thông đồng làm sai lệch nội dung của văn bản, hồ sơ công chứng; tạo điều kiện
cho người tham gia hợp đồng, giao dịch thực hiện giao dịch giả tạo..., doanh
nghiệp bảo hiểm sẽ không phải chi trả và bồi thường thiệt hại.
Một nội dung đáng chú ý khác là quy định về đấu giá chuyển đổi phòng
công chứng. Cụ thể, người tham gia đấu giá nhận chuyển đổi phòng công chứng
phải là công chứng viên đang hành nghề trên địa bàn cấp tỉnh có phòng công
chứng dự kiến chuyển đổi; người dự kiến làm trưởng văn phòng công chứng phải
có kinh nghiệm từ 02 năm trở lên. Đặc biệt, công chứng viên đang là trưởng văn
phòng công chứng hoặc công chứng viên hợp danh của văn phòng công chứng sẽ
không được tham gia đấu giá quyền nhận chuyển đổi văn phòng công chứng.
Cũng theo Nghị định này, văn phòng công chứng thành lập tại các địa bàn
có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn sẽ được thuê trụ sở với
giá ưu đãi, được cho mượn trụ sở, hỗ trợ về trang thiết bị, phương tiện làm việc
trong 03 năm đầu hoạt động và được hưởng các ưu đãi về thuế theo quy định của
pháp luật.

67
2.3.5Thực tế xử lý vi phạm hoạt động công chứng của công chứng viên
trong các giao dịch về quyền sử dụng đất trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
Tại Bắc Ninh hiện tượng sửa lỗi kỹ thuật trong văn bản công chứng không
đúng quy định; thiếu chữ ký của công chứng viên hoặc người yêu cầu công
chứng vào từng trang của hợp đồng giao dịch về quyền sử dụng đất vẫn xảy ra.
Thậm chí, tình trạng treo biển hiệu không đúng quy định, công chứng ngoài trụ
sở… là bất cập tái diễn nhiều năm qua nhưng chưa có giải pháp ngăn chặn hiệu
quả. Từ năm 2015 đến nay, tại Bắc Ninh, cơ quan chức năng đã tạm đình chỉ
hoạt động đối với một văn phòng công chứng, xử phạt vi phạm hành chính đối
với 4 văn phòng công chứng và 5 công chứng viên với tổng số tiền 230 triệu
đồng... Trong khi đó, từ nguồn tin tố giác của người dân, Bắc Ninh phát hiện một
số cá nhân, tổ chức có hành vi hoạt động hành nghề công chứng trái phép, làm
giả và sử dụng con dấu của văn phòng công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Theo Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Bắc Ninh, với 19 tổ chức hành nghề công
chứng và 46 công chứng viên trên địa bàn, bên cạnh những thuận lợi trong việc
góp phần bảo đảm an toàn pháp lý cho cá nhân, tổ chức, đóng góp ngân sách nhà
nước thì cũng đặt ra nhiều thách thức trong công tác quản lý. Do đó, năm 2019,
tỉnh Bắc Ninh sẽ quan tâm xây dựng quy chế phối hợp giữa các cơ quan liên
quan để phân định trách nhiệm của các ngành, nâng cao hiệu lực quản lý nhà
nước trong lĩnh vực công chứng. Cùng với đó, thành phố đẩy mạnh quản lý khai
thác, cập nhật dữ liệu trong lĩnh vực công chứng.
2.4.Những tồn tại, hạn chế thuộc về trách nhiệm pháp lý của công
chứng viên trong các giao dịch về quyền sử dụng đất theo pháp luật Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
2.4.1.Tồn tại trong việc phát hiện giả mạo chủ thể và giấy tờ khi tham
gia giao dịch về quyền sử dụng đất
Hiện nay việc giả mạo chủ thể và giả mạo giấy tờ trong hoạt động công
chứng, không chỉ xảy ra ở các đô thị lớn mà theo phản ánh của các phương tiện
truyền thông thì hầu hết các Tỉnh khắp cả nước cũng đều gặp phải. Riêng tỉnh

68
Bắc

69
Ninh, có thể nói, không tổ chức hành nghề công chứng nào hoặc công chứng
viên nào mà không gặp phải việc giả mạo trong hoạt động công chứng. Đặc biệt
các giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất là một tài sản rất lớn nên việc giả
mạo rất tinh
vi. Giả mạo chủ thể tham gia giao dịch, Giả mạo chủ thể( chủ yếu là giả mạo bên
bán, còn bên mua cũng có, nhưng ít gặp hơn). Việc giả mạo, có thể giả mạo 01
người( vợ hoặc chồng bên bán), giả mạo hai người hoặc nhiều người. Giả mạo
giấy tờ trong hoạt động công chứng, trong lĩnh việc giả mạo, thì đây là trường
hợp xảy ra khá phổ biến, rất thường xuyên, chiếm khoảng 80% vụ giả mạo công
chứng tại Bắc Ninh. Giả mạo như: sửa chữa, tẩy xóa, thêm, bớt diện tích, thay
tên, đổi họ chủ sở hữu, sử dụng…nhằm làm sai lệch nội dung giấy tờ quyền sử
dụng đất; photocopy màu; scan màu giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và các
giấy tờ liên quan, những trường hợp này nếu công chứng viên không để ý thì sẽ
không phát hiện được. Ngoài ra, cũng có những trường hợp, tuy giả mạo đơn
giản, nhưng cũng rất khó phát hiện, như: dùng chủ quyền cũ đã hết giá trị( vì
nhà, đất đó đã được cấp chủ quyền mới, ví dụ báo mất chẳng hạn) để mua bán,
thế chấp; hoặc giấy tờ giả, nhưng “ lỗi” ở một số chi tiết như số chứng minh
nhân dân đen hoặc đỏ; Chủ quyền nhà đất kèm tờ khai lệ phí trước bạ hay thông
báo nộp lệ phí trước bạ; thẩm quyền người ký, cơ quan cấp, thời điểm cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Những trường hợp này công chứng viên bên
cạnh phải có chuyên môn thì phải có sự cập nhật, theo dõi hỗ trợ của công nghệ
thông tin, mới có thể phát hiện được.
Việc giả mạo trong hoạt động công chứng rất đáng lo ngại và đã gây nên
hậu quả nặng nề cho xã hội. Đã có những trường hợp một người dùng một hoặc
nhiều tài sản với giấy tờ giả, thủ đoạn khác nhau đã lừa được hàng chục lần,
chiếm đoạt tài sản của nhiều cá nhân, tổ chức và đã “qua mặt” được nhiều công
chứng viên của các tổ chức hành nghề công chứng khác nhau; Có rất nhiều
trường hợp công chứng viên là nạn nhân không phải chỉ riêng các Văn phòng
công chứng mà kể cả công chứng viên của các Phòng công chứng nhà nước.

70
Với thực trạng trên, có thể nói, giả mạo trong hoạt động công chứng lộng
hành đến mức báo động! Ngoài thiệt hại về vật chất, các hành vi giả mạo còn
gây ra hậu quả bất ổn cho xã hội, mất lòng tin, ảnh hưởng đến uy tín của hệ
thống công chứng và đã trở thành “ nỗi ám ánh” của đa phần các công chứng
viên. Việc “tiếp tay” của công chứng viên trong việc giả mạo, theo báo chí phản
ánh, là có, nhưng chiếm số ít, còn việc giả mạo tinh vi, công chứng viên không
thể biết được, vô tình tiếp tay cho việc giả mạo chắc chắn chiếm phần lớn trong
các vụ việc đã được phát hiện. Như vậy, việc làm như thế nào để hạn chế tình
trạng giả mạo, và làm như thế nào để bảo đảm an toàn pháp lý cho các công
chứng viên đang hành nghề là ước vọng lớn nhất của giới công chứng cho đến
nay. Tuy nhiên, việc xử phạt theo quy định của luật hình sự và hành chính hiện
hành không đủ mức phòng ngừa, răn đe, trừng phạt; cách thức xử lý có khi “ mới
hớt phần ngọn, chưa triệt tận gốc” nên tình trạng giả mạo trong hoạt động công
chứng dù mới “manh nha” chưa tới 10 năm trở lại đây, nhưng càng ngày càng
phát triển theo chiều hướng lây lan, bất lợi cho ngành công chứng nói riêng và
bất ổn cho xã hội nói chung. Bởi thực tế, vi phạm trong hoạt động công chứng,
thời gian gần đây, tuy xảy ra khá phổ biến, nhưng việc xử lý hình sự đối với
người yêu cầu công chứng vi phạm lại rất ít . Nguyên nhân, vì theo quan điểm
của cơ quan tiến hành tố tụng thì chỉ khi nào có đầy đủ căn cứ như bắt quả tang
đối tượng có dụng cụ, phương tiện in ấn, làm giả con dấu, giấy tờ của cơ quan
nhà nước hoặc phải có hậu quả thiệt hại thực tế xảy ra mới xử lý được tội “ Làm
giả giấy tờ, tài liệu của cơ quan, tổ chức”, “ Lừa đảo chiếm đoạt” theo quy định
của Bộ luật Hình sự. Khi người yêu cầu công chứng có hành vi giả mạo với mục
đích chiếm đoạt tài sản của người khác, đây là hành vi trái pháp luật, gây nguy
hiểm cho xã hội. Mặc dù hành vi vi phạm được phát hiện, ngăn chặn kịp thời
nhưng đây là hành vi gian dối, lợi dụng sự tin tưởng của người dân vào tính chất
pháp lý của hoạt động công chứng để chiếm đoạt tài sản và thông thường giá trị
mong muốn chiếm đoạt là lớn. Việc phát hiện, ngăn chặn kịp thời là nguyên
nhân khách quan làm cho việc chiếm đoạt tài sản của đối tượng có hành vi giả

71
mạo không thực hiện

72
được. Ở đây, nên hiểu cấu thành vật chất đối với tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản” theo quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự không phải là hành vi trái pháp
luật này phải gây ra hậu quả trên thực tế mà cần thống nhất hiểu là giá trị vật
chất cụ thể mà đối tượng hướng tới với mong muốn chiếm đoạt. Điều này không
phải là vấn đề khó chứng minh thông qua nội dung hợp đồng, giá trị tài sản mà
các bên đã thỏa thuận khi giao dịch.
2.4.2.Tồn tại trong việc xác định thành viên hộ gia đình trong các giao
dịch về quyền sử dụng đất
Việc xác định hộ gia đình vẫn còn nhiều khó khăn vướng mắc khiến các
công chứng viên vẫn còn lúng túng khi công chứng các giao dịch về quyền sử
dụng đất tại tỉnh Bắc Ninh: Khi thực hiện công chứng, chứng thực các hợp đồng,
giao dịch liên quan đến Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho “Hộ gia
đình” (có thể gọi chung là “Hộ gia đình sử dụng đất” thì một trong những vấn đề
còn tranh luận khá gay gắt hiện nay là xác định thành viên của “Hộ gia đình”
như thế nào. Có rất nhiều quan điểm đưa ra để xác định thành viên “Hộ gia đình
sử dụng đất”. Quan điểm thứ nhất cho rằng: khi công chứng, chứng thực liên
quan đến “Hộ gia đình sử dụng đất” thì chỉ cần yêu cầu người có tên trên Giấy
chứng nhận hoặc người được uỷ quyền ký tên. Quan điểm thứ hai cho rằng:
người thực hiện công chứng, chứng thực căn cứ trên sổ hộ khẩu của chủ hộ gia
đình đứng tên trong giấy chứng nhận để xác định những thành viên trong “Hộ gia
đình” còn lại và yêu cầu những thành viên từ đủ 15 tuổi cùng ký tên trong hợp
đồng, giao dịch. Quan điểm thứ ba cho rằng: để xác định thành viên “Hộ gia
đình sử dụng đất” thì bên cạnh việc căn cứ sổ hộ khẩu gia đình phải có văn bản
xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã để xác định những thành viên “Hộ gia
đình” tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận và yêu cầu những thành viên từ đủ 15
tuổi trở lên tại thời điểm ký công chứng, chứng thực cùng ký tên. Chính vì có rất
nhiều cách hiểu như vậy nên gây rất nhiều khó khăn, lúng túng cho công chứng
viên, cán bộ chứng thực dẫn đến việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản
về quyền sử dụng đất của “Hộ gia đình” không thống nhất, khó bảo

73
đảm tính chính xác, đúng pháp luật. Đây là một vấn đề vẫn còn nhiều tranh cãi
khi các công chứng viên của tỉnh Bắc Ninh thực hiện việc công chứng về quyền
sử dụng đất.
2.4.. Tồn tại về mặt thể chế, quản lý nhà nước đối với hoạt động công
chứng quyền sử dụng đất
Còn tồn tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật cùng quy định về vấn đề
công chứng, nhất là công chứng các giao dịch quyền sử dụng đất và quy định về
công chứng giữa luật công chứng và các luật có liên quan chưa bảo đảm tính
thống nhất, đồng bộ. Giữa luật Công Chứng và Bộ luật Dân Sự, Luật Đất đai và
các văn bản hướng dẫn thi hành còn quy định khác nhau về thẩm quyền chứng
nhận các giao dịch về đất đai. Một số quy định của luật công chứng còn chung
chung, chưa dự liệu được hết một số vấn đề hiện đang phát sinh trong thực tiễn
thi hành đã khiến hoạt động công chứng nói chung và công chứng các giao dịch
về quyền sử dụng đất nói riêng vận hành chưa thông suốt trong thời gian qua.
Bên cạnh những quy định chung còn bất cập như công chứng giao dịch về ủy
quyền, thừa kế, thế chấp, chuyển nhượng; Quy định về quản lý Nhà nước còn
một số điểm sơ hở, chưa làm rõ được cơ chế trách nhiệm của Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh trong quản lý hoạt động công chứng.
Việc thiết lập, quản lý và phối hợp khai thác, cung cấp thông tin về quyền
sử dụng đất còn chậm, thiếu liên thông, đồng bộ. Việc cung cấp thông tin về
quyền sử dụng đất đã được công chứng là nhu cầu thiết thực không chỉ của Công
chứng viên, các tổ chức hành nghề công chứng mà còn của các cá nhân, cơ quan,
tổ chức có liên quan. Nhưng trên thực tế, tại địa phương mới xây dựng cơ sở dữ
liệu về công chứng nhưng còn thiếu thông tin, đặc biệt là chưa thể liên thông
giữa các tổ chức hành nghề công chứng với nhau, giữa các tổ chức hành nghề
công chứng với cơ quan quản lý nhà nước về quyền sử dụng đất. Công tác xây
dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển các tổ chức hành nghề công chứng chưa
thật sự phù hợp dẫn đến mất cân đối giữa các địa bàn. Thực tiễn cho thấy sự phát
triển của các tổ chức hành nghề

74
công chứng, sự phân bố các tổ chức hành nghề công chứng còn chưa đồng đều.
Các văn phòng công chứng chủ yếu phát triển ở khu vực thành phố, thị xã và
những huyện phát triển, trong khi đó các địa bàn có điều kiện kinh tế kém phát
triển thì số lượng tổ chức hành nghề công chứng rất ít. Điều này chưa thật sự tạo
điều kiện thuận lợi cho người dân khi có nhu cầu công chứng các giao dịch nói
chung và giao dịch về quyền sử dụng đất nói riêng.
Trong quá trình thi hành các quy định pháp luật về công chứng giao dịch
quyền sử dụng đất thì một số tình trạng bất cập vẫn xảy ra như: Cạnh tranh
không lành mạnh giữa các văn phòng công chứng; Hiện tượng vi phạm các quy
định về trình tự, thủ tục, thời gian, địa điểm công chứng vẫn còn tồn tại nhiều;
Còn không ít các trường hợp văn bản công chứng không chính xác, bị cơ quan
chức năng trả lại, không chấp thuận hoặc gây ra tranh chấp trong giao dịch hợp
đồng quyền sử dụng đất; Quy định về lệ phí tại các văn phòng công chứng không
thống nhất khiến dư luận xã hội và một số cơ quan quản lý nhà nước cho rằng
làm tăng chi phí xã hội.
2.4.4.Tồn tại trong việc giải quyết trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn của
công chứng viên trong vụ việc liên quan đến tuyên bố văn bản công chứng vô
hiệu
Luât Công chứng năm 2014 (gọi tắt là Luật Công chứng), được Quốc hội
khóa 13 thông qua ngày 20/6/2014, là cơ sở pháp lý quy định về công chứng
viên, tổ chức hành nghề công chứng, việc hành nghề công chứng, thủ tục công
chứng và quản lý nhà nước về công chứng. Trong đó, vấn đề về bồi thường, bồi
hoàn trong hoạt động công chứng được quy định cụ thể tại Điều 38:
“1. Tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường thiệt hại cho người
yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác do lỗi mà công chứng viên, nhân
viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức mình gây ra trong quá
trình công chứng.
2. Công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên gây
thiệt hại phải hoàn trả lại một khoản tiền cho tổ chức hành nghề công chứng đã

75
chi trả khoản tiền bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật;
trường

76
hợp không hoàn trả thì tổ chức hành nghề công chứng có quyền yêu cầu Tòa án
giải quyết.”
Đồng thời, Điều 52 Luật Công chứng cũng quy định về người có quyền
đề nghị Tòa án tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu, gồm: Công chứng viên,
người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có quyền đề nghị Tòa
án tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu khi có căn cứ cho rằng việc công chứng
có vi phạm pháp luật.
Bên cạnh đó, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về các vụ việc
liên quan đến văn bản công chứng vô hiệu thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
án, gồm: Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu
(khoản 11 Điều 26) và yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu (khoản 6
Điều 27).
Như vậy, pháp luật đã quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
tổ chức hành nghề công chứng nếu do lỗi của công chứng viên, nhân viên hoặc
người phiên dịch gây ra trong quá trình công chứng. Do đó, nếu trong vụ việc
tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu mà có lỗi của tổ chức hành nghề công
chứng dẫn đến văn bản công chứng bị tuyên bố vô hiệu và gây ra thiệt hại cho
người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác thì tổ chức hành nghề công
chứng phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Tuy nhiên, trên thực tế tại tỉnh Bắc Ninh việc giải quyết trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của tổ chức hành nghề công chứng ngay trong vụ việc tuyên bố
văn bản công chứng vô hiệu hay cần phải tách ra bằng một vụ việc khác về yêu
cầu bồi thường thiệt hại, để vừa giải quyết triệt để yêu cầu của đương sự nhưng
cũng không gây khó khăn cho Tòa án trong việc giải quyết vụ án thì hiện nay
vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ
chức hành nghề công chứng phải được giải quyết ngay trong vụ việc tuyên bố
văn bản

77
công chứng vô hiệu. Bởi lẽ, theo quy định tại Điều 131 của Bộ luật Dân sự 2015
thì “Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập; khi giao
dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho
nhau những gì đã nhận; trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị
giá thành tiền để hoàn trả…Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Khi Tòa
án tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu thì phải giải quyết hậu quả của hợp
đồng vô hiệu. Như vậy, nếu chứng minh được lỗi dẫn đến văn bản công chứng
vô hiệu là do tổ chức hành nghề công chứng gây ra thì tổ chức hành nghề công
chứng phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu, người liên
quan bị thiệt hại. Nguyên tắc của bồi thường thiệt hại là ‘thiệt hại thực tế phải
được bồi thường toàn bộ và kịp thời”. Bên cạnh đó, để đảm bảo những yêu cầu
của đương sự và những vấn đề phát sinh trong vụ án được giải quyết triệt để,
toàn diện thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức hành nghề công chứng
phải được giải quyết ngay trong vụ việc tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu.
Quan điểm thứ hai lại cho rằng: Không thể giải quyết về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của tổ chức hành nghề công chứng ngay trong vụ việc tuyên bố
văn bản công chứng vô hiệu mà phải tách ra bằng một vụ án khác. Bởi lẽ, đa
phần tại thời điểm giải quyết vụ việc tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu thì
thiệt hại từ hậu quả của văn bản công chứng vô hiệu chưa xảy ra trên thực tế (mặc
dù chắc chắn rằng thiệt hại sẽ xảy ra) hoặc có xảy ra thì cũng chưa thể xác định
cụ thể về mức độ thiệt hại, hay nói cách khác là chưa có định lượng chính xác về
thiệt hại. Bên cạnh đó, khi văn bản công chứng bị tuyên bố vô hiệu, trong một số
trường hợp, lỗi không hoàn toàn thuộc về công chứng viên, nhân viên…của tổ
chức hành nghề công chứng mà có cả lỗi của người yêu cầu công chứng, người
liên quan. Vì thế, nếu giải quyết trách nhiêm bồi thường của tổ chức hành nghề
công chứng thì phải xác định phần lỗi của từng đương sự để xác định phần trách
nhiệm. Nhưng thiệt hại thực tế chưa xảy ra hoặc chưa thể xác định đầy đủ, cụ
thể, rõ ràng, chính xác về thiệt hại là

78
bao nhiêu, như thế nào nên Tòa án cũng không thể buộc từng đương sự phải chịu
phần bồi thường là bao nhiêu. Vì thế, để giải quyết việc bồi thường của tổ chức
hành nghề công chứng được chính xác thì cần phải chờ khi các bên thi hành bản
án của vụ việc tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu, thực hiện nghĩa vụ cho
nhau đối với hậu quả của hợp đồng vô hiệu thì lúc này mới xác định được cụ thể
thiệt hại thực tế xảy ra. Do đó, trong trường hợp này Tòa án cần phải giải thích
và hướng dẫn cho đương sự rút yêu cầu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
tổ chức hành nghề công chứng và khởi kiện bằng một vụ án khác khi thiệt hại
thực tế đã xảy ra và đã xác định được cụ thể về định lượng. Nếu đương sự vẫn
không rút yêu cầu thì Tòa án yêu cầu họ chứng minh về thiệt hại để có căn cứ
giải quyết, nếu họ không chứng minh được thì bác và tách yêu cầu này của họ để
họ khởi kiện thành một vụ án khác.
Bộ luật Tố tụng dân sự và pháp luật liên quan không có quy định nào quy
định về việc trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức hành nghề công chứng
phải được giải quyết ngay trong vụ việc tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu
hay tách ra bằng một vụ án dân sự khác.
Mặt khác, trách nhiệm bồi thường thiệt hại là trách nhiệm vật chất, do
vậy, phải có định lượng về thiệt hại cụ thể để yêu cầu và để có cơ sở buộc bồi
thường. Khoản 1 Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định “Đương sự có yêu
cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu thập, cung cấp,
giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn
cứ và hợp pháp, trừ các trường hợp…”. Nói cách khác, nghĩa vụ chứng minh
thuộc về đương sự. Đương sự yêu cầu giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của tổ chức hành nghề công chứng không thuộc trường hợp loại trừ (không có
nghĩa vụ chứng minh), nên họ phải có nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao nộp cho
Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho thiệt hại để Tòa án có căn cứ, cơ sở
buộc tổ chức hành nghề công chứng bồi thường.

79
Vì vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức hành nghề công
chứng phải được giải quyết ngay trong vụ việc tuyên bố văn bản công chứng vô
hiệu hay tách ra bằng một vụ án dân sự khác thì phải tùy vào từng trường hợp cụ
thể; phụ thuộc vào nội dung, tính chất, kết quả của từng vụ việc tuyên bố văn bản
công chứng vô hiệu; phụ thuộc vào tài liệu, chứng cứ chứng minh cho thiệt hại.
Nếu trong vụ việc tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu, người yêu cầu chứng
minh được đầy đủ, rõ ràng, chính xác, có định lượng cụ thể các thiệt hại thực tế
xảy ra từ hậu quả của việc văn bản công chứng vô hiệu do lỗi của tổ chức hành
nghề công chứng thì Tòa án giải quyết ngay trong vụ việc đó; còn nếu họ không
chứng minh được thì Tòa án tách yêu cầu này của họ thành một vụ án khác.
Ví dụ 1: Trong vụ việc tuyên bố văn bản công chứng liên quan đến hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu. Trong quá trình giải quyết vụ
án, Tòa án xác định được phần lỗi của các bên (bên chuyển nhượng và tổ chức
hành nghề công chứng) dẫn đến văn bản công chứng đối với hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất đất vô hiệu. Đồng thời, xác định được thiệt hại mà
bên nhận chuyển nhượng phải gánh chịu do giá trị quyền sử dụng đất tăng lên,
khoản tiền mà bên nhận chuyển nhượng đã đầu tư để cải tạo làm tăng giá trị
quyền sử dụng đất và các thiệt hại vật chất khác, thì ngay trong vụ án, cùng với
việc giải quyết yêu cầu tuyên bố văn bản công vô hiệu, Tòa án có thể giải quyết
yêu cầu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức hành nghề công chứng.
Ví dụ 2: Trong vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng mà có yêu cầu độc lập
của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu tuyên bố hợp đồng
thế chấp quyền sử dụng đất vô hiệu và yêu cầu của nguyên đơn về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại của tổ chức hành nghề công chứng do hợp đồng thế chấp
quyền sử dụng đất vô hiệu. Mặc dù Tòa án xác định được phần lỗi của các bên
(bên thế chấp và tổ chức hành nghề công chứng) dẫn đến hợp đồng thế chấp
quyền sử dụng đất vô hiệu. Đồng thời, Tòa án cũng dự đoán được thiệt hại mà
nguyên đơn (tổ chức tín dụng, bên nhận thế chấp) sẽ phải gánh chịu do hợp đồng
thế chấp quyền sử dụng

80
đất vô hiệu, đồng nghĩa với việc tài sản bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ không còn.
Nhưng tại thời điểm giải quyết vụ án, thiệt hại của nguyên đơn chưa xảy ra do
nghĩa vụ trả nợ của bị đơn cho nguyên đơn chưa được thực hiện nên chưa biết
kết quả của việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ của bị đơn cho nguyên đơn như thế
nào, do đó không thể xác định thiệt hại của nguyên là bao nhiêu. Vì vậy, Tòa án
cũng chưa có định lượng cụ thể về thiệt hại để giải quyết yêu cầu về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại của tổ chức hành nghề công chứng.
Trong trường hợp này, để có cơ sở giải quyết về bồi thường thiệt hại của
tổ chức hành nghề công chứng cho nguyên đơn thì cần phải căn cứ vào kết quả
của việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ của bị đơn cho nguyên đơn theo phán quyết
của bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng. Do đó, Tòa án phải tách yêu cầu
này của họ để họ khởi kiện thành một vụ án khác.
Thời gian qua, nhận thức của các công chứng viên trên địa bàn tỉnh Bắc
Ninh quan điểm về giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức hành
nghề công chứng trong vụ việc liên quan đến tuyên bố văn bản công chứng vô
hiệu chưa được thống nhất. Vì vậy, thiết nghĩ, Tòa án nhân dân Tối cao cần sớm
có hướng dẫn cụ thể để thống nhất về quan điểm và đường lối xử lý về vấn đề
này để Tòa án các cấp vừa giải quyết được toàn diện, triệt để yêu cầu của đương
sự nhưng cũng không tự gây khó khăn cho chính mình; để vừa thực hiện tốt
nhiệm vụ bảo vệ công lý, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân nhưng
vẫn bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử./.
2.4.5.Tồn tại trong đạo đức hành nghề công chứng của công chứng viên
Trong những năm gần đây, thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động
công chứng, hàng loạt các văn phòng công chứng, công chứng viên được thành
lập, đáp ứng tốt các nhu cầu công chứng của người dân, góp phần vào việc ổn
định và phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên, trong quá trình thực
hiện cũng còn những công chứng viên, vì những lý do khác nhau như là sự cạnh
tranh, vì thiếu hiểu biết về chuyên môn, nghiệp vụ, hay vì sồ tiền phí thu
được... nên đã công

81
chứng những hợp đồng, giao dịch vi phạm các quy định của pháp luật. Trong
quá trình thụ lý một hồ sơ công chứng , tôi đã tiếp nhận các hợp đồng đã được
công chứng như:
Ở một văn phòng công chứng tỉnh Bắc Ninh, có “Hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất” bên tặng cho điểm chỉ (không đọc được) vào hợp đồng.
nhưng tìm người là người làm chứng trong hợp đồng này lại không thấy, trong
khi khoản 2 Điều 47, Luật công chứng năm 2014 quy định là : “Trường hợp
người yêu cầu công chứng không đọc được, không nghe được, không ký, điểm
chỉ được hoặc trong những trường hợp khác do pháp luật quy định thì việc công
chứng phải có người làm chứng.”.
Đặc biệt cũng tại một số văn phòng công chứng tại tỉnh, công chứng viên
công chứng hợp đồng tặng cho tài sản là quyền sử dụng đất của người bị mất
năng lực hành vi dân sự, vi phạm khoản 1 điều 59 của Bộ Luật dân sự năm 2015:
“Người giám hộ không được đem tài sản của người được giám hộ tặng cho
người khác. Các giao dịch dân sự giữa người giám hộ với người được giám hộ có
liên quan đến tài sản của người được giám hộ đều vô hiệu, trừ trường hợp giao
dịch được thực hiện vì lợi ích của người được giám hộ và có sự đồng ý của
người giám sát việc giám hộ”.
Những văn bản này dù đã được công chứng, người yêu cầu công chứng
hợp đồng này vừa mất công, lại tốn của nhưng nhận về một sản phẩm không sử
dụng được. Câu hỏi đặt ra tại sao những quy định rất rõ như vậy mà công chứng
viên vẫn vi phạm? Theo tôi những trường hợp này nó thiên về đạo đức của công
chứng viên. Biết rằng sản phẩm mình làm ra là không phù hợp pháp luật, không
sử dụng được, hoặc sử dụng được nhưng nguy cơ gây thiệt hại gây tranh chấp,
rủi do cho những người tham gia giao dịch, nhưng họ vẫn cung cấp cho khách
hàng sản phẩm đó. Mục đích theo tôi, có lẽ là vừa thu được phí, thù lao công
chứng cho mình, lại vừa có thể tạo ra cho khách hàng cảm nhận văn phòng công
chứng của họ thuận lợi, làm được những việc mà các tổ chức hành nghề công
chứng khác không làm được, đẩy

82
sự khó khăn, khó dễ cho tổ chức hành nghề công chứng thực hiện đúng quy định,
khi từ chối tiếp nhận sản phẩm của họ, để thực hiện các giao dịch tiếp theo. Họ
đã góp phần tăng thêm nguy rủi ro cho các hợp đồng, giao dịch mà họ đã công
chứng.
Tiểu kết chương
Thực tiễn thực hiện cho thấy tranh chấp trong xã hội ngày càng tăng, vụ
việc càng phức tạp, trong đó có nguyên nhân là do không có chứng cứ xác thực.
Do vậy tạo sự ổn định trong quan hệ xã hội, giao dịch dân sự, kinh tế, thương
mại là điều đặc biệt quan trọng nhằm phát triển kinh tế xã hội. Cho nên tuyên
truyền phổ biến pháp luật là cần thiết, song tăng cường hơn nữa các biện pháp,
công cụ tổ chức thực hiện pháp luật cũng cần thiết không kém. Công chứng là
một hoạt động quan trọng, một thể chế không thể thiếu được của Nhà nước pháp
quyền. Thông qua hoạt động công chứng và các quy định hướng dẫn, điều chỉnh
pháp luật trở thành hiện thực sinh động của đời sống xã hội, thành hành vi xử sự
theo đúng pháp luật. Do đó xét trên bình diện công dân, thì văn bản công chứng
là một công cụ hữu hiệu bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của họ, phòng ngừa tranh
chấp, tạo ra sự ổn định trong quan hệ dân sự, tài sản. Mặt khác về phương diện
Nhà nước thì văn bản công chứng tạo ra một chứng cứ xác thực, kịp thời không
ai có thể phản bác, chối cãi, trừ trường hợp bị tòa án tuyên bố là vô hiệu. Bởi
vậy, văn bản công chứng là công cụ pháp lý quan trọng hoặc in, mang nội dung
là những gì cần được ghi để lưu lại làm bằng. của Nhà nước pháp quyền. Công
chứng phòng ngừa tranh chấp và vi phạm pháp luật, cung cấp tài liệu có giá trị
chứng cứ phục vụ cho việc giải quyết tranh chấp, góp phần tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa. Công chứng hợp đồng, giao dịch do cơ quan bổ trợ tư pháp cụ
thể là Phòng Công chứng và Văn phòng Công chứng thực hiện. Việc công chứng
giúp bảo đảm nội dung của một hợp đồng, một giao dịch, công chứng viên chịu
trách nhiệm về tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch đó. Công chứng viên phải
đảm bảo và chịu trách nhiệm đối với tính xác thực, tính hợp pháp của các loại
giấy tờ trong hồ sơ mà người yêu cầu công chứng cung cấp. Trong trường hợp

83
có căn cứ cho rằng hồ sơ yêu cầu công chứng có dấu hiệu bị đe

84
dọa, cưỡng ép hoặc cần được làm rõ thì công chứng viên đề nghị làm rõ hoặc
xác minh, yêu cầu giám định theo đề nghị của người yêu cầu công chứng; nếu
không làm rõ được thì từ chối công chứng. Các giao dịch về quyền sử dụng đất
thường là những hợp đồng có giá trị lớn, mang ý nghĩa thiết thực đối với các chủ
thể tham gia. Khi tham gia xác lập hợp đồng, các chủ thể đều mong muốn được
công chứng, chứng thực nhanh chóng, thuận tiện để hợp đồng có hiệu lực pháp
luật, đảm bảo về mặt pháp lý nếu có tranh chấp xảy ra.

85
Chương 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA
CÔNG CHỨNG VIÊN KHI THỰC HIỆN CÔNG CHỨNG
CÁC GIAO DỊCH VỀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
3.1Định hướng bảo đảm pháp luật về trách nhiệm pháp lý của công
chứng viên trong các tổ chức hành nghề công chứng theo pháp luật Việt
Nam
3.1.1Tăng cường công tác quản lý nhà nước về hoạt động công chứng
trên địa bàn
Sở Tư pháp rà soát lại tổ chức và hoạt động của tất cả các tổ chức hành
nghề công chứng trên địa bàn tỉnh, tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh ưu tiên cho
phép thành lập các văn phòng công chứng ở những địa bàn chưa có tổ chức hành
nghề công chứng. Chủ trì phối hợp với các cơ quan, đơn vị địa phương có liên
quan tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh sửa đổi, bổ sung Quy định tiêu chí và quy
trình xét duyệt hồ sơ đề nghị thành lập văn phòng công chứng trên địa bàn tỉnh
phù hợp với Luật số 28/2018/QH14 ngày 15/6/2018 của Quốc hội về sửa đổi, bổ
sung một số điều của 11 Luật có liên quan đến quy hoạch và tình hình kinh tế -
xã hội ở địa phương [47]. Hằng năm, phối hợp với Hội Công chứng viên tỉnh tổ
chức bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng và triển khai các văn bản pháp luật có liên
quan đến hành nghề công chứng nhằm nâng cao nghiệp vụ kỹ năng hành nghề,
quy tắc ứng xử, đạo đức hành nghề công chứng cho công chứng viên; Tăng
cường công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kịp thời xử lý
nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật của các công chứng viên, tổ chức hành
nghề công chứng trong hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh; tham mưu, đề
xuất Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo giải quyết khó khăn, vướng mắc trong hoạt
động công chứng;...
Sở Tài nguyên và Môi trường phối hợp với Sở Tư pháp và các Sở, Ban,

86
ngành có liên quan, UBND các huyện, thị xã, thành phố tổ chức tuyên truyền các

87
quy định của pháp luật có liên quan đến việc công chứng, văn bản thực hiện các
quyền của người sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai. Phối hợp
với Sở Tư pháp trong công tác tích hợp cơ sở dữ liệu về đất đai trên địa bàn tỉnh
với Phần mềm quản lý hồ sơ công chứng nhằm cung cấp dữ liệu đất đai theo yêu
cầu của tổ chức hành nghề công chứng, cá nhân theo đúng quy định pháp luật,
phục vụ cho việc công chứng hợp đồng, giao dịch liên quan đến bất động sản.
Sở Tài chính có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Sở Tư pháp đảm bảo
kinh phí thực hiện cho công tác quản lý nhà nước về công chứng theo quy định.
Sở Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp Sở Tư pháp thực hiện việc
tuyên truyền pháp luật về công chứng trên Cổng thông tin điện tử tỉnh, trang
thông tin điện tử của các Sở, Ban, ngành tỉnh, Ủy ban nhân dân các huyện, thị
xã, thành phố.
Cục Thuế tỉnh chủ trì phối hợp với Sở Tư pháp hướng dẫn, kiểm tra các tổ
chức hành nghề công chứng trong việc thực hiện chế độ thu, nộp và quản lý phí
công chứng, phí chứng thực; chế độ quản lý sử dụng biên lai, hóa đơn chứng từ,
sổ sách kế toán, báo cáo tài chính theo đúng quy định hiện hành.
Công an tỉnh phối hợp với Sở Tư pháp trong thực hiện công tác quản lý
nhà nước về phòng chống vi phạm pháp luật và tội phạm trong lĩnh vực công
chứng, tuyên truyền phổ biến pháp luật về công chứng, pháp luật liên quan cho
cán bộ và chiến sỹ trong lực lượng công an nhân dân ở địa phương. Phối hợp
cung cấp quyết định kê biên tài sản trong giai đoạn điều tra và quyết định hủy bỏ
quyết định trên; kịp thời thông tin bằng văn bản về các trường hợp ngăn chặn
giao dịch liên quan đến tài sản, giả mạo người, giả mạo giấy tờ để giao dịch liên
quan đến tài sản, lừa đảo tài sản đến Sở Tư pháp để cập nhật thông tin vào Phần
mềm quản lý hồ sơ công chứng.
Cục Thi hành án dân sự tỉnh, Chi cục Thi hành án dân sự huyện, thị xã,
thành phố phối hợp cập nhật các quyết định phong tỏa tài sản, quyết định tạm
dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản và
quyết định

88
thu hồi, chấm dứt, sửa đổi các loại quyết định trên lên Phần mềm quản lý hồ sơ
công chứng.
Tòa án nhân dân tỉnh, Tòa án nhân dân huyện, thị xã, thành phố phối hợp
cung cấp quyết định kê biên tài sản đang tranh chấp, phong tỏa tài sản của người
có nghĩa vụ, cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp và
các quyết định thay đổi, bổ sung, hủy bỏ các quyết định trên đến Sở Tư pháp để
cập nhật thông tin vào Phần mềm quản lý hồ sơ công chứng. Đồng thời, cung
cấp cho Sở Tư pháp các thông tin từ khi thụ lý đến khi kết thúc vụ án liên quan
đến các tổ chức hành nghề công chứng, công chứng viên trên địa bàn tỉnh.
Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh, Viện Kiểm sát nhân dân huyện, thị xã, thành
phố phối hợp cung cấp quyết định kê biên tài sản trong giai đoạn truy tố và quyết
định hủy bỏ quyết định trên đến Sở Tư pháp để cập nhật thông tin vào Phần mềm
quản lý hồ sơ công chứng.
Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố chỉ đạo các phòng, ban, đơn
vị chuyên môn, Ủy ban nhân dân cấp xã cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan
đến việc thực hiện công chứng theo đề nghị của các tổ chức hành nghề công
chứng, công chứng viên theo đúng quy định của Luật Công chứng và các văn
bản hướng dẫn thi hành.
Hội Công chứng viên tỉnh thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy
định của pháp luật về Hội và pháp luật về công chứng. Giám sát Hội viên trong
việc tuân thủ quy định của pháp luật về công chứng, Quy tắc đạo đức hành nghề
công chứng và Điều lệ của Hiệp hội Công chứng viên Việt Nam sau khi được
Đại hội đại biểu Công chứng viên toàn quốc lần thứ nhất thông qua.
Các tổ chức hành nghề công chứng và công chứng viên trên địa bàn tỉnh
thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của tổ chức hành nghề công chứng, công
chứng viên theo quy định tại Điều 17, Điều 32 và Điều 33 [40], Luật Công
chứng năm 2014 và các quy định pháp luật liên quan đến tổ chức, hành nghề
công chứng. Các tổ chức hành nghề công chứng thực hiện nghiêm nghĩa vụ cập
nhật kịp thời thông

89
tin về nguồn gốc tài sản, tình trạng giao dịch của tài sản và các thông tin khác về
biện pháp ngăn chặn được áp dụng đối với tài sản có liên quan đến hợp đồng,
giao dịch do công chứng viên của tổ chức mình thực hiện công chứng lên Phần
mềm quản lý hồ sơ công chứng. Trưởng các tổ chức hành nghề công chứng có
trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn đội ngũ công chứng viên, nhân viên của tổ chức
mình nâng cao tinh thần trách nhiệm, tuân thủ các quy định pháp luật, quy tắc
đạo đức hành nghề trong hoạt động công chứng; thường xuyên tăng cường công
tác kiểm tra, giám sát hoạt động nội bộ tổ chức hành nghề công chứng. Thực
hiện đầy đủ chế độ thông tin báo cáo, các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn về tổ chức
và hoạt động công chứng của Sở Tư pháp, các Sở, Ban, ngành có liên quan.
3.1.2Nâng cao chất lượng hoạt động công chứng và đội ngũ Công chứng
viên
Cơ quan quản lý nhà nước cần quan tâm hơn nữa việc bố trí nhân lực trực
tiếp thực hiện công tác tham mưu quản lý nhà nước đối với lĩnh vực bổ trợ tư
pháp. Xây dựng cơ sở dữ liệu về hợp đồng, giao dịch liên quan đến bất động sản
đã được công chứng, thực hiện các biện pháp liên thông giữa tổ chức hành nghề
công chứng với các Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất trên địa bàn tỉnh; ban
hành quy chế khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu về các hợp đồng, giao dịch liên
quan đến bất động sản đã được công chứng. Nâng cao chất lượng công tác quản
lý, thực hiện quy hoạch các tổ chức hành nghề công chứng, đảm bảo mật độ,
khoảng cách các tổ chức hành nghề công chứng phù hợp, thuận tiện cho cho
người dân khi có nhu cầu công chứng. Quan tâm hơn nữa công tác tập huấn, bồi
dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ cho công chứng viên, nhất là đối với công chứng
viên được miễn đào tạo nghề công chứng. Đồng thời, làm tốt hoạt động thanh tra,
kiểm tra, kịp thời phát hiện, uốn nắn, chấn chỉnh, xử lý vi phạm đối với các tổ
chức hành nghề công chứng. Các tổ chức hành nghề công chứng phải đảm bảo
cơ sở vật chất, bố trí hợp lý trụ sở văn phòng đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của
hoạt động công chứng. Chủ động triển khai Luật Công chứng năm 2014; các
Văn phòng Công chứng tổ chức, hoạt động theo

90
mô hình doanh nghiệp tư nhân sớm có kế hoạch chuyển đổi sang tổ chức, hoạt
động theo mô hình công ty hợp danh để đảm bảo phù hợp với Luật mới. Tăng
cường tổ chức cho công chứng viên nghiên cứu, học tập, trao đổi kinh nghiệm
nhằm nâng cao kiến thức, nghiệp vụ, kỹ năng hành nghề công chứng. Đồng thời
rà soát việc thực hiện trình tự, thủ tục công chứng; hồ sơ lưu trữ; sổ công chứng
hợp đồng, giao dịch; bảng biểu niêm yết về mức thu phí, thù lao công chứng để
phát hiện, khắc phục những hạn chế, bất cập trong hoạt động của tổ chức hành
nghề, nâng cao tính chuyên nghiệp, sức cạnh tranh của tổ chức hành nghề. Làm
tốt quan hệ phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan trên địa bàn tỉnh, đặc
biệt là Ủy ban nhân dân các xã, phường, thị trấn, cơ quan đăng ký quyền sử dụng
đất, các ngân hàng thương mại.
Mỗi công chứng viên cần không ngừng nỗ lực, nâng cao trình độ chuyên
môn, kỹ năng hành nghề đảm bảo tính chuyên nghiệp trong hoạt động công
chứng. Bên cạnh đó cần cập nhật thông tin để để nắm vững các quy định của
Luật công chứng, các văn bản quy phạm pháp luật liên quan; đảm bảo thực hiện
nghiêm quy định pháp luật về trình tự, thủ tục, thời hạn, thẩm quyền công chứng.
3.1.3Hoàn thiện một số quy định của pháp luật để tháo gỡ những vướng
mắc trong việc thực hiện pháp luật của Công chứng viên
Thông tư số 23/2014/TT-BTNMT nên cụ thể hóa thông tin của các thành
viên của hộ gia đình sử dụng đất trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bằng
cách liệt kê họ tên những người này trong mục thông tin về “người sử dụng đất”
hoặc ít nhất cũng liệt kê tại mục “ghi chú” của giấy chứng nhận. Điều này không
chỉ tháo gỡ được vướng mắc đã nêu mà phù hợp với tinh thần của Bộ luật Dân
sự năm 2015. Theo Bộ luật Dân sự năm 2015 [44], hộ gia đình không còn tư
cách là chủ thể của quan hệ dân sự nói chung và giao dịch dân sự nói riêng, cũng
như không có người đại diện theo pháp luật. Cho nên, người trực tiếp giao kết
giao dịch về quyền sử dụng đất của hộ không phải là chủ hộ với sự đồng ý của
các thành viên còn lại, mà tất cả thành viên của hộ cùng là một bên trong giao
dịch

91
hoặc một thành viên ký giao dịch với tư cách là cá nhân đại diện theo ủy quyền
của các cá nhân khác.
Bên cạnh đó, Thông tư số 23/2014/TT-BTNMT cũng cần quy định theo
hướng, trong trường hợp quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng, mà
vợ hoặc chồng đã ủy quyền cho người còn lại đứng tên đăng ký hoặc thuộc
trường hợp không có quyền sử dụng đất ở Việt Nam thì mục về “người sử dụng
đất” vẫn ghi thông tin của một bên chồng hoặc vợ là người được ủy quyền hoặc
đủ điều kiện sử dụng đất, nhưng phần “ghi chú” phải ghi thông tin để phân định
với các trường hợp cá nhân sử dụng đất. Theo đó, mục này có thể ghi là: “Quyền
sử dụng đất chung với chồng (vợ) là ông (bà):… (ghi họ tên của bên chồng, vợ
còn lại).
Trường hợp quyền sử dụng đất được tạo lập theo nguồn gốc mà pháp luật
bắt buộc phải hội đủ điều kiện nhất định mới được giao dịch thì phần thông tin
về “nguồn gốc đất” cần ghi rõ, cụ thể là được giao theo nguồn gốc đó. Chẳng
hạn như trường hợp nói ở trên, mục này cần ghi cụ thể: “Nguồn gốc đất: Đất
được Nhà nước giao đất theo chính sách ưu đãi đối với hộ gia đình, cá nhân là
đồng bào dân tộc thiểu số” hoặc đoạn này cũng phải được ghi rõ trong mục “ghi
chú” của giấy chứng nhận.
Đối với Thông tư số 02/2015/TT-BTNMT, hạn chế đó là đã đặt ra yêu cầu
cao hơn so với Bộ luật Dân sự, theo đó, thành viên của hộ gia đình sử dụng đất
chỉ được ký giao dịch khi có tất cả thành viên đồng ý. Vì vậy, nội dung này cần
sửa đổi cho phù hợp với Bộ luật Dân sự năm 2015.
3.2.Giải pháp hoàn thiện trách nhiệm pháp lý của công chứng viên
trong các giao dịch quyền sử dụng đất theo pháp luật Việt Nam
3.2.1. Giải pháp ngăn chặn việc giả mạo chủ thể và giấy tờ khi tham gia
giao dịch về quyền sử dụng đất
- Phải kiểm tra thật kỹ giấy tờ được xuất trình
Bình thường những dòng chữ in sẵn trên mẫu giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất của cơ quan nhà nước phát hành không sai lỗi chính tả và được in đậm

92
nét.

93
Do đó, nếu giấy chứng nhận có lỗi chính tả thì cần đặc biệt nghi ngờ. Bên cạnh
đó, cần xem kỹ số giấy để nhận ra điều bất thường, nếu giấy mới cấp đầu năm
mà số cả ngàn hoặc mười mấy ngàn thì sẽ là giấy giả.
Việc xem độ cũ, mới của các lọai giấy tờ cũng không nên bỏ qua, nếu giấy
được cấp đã khá lâu mà các nét mực còn mới tinh thì cũng cần phải xem lại.
Chất liệu giấy quá dày, nặng hơn bình thường, các chi tiết in trên giấy hơi xấu,
có khi sai lỗi chính tả, có dấu hiệu cố tình bôi bẩncho khó nhận biết, các dấu mộc
chìm, nổi đều có điểm sai.
Việc tẩy xóa trên giấy tờ (bằng hóa chất hoặc bằng cơ học): Nếu bằng cơ
học thì thường “lộ” nhược điểm tại nơi tẩy xóa mất độ bóng láng cần thiết, do có
nhiều vết trầy xước; giấy ở chỗ tẩy xóa sẽ mỏng hơn bình thường; nền in ở vị trí
tẩy, bao gồm cả dòng kẻ, bị phá hủy; chữ viết chỗ tẩy xóa có khi bị nhòe, độ
đậm, nhạt của chữ cũng khác. Nếu là tẩy bằng cơ học thì độ trơn bóng của giấy
không tự nhiên, có khi nhợt nhạt, thay đổi màu sắc tại chỗ tẩy xóa; các nét chữ
xung quanh vùng tẩy có thể bị mất hoặc thay đổi màu; các nét viết, in sau khi tẩy
xóa thường to, đậm, nhòe; trong một số trường hợp, giấy bị co lại, mặt giấy có
nhiều nếp nhăn; giấy bị xốp và giòn hơn.
- Phải tăng cường tìm hiểu, hỏi các bên tham gia giao dịch.
Thực tế đã chỉ ra rằng, nếu công chứng viên luôn tìm hiểu, hỏi các bên
tham gia giao dịch thì cũng góp phần đáng kể để phát hiện trong một số trường
hợp giả mạo. Khi công chứng viên tiếp nhận hồ sơ giao dịch có thể hỏi người vợ
về năm sinh của chồng, các con của hai vợ chồng , diện tích nhà đất chuyển
nhượng, giá cả chuyển nhượng. Khi tiếp nhận hồ sơ, công chứng viên hỏi một số
chi tiết, nhận thấy đương sự bồn chồn, lo lắng, không trả lời được của khách
hàng thì phải đặt ra nghi vấn.
Ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ trình độ cao cho các tổ chức
hành nghề công chứng, như sử dụng phần mềm U Chi, các máy quét dấu vân tay,
máy soi, kính lúp, hệ thống camera giám sát toàn bộ hoạt động công chứng như

94
một số nơi đã áp dụng và cũng đã mang đến một số hiệu quả nhất định trong việc
phòng ngừa.
3.2.2.Giải pháp về xác định thành viên hộ gia đình trong các giao dịch
về quyền sử dụng đất
Nghiên cứu các quy định pháp luật trong Bộ luật Dân sự 2015; hệ thống
văn bản pháp luật hiện hành về đất đai theo Luật Đất đai 2013 [39]; hệ thống văn
bản pháp luật về công chứng, chứng thực. Để xác định thành viên “Hộ gia đình”
khi công chứng, chứng thực các hợp đồng, giao dịch liên quan đến Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cấp cho “Hộ gia đình” bởi các lý do sau đây:
Thứ nhất, chúng ta phải hiểu như thế nào là Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cấp cho “Hộ gia đình” (hay còn gọi là “Hộ gia đình sử dụng đất”). Tại
Điều 212 của Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Tài sản của các thành viên gia
đình cùng sống chung gồm tài sản do các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập
nên và những tài sản khác được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật
này và luật khác có liên quan.”. Cụ thể hoá các quy định của Bộ luật Dân sự,
Luật Đất đai 2013 đã quy định rõ như thế nào là “Hộ gia đình sử dụng đất” tại
khoản 29 Điều 3, đó là: “Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn
nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia
đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà
nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử
dụng đất”.Với quy định trên thì có thể hiểu “Hộ gia đình sử dụng đất” có 02 dấu
hiệu nhận biết là: Dấu hiệu 1: Thành viên gồm những người có quan hệ hôn
nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia
đình; Dấu hiệu 2: Đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm
được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận
chuyển quyền sử dụng đất (tức là thời điểm được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất).
Thứ hai, cần xem xét về cách thức thể hiện thông tin, xác định người sử
dụng đất trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho “Hộ gia đình”.

95
Theo quy

96
định của pháp luật về đất đai hiện hành, tại điểm c, khoản 1 Điều 5 của Thông tư
số 23/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2015 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy
định về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất có quy định [8]: “Hộ gia đình sử dụng đất thì ghi "Hộ ông" (hoặc
"Hộ bà"), sau đó ghi họ tên, năm sinh, tên và số của giấy tờ nhân thân của chủ hộ
gia đình như quy định tại điểm a khoản này; địa chỉ thường trú của hộ gia đình.
Trường hợp chủ hộ gia đình không có quyền sử dụng đất chung của hộ gia đình
thì ghi người đại diện là thành viên khác của hộ gia đình có chung quyền sử dụng
đất của hộ gia đình. Trường hợp chủ hộ gia đình hay người đại diện khác của hộ
gia đình có vợ hoặc chồng cùng có quyền sử dụng đất chung của hộ gia đình thì
ghi cả họ tên, năm sinh của người vợ hoặc chồng đó”. Như vậy, với các quy định
nêu trên thì trong hệ thống pháp luật về đất đai trước kia và hịên hành đều không
có quy định phải ghi rõ tên của mọi thành viên hộ gia đình trong Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cấp cho “Hộ gia đình”. Vì vậy, Công chứng viên hoặc
cán bộ chứng thực không thể căn cứ vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để
xác định thành viên của hộ gia đình khi chứng thực hợp đồng, giao dịch liên
quan quyền sử dụng đất của hộ gia đình. Quy định tại khoản 1, Điều 64 của Nghị
định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014: “Hợp đồng, văn bản giao dịch về
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của hộ gia đình phải
được người có tên trên Giấy chứng nhận hoặc người được ủy quyền theo quy
định của pháp luật về dân sự ký tên”. Quan điểm của tôi cho rằng, nếu chỉ vận
dụng những quy định trên là chưa đầy đủ; chưa bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của các thành viên “Hộ gia đình” khác với tư cách của đồng sở hữu trong
khối tài sản chung của “Hộ gia đình”. Cũng có thể nói những quy định trên là sự
bất cập của hệ thống pháp luật. Khi tham gia hợp đồng, giao dịch không có cơ sở
gì để khẳng định rằng người đại diện của hộ gia đình thực hiện vì lợi ích chung
của hộ; chưa thể khẳng định đó là sự đồng thuận của các thành viên còn lại. Tại
khoản 2, Điều 64 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 có quy định:
“Hợp đồng, văn bản giao dịch về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản

97
gắn liền với đất của nhóm người sử dụng đất, nhóm chủ sở hữu tài sản gắn liền
với đất phải được tất cả các thành viên trong nhóm ký tên hoặc có văn bản ủy
quyền theo quy định của pháp luật về dân sự, trừ trường hợp các chủ sở hữu căn
hộ cùng sử dụng chung thửa đất trong nhà chung cư” [18]. Về bản chất thì thành
viên hộ gia đình trong “Hộ gia đình sử dụng đất” cũng là một dạng của “nhóm
người sử dụng đất” nên khi thực hiện các hợp đồng, giao dịch liên quan đến
nhóm, đến “Hộ gia đình” thì tất cả các thành viên phải tham gia và ký kết hợp
đồng. Từ những phân tích trên, có thể thấy khi thực hiện công chứng, chứng thực
liên quan đến quyền sử dụng đất của “Hộ gia đình” không thể chỉ chủ hộ hoặc
đại diện “Hộ gia đình” tham gia mà phải được tất cả thành viên từ đủ mười lăm
tuổi trở lên đồng ý, ký kết hợp đồng, giao dịch.
Thứ ba, cơ sở và căn cứ nào để xác định thành viên hộ gia đình trong “Hộ
gia đình sử dụng đất”. Việc xác định thành viên hộ gia đình dựa trên căn cứ là
“Sổ hộ khẩu” của gia đình. Với khái niệm đã được quy định tại tại khoản 29
Điều 3 của Luật Đất đai 2013 với 02 dấu hiệu đặc trưng đã nêu trên thì có thể
khẳng định thành viên hộ gia đình trong “Hộ gia đình sử dụng đất” là những
thành viên có tên trong sổ hộ khẩu gia đình tại thời điểm cấp giấy chứng nhận
quyền đất mang tên “Hộ gia đình” sẽ là những người có quyền sở hữu/sử dụng
chung tài sản đó [39]. Như vậy, đến thời điểm thực hiện các hợp đồng, giao dịch
phải công chứng, chứng thực thì rất nhiều trường hợp sổ hộ khẩu gia đình đã
được cấp đổi, có thể có những biến động, phát sinh thêm thành viên gia đình;
thành viên hộ gia đình đã tách khẩu, chuyển khẩu, tách hộ… Vì vậy, cơ quan có
thẩm quyền không thể căn cứ vào sổ hộ khẩu hiện tại để xác định các thành viên
là chủ sử dụng với quyền sử dụng đất đã cấp cho “Hộ gia đình”. Trong trường
hợp này, công chứng viên, người thực hiện chứng thực, các cơ quan khác có liên
quan sẽ yêu cầu “Hộ gia đình” phải có giấy/đơn xin xác nhận của cơ quan công
an hoặc UBND cấp xã về các thành viên của hộ gia đình mình tại thời điểm được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đây chính là cơ sở quan trọng để công
chứng viên, người chứng thực xác định

98
thành viên “Hộ gia đình sử dụng đất” khi thực hiện công chứng, chứng thực của
hộ gia đình.
3.2.3.Tăng cường công tác quản lý nhà nước về hoạt động công chứng
trên địa bàn
Tất cả các giao dịch quyền sử dụng đất phải được công chứng để đảm bảo
an toàn pháp lý cho các hợp đồng giao dịch, đồng thời là biện pháp tăng cường
sự quản lý, bảo hộ của Nhà nước để giảm thiểu rủi ro cho các bên tham gia giao
dịch. Việc công chứng hợp đồng, văn bản thực hiện các quyền của người sử
dụng đất là bắt buộc trừ trường hợp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất,
tài sản gắn liền với đất mà một bên hoặc các bên tham gia giao dịch là tổ chức
hoạt động kinh doanh bất động sản được công chứng hoặc chứng thực theo nhu
cầu của các bên.
3.2.4.Giảm thiểu rủi ro Công chứng viên phải bồi thường, bồi hoàn
Thứ nhất, cần trao cho công chứng viên những công cụ làm việc, đó là
quyền tiếp cận thông tin ở mức độ hợp lý đối với các cơ sở dữ liệu của các cơ
quan quản lý nhà nước như cơ sở dữ liệu về đăng ký đất đai, nhà ở, cơ sở dữ liệu
công dân, cơ sở dữ liệu về hộ tịch, cơ sở dữ liệu về đăng ký phương tiện cơ giới.
Làm được điều này sẽ chấm dứt được gần như hoàn toàn vấn nạn làm giả giấy
chứng nhận quyền sở hữu tài sản và giấy tờ về nhân thân, những loại giấy tờ phổ
biến nhất và hay bị làm giả nhất.
Thứ hai, cần quy định rõ hơn trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ
chức hành nghề công chứng cũng như trách nhiệm của các bên tham gia giao
dịch công chứng cho phù hợp với thực tế, tạo ra sự cân bằng giữa quyền lợi,
nghĩa vụ và trách nhiệm của công chứng viên. Công chứng viên không thể chịu
trách nhiệm cho những nhiệm vụ bất khả thi.
Thứ ba, cần xác định rõ rằng, hoạt động công chứng giúp cho giao dịch
dân sự được xem xét và kiểm duyệt tính chính xác, hợp pháp bởi những người có
chuyên môn và kinh nghiệm, giúp cho nó an toàn hơn, nhưng không có nghĩa là
an toàn đến mức tuyệt đối. Để bảo đảm an toàn, người yêu cầu công chứng cũng

99
cần

10
0
phải có trách nhiệm nhất định với giao dịch của mình chứ không nên phó mặc
toàn bộ cho tổ chức hành nghề công chứng.
3.2.5.Hoàn thiện việc thực hiện bảo hiểm nghề nghiệp của công chứng viên
Hoạt động công chứng rất nhiều rủi ro, vì đối tượng tài sản có giá trị rất
lớn, trong khi đó giấy tờ tài sản, giấy tờ nhân thân có hiện tượng làm giả rất
nhiều, làm giả rất tinh vi. Công chứng viên cũng chỉ có thể phát hiện độ thật giả
một cách tương đối, chứ không thể xác định thật - giả đến 100%. Để xác định
được, phải có kỹ thuật chuyên môn của công an, với phương tiện kỹ thuật hiện
đại. Mặt khác, Luật Công chứng cũng quy định người yêu cầu công chứng phải
chịu trách nhiệm đối với giấy tờ công chứng xuất trình cho công chứng viên. Bởi
chỉ người đó mới có thể biết giấy tờ của mình là thật hay giả. Một rủi ro nữa của
công chứng viên là việc tráo người giao dịch, thay vợ đổi chồng… rất tinh vi.
Công chứng viên không thể có khả năng biết hết được tất cả. Do vậy, vấn đề bảo
hiểm theo tôi là rất cần thiết. Khi nghiên cứu, học tập, trao đổi kinh nghiệm giữa
các quốc gia có nền công chứng phát triển trên thế giới như Pháp, Tây Ban Nha,
Đức,.. Tôi thấy rằng vấn đề bảo hiểm là đương nhiên và bắt buộc, có giá trị rất
lớn. Dó đó, xin khẳng định một lần nữa, việc bắt buộc mua bảo hiểm là quy định
rất phù hợp với xu thế thế giới đặc biệt khi Việt Nam là thành viên của Liên
minh Công chứng thế giới.
Nếu mua chung, nguyên tắc bảo hiểm là sẽ rẻ so với mua riêng, hay một
văn phòng đứng ra mua. Việc mua chung cũng thể hiện sự tương hỗ cao cho
công chứng viên. Bởi đặc thù của nghề này là phải gắn kết và chia sẻ với nhau.
Trong trường hợp công chứng viên có lỗi và phải bồi thường, mà hợp đồng mà
cá nhân của công chứng viên đó không đủ để thanh toán, thì quỹ chung của Hội
sẽ đứng ra bù đắp. Nó thể hiện sự tương hỗ gắn kết rất cao, nâng cao ý thức
trách nhiệm của công chứng viên.
Việc mua chung bảo hiểm cũng thể hiện được sự cam kết rất mạnh của
nghề công chứng đối với xã hội. Điều đó chứng tỏ cho mọi người thấy rằng nếu

10
1
sự kiện phải bảo hiểm do lỗi của công chứng viên, chắc chắn sẽ được bồi thường
đầy đủ.
3.2.6.Nâng cao đạo đức hành nghề công chứng của các công chứng viên
Đối với việc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, với tư cách là
người được nhà nước giao phó, cho phép sử dụng quyền lực nhà nước để đứng ra
làm chứng trong các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại… công chứng viên
phải khẳng định các hợp đồng, giao dịch đã được công chứng không chỉ dựa trên
những tài liệu xác thực, tuân thủ chặt chẽ quy định của pháp luật mà còn nhất
thiết không được làm ảnh hưởng xấu tới lợi ích công cộng, quyền lợi của Nhà
nước. Điều này có nghĩa công chứng viên sẽ vi phạm đạo đức hành nghề công
chứng nếu như tư vấn để cho người yêu cầu công chứng trốn tránh nghĩa vụ đối
với Nhà nước hay làm ảnh hưởng không tốt tới khả năng quản lý của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền. Nói theo một cách khác, khi có sự mâu thuẫn giữa lợi
ích của người yêu cầu công chứng với lợi ích của Nhà nước, của cộng đồng thì
công chứng viên có nghĩa vụ ưu tiên bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của cộng
đồng.
Tóm lại, để Quy tắc Đạo đức nghề hành nghề công chứng được thi hành
nghiêm túc và tôn trọng trong hành nghề công chứng đòi hỏi mỗi công chứng
viên phải không ngừng phấn đấu, trau dồi phẩm chất, chú trọng nâng cao trình
độ, thường xuyên học tập, nghiên cứu kiến thức về các lĩnh vực liên quan đến
hoạt động nghiệp vụ chuyên môn; tích cực tham gia các hoạt động, trao đổi kiến
thức, kinh nghiệm với đồng nghiệp trong hoạt động công chứng; Tôn trọng, bảo
vệ danh dự, uy tín cho đồng nghiệp, có thái độ thân thiện, giúp đỡ nhau hoàn
thành nhiệm vụ; Giữ gìn mối quan hệ hợp tác, bình đẳng giữa công chứng viên
với nhân viên nghiệp vụ, với những người giữ vị trí lãnh đạo và đồng nghiệp
trong hoạt động công chứng. Hiện nay, cùng với xu thế phát triển của đất nước
nhiều công chứng viên có kinh nghiệm và tâm huyết với nghề, hết lòng phục vụ
nhân dân, được đồng nghiệp và nhân dân tin tưởng - Đó là vốn quý, là chỗ dựa
cho các thế hệ đi sau, là những công chứng viên gạo cội không chỉ am hiểu các

10
2
quy định của pháp luật để

10
3
vận dụng xử lý tốt các tình huống phức tạp mà họ còn tận tâm với nghề nghiệp,
say mê nghiên cứu và sẵn sàng chia sẻ với đồng nghiệp, tham mưu có hiệu quả
giúp cơ quan quản lý đưa ra các chủ trương chính sách phù hợp góp phần thúc
đẩy sự phát triển của nghề công chứng
Tiểu kết Chương
Hoạt động của công chứng viên trong hành nghề mang tính quyền lực Nhà
nước. Công chứng viên thay mặt Nhà nước chứng nhận tính xác thực và tính hợp
pháp của các hợp đồng, giao dịch bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật
phải công chứng, hoặc tổ chức, cá nhân tự nguyên yêu cầu công chứng. Chính vì
lẽ đó, công chứng viên đòi hỏi sự độc lập, phải tự quản lý, tự chịu trách nhiệm
với các hợp đồng, giao dịch do mình chứng nhận và điều đáng quan tâm là các
hợp đồng, giao dịch này phát sinh hiệu quả rất nhanh ngay sau khi hoàn tất thủ
tục công chứng. Từ công việc của mình, công chứng viên mang lại niềm tin cho
các bên giao dịch. Thông qua hoạt động nghề công chứng, công chứng viên góp
phần bảo vệ pháp luật, xây dựng pháp chế XHCN, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức yêu cầu công chứng. Điều đáng nói, cùng với sự phát
triển của đời sống xã hội với những giao dịch dân sự đa chiều, nghề công chứng
ngày càng hoạt động chuyên nghiệp hơn, nền nếp và quy củ hơn. Đặc biệt, càng
ngày sẽ có sự tách biệt rõ ràng giữa hoạt động công chứng hợp đồng, giao dịch
với hoạt động chứng thực của cơ quan hành chính. Việc xã hội hoá hoạt động
công chứng ngày càng phát triển từ khi Luật Công chứng có hiệu lực. Do vậy,
hoạt động công chứng cần phải có cơ chế để điều chỉnh thống nhất về chuẩn mực
hành nghề, chính vì thế đạo đức quy tắc hành nghề cần phải được đặt chung
trong tổng thể của việc hoàn thiện pháp luật về công chứng. Việc xây dựng đội
ngũ công chứng viên mạnh, có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ năng lực
chuyên môn, tận tâm phục vụ nhân dân là vô cùng quan trọng để góp phần tăng
cường pháp chế XHCN, hạn chế phát sinh tranh chấp trong giao dịch dân sự. Có
thể nói mọi hành vi tác nghiệp của công chứng viên đều liên quan đến các quy
định của Luật Công chứng. Do vậy, vị trí vai trò của công chứng viên rất

10
4
quan trọng, nếu không thận trọng, cẩu thả, yếu kém về chuyên môn, nghiệp vụ sẽ
dễ phải gánh chịu hậu quả pháp lý. Hơn nữa, nghề công chứng có đặc thù riêng,
đó là khi hành nghề công chứng viên phải căn cứ vào nhiều quy định trong các
văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến công chứng và pháp luật về công
chứng, các hợp đồng, giao dịch do công chứng viên chứng nhận liên quan đến tài
sản, đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Ngoài ra, để giới công
chứng viên có trách nhiệm trước hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của mình cần
thành lập Quỹ bảo hiểm rủi ro nghề nghiệp và coi việc tham gia quỹ bảo hiểm
này là điều kiện cần và đủ để xem xét việc cấp giấy chứng nhận hành nghề công
chứng.

10
5
KẾT LUẬN
Có thể khẳng định rằng, đối với người yêu cầu công chứng hợp đồng,
giao dịch thì vai trò của các tổ chức hành nghề công chứng nói chung và công
chứng viên nói riêng ở đây là luật gia, là "thẩm phán phòng ngừa" được nhà
nước giao trách nhiệm giúp cho các bên tham gia hợp đồng, giao dịch thực
hiện đúng quy định của pháp luật. Công chứng viên được Luật công chứng
giao nhiệm vụ chứng nhận việc công chứng hợp đồng, giao dịch. Hợp đồng,
giao dịch được công chứng viên chứng nhận luôn bảo đảm an toàn pháp lý và
phòng ngừa được tranh chấp. Trách nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề
công chứng trong việc thực hiện ký chứng nhận một văn bản công chứng nói
chung và các giao dịch về quyền sử dụng đất nói riêng là rất quan trọng .
Công chứng viên sau khi xem xét thấy hợp đồng, giao dịch đầy đủ, chính xác
về mặt pháp lý sẽ chứng nhận vào hợp đồng, giao dịch đó. Lời chứng trong
các giao dịch, hợp đồng về quyền sử dụng đất là sự khẳng định hợp đồng,
giao dịch đã được công chứng viên kiểm tra chặt chẽ về: thời gian, địa điểm
công chứng, họ, tên công chứng viên, tên tổ chức hành nghề công chứng;
chứng nhận người tham gia hợp đồng, giao dịch hoàn toàn tự nguyện, có năng
lực hành vi dân sự, mục đích nội dung hợp đồng, giao dịch không vi phạm
pháp luật, không trái đạo đức xã hội, đối tượng của hợp đồng, giao dịch là có
thật, chữ ký trong hợp đồng, giao dịch là đúng chữ ký của người tham gia hợp
đồng, giao dịch; có chữ ký của công chứng viên và đóng dấu của tổ chức hành
nghề công chứng. Luật quy định công chứng viên phải "chịu trách nhiệm cá
nhân trước pháp luật về văn bản công chứng mà mình thực hiện". Đó cũng là
một trong những vấn đề cơ bản để bảo đảm cho hợp đồng, giao dịch về quyền
sử dụng đất có hiệu lực pháp lý cao nhất. Công chứng cho ra đời và chứng
nhận tính xác thực, hợp pháp của những văn bản có giá trị thi hành, không chỉ
đối với các bên giao kết Hợp đồng, Giao dịch mà còn đối với các bên có liên

10
6
quan. Vì thế đội ngũ công chứng viên được coi như những "thẩm phán phòng
ngừa” hoặc đó là những "bác sĩ phòng bệnh”. Đặc biệt đối với các giao dịch
về quyền sử dụng đất là các giao dịch rất đặc biệt, ảnh hưởng đến lợi ích của
các bên tham gia giao dịch, ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh và tích
cực của thị trường bất động sản.

10
7
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Nguyễn Ngọc Anh năm (2015), Luận văn Thạc sĩ mang mã số
60.38.01.07 “ Chuyển nhượng quyền sử dụng đất của tổ chức kinh tế theo
quy định của luật đất đai 2013”
2.Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
3.Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
4.Bộ Tài chính (2016), Thông tư số 257/2016/TT-BTC ngày 11/11/2016
quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý, sử dụng phí công chứng; phí
chứng thực; phí thẩm định tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề công chứng;
phí thẩm định điều kiện hoạt động văn phòng công chứng; lệ phí cấp thẻ
công chứng viên.
5.Bộ Tư pháp (1987), Thông tư số 574-QLTPK ngày 10/10/1987 về công
tác công chứng Nhà nước, Hà Nội.
6.Bộ Tư pháp (2006), Đề cương giới thiệu Luật Công chứng, Hà Nội.
7.Bộ Tư pháp (2013), Báo cáo số 105/BC-BTP ngày 13/5/2013 tổng kết 05
năm thi hành Luật Công chứng, Hà Nội.
8.Bộ tài nguyên và môi trường (2014), Thông tư số 23/2014/TT-BTNMT
ngày 19/5/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất
9.Bộ Tư pháp (2014), Đề cương giới thiệu Luật Công chứng năm 2014, Hà
Nội.

10
8
10.Bộ Tư pháp (2015), Báo cáo số 05/BC-BTP ngày 12/01/2015 tổng kết
công tác tư pháp năm 2014 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ
yếu công tác tư pháp năm 2015, Hà Nội.
11.Bộ Tư pháp (2015), Thông tư số 04/2015/TT-BTP ngày 15/4/2015 hướng
dẫn tập sự hành nghề công chứng.
12.Bộ Tư pháp (2015), Thông tư số 06/2015/TT-BTP ngày 15/6/2015 quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng.
13.Bộ Tư pháp (2018), Báo cáo số 29/BC-BTP ngày 25/01/2018 kết quả thực
hiện nhiệm vụ năm 2017 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2018
của cơ quan Bộ Tư pháp.
14.Nguyễn Ngọc Bích (2008), Xã hội hóa hoạt động công chứng và yêu cầu
hoàn thiện pháp luật về công chứng, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (số 6),
trang 5-8.
15.Chính phủ (1996), Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 về tổ chức và hoạt
động công chứng Nhà nước, Hà Nội.
16.Chính phủ (2000), Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 về
công chứng, chứng thực, Hà Nội.
17.Chính phủ (2013), Điều 40 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014
của Chính phủ về quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai
18.Chính phủ (2013), Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 có quy
định: “Hợp đồng, văn bản giao dịch về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
tài sản gắn liền với đất của nhóm người sử dụng đất, nhóm chủ sở hữu tài
sản gắn liền với đất phải được tất cả các thành viên trong nhóm ký tên
hoặc có văn bản ủy quyền theo quy định của pháp luật về dân sự, trừ
trường hợp các chủ sở hữu căn hộ cùng sử dụng chung thửa đất trong nhà
chung cư”

10
9
19.Chính phủ (2015), Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 về cấp
bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và
chứng thực hợp đồng, giao dịch, Hà Nội.
20.Chính phủ (2015), Nghị định số 29/2015/NĐ-CP ngày 15/3/2015 quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng, Hà Nội.
21.Trương Nữ Trần Chung (2017), Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với
các tổ chức hành nghề công chứng tại tỉnh Phú Yên, Luận văn thạc sĩ Học
viện Hành chính Quốc gia, Thừa Thiên Huế.
22.Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
23.Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII ngày 28/01/2016, Hà Nội.
24.Lê Thị Thu Hà (chủ biên) (2011), Giáo trình kỹ năng công chứng, Nxb Tư
Pháp, Hà Nội.
25.Lê Thị Bích Hạnh (2010), Cần có quy định và hướng dẫn cụ thể một số
thủ tục công chứng, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (số chuyên đề tháng 2),
tr.23-25,
26.Đỗ Đức Hiển (2013), Giá trị pháp lý của văn bản công chứng, Luận văn
thạc sĩ Luật học Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa Luật, Hà Nội.
27.Hội đồng Bộ trưởng (1991), Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/02/1991 về
tổ chức và hoạt động công chứng Nhà nước, Hà Nội.
28.Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ
(2007), Đặc san tuyên truyền pháp luật số 13: Chuyên đề về công chứng,
chứng thực, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
29.Lê Quốc Hùng (2009), Luật Công chứng và vấn đề xã hội hóa hoạt động
công chứng, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (số 12), tr.52-55.
30.Nguyễn Thị Thu Huyền (2016), Vai trò của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam trong việc kiểm soát lợi ích nhóm hiện nay, Tạp chí
Cộng sản,

11
0
http://tcnn.vn/Plus.aspx/vi/News/125/0/1010067/0/34324/VaitrocuaNhanu
ocp hapquyenxahoichunghiaVietNamtrongvieckiemsoatloiich, ngày
23/8/2016.
31.Hà Lan Hương năm (2013), Luận văn thạc sĩ mang mã số 60.85.01.03 “
Đánh giá thực trạng công tác công chứng, chứng thực các giao dịch về
đất đai trên địa bàn quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội”
32.Vi Châu Khánh năm (2018), Luận văn thạc sĩ mang mã số 8.38.01.02 “
Quản lý nhà nước về công chứng trong lĩnh vực chuyển nhượng tài sản từ
thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh”
33.Nguyễn Thị Cẩm Lai năm (2018), Luận văn thạc sĩ mang mã số
8.38.01.02 “ Quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng từ
thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi”
34.Trần Huy Nam năm (2016), Luận văn Thạc sĩ mang mã số 60.38.01.03 “
Thừa kế quyền sử dụng đất theo pháp luật Việt Nam”
35.Nguyễn Cao Nguyên (2017), Quản lý nhà nước về công chứng từ thực
tiễn tỉnh Quảng Ngãi, Luận văn thạc sĩ Học viện khoa học xã hội, Chuyên
ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính, Hà Nội.
36.Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam (2006), Luật Công chứng, Hà Nội.
37.Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam (2008), Luật Thuế thu nhập doanh
nghiệp, Hà Nội.
38.Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam (2013), Hiến pháp, Hà Nội
39.Quốc hội (2013), Luật Đất đai 2013
40.Quốc hội (2014), Luật Công chứng năm 2014
41.Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam (2014), Luật Công chứng, Hà Nội.
42.Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam (2014), Luật Nhà ở, Hà Nội.
43.Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam (2014), Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.
44.Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự năm 2015.
45.Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam (2015), Bộ luật Dân sự, Hà Nội

11
1
46.Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam (2016), Luật sửa đổi, bổ sung Điều 6
và Phụ lục 4 về Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện
của Luật Đầu tư, Hà Nội.
47.Quốc hội (2018), Luật số 28/2018/QH14 ngày 15/6/2018 của Quốc hội về
sửa đổi, bổ sung một số điều của 11 Luật có liên quan đến quy hoạch và
tình hình kinh tế - xã hội ở địa phương
48.Chu Hồng Sơn (2015), Đề tài Luận văn mang mã số 60.38.01.03 về “
Quy chế Công chứng viên theo pháp luật Việt Nam”
49.Sở Tư pháp (2015), Báo cáo thống kê tình hình tổ chức và hoạt động công
chứng từ ngày 01/01/2015 đến ngày 31/12/2015, biểu số
40/BTP/BTTP/CC, Bắc Ninh.
50.Sở Tư pháp (2015), Báo cáo thống kê kết quả chứng thực trên địa bàn tỉnh
từ ngày 01/01/2015 đến ngày 31/12/2015, biểu số 16/BTP/HTQTCT/CT,
Bắc Ninh.
51.Sở Tư pháp (2015), Báo cáo số 289/BC-STP ngày 31/12/2015 tổng kết
công tác tư pháp năm 2015 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ
yếu công tác tư pháp năm 2016, Bắc Ninh.
52.Sở Tư pháp (2015), Báo cáo số 242/BC-STP ngày 12/11/2015 sơ kết thực
hiện Quyết định số 2104/QĐ-TTg ngày 29/12/2012 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt "Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công
chứng đến năm 2020" giai đoạn 2011 - 2015, Bắc Ninh.
53.Sở Tư pháp (2016), Báo cáo thống kê tình hình tổ chức và hoạt động công
chứng từ ngày 01/01/2016 đến ngày 31/12/2016, biểu số
38/BTP/BTTP/CC, Bắc Ninh.
54.Sở Tư pháp (2016), Báo cáo thống kê kết quả chứng thực của UBND cấp
xã và Phòng Tư pháp trên địa bàn tỉnh từ ngày 01/01/2016 đến ngày
31/12/2016, biểu số 19/BTP/HTQTCT/CT, Bắc Ninh.

11
2
55.Sở Tư pháp (2016), Báo cáo số 274/BC-STP ngày 26/11/2016 tổng kết
công tác tư pháp năm 2016 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ
yếu công tác tư pháp năm 2017, Bắc Ninh.
56.Sở Tư pháp (2017), Báo cáo thống kê tình hình tổ chức và hoạt động công
chứng từ ngày 01/01/2017 đến ngày 31/12/2017, biểu số
29/BTP/BTTP/CC, Bắc Ninh.
57.Sở Tư pháp (2017), Báo cáo thống kê kết quả chứng thực của UBND cấp
xã và Phòng Tư pháp trên địa bàn tỉnh từ ngày 01/01/2017 đến ngày
31/12/2017, biểu số 22/BTP/HTQTCT/CT, Bắc Ninh.
58.Sở Tư pháp (2017), Báo cáo số 389/BC-STP ngày 29/12/2017 tổng kết
công tác tư pháp năm 2017 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ
yếu công tác tư pháp năm 2018, Bắc Ninh.
59.Thân Văn Tài (2018) Công chứng giao dịch về quyền sử dụng đất – Một
số vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện pháp luật,
https://congchung.gov.vn/blog/detail/90-Cong-chung-giao-dich-ve-quyen-
su-dung-dat, ngày 20/8/2018.
60.Tuấn Đạo Thanh (2012), Sách Chuyên khảo pháp luật công chứng -
Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
61.Thủ tướng chính phủ (2010), Quyết định số 250/QĐ-TTg ngày
10.02.2010 và Quyết định số 240/QĐ-TTg ngày 17.02.2011 của Thủ
tướng Chính phủ về Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề
công chứng ở Việt Nam đến năm 2020.
62.Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 2104/QĐ-TTg ngày
29/12/2012 phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề
công chứng đến năm 2020, Hà Nội.
63.Lương Đình Thí năm (2018), Luận văn Thạc sĩ mang mã số 8.38.01.07 “
Thế chấp bằng quyền sử dụng đất ở để đảm bảo hợp đồng tín dụng ngân
hàng theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng”

11
3
64.Tỉnh ủy Bắc Ninh (2016), Nghị quyết số 05-NQ-TU ngày 05/12/2016 về
cải cách hành chính nhà nước, nhất là cái cách thủ tục hành chính tỉnh Bắc
Ninh giai đoạn 2016-2020.
65.Phạm Thị Mai Trang (2013), Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện
nay, thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ Đại học Quốc gia Hà Nội,
Khoa Luật, Hà Nội.
66.UBND tỉnh Bắc Ninh (2009), Quyết định số 144/2009/QĐ-UBND ngày
16.9.2009 của UBND tỉnh về việc chuyển giao thẩm quyền công chứng
hợp đồng, giao dịch sang tổ chức hành nghề công chứng
67.UBND tỉnh Bắc Ninh (2011), xây dựng Đề án “Quy hoạch phát triển tổ
chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh, giai đoạn 2011- 2020” theo
Quyết định số 250/QĐ-TTg ngày 10.02.2010 và Quyết định số 240/QĐ-
TTg ngày 17.02.2011 của Thủ tướng Chính phủ về Quy hoạch tổng thể
phát triển tổ chức hành nghề công chứng ở Việt Nam đến năm 2020
68.UBND tỉnh Bắc Ninh (2013), Kế hoạch số 4231/KH-UBND ngày
14/10/2013 về triển khai thực hiện Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức
hành nghề công chứng đến năm 2020 trên địa bàn tỉnh, Bắc Ninh.
69.Võ Khánh Vinh (2003), Giáo trình các cơ quan bảo vệ pháp luật, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
70.Nguyễn Tất Viễn (2015), Một số biện pháp tăng cường công tác phổ biến
giáo dục pháp luật trong tình hình mới, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số
chuyên đề 60 năm ngành Tư pháp, 28/7/2015.
71.Đỗ Hoàng Yến (2010), Kết quả hai năm thực hiện Luật Công chứng và
một số kiến nghị, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (số chuyên đề tháng 2), tr.
2-7.
72.Mai Hải Yến (2017), Quản lý nhà nước về công chứng từ thực tiễn thành
phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội
Tags