b4 luat PC tham nhung.pptwww.slideshare.net › slideshow

AnhBui910838 0 views 84 slides Sep 30, 2025
Slide 1
Slide 1 of 84
Slide 1
1
Slide 2
2
Slide 3
3
Slide 4
4
Slide 5
5
Slide 6
6
Slide 7
7
Slide 8
8
Slide 9
9
Slide 10
10
Slide 11
11
Slide 12
12
Slide 13
13
Slide 14
14
Slide 15
15
Slide 16
16
Slide 17
17
Slide 18
18
Slide 19
19
Slide 20
20
Slide 21
21
Slide 22
22
Slide 23
23
Slide 24
24
Slide 25
25
Slide 26
26
Slide 27
27
Slide 28
28
Slide 29
29
Slide 30
30
Slide 31
31
Slide 32
32
Slide 33
33
Slide 34
34
Slide 35
35
Slide 36
36
Slide 37
37
Slide 38
38
Slide 39
39
Slide 40
40
Slide 41
41
Slide 42
42
Slide 43
43
Slide 44
44
Slide 45
45
Slide 46
46
Slide 47
47
Slide 48
48
Slide 49
49
Slide 50
50
Slide 51
51
Slide 52
52
Slide 53
53
Slide 54
54
Slide 55
55
Slide 56
56
Slide 57
57
Slide 58
58
Slide 59
59
Slide 60
60
Slide 61
61
Slide 62
62
Slide 63
63
Slide 64
64
Slide 65
65
Slide 66
66
Slide 67
67
Slide 68
68
Slide 69
69
Slide 70
70
Slide 71
71
Slide 72
72
Slide 73
73
Slide 74
74
Slide 75
75
Slide 76
76
Slide 77
77
Slide 78
78
Slide 79
79
Slide 80
80
Slide 81
81
Slide 82
82
Slide 83
83
Slide 84
84

About This Presentation

www.slideshare.net › slideshow › de-tai-thuc-tien-ap-dung-phapĐề tài: Thực tiễn áp dụng pháp luật về trong việc đăng ký kết hôn...
Tài liệu nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về đăng ký kết hôn tại


Slide Content

LUẬT
PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
Luật này quy định về phòng,
chống tham nhũng

Số: 55/2005/QH11
•Điều 91. Hiệu lực thi hành
•1. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01
tháng 6 năm 2006.
•2. Pháp lệnh chống tham nhũng ngày 26
tháng 02 năm 1998 và Pháp lệnh sửa đổi,
bổ sung một số điều của Pháp lệnh chống
tham nhũng ngày 28 tháng 4 năm 2000 hết
hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực.
•Điều 92. Hướng dẫn thi hành
•Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành Luật này

LUẬT
SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT
PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
CỦA QUỐC HỘI SỐ 01/2007/QH12 NGÀY 04 THÁNG 8 NĂM 2007
•Điều 2.
•Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày công bố. (Theo
lệnh của Chủ tịch nước CHXHCNVN công bố ngày
27/8/2007)
•Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ nhất thông qua
ngày 04 tháng 8 năm 2007.

Các văn bản liên quan
•Hướng dẫn số 04-HD/TTVH, ngày 25-9-2006, của Ban
Tư tưởng - Văn hoá Trung ương về Tổ chức phổ biến,
quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương khoá X về “Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng,
chống tham nhũng, lãng phí”
•Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 12/5/2009 của chính phủ
về việc ban hành Chiến lược quốc gia phòng, chống
tham nhũng đến năm 2020
•Kế hoạch thực hiện chiến lược quốc gia phòng,
chống tham nhũng đến năm 2020 ban hành kèm theo
NQ số 21/NQ-CP (Chủ yếu cho giai đoạn từ nay đến
năm 2011
•Các Nghị định 120/2006/NĐ-CP ngày 20/10/2006 hướng
dẫn thực hiện Luật PCTN, Nghị định số: 37/2007/N Đ-
CP về minh bạch tài sản, thu nhập

PHẦN 1. NHỮNG VẤN Đ
Ề CHUNG VỀ THAM
NH
ŨNG VÀ PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG
•I. NH
ỮNG QUY ĐỊNH CHUNG (CHƯƠNG I)
•Chương I gồm 10 điều (từ Điều 1 đến Điều 10)
•Quy định về phạm vi điều chỉnh; giải thích từ ngữ; các
hành vi tham nhũng, nguyên tắc xử lý tham nhũng; quy
định chung về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị
và người có chức vụ, quyền hạn cũng như trách nhiệm
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành
viên, trách nhiệm của cơ quan báo chí trong phòng,
chống tham nhũng; trách nhiệm phối hợp của cơ quan
Thanh tra, Kiểm toán nhà nước, Điều tra, Viện Kiểm sát,
Tòa án và của cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan;
quyền và nghĩa vụ của công dân trong phòng, chống
tham nhũng; và các hành vi bị nghiêm cấm.

Điều 1 khoản 1 quy định phạm vi điều chỉnh của
Luật Phòng, chống tham nhũng như sau:
•“Luật này quy định về phòng ngừa, phát
hiện, xử lý người có hành vi tham nhũng
và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn
vị, cá nhân trong phòng, chống tham
nhũng”.

Phạm vi điều chỉnh của Luật Phòng, chống tham nhũng
gồm các nội dung chủ yếu là:
- Các biện pháp phòng ngừa tham nhũng;
- Việc phát hiện hành vi tham nhũng;
- Việc xử lý người có hành vi tham nhũng;
- Trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân
trong phòng, chống tham nhũng

Như vậy theo Luật PCTN 2005, bên cạnh việc tăng cường
phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi
tham nhũng, công tác phòng ngừa tham nhũng phải
được coi là một nhiệm vụ trọng tâm, then chốt.

Việc đề cao cơ chế phòng ngừa tham nhũng nhằm:
•(i) góp phần hạn chế những khiếm khuyết, hàn
gắn những lỗ hổng trong hệ thống chính sách,
pháp luật hiện hành, nhất là trong lĩnh vực quản
lý kinh tế;
•(ii) tạo tiền đề cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu
quả hoạt động phát hiện, xử lý tham nhũng, khắc
phục hậu quả hành vi tham nhũng;
•(iii) tăng cường vai trò, sự tham gia tích cực của
nhân dân, các tổ chức đoàn thể, báo chí trong
quản lý xã hội, quản lý nhà nước nói chung và
công tác phòng, chống tham nhũng nói riêng;
•(iv) góp phần xây dựng một nền quản lý chuyên
nghiệp, liêm chính và một xã hội trong sạch, phi
tham nhũng.

Điều 1 khoản 2 về khái niệm tham nhũng quy định:
•“Tham nhũng là hành vi của người có
chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ,
quyền hạn đó vì vụ lợi”.

Như vậy, tham nhũng được mô tả dưới dạng hành vi, bao
gồm ba yếu tố.
•Thứ nhất, hành vi này được thực hiện bởi một đối tượng
đặc biệt là người có chức vụ, quyền hạn;
•thứ hai, người có chức vụ, quyền hạn đã có sự lợi dụng
chức vụ, quyền hạn đó khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ
được giao
•và thứ ba, hành vi này thực hiện với mục đích vì vụ lợi.
Yếu tố vụ lợi được hiểu không chỉ là vụ lợi cho cá nhân
mình mà còn có thể là vụ lợi cho cơ quan, tổ chức, đơn vị,
địa phương mình hoặc tổ chức, cá nhân khác. Lợi ích được
hướng tới ở đây không chỉ là lợi ích về vật chất mà có thể là
cả lợi ích về tinh thần. Lợi ích đó có thể trực tiếp hoặc gián
tiếp.
•Được coi là hành vi tham nhũng nếu có đủ cả ba yếu tố,
nếu thiếu một trong các yếu tố đó thì tuy không là tham
nhũng, nhưng có thể là một hành vi vi phạm pháp luật
khác (chẳng hạn: hành vi cố ý làm trái, lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản).

Về những đối tượng được coi là người có chức vụ,
quyền hạn, khoản 3 Điều 1 quy định:
•“a) Cán bộ, công chức, viên chức;
•b) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công
nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc
Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp
vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn – kỹ thuật
trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân;
•c) Cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp
của Nhà nước; cán bộ lãnh đạo, quản lý là
người đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại
doanh nghiệp;
•d) Người được giao thực hiện nhiệm vụ, công
vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ,
công vụ đó”.

Như vậy, có bốn nhóm đối tượng được coi là
người có chức vụ, quyền hạn.
•Nhóm thứ nhất nêu tại điểm a là cán bộ, công chức,
được quy định cụ thể trong Luật Cán bộ công chức năm
2009.
•Đây là nhóm đối tượng chủ yếu, chiếm tỷ lệ lớn về số
lượng trong số người có chức vụ, quyền hạn thuộc
phạm vi điều chỉnh của Luật Phòng, chống tham nhũng.
•Đồng thời, cán bộ, công chức cũng là nhóm đối tượng
thường nắm giữ những vị trí, công việc liên quan đến
vốn, tài sản nhà nước hoặc tiếp xúc trực tiếp, giải quyết
công việc của công dân, doanh nghiệp, có nhiều cơ hội
để thực hiện hành vi tham nhũng nên cần được thể chế
hóa và giám sát chặt chẽ để giảm thiểu nguy cơ tham
nhũng.

•Nhóm thứ hai gồm những người có chức vụ,
quyền hạn nêu tại điểm b là nhóm đối tượng có
địa vị pháp lý tương đối đặc thù, thuộc các lực
lượng vũ trang nhân dân và được quy định cụ
thể tại Luật Quốc phòng và Luật Công an nhân
dân.
•Nhóm thứ ba nêu tại điểm c có thể được chia
thành hai loại:
• thứ nhất, những cán bộ lãnh đạo, quản lý
trong doanh nghiệp của Nhà nước, theo đó,
doanh nghiệp của Nhà nước được hiểu là
doanh nghiệp một trăm phần trăm vốn nhà
nước;
•thứ hai, cán bộ lãnh đạo, quản lý là người đại
diện phần vốn góp của Nhà nước tại các
doanh nghiệp khác.

•Nhóm thứ tư là những người nêu tại điểm d cũng đã
được quy định là người có chức vụ, quyền hạn tại
Phần các tội phạm về chức vụ của Bộ luật Hình sự.
• Theo đó, bên cạnh đối tượng là cán bộ, công chức nhà
nước, những người tuy không phải là cán bộ, công chức
nhưng được giao nhiệm vụ, công vụ và có quyền hạn
trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó cũng được
coi là người có chức vụ, quyền hạn và thuộc phạm vi
điều chỉnh của Luật Phòng, chống tham nhũng.

“Tài sản tham nhũng là tài sản có được từ hành vi tham
nhũng, tài sản có nguồn gốc từ hành vi tham nhũng”.
•Như vậy, tài sản tham nhũng có thể được hiểu là tài sản
mà người thực hiện hành vi tham nhũng trực tiếp có
được thông qua việc thực hiện hành vi tham nhũng đó
(chẳng hạn: một khoản tiền có được do hành vi tham ô
hay nhận hối lộ) hoặc gián tiếp (chẳng hạn: một ngôi
nhà, một chiếc xe ô tô được mua bằng nguồn tiền nhận
hối lộ,…).
•Tóm lại, tài sản có nguồn gốc từ hành vi tham nhũng thì
bị coi là tài sản tham nhũng.
•Việc xác định tài sản tham nhũng có ý nghĩa quan trọng
đối với công tác xử lý tham nhũng.

“Công khai là việc cơ quan, tổ chức, đơn vị công bố, cung
cấp thông tin chính thức về văn bản, hoạt động hoặc về nội
dung nhất định”.
•Có ba nội dung cần lưu ý trong thuật ngữ này.
•Một là, công khai có thể bằng hai hình thức: công bố
hoặc cung cấp thông tin.
•Hai là, thông tin đó phải là thông tin chính thức của cơ
quan, tổ chức, đơn vị công bố hoặc cung cấp.
•Ba là, đối tượng mà thông tin đề cập tới là văn bản,
hoạt động hoặc nội dung nhất định.

“Minh bạch tài sản, thu nhập là việc kê khai tài sản, thu
nhập của người có nghĩa vụ kê khai và khi cần thiết được
xác minh, kết luận”.
•ngoài việc kê khai tài sản, thu nhập, còn có quy định việc
xác minh, kết luận về tính minh bạch của việc kê khai đó
trong trường hợp cần thiết.
•Như vậy, minh bạch tài sản, thu nhập có mục đích bảo
đảm tính chất rõ ràng, rành mạch đối với tài sản, thu
nhập của cán bộ, công chức trước Nhà nước và khi xã
hội đòi hỏi
• và là một biện pháp hữu hiệu, quan trọng trong cơ
chế phòng ngừa tham nhũng.

“Nhũng nhiễu là hành vi cửa quyền, hách dịch, gây khó
khăn, phiền hà khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ”.
•Thực tế cho thấy hành vi nhũng nhiễu, cố tình gây khó
khăn, phiền hà nhằm vòi vĩnh, đòi hối lộ của một bộ
phận cán bộ, công chức khi giải quyết công việc của
công dân, doanh nghiệp đang trở thành một biểu hiện
tham nhũng tương đối phổ biến, gây bất bình, nhức nhối
trong nhân dân.
•Thực tế này đặt ra yêu cầu phải quy định hành vi này
trong Luật Phòng, chống tham nhũng để tạo cơ sở pháp
lý cho việc xử lý.
•Do đó, Luật Phòng, chống tham nhũng đã quy định
hành vi nhũng nhiễu vì vụ lợi là một hành vi tham
nhũng.
• Vì vậy, việc giải thích thuật ngữ “nhũng nhiễu” là rất
quan trọng, là tiền đề để giải thích và áp dụng quy định
về hành vi nhũng nhiễu vì vụ lợi.

“Vụ lợi là lợi ích vật chất, tinh thần mà người có chức vụ,
quyền hạn đạt được hoặc có thể đạt được
thông qua hành vi tham nhũng”.
•trên thực tế hành vi tham nhũng hiện nay diễn ra rất tinh
vi với những lợi ích rất đa dạng mà người tham nhũng
hướng tới, thậm chí trong một số trường hợp khó xác
định lợi ích đó là vật chất hay tinh thần.
• Việc chứng minh yếu tố vụ lợi để từ đó xác định hành vi
của người vi phạm luôn là vấn đề khó khăn trong các vụ
việc có dấu hiệu tham nhũng. Vì vậy, việc giải thích rõ
khái niệm vụ lợi như trên là điều cần thiết.

•“Cơ quan, tổ chức, đơn vị bao gồm cơ quan nhà nước,
tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, đơn vị vũ
trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp của
Nhà nước và cơ quan, tổ chức, đơn vị khác có sử dụng
ngân sách, tài sản của Nhà nước”.
•Hiện nay, Nhà nước chủ trương đẩy mạnh xã hội hóa
trong nhiều lĩnh vực hoạt động kinh tế – xã hội cho nên
rất nhiều tổ chức hình thành đáp ứng đầy đủ các yếu tố
là một chủ thể pháp lý độc lập (như các pháp nhân kinh
tế, các hội nghề nghiệp, các câu lạc bộ…).
•Luật Phòng, chống tham nhũng chủ yếu hướng vào việc
phòng, chống tham nhũng trong khu vực nhà nước cho
nên những quy định của đạo luật này chủ yếu áp dụng
cho các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong khu vực nhà
nước.

Các hành vi tham nhũng
•Điều 3 Luật Phòng, chống tham nhũng quy định
các hành vi tham nhũng bao gồm:
•“1. Tham ô tài sản.
•2. Nhận hối lộ.
•3. Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài
sản.
•4. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi
hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.
•5. Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công
vụ vì vụ lợi.
•6. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng
với người khác để trục lợi.
•7. Giả mạo trong công tác vì vụ lợi.

•8. Đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi
người có chức vụ, quyền hạn để giải quyết công
việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa
phương vì vụ lợi.
•9. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái
phép tài sản của Nhà nước vì vụ lợi.
•10. Nhũng nhiễu vì vụ lợi.
•11. Không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.
•12. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che
cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi;
cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm
tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử,
thi hành án vì vụ lợi”.

•Tuy nhiên, không phải mọi hành vi tham nhũng đều bị xử
lý về hình sự mà chỉ những hành vi hội đủ các dấu hiệu
cấu thành tội phạm quy định trong Bộ luật Hình sự thì
mới được xác định là tội phạm và bị xử lý bằng biện
pháp hình sự, (các hành vi được quy định từ khoản 1
đến khoản 7 Điều 3 Luật Phòng, chống tham nhũng)
•còn những hành vi khác (từ khoản 8 đến khoản 12
Điều 3 Luật Phòng, chống tham nhũng) được xác định là
hành vi tham nhũng nhưng chưa cấu thành tội phạm thì
được xử lý bằng biện pháp kỷ luật.

Các nguyên tắc cơ bản trong xử lý tham nhũng được
quy định tại Điều 4 Luật Phòng, chống tham nhũng:
•Các nguyên tắc cơ bản trong xử lý tham nhũng được quy
định tại Điều 4 Luật Phòng, chống tham nhũng:
•“1. Mọi hành vi tham nhũng đều phải được phát hiện,
ngăn chặn và xử lý kịp thời, nghiêm minh.
•2. Người có hành vi tham nhũng ở bất kỳ cương vị,
chức vụ nào phải bị xử lý theo quy định của pháp luật.
•3. Tài sản tham nhũng phải được thu hồi, tịch thu;
người có hành vi tham nhũng gây thiệt hại thì phải bồi
thường, bồi hoàn theo quy định của pháp luật.
•4. Người có hành vi tham nhũng đã chủ động khai báo
trước khi bị phát hiện, tích cực hạn chế thiệt hại do
hành vi trái pháp luật của mình gây ra, tự giác nộp lại tài
sản tham nhũng thì có thể được xem xét giảm nhẹ hình
thức kỷ luật, giảm nhẹ hình phạt hoặc miễn truy cứu
trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

•5. Việc xử lý tham nhũng phải được thực hiện công khai theo quy định của pháp luật.
•6. Người có hành vi tham nhũng đã nghỉ hưu, thôi việc, chuyển công tác vẫn phải bị xử lý về hành vi tham nhũng do
mình đã thực hiện”.
•Các nguyên tắc nêu trên thể hiện một thái độ nghiêm khắc và công bằng trong việc xử lý tham nhũng.
•Ngoài ra, nguyên tắc công khai hóa việc xử lý kỷ luật đối với người có hành vi tham nhũng cũng là một sự bổ sung quan
trọng và cần thiết nhằm góp phần nâng cao nhận thức của xã hội đối với tham nhũng và răn đe đối với những người có ý
định vi phạm.
• Quy định về việc xử lý người có hành vi tham nhũng đã nghỉ hưu, thôi việc, chuyển công tác cũng là để ngăn chặn tình
trạng một số kẻ lợi dụng lúc còn đương chức tranh thủ đục khoét, vơ vét sau đó “hạ cánh an toàn” trước khi bị phát hiện.

Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá
nhân trong phòng, chống tham nhũng:
•Đấu tranh chống tham nhũng là trách nhiệm của
các cơ quan nhà nước và toàn thể xã hội.
•Luật Phòng, chống tham nhũng quy định chung
về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị và
cá nhân tại Chương I.
•Nội dung cụ thể về vai trò và trách nhiệm của xã
hội trong phòng, chống tham nhũng được quy
định tại Chương VI.

Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị và người có
chức vụ, quyền hạn
•Điều 5 Luật Phòng, chống tham nhũng quy định trách
nhiệm chung trong phòng, chống tham nhũng của các
chủ thể là:
•(i) cơ quan, tổ chức, đơn vị;
•(ii) người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị;
•(iii) người có chức vụ, quyền hạn.

Cơ quan, tổ chức, đơn vị trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình có trách nhiệm:
•- Tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật
về phòng, chống tham nhũng;
•- Tiếp nhận, xử lý kịp thời báo cáo, tố giác, tố
cáo và thông tin khác về hành vi tham nhũng;
•- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
phát hiện, báo cáo, tố giác, tố cáo hành vi tham
nhũng;
•- Chủ động phòng ngừa, phát hiện hành vi tham
nhũng; kịp thời cung cấp thông tin, tài liệu và
thực hiện yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền trong quá trình phát hiện,
xử lý người có hành vi tham nhũng.

•Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình
có trách nhiệm:
•- Chỉ đạo cơ quan, tổ chức, đơn vị trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn thực hiện các quy định về
phòng, chống tham nhũng;
•- Gương mẫu, liêm khiết; định kỳ kiểm điểm việc
thực hiện chức trách, nhiệm vụ và trách nhiệm
của mình trong việc phòng ngừa, phát hiện hành
vi tham nhũng, xử lý người có hành vi tham
nhũng;
•- Chịu trách nhiệm khi để xảy ra hành vi tham
nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình
quản lý, phụ trách.

Người có chức vụ, quyền hạn có trách nhiệm:
•- Thực hiện nhiệm vụ, công vụ đúng quy
định của pháp luật;
•- Gương mẫu, liêm khiết; chấp hành
nghiêm chỉnh quy định của pháp luật về
phòng, chống tham nhũng, quy tắc ứng
xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp;
•- Kê khai tài sản theo quy định của Luật
này và chịu trách nhiệm về tính chính xác,
trung thực của việc kê khai đó.

Điều 6 Luật Phòng, chống tham nhũng quy định
chung về quyền và nghĩa vụ của công dân trong
phòng, chống tham nhũng.
•Những nội dung cụ thể về quyền và nghĩa vụ của công
dân được chi tiết hóa tại Chương II với quy định về công
khai, minh bạch và quyền tiếp cận thông tin, tại Chương
III với quy định về tố cáo và xử lý tố cáo hành vi tham
nhũng và tại Chương VI với quy định về trách nhiệm
công dân, Ban Thanh tra nhân dân.
•Điều 6 quy định hai nội dung chung nhất về quyền và
nghĩa vụ của công dân trong phòng, chống tham nhũng
là quyền phát hiện, tố cáo hành vi tham nhũng và nghĩa
vụ hợp tác, giúp đỡ cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền trong việc phát hiện, xử lý người có hành vi tham
nhũng.

Luật Phòng, chống tham nhũng đặc biệt chú trọng thể chế
hóa cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có chức năng,
nhiệm vụ đấu tranh chống tham nhũng và giữa các cơ quan
chức năng với các cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan.
Điều 7 Luật Phòng, chống tham nhũng quy định:
•“Cơ quan Thanh tra, Kiểm toán nhà nước, Điều tra,
Viện Kiểm sát, Tòa án trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với nhau và phối
hợp với cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan trong việc
phát hiện hành vi tham nhũng, xử lý người có hành vi
tham nhũng và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về
kết luận, quyết định của mình trong quá trình thanh tra,
kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử vụ việc tham nhũng.

•Cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan có trách nhiệm tạo
điều kiện, cộng tác với cơ quan Thanh tra, Kiểm toán
nhà nước, Điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án trong việc
phát hiện, xử lý người có hành vi tham nhũng”.
•Những nội dung cụ thể của cơ chế phối hợp trong
phòng, chống tham nhũng giữa các cơ quan Thanh tra,
Kiểm toán nhà nước, Điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án
được quy định chi tiết tại Chương V Luật Phòng,
chống tham nhũng.

Điều 10 Luật Phòng, chống tham nhũng quy định
ba loại hành vi bị nghiêm cấm:
•(i) 12 hành vi tham nhũng được quy định tại Điều 3 Luật
này;
•(ii) hành vi đe dọa, trả thù, trù dập người phát hiện, báo
cáo, tố giác, tố cáo, cung cấp thông tin về hành vi tham
nhũng;
•(iii) hành vi lợi dụng việc tố cáo tham nhũng để vu cáo,
vu khống cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân khác.
•thực tế còn phát sinh hai loại hành vi tương đối phổ biến
nêu trên (ii và iii) làm cản trở không nhỏ đến hiệu lực,
hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng.
•Cả hai loại hành vi này đều bị Luật Phòng, chống tham
nhũng nghiêm cấm.

II- PHÒNG NGỪA THAM NHŨNG
(CHƯƠNG II)
•Chương II quy định về phòng ngừa tham
nhũng gồm 6 mục 48 điều (từ Điều 11 đến
Điều 58).
•Số lượng các điều chiếm hơn một nửa
tổng số điều của đạo luật (48/92 điều).
Điều đó phản ánh mức độ quan trọng của
chế định phòng ngừa tham nhũng.
•Có thể nói, phòng ngừa tham nhũng là
tinh thần chủ đạo của Luật Phòng, chống
tham nhũng.

1- Công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ
quan, tổ chức, đơn vị (Mục 1)
•Nội dung này gồm có 23 điều, từ Điều 11 đến Điều 33.
•Công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ
chức, đơn vị là biện pháp quan trọng hàng đầu để
ngăn ngừa tham nhũng.
•Công khai, minh bạch tạo điều kiện để người dân cũng
như xã hội giám sát hoạt động của các cơ quan nhà
nước.

•Với việc công khai, minh bạch hóa hoạt động các cơ
quan nhà nước, người dân sẽ dễ dàng biết được các
quyền và nghĩa vụ của mình để chủ động thực hiện theo
các quy định của pháp luật.
•Đồng thời, việc công khai, minh bạch cũng đòi hỏi cơ
quan nhà nước thực hiện đúng đắn các quy định của
pháp luật, làm cho các cán bộ, công chức có ý thức hơn
trong việc thực hiện chức trách, công vụ của mình theo
đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền mà pháp luật quy
định.
•Qua đó, mọi hành vi vi phạm, gây phiền hà, sách nhiễu
hay lợi dụng chức trách với mục đích tư lợi có thể bị
phát hiện và xử lý.

- Về nguyên tắc công khai, minh bạch trong hoạt động của
cơ quan, tổ chức, đơn vị, Luật quy định: “Chính sách, pháp
luật và việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật
phải được công khai, minh bạch, bảo đảm công bằng,
dân chủ” (khoản 1 Điều 11).
•- Về nội dung công khai, minh bạch trong hoạt động của
cơ quan, tổ chức, đơn vị, Luật quy định: “Cơ quan, tổ
chức, đơn vị phải công khai hoạt động của mình, trừ
nội dung thuộc bí mật nhà nước và những nội dung
khác theo quy định của Chính phủ” (khoản 2 Điều 11).

Các hình thức công khai được quy định tại Điều
12 Luật Phòng, chống tham nhũng bao gồm:
•- Công bố tại cuộc họp của cơ quan, tổ chức, đơn vị;
•- Niêm yết tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức, đơn
vị;
•- Thông báo bằng văn bản đến cơ quan, tổ chức, đơn vị,
cá nhân có liên quan;
•- Phát hành ấn phẩm;
•- Thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng;
•- Đưa lên trang thông tin điện tử;
•- Cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức,
cá nhân.
•Ngoài những trường hợp pháp luật có quy định về hình
thức công khai, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn
vị có trách nhiệm lựa chọn một hoặc một số hình thức
công khai quy định nêu trên.

Để bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch được thực
hiện, Luật Phòng, chống tham nhũng quy định về quyền
yêu cầu cung cấp thông tin của hai loại chủ thể, bao gồm:
quyền yêu cầu cung cấp thông tin của cơ quan, tổ chức và
quyền yêu cầu cung cấp thông tin của cá nhân.
•được quy định tại Điều 31 Luật Phòng,
chống tham nhũng:

Công khai, minh bạch trong một số lĩnh vực cụ thể
•Ngoài việc nêu nguyên tắc và quy định nội dung, hình
thức bảo đảm công khai, minh bạch trong hoạt động của
các cơ quan, tổ chức, đơn vị nói chung, Luật Phòng,
chống tham nhũng quy định cụ thể về công khai, minh
bạch trong một số lĩnh vực mà thực tế cho thấy xảy ra
nhiều hành vi tham nhũng, gây thất thoát lớn về tiền, tài
sản của Nhà nước cũng như tồn tại nhiều sự phiền hà,
sách nhiễu, đòi hối lộ từ phía cơ quan nhà nước.

•Công khai, minh bạch trong mua sắm công và xây dựng
cơ bản (Điều 13)
•Công khai, minh bạch trong quản lý dự án đầu tư xây
dựng (Điều 14)
•Công khai, minh bạch về tài chính và ngân sách nhà
nước (Điều 15)
•Công khai, minh bạch việc huy động và sử dụng các
khoản đóng góp của nhân dân (Điều 16)
•Công khai, minh bạch việc quản lý, sử dụng các khoản
viện trợ (Điều 17)
•Công khai, minh bạch trong quản lý doanh nghiệp của
Nhà nước (Điều 18)
•Công khai, minh bạch trong cổ phần hóa doanh nghiệp
của Nhà nước (Điều 19)

•Công khai, minh bạch trong quản lý và sử dụng đất
(Điều 21)
•Công khai, minh bạch trong quản lý, sử dụng nhà ở
(Điều 22
•Công khai, minh bạch trong lĩnh vực giáo dục (Điều 23)
•Công khai, minh bạch trong lĩnh vực y tế (Điều 24)
•Công khai, minh bạch trong lĩnh vực khoa học – công
nghệ (Điều 25)
•Công khai, minh bạch trong lĩnh vực thể dục, thể thao
(Điều 26)

PHẦN 2.

̣T SỐ VẤN ĐỀ CẦN CÔNG KHAI MINH BẠCH
•Công khai, minh bạch trong hoạt động thanh tra, giải quyết
khiếu nại, tố cáo, kiểm toán nhà nước (Điều 25)
•Thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm toán nhà nước
là những hoạt động rất quan trọng trong việc đánh giá tình hình
chấp hành chính sách, pháp luật của các cơ quan, tổ chức và
cá nhân. Kết quả của thanh tra và kiểm toán hầu hết đều có kết
luận về sai phạm kinh tế và trách nhiệm của những cơ quan, tổ
chức và cá nhân có liên quan. Nhiều vụ việc tham nhũng, tiêu
cực được phát hiện thông qua công tác thanh tra, kiểm toán.
•Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy nhiều trường hợp kết luận
thanh tra và kiểm toán có những vấn đề mà dư luận thường
thắc mắc, nhất là những thay đổi trong quá trình kết luận và xử
lý kết quả thanh tra, kiểm toán.

Để làm rõ tính công khai, minh bạch trong hoạt động thanh
tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiểm toán nhà nước, Luật
Phòng, chống tham nhũng quy định:
•- Hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiểm
toán nhà nước phải được tiến hành công khai theo quy
định của pháp luật.
•- Văn bản, quyết định sau đây phải được công khai, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác:
•+ Kết luận thanh tra;
•+ Quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định giải quyết
tố cáo;
•+ Báo cáo kiểm toán.

Công khai, minh bạch trong hoạt động giải quyết
các công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá
nhân (Điều 28)
•Luật Phòng, chống tham nhũng được thiết kế nhằm ngăn
ngừa tham nhũng vặt, chẳng hạn như quy định về hành vi
nhũng nhiễu, công khai minh bạch trong quản lý và sử
dụng đất, nhà ở. Khoản 1 Điều 28 Luật Phòng, chống
tham nhũng quy định rất chi tiết về các lĩnh vực phải công
khai trong hoạt động giải quyết các công việc của cơ
quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân, cụ thể là:
•“1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền quản lý trong lĩnh vực
nhà, đất, xây dựng, đăng ký kinh doanh, xét duyệt dự án, cấp vốn
ngân sách nhà nước, tín dụng, ngân hàng, xuất khẩu, nhập khẩu, xuất
cảnh, nhập cảnh, quản lý hộ khẩu, thuế, hải quan, bảo hiểm và các cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác trực tiếp giải quyết công việc của cơ
quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân phải công khai thủ tục hành chính, giải
quyết đúng thời hạn, đúng pháp luật và đúng yêu cầu hợp pháp của
cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân”.

Đồng thời, để tránh hiện tượng cán bộ, công chức, viên
chức nhà nước nhũng nhiễu, gây phiền hà hoặc dây dưa
trong khi giải quyết công việc, khoản 2 và khoản 3 Điều 28
Luật này quy định
•cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có quyền đề nghị với
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết
công việc của mình giải thích rõ những nội dung có liên
quan. Khi nhận được đề nghị của cơ quan, tổ chức, đơn
vị, cá nhân thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
phải kịp thời giải thích công khai.
• Trong trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền giải thích chưa thỏa đáng hoặc cố tình gây khó
khăn, phiền hà thì cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có
quyền kiến nghị lên cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp
của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó.

Công khai, minh bạch trong công tác tổ chức –
cán bộ (Điều 30)
•Công tác tổ chức – cán bộ có vai trò hết sức quan trọng
là khâu quyết định trong quản lý nhà nước. Thực tế cho
thấy đã có không ít trường hợp tiêu cực trong tuyển
dụng, đề bạt, bổ nhiệm, khen thưởng cán bộ, công
chức, viên chức.
•Hiện tượng “chạy chọt” để được tuyển dụng, lên chức
hoặc khen thưởng đang ngày một trở nên đáng lo ngại.
• Luật Phòng, chống tham nhũng quy định hai mức độ
công khai đối với các hoạt động trong công tác tổ chức –
cán bộ.

•Theo đó, mức độ công khai thứ nhất là công khai rộng
rãi về số lượng, tiêu chuẩn, hình thức và kết quả tuyển
dụng cán bộ, công chức, viên chức và người lao động
khác.
•Mức độ công khai thứ hai là công khai trong phạm vi cơ
quan, tổ chức, đơn vị nơi cán bộ, công chức, viên chức
và người lao động làm việc về việc quy hoạch, đào tạo,
bổ nhiệm, chuyển ngạch, luân chuyển, điều động, khen
thưởng, cho thôi việc, cho thôi giữ chức vụ, miễn nhiệm,
bãi nhiệm, kỷ luật, hưu trí.
•Việc phân định như vậy là hợp lý, vừa đảm bảo được
tính công khai, minh bạch của công tác tổ chức – cán bộ
vừa đảm bảo yếu tố nội bộ trong những trường hợp cần
thiết.

Kiểm toán việc sử dụng ngân sách, tài sản của
Nhà nước (Điều 20)
•Hiện nay, Nhà nước coi kiểm toán là một công cụ hữu hiệu
trong chống tham nhũng, bao gồm cả kiểm toán nhà nước,
kiểm toán độc lập và kiểm toán nội bộ. Vì vậy, Luật Phòng,
chống tham nhũng đã dành rất nhiều điều khoản quy định về
kiểm toán.
•Điều 20 Luật Phòng, chống tham nhũng quy định trách nhiệm
và ở một khía cạnh nào đó là khuyến nghị các cơ quan, tổ
chức, đơn vị sử dụng kiểm toán như một công cụ làm minh
bạch hóa công tác tài chính của cơ quan, tổ chức, đơn vị
mình.
•Theo đó, cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm tự tổ chức
thực hiện việc kiểm toán và chịu sự kiểm toán việc sử dụng
ngân sách, tài sản của Nhà nước theo quy định của pháp
luật về kiểm toán.

Công khai báo cáo hằng năm về phòng, chống
tham nhũng (Điều 33)
•Việc công khai báo cáo là một hình thức rất tốt để tăng
cường trách nhiệm của các cơ quan. Tổ chức và cá
nhân, nhất là cá nhân người đứng đầu cơ quan, tổ chức.
Đây đồng thời cũng là một yêu cầu quan trọng của Công
ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng. Theo đó, Luật
Phòng, chống tham nhũng quy định:
•- Hằng năm, Chính phủ có trách nhiệm báo cáo Quốc
hội về công tác phòng, chống tham nhũng trong phạm vi
cả nước; Ủy ban nhân dân có trách nhiệm báo cáo Hội
đồng nhân dân cùng cấp về công tác phòng, chống tham
nhũng ở địa phương;
•- Báo cáo về công tác phòng, chống tham nhũng phải
được công khai.

Xây dựng và thực hiện các chế độ, định mức, tiêu
chuẩn (Mục 2)
•Thông thường có hai loại tiêu chuẩn chế độ định mức bị
vi phạm liên quan đến tham nhũng:
•Một là, các chế độ, định mức tiêu chuẩn về lợi ích, nhất
là các chế độ đối với người có chức vụ quản lý: chẳng
hạn, chế độ phục vụ, chế độ dùng xe công, tiêu chuẩn
dùng điện thoại,… Vi phạm trong việc thực hiện chế độ,
định mức, tiêu chuẩn này thường có hai dạng như sau:
•- Tự ý tăng mức được hưởng, tức là hưởng hoặc sử
dụng kinh phí, tài sản vượt mức mà Nhà nước quy định;
•- Tự ý mở rộng đối tượng được hưởng tức là người
không thuộc diện được hưởng một chế độ, lợi ích nào
đó nhưng cũng đã được thụ hưởng.

•Hai là, các chế độ, định mức, tiêu chuẩn có tính chất
chuyên môn kỹ thuật: đó là những quy định để bảo đảm
chất lượng các công trình, quy trình,… với những yêu
cầu chính xác cao về kỹ thuật, thời gian, nguyên vật liệu,
… Việc tự ý thay đổi, hạ thấp tiêu chuẩn này sẽ dẫn đến
việc một số người được hưởng lợi, thực chất là tham
nhũng.
• Biểu hiện điển hình của loại vi phạm này chính là hiện
tượng hạ thấp chi phí thực tế thông qua việc hạ thấp tiêu
chuẩn kỹ thuật để chia nhau hưởng lợi.
•Vì vậy, Luật Phòng, chống tham nhũng đã có các quy
định nhằm bảo đảm việc xây dựng, thực hiện chế độ,
định mức, tiêu chuẩn cũng như trách nhiệm pháp lý
trong trường hợp để xảy ra vi phạm, cụ thể:

Điều 34 Luật này quy định về xây dựng, ban hành
và thực hiện chế độ, định mức, tiêu chuẩn như
sau:
•- Cơ quan nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình có trách nhiệm: xây dựng, ban hành và công khai
các chế độ, định mức, tiêu chuẩn; công khai các quy định
về chế độ, định mức, tiêu chuẩn về quyền lợi đối với từng
loại chức danh trong cơ quan mình; chấp hành nghiêm
chỉnh các quy định về chế độ, định mức, tiêu chuẩn;
•- Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, đơn vị sự
nghiệp và các cơ quan, tổ chức, đơn vị khác có sử dụng
ngân sách nhà nước căn cứ vào quy định nêu trên hướng
dẫn áp dụng hoặc phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền xây dựng, ban hành và công khai các chế độ, định
mức, tiêu chuẩn áp dụng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị
mình.

Điều 35 Luật này quy định về kiểm tra và xử lý vi
phạm quy định về chế độ, định mức, tiêu chuẩn
như sau:
•- Cơ quan, tổ chức, đơn vị phải thường xuyên kiểm tra
việc chấp hành và xử lý kịp thời hành vi vi phạm quy
định về chế độ, định mức, tiêu chuẩn;
•- Người có hành vi vi phạm quy định về chế độ, định
mức, tiêu chuẩn phải bị xử lý theo quy định của pháp
luật;
•- Người cho phép sử dụng vượt chế độ, định mức, tiêu
chuẩn phải bồi thường phần giá trị mà mình cho phép
sử dụng vượt quá; người sử dụng vượt chế độ, định
mức, tiêu chuẩn có trách nhiệm liên đới bồi thường phần
giá trị được sử dụng vượt quá;

•- Người cho phép thực hiện chế độ, định mức, tiêu
chuẩn chuyên môn – kỹ thuật thấp hơn mức quy định
phải bồi thường phần giá trị mà mình cho phép sử dụng
thấp hơn; người hưởng lợi từ việc thực hiện chế độ,
định mức, tiêu chuẩn chuyên môn – kỹ thuật thấp hơn
có trách nhiệm liên đới bồi thường phần giá trị được
hưởng lợi.
•Có thể thấy rất rõ người cho phép sử dụng hoặc thực
hiện trái chế độ, định mức, tiêu chuẩn và người sử dụng,
hưởng lợi từ việc sử dụng, thực hiện sai trái đó đều phải
chịu trách nhiệm pháp lý về hành vi của mình.
• Trong đó, để đề cao trách nhiệm của người có thẩm
quyền, Luật quy định trách nhiệm bồi thường thuộc về
người cho phép sử dụng hoặc thực hiện sai trái mặc dù
có thể người này không trực tiếp sử dụng hoặc hưởng
lợi. Người được hưởng lợi phải liên đới bồi thường.

Quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp,
việc chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công
chức, viên chức (Mục 3)
•Lần đầu tiên khái niệm về quy tắc ứng xử đã được xây
dựng và quy định thành luật.
•Theo đó, Điều 36 Luật Phòng, chống tham nhũng quy
định:
•“Quy tắc ứng xử là các chuẩn mực xử sự của cán bộ,
công chức, viên chức trong thi hành nhiệm vụ, công vụ
và trong quan hệ xã hội, bao gồm những việc phải làm
hoặc không được làm, phù hợp với đặc thù công việc
của từng nhóm cán bộ, công chức, viên chức và từng
lĩnh vực hoạt động công vụ, nhằm bảo đảm sự liêm
chính và trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức”.
•Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức được
công khai để nhân dân giám sát việc chấp hành.

Điều 37 Luật Phòng, chống tham nhũng quy định
Cán bộ, công chức, viên chức không được làm
những việc sau đây:
•a) Cửa quyền, hách dịch, gây khó khăn, phiền hà đối với
cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân trong khi giải quyết
công việc;
•b) Thành lập, tham gia thành lập hoặc tham gia quản lý,
điều hành doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã,
bệnh viện tư, trường học tư và tổ chức nghiên cứu khoa
học tư, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
•c) Làm tư vấn cho doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khác
ở trong nước và nước ngoài về các công việc có liên
quan đến bí mật nhà nước, bí mật công tác, những công
việc thuộc thẩm quyền giải quyết của mình hoặc mình
tham gia giải quyết;

•d) Kinh doanh trong lĩnh vực mà trước đây mình có trách
nhiệm quản lý sau khi thôi giữ chức vụ trong một thời
hạn nhất định theo quy định của Chính phủ;
•đ) Sử dụng trái phép thông tin, tài liệu của cơ quan, tổ
chức, đơn vị vì vụ lợi.
•2. Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ
quan, vợ hoặc chồng của những người đó không được
góp vốn vào doanh nghiệp hoạt động trong phạm vi
ngành, nghề mà người đó trực tiếp thực hiện việc quản
lý nhà nước.
•4. Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ
quan không được để vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con kinh
doanh trong phạm vi do mình quản lý trực tiếp.

•3. Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ
chức, đơn vị không được bố trí vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con,
anh, chị, em ruột của mình giữ chức vụ quản lý về tổ chức
nhân sự, kế toán – tài vụ, làm thủ quỹ, thủ kho trong cơ quan,
tổ chức, đơn vị hoặc giao dịch, mua bán vật tư, hàng hóa, ký
kết hợp đồng cho cơ quan, tổ chức, đơn vị đó.
•5. Cán bộ, công chức, viên chức là thành viên Hội đồng quản
trị, Tổng giám đốc, Phó Tổng giám đốc, Giám đốc, Phó Giám
đốc, Kế toán trưởng và những cán bộ quản lý khác trong
doanh nghiệp của Nhà nước không được ký kết hợp đồng với
doanh nghiệp thuộc sở hữu của vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con,
anh, chị, em ruột; cho phép doanh nghiệp thuộc sở hữu của
vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột tham dự các
gói thầu của doanh nghiệp mình; bố trí vợ hoặc chồng, bố,
mẹ, con, anh, chị, em ruột giữ chức vụ quản lý về tổ chức
nhân sự, kế toán – tài vụ, làm thủ quỹ, thủ kho trong doanh
nghiệp hoặc giao dịch, mua bán vật tư, hàng hóa, ký kết hợp
đồng cho doanh nghiệp.

Điều 40 Luật Phòng, chống tham nhũng quy định một số
nguyên tắc chung nhất để ngăn ngừa việc lợi dụng tặng
quà, nhận quà tặng để hối lộ
•Điều 41 quy định thẩm quyền ban hành quy tắc ứng
xử của cán bộ, công chức, viên chức
•Quy tắc đạo đức nghề nghiệp (Điều 42)
•Quy tắc đạo đức nghề nghiệp là chuẩn mực xử sự phù
hợp với đặc thù của từng nghề bảo đảm sự liêm chính,
trung thực và trách nhiệm trong việc hành nghề (khoản 1
Điều 42).
•Cách thức ban hành quy tắc đạo đức nghề nghiệp
•Tổ chức xã hội – nghề nghiệp phối hợp với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành quy tắc đạo đức nghề
nghiệp đối với hội viên của mình theo quy định của pháp
luật (khoản 2 Điều 42).

Chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức,
viên chức (Điều 43)
•phân biệt giữa việc chuyển đổi vị trí công tác và luân
chuyển cán bộ.
• Luân chuyển cán bộ là nhằm đào tạo, rèn luyện đội
ngũ cán bộ lãnh đạo để họ có điều kiện nâng cao trình
độ hiểu biết và đủ năng lực thực tiễn đáp ứng được yêu
cầu của người lãnh đạo quản lý.
•Chuyển đổi vị trí công tác là nhằm tránh hiện tượng
cán bộ, công chức công tác lâu ở một vị trí sẽ tìm cách
móc nối, cấu kết với những người có liên quan hình
thành “ê-kíp”, “đường dây” tham nhũng.

•Việc chuyển đổi vị trí công tác phải bảo đảm tính ổn
định và chuyên môn của hoạt động công quyền và phải
đặt trên những nguyên tắc nhất định chứ không thể chuyển
đổi một cách tùy tiện. Việc chuyển đổi đơn giản là vị trí
công việc chứ không phải thay đổi tính chất công việc mà
cán bộ, công chức đó đang thực hiện và phải phù hợp với
chuyên môn, trình độ nghiệp vụ của người được chuyển
đổi.
•Ví dụ, một nhân viên thu thuế nông nghiệp có thể chuyển
sang thu thuế công thương nghiệp; một nhân viên có trách
nhiệm theo dõi thu thuế của địa bàn A có thể chuyển sang
theo dõi địa bàn B; một cảnh sát khu vực này có thể sang
làm cảnh sát khu vực khác…
• Vì vậy, Luật quy định: việc chuyển đổi vị trí công tác chỉ áp
dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức không giữ chức
vụ quản lý. Việc luân chuyển cán bộ, công chức, viên chức
giữ chức vụ quản lý thực hiện theo quy định về luân chuyển
cán bộ.

Minh bạch tài sản, thu nhập (Mục 4)
•Một là, Luật không chỉ yêu cầu kê khai tài sản của cá nhân
cán bộ, công chức mà kê khai tài sản của cả vợ và con
chưa thành niên để ngăn chặn việc tẩu tán tài sản tham
nhũng;
•Hai là, Luật có đề cập đến việc xác minh tài sản trong những
trường hợp nhất định và phải có quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền;
•Ba là, Luật quy định về việc công khai bản kết luận về minh
bạch trong kê khai tài sản.
•Với tinh thần đổi mới như trên, nên khác với các văn bản
trước kia chỉ quy định về kê khai tài sản cán bộ, công chức,
Luật Phòng, chống tham nhũng hiện hành đặt ra mục tiêu là
tiến tới minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công
chức.

. Chế độ trách nhiệm của người đứng đầu cơ
quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng
(Mục 5)
•Thứ nhất, người đứng đầu với tư cách là người lãnh đạo, quản lý
cơ quan, tổ chức, đơn vị phải chịu trách nhiệm chung về mọi hoạt
động của cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách. Do
đó, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phải chịu trách nhiệm
về việc để xảy ra hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn
vị do mình quản lý, phụ trách.
•Thứ hai, người đứng đầu với tư cách là người trực tiếp quản lý,
giao nhiệm vụ cho cán bộ, công chức, viên chức dưới quyền. Theo
đó, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phải chịu trách nhiệm
về việc để xảy ra hành vi tham nhũng của người do mình trực tiếp
quản lý, giao nhiệm vụ.
•Về trường hợp liên đới chịu trách nhiệm, người đứng đầu cơ quan,
tổ chức, đơn vị phải chịu trách nhiệm liên đới về việc để xảy ra
hành vi tham nhũng trong lĩnh vực công tác và trong đơn vị do cấp
phó của mình trực tiếp phụ trách.

Cải cách hành chính, đổi mới công nghệ quản lý
và phương thức thanh toán (Mục 6)
•Cải cách hành chính nhằm phòng ngừa tham nhũng
(Điều 56)
•Nhà nước thực hiện cải cách hành chính nhằm tăng
cường tính độc lập và tự chịu trách nhiệm của cơ quan,
tổ chức, đơn vị; đẩy mạnh việc phân cấp quản lý nhà
nước giữa trung ương và địa phương, giữa các cấp
chính quyền địa phương; phân định rõ nhiệm vụ, quyền
hạn giữa các cơ quan nhà nước; công khai, đơn giản
hóa và hoàn thiện thủ tục hành chính; quy định cụ thể
trách nhiệm của từng chức danh trong cơ quan, tổ chức,
đơn vị.

. Tăng cường áp dụng khoa học, công nghệ trong
quản lý (Điều 57)
•- Cơ quan, tổ chức, đơn vị thường xuyên cải tiến công
tác, tăng cường áp dụng khoa học, công nghệ trong
hoạt động của mình, tạo thuận lợi để công dân, cơ quan,
tổ chức, đơn vị thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của
mình.
•- Cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm hướng dẫn
trình tự, thủ tục giải quyết công việc để cơ quan, tổ
chức, đơn vị, cá nhân chủ động thực hiện mà không
phải trực tiếp tiếp xúc với cán bộ, công chức, viên chức.

Đổi mới phương thức thanh toán (Điều 58)
•- Nhà nước áp dụng các biện pháp quản lý để thực hiện
việc thanh toán thông qua tài khoản tại ngân hàng, Kho
bạc nhà nước. Cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm
thực hiện các quy định về thanh toán bằng chuyển
khoản.
•- Chính phủ áp dụng các giải pháp tài chính, công nghệ
tiến tới thực hiện mọi khoản chi đối với người có chức
vụ, quyền hạn quy định tại các điểm a, b và c khoản 3
Điều 1 Luật Phòng, chống tham nhũng và các giao dịch
khác sử dụng ngân sách nhà nước phải thông qua tài
khoản.

Xử lý trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, tổ
chức, đơn vị khi để xảy ra hành vi tham nhũng
trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý,
phụ trách (Điều 55)
•Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi phải chịu
trách nhiệm trực tiếp về việc để xảy ra hành vi tham
nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý,
phụ trách thì bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm
hình sự.
•Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi phải chịu
trách nhiệm liên đới về việc để xảy ra hành vi tham
nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý,
phụ trách thì bị xử lý kỷ luật.

•Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị được xem xét
miễn hoặc giảm trách nhiệm pháp lý quy định tại khoản
1 và khoản 2 Điều 55 Luật Phòng, chống tham nhũng
nếu đã thực hiện các biện pháp cần thiết nhằm ngăn
chặn, khắc phục hậu quả của hành vi tham nhũng; xử lý
nghiêm minh, báo cáo kịp thời với cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền về hành vi tham nhũng.
•Trong kết luận thanh tra, kết luận kiểm toán, kết luận
điều tra vụ việc, vụ án tham nhũng phải nêu rõ trách
nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để
xảy ra hành vi tham nhũng theo các mức độ sau đây:
•- Yếu kém về năng lực quản lý;
•- Thiếu trách nhiệm trong quản lý;
•- Bao che cho người có hành vi tham nhũng.

III. PHÁT HIỆN THAM NHŨNG
(CHƯƠNG III)
•Luật quy định việc phát hiện tham nhũng
thông qua ba hoạt động chủ yếu:
•- Công tác kiểm tra của các cơ quan quản
lý nhà nước;
•- Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát,
kiểm toán;
•- Tố cáo của công dân.

•Kiểm tra là một hoạt động không thể thiếu trong công tác
quản lý. Các hành vi tham nhũng có thể diễn ra trong
mọi lĩnh vực quản lý. Vì vậy, công tác kiểm tra của các
cơ quan quản lý có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng
trong việc phát hiện các vụ việc tham nhũng.
•Vì vậy, Luật Phòng, chống tham nhũng nhấn mạnh
trách nhiệm của các cơ quan quản lý trong việc
thường xuyên tiến hành kiểm tra việc chấp hành
pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc
phạm vi trách nhiệm quản lý của cơ quan mình.
•Tùy từng vụ việc cụ thể, căn cứ vào tính chất và mức độ
của nó mà có thể xử lý theo thẩm quyền hoặc thông báo
cho các cơ quan chức năng xử lý.
•Điều 59 va 60 Luật Phòng, chống tham nhũng quy định

Phát hiện tham nhũng thông qua hoạt động thanh
tra, kiểm toán, điều tra, kiểm sát, xét xử, giám sát
(Mục 2)
•Đây là lực lượng chính trong cuộc đấu tranh chống vi
phạm pháp luật. Chính vì vậy mà các hoạt động này
được quy định rất chặt chẽ và đầy đủ trong các văn bản
pháp luật cao nhất của Nhà nước như Luật Thanh tra,
Luật Khiếu nại, tố cáo, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng
hình sự, Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự, Luật Kiểm
toán nhà nước, Luật Về hoạt động giám sát của Quốc
hội. Luật Phòng, chống tham nhũng
•Điều 62, 63

Tố cáo và giải quyết tố cáo về hành vi tham nhũng
(Mục 3)
•Tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân
được Hiến pháp ghi nhận.
•Tố cáo và trình tự, thủ tục giải quyết cũng như trách
nhiệm giải quyết tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật
nói chung đã được quy định trong Luật Khiếu nại, tố cáo
và các văn bản hướng dẫn thi hành. Luật Phòng, chống
tham nhũng quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo hành
vi tham nhũng.
•Điều 64, 65, 66,67

Điều 65 Luật Phòng, chống tham nhũng quy định trách
nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để công dân tố cáo
•Đặc biệt, Luật nhấn mạnh trách nhiệm của cơ quan nhà
nước trong việc bảo vệ người tố cáo khỏi sự đe dọa trả
thù, trù dập.
•Đây là vấn đề rất quan trọng vì trong nhiều trường hợp,
người bị tố cáo là những người có chức vụ, quyền hạn,
thậm chí giữ chức vụ quyền hạn rất cao nên họ có nhiều
cách để trả thù người tố cáo hoặc trù dập, bưng bít sự
việc mà người tố cáo phát hiện cho Nhà nước.
•Vì vậy, Nhà nước phải có những cơ chế hữu hiệu để
bảo vệ cho người tố cáo. Có như vậy công dân mới
vững tin và tích cực phát hiện các hành vi tham nhũng
để cơ quan nhà nước kịp thời xử lý.

IV. XỬ LÝ HÀNH VI THAM NHŨNG VÀ CÁC
HÀNH VI VI PHẠM PHÁP LUẬT KHÁC
(CHƯƠNG IV)
•Chương lV quy định về xử lý hành vi tham nhũng và các
hành vi vi phạm pháp luật khác gồm 2 mục 4 điều (từ Điều
68 đến Điều 71).
•Đối tượng bị xử lý kỷ luật, xử lý hình sự (Điều 68)
•- Người có hành vi tham nhũng quy định tại Điều 3 (bao
gồm 12 hành vi tham nhũng).
•- Người không báo cáo, tố giác khi biết được hành vi tham
nhũng
•- Người không xử lý báo cáo, tố giác, tố cáo về hành vi
tham nhũng.
•- Người có hành vi đe dọa, trả thù, trù dập người phát hiện,
báo cáo, tố giác, tố cáo, cung cấp thông tin về hành vi
tham nhũng.

•- Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra
hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do
mình quản lý, phụ trách.
•- Người thực hiện hành vi khác vi phạm quy định của
Luật Phòng, chống tham nhũng và quy định khác của
pháp luật có liên quan.
•Các đối tượng theo quy định tại khoản 2, 3, 4, 5 và 6
Điều 68 thì tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi mà có thể xử lý kỷ luật, xử lý hình sự.

Xử lý đối với người có hành vi tham nhũng (Điều
69)
•Người có hành vi tham nhũng thì tùy theo tính chất, mức
độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, truy cứu trách nhiệm hình
sự; trong trường hợp bị kết án về hành vi tham nhũng và
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì phải bị
buộc thôi việc; đối với đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội
đồng nhân dân thì đương nhiên mất quyền đại biểu
Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.
•Điều lưu ý ở quy định này là đối với người có hành vi
tham nhũng đã bị xử lý về mặt hình sự thì đồng thời
cũng phải chịu xử lý kỷ luật với hình thức buộc thôi
việc, điều này thể hiện thái độ kiên quyết của Đảng, Nhà
nước trong việc xử lý người có hành vi tham nhũng.

Nguyên tắc xử lý tài sản tham nhũng (Điều 70)
•Thu hồi tài sản tham nhũng có yếu tố nước ngoài (Điều
71)

Vai trò và trách nhiệm của xã hội trong phòng,
chống tham nhũng
•Luật phòng, chống tham nhũng tiếp tục hoàn thiện các quy định
pháp lý hiện hành nhằm khuyến khích và đảm bảo việc tham gia
chủ động, tích cực và hiệu quả của xã hội trong phòng, chống
tham nhũng, gồm các nội dung sau:
•- Ghi nhận và đề cao vai trò, trách nhiệm của các đoàn thể xã hội,
báo chí, doanh nghiệp và công dân trong phòng, chống tham
nhũng; có các quy định cụ thể nhằm khuyến khích và đảm bảo sự
tham gia của xã hội.
•- Quy định rõ về quyền tiếp cận thông tin của cơ quan, tổ chức và
công dân; cơ chế cụ thể để thực hiện quyền này.
•- Quy định những nội dung cơ bản về tố cáo hành vi tham nhũng.
Chế định về tố cáo hành vi tham nhũng là một phần quan trọng
của Luạt phòng, chống tham nhũng. Đây cũng là cơ chế quan
trọng nhất để công dân trực tiếp tham gia phát hiện các hành vi
tham nhũng.

Hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng
•Trên cơ sở ghi nhận nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ và các bên cùng có lợi, Luật
phòng, chống tham nhũng quy định trách nhiệm của các cơ
quan nhà nước trong hợp tác quốc tế về phòng, chống tham
nhũng như sau:
•- Thanh tra Chính phủ phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Công
an và các cơ quan hữu quan thực hiện hoạt động hợp tác
quốc tế về nghiên cưú, đào tạo, xây dựng chính sách, trao
đổi thông tin, hỗ trợ tài chính, trợ giúp kỹ thuật, trao đổi kinh
nghiệm trong phòng, chống tham nhũng.
•- Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện
nhiệm vụ hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp trong phòng,
chống tham nhũng.

Điều 73. Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng
•1. Ban chỉ đạo trung ương về phòng, chống tham nhũng do
Thủ tướng Chính phủ đứng đầu có trách nhiệm chỉ đạo,
phối hợp, kiểm tra, đôn đốc hoạt động phòng, chống tham
nhũng trong phạm vi cả nước. Giúp việc cho Ban chỉ đạo
trung ương về phòng, chống tham nhũng có bộ phận thường
trực hoạt động chuyên trách.
•2. Ban chỉ đạo tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về
phòng, chống tham nhũng do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đứng đầu có trách
nhiệm chỉ đạo, phối hợp, kiểm tra, đôn đốc hoạt động phòng,
chống tham nhũng trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương. Ban chỉ đạo tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương về phòng, chống tham nhũng có bộ phận giúp việc.

Điều 74. Giám sát công tác phòng, chống tham nhũng
•1. Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội giám sát công tác phòng,
chống tham nhũng trong phạm vi cả nước.
•2. Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát công tác phòng ngừa tham
nhũng thuộc lĩnh vực do mình phụ trách.
•Uỷ ban tư pháp của Quốc hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình giám sát việc phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng.
•3. Hội đồng nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình có trách nhiệm giám sát công tác phòng, chống tham
nhũng tại địa phương.
•4. Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng
nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát
việc thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống tham
nhũng.”
Tags