Môn Học: Pháp Luật Đại Cương Ly Hôn Ở Nước Ta Trong Giai Đoạn Hiện Nay, Thực Trạng Và Giải Pháp

hoangvanminh10031995 129 views 26 slides Jan 06, 2025
Slide 1
Slide 1 of 26
Slide 1
1
Slide 2
2
Slide 3
3
Slide 4
4
Slide 5
5
Slide 6
6
Slide 7
7
Slide 8
8
Slide 9
9
Slide 10
10
Slide 11
11
Slide 12
12
Slide 13
13
Slide 14
14
Slide 15
15
Slide 16
16
Slide 17
17
Slide 18
18
Slide 19
19
Slide 20
20
Slide 21
21
Slide 22
22
Slide 23
23
Slide 24
24
Slide 25
25
Slide 26
26

About This Presentation

Luận Văn Uy Tín viết thuê luận văn thạc sĩ - tốt nghiệp. Zalo: 0983 018 995


Slide Content

Downloaded by Hà N?i Hoa gi?y nhún ([email protected])
LUẬN VĂN UY TÍN
VIẾT THUÊ LUẬN VĂN THẠC SĨ – TỐT NGHIỆP
ZALO: 0983 018 995
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
MÔN HỌC: PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
LY HÔN Ở NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY,
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Mã LHP: GELA220405_21_1_42 (Thứ ba, tiết 14-15)
Tp Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2025

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................1
1.Lý do chọn đề tài...........................................................................................1
2.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................1
3.Đối tượng và phạm vi nguyên cứu................................................................1
4.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu....................................................2
5.Ý nghĩa thực tiễn...........................................................................................2
6.Kết cấu của tiểu luận.....................................................................................2
CHƯƠNG 1: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ LY HÔN ............................................3
1.1.Khái niệm ly hôn........................................................................................3
1.2.Điều kiện ly hôn.........................................................................................3
1.3.Các trường hợp ly hôn, hạn chế ly hôn ở nước ta.......................................4
1.3.1.Các trường hợp ly hôn theo luật pháp Việt Nam..................................4
1.3.2.Hạn chế ly hôn......................................................................................4
1.4.Hệ quả của ly hôn.......................................................................................6
1.4.1.Vấn đề chia tài sản khi ly hôn..............................................................6
1.4.2.Vấn đề nuôi con chung khi ly hôn........................................................7
CHƯƠNG 2: LY HÔN Ở NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ...............8
2.1.Thực trạng về tình hình ly hôn nước ta hiện nay........................................8
2.1.1.Đánh giá chung tình hình ly hôn của nước ta hiện nay........................8
2.1.2.Một số vụ việc cụ thể...........................................................................9
2.2.Giải pháp hạn chế tình trạng ly hôn ở nước ta..........................................13
KẾT LUẬN..............................................................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO

MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Kết hôn và ly hôn là hai mặt đối nghịch nhau trong đời sống gia đình. Nếu
kết hôn là việc xây dựng nên “tế bào của xã hội” thì ly hôn sẽ chấm dứt mối
quan hệ đó về mặt pháp lý. Theo luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, nhà nước
Việt Nam thực hiện và bảo hộ nguyên tắc tự do hôn nhân, trong đó có quyền tự
do ly hôn của vợ chồng. Nhà nước ta không thể bắt buộc cá nhân duy trì mối
quan hệ hôn nhân đã nguội lạnh và giữa vợ chồng không còn muốn chung sống
với nhau. Ly hôn được xem là tất yếu một khi cuộc sống hôn nhân đã đi vào ngõ
cụt. Việc ly hôn sẽ giúp cho mỗi cá nhân đã giải thoát khỏi sự đày đọa về tinh
thần lẫn thể xác trong mối quan hệ gia đình không còn êm đẹp. Tuy nhiên, ly
hôn chỉ giải quyết và mang lại lợi ích cho các cá nhân, xong những hệ lụy tiêu
cực đến cá nhân khác và xã hội mà ly hôn gây ra vẫn còn đó. Để góp phần xây
dựng nên một xã hội phát triển, văn minh thì việc giảm thiểu tình trạng ly hôn ở
nước ta là một nhiệm vụ quan trọng, cần được thực hiện bằng hệ thống Pháp luật
nhà nước Việt Nam cũng như trong công tác tư tưởng. Muốn tỉ lệ ly hôn giảm
thiểu, chúng ta phải có cái nhìn tổng quan về thực trạng ly hôn hiện nay ở nước
ta. Qua đó, ta có thể lựa chọn hoặc đề xuất những biện pháp phù hợp để giải
quyết trong từng tình huống ly hôn cụ thể. Chính vì lý do đó mà chúng tôi quyết
định chọn đề tài “Ly hôn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, thực trạng và
giải pháp”.
2.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Bài tiểu luận này được tạo ra nhằm mục đích giúp cho mọi người có cái
nhìn chuẩn mực về hôn nhân và gia đình. Cụ thể trong việc định hướng cho mỗi
cá nhân tìm cho mình một mái ấm hạnh phúc, tránh việc ly hôn sau hôn nhân.
Cùng với đó là nêu lên những giải pháp nhằm giảm thiểu, ngăn chặn tình trạng
ly hôn vẫn còn nan giải ở Việt Nam hiện nay.
1

3.Đối tượng và phạm vi nguyên cứu
-Đối tượng nghiên cứu: Tình trạng ly hôn trong giai đoạn hiện nay.
-Phạm vị nghiên cứu: Ở Việt Nam.
4.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
-Cơ sở lý luận: Dựa vào luật Hôn nhân và gia đình; kết hợp giữa lý luận
và thực tiễn; phân tích, tổng hợp.
-Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp phân tích tổng hợp.
5.Ý nghĩa thực tiễn
Bài tiểu luận này làm rõ quy định ly hôn của pháp luật nước ta, đồng thời
cũng cho thấy được tình trạng ly hôn hiện nay và những biện pháp khắc phục
tình trạng này.
6.Kết cấu của tiểu luận
Bài tiểu luận có hai phần chính:
-Chương 1: Quy định của pháp luật về hôn nhân
-Chương 2: Thực trạng ly hôn ở nước ta hiện nay và giải pháp
2

CHƯƠNG 1: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ LY HÔN
1.1.Khái niệm ly hôn
Trong khoa học pháp lý nói chung và khoa học Luật Hôn nhân và gia đình
nói riêng, việc đưa ra khái niệm đầy đủ về ly hôn có ý nghĩa quan trọng, phản
ánh quan điểm chung nhất của nhà nước ta về ly hôn, tạo cơ sở lý luận cho việc
xác định bản chất pháp lý của ly hôn, xác định nội dung phạm vi điều chỉnh của
các quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình về ly hôn và các vấn đề phát sinh
khác.
Khoản 14 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014 quy
định: “Ly hôn là việc chấm dứt quan vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật của Tòa án”.
Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử, có vai trò quan trọng
trong việc góp phần tuân thủ, chấp hành các quy định của pháp luật, phán quyết
ly hôn của Tòa án thể hiện dưới hình thức: bản án, quyết định.
Như vậy, ly hôn chính là sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ vợ chồng
theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Ly hôn dựa trên sự tự
nguyện của vợ chồng, nó là kết quả của hành vi có ý thức của vợ hoặc chồng khi
thực hiện quyền ly hôn của mình.
1.2.Điều kiện ly hôn
Ly hôn là hành vi có tính pháp lý, phải được giải quyết bởi luật pháp thế
nên việc căn cứ ly hôn cũng phải tuân theo những quy định chặt chẽ bởi pháp
luật Việt Nam.Điều kiện cần cho ly hôn chủ yếu dựa vào việc xem xét các tình
tiết, sự việc phản ánh tình trạng mối quan hệ vợ, chồng. Khoản 1 Điều 56 Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
3

Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành
thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có
hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiệm trọng quyền, nghĩa vụ
của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời
sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt
được.
1.3.Các trường hợp ly hôn, hạn chế ly hôn ở nước ta
1.3.1.Các trường hợp ly hôn theo luật pháp Việt Nam
Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam thì có hai thủ tục giải
quyết ly hôn là: thủ tục giải quyết việc dân sự (yêu cầu công nhận thuận tình ly
hôn) và thủ tục giải quyết vụ án dân sự (ly hôn đơn phương theo yêu cầu của
một bên vợ/chồng). Từ đó, có thể thấy có hai trường hợp ly hôn là ly hôn thuận
tình và ly hôn đơn phương:
Thuận tình ly hôn là trường hợp mà cả hai vợ chồng cùng yêu cầu chấm
dứt hôn nhân và được thể hiện bằng đơn thuận tình ly hôn của vợ chồng.
Khi giải quyết thuận tình ly hôn, sự tự nguyện thật sự và đồng thuận giữa
hai bên (vợ chồng) là yếu tố quan trọng phải có, nếu thiếu sự tự nguyện của một
trong hai bên hoặc cả hai thì Tòa án không thể công nhận thuận tình ly hôn.
Đơn phương ly hôn là trường hợp chỉ có một trong hai vợ chồng yêu cầu
được chấm dứt quan hệ hôn nhân.
Khi một bên vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn thì tòa án phải tiến hành hòa
giải. Nếu hòa giải đoàn tụ thành, người yêu cầu ly hôn rút đơn yêu cầu ly hôn thì
Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Khi người yêu cầu ly hôn không
rút đơn yêu cầu ly hôn thì tòa án lập biên bản hòa giải thành. Sau 15 ngày kể từ
ngày lập biên bản nếu vợ chồng không có sự thay đổi ý kiến cũng như viện kiểm
sát không phản đối thì Tòa án ra quyết định công nhận hòa giải đoàn tụ thành và
quyết định này có hiệu lực pháp luật ngay. Nếu Tòa án hòa giải đoàn tụ không
4

thành thì lập biên bản hòa giải đoàn tụ không thành và mở phiên tòa xét xử theo
thủ tục chung.
1.3.2.Hạn chế ly hôn
Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Vợ chồng bình
đẳng về quyền yêu cầu ly hôn. Trong suốt thời kỳ hôn nhân, vợ chồng đều có
quyền yêu cầu ly hôn như nhau, không ai được cưỡng ép, lừa dối, cản trở vợ,
chồng hoặc cả hai vợ chồng trong việc thực hiện quyền yêu cầu ly hôn của vợ,
chồng. Tuy nhiên dựa trên tinh thần nhân đạo, pháp luật nước Việt Nam hạn chế
những chủ thể sau đây về quyền ly hôn:
Thứ nhất, theo quy định tại Khoản 3 Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình:
“Người chồng không có quyền yêu cầu ly hôn với tư cách nguyên đơn trong
trường hợp người vợ đang có thai, sinh con hoặc nuôi con dưới mười hai tháng
tuổi”. Việc hạn chế quyền yêu cầu ly hôn này sẽ chấm dứt khi người vợ đã qua
thời kì mang thai, sinh con hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Như vậy, trong
trường hợp người vợ đã bị sảy thai thì quyền yêu cầu ly hôn của người chồng
được phục hồi.
Thứ hai, quy định hạn chế quyền yêu cầu ly hôn tại Khoản 3 Điều 51 luật
hôn nhân và gia đình năm 2014 chỉ đặt ra đối với người chồng mà không áp
dụng đối với người vợ. Trong thời gian người vợ đang có thai, sinh con hoặc
nuôi con dưới 12 tháng tuổi, nếu xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã quá sâu sắc,
mục đích của hôn nhân không đạt được, việc tiếp tục duy trì hôn nhân sẽ gây bất
lợi cho quyền lợi của người vợ, ảnh hưởng đến sức khỏe của người vợ, thai nhi
hoặc trẻ sơ sinh mà người vợ có yêu cầu ly hôn thì tòa án thụ lý giải quyết vụ
kiện theo thủ tục chung. Đây là một trong những quy định thể hiện tính nhân
đạo sâu sắc của pháp luật hôn nhân và gia đình. Quyền lợi của trẻ em và phụ nữ
có thai được pháp luật tôn trọng, đề cao và bảo vệ chặt chẽ.
Thứ ba, điều này được áp dụng ngay cả trong trường hợp người vợ đang
mang thai với người khác hoặc bố của đứa trẻ là ai thì người chồng vẫn bị hạn
chế quyền ly hôn. Điều này cho thấy trong trường hợp người chồng phát hiện vợ
5

ngoại tình và đứa con vợ mình đang mang thai, mới sinh hay dưới 12 tháng tuổi
không phải là con của mình thì vẫn bị hạn chế quyền ly hôn tức là không được
quyền yêu cầu Tòa án cho ly hôn.
Thứ tư, điều luật quy định người vợ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì
liệu con nuôi của hai vợ chồng thì người chồng có được yêu cầu ly hôn không?
Điều này vẫn còn gây bối rối trong việc giải quyết của các Tòa. Có Tòa thì
không hạn chế ly hôn của người chồng khi đang nhận con nuôi, vì người vợ
không bị tổn hại sức khỏe, tâm lý không bị ảnh hưởng nhiều nên người chồng có
quyền yêu cầu ly hôn. Ở đây chỉ xét đến trường hợp con của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân. Hay Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 mới có quy định về việc
mang thai hộ, nếu người vợ vì mục đích nhân đạo, đang trong thời gian mang
thai hộ hoặc đang trong thời gian sinh con hộ thì liệu người chồng có được yêu
cầu ly hôn không? Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chưa có văn bản hướng
dẫn các trường hợp cụ thể. Căn cứ về nguyên tắc bảo vệ phụ nữ và trẻ em suy ra
trong trường hợp người vợ đang mang thai hộ hoặc sinh con hộ, thì người chồng
vẫn bị hạn chế ly hôn.
Thứ năm, cần lưu ý rằng, khi vợ, chồng không thể bộc lộ ý chí do bị bệnh
tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi
của mình mà dẫn tới việc được xác định mà mất hành vi năng lực dân sự thì
người vợ, chồng đó cũng không thể thực hiện quyền yêu cầu ly hôn. Trường hợp
này không được coi là hạn chế quyền yêu cầu ly hôn vì đây là trường hợp mà
bản thân người mất năng lực hành vi dân sự không có khả năng tự thực hiện
quyền của mình[2].
1.4.Hệ quả của ly hôn
1.4.1.Vấn đề chia tài sản khi ly hôn
Việc phân chia tài sản giữa vợ chồng sau khi ly hôn là điều bắt buộc. Hai
bên (vợ và chồng) có thể tự nguyện thỏa thuận việc phân chia tài sản chung, tài
sản riêng và các nghĩa vụ tài chính khác hoặc yêu cầu tòa án phân chia theo quy
định của pháp luật:
6

Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về việc giải quyết tài
sản chung của vợ chồng như sau:
Khi ly hôn chia tài sản do các bên thỏa thuận; nếu đôi bên không thỏa
thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết theo nguyên tắc sau:
-Tài sản riêng của bên nào thuộc sở hữu bên đó.
-Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc chia đôi nhưng có xem xét
hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào
việc xác lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ chồng trong gia
đình coi như lao động có thu nhập. Bảo vệ quyền lợi ích hợp của vợ, con chưa
thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có
khả năng lao động và không có tài sản tự nuôi mình. Bảo vệ lợi ích chính đáng
mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục
lao động thu nhập.
Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật theo giá trị, nếu bên
nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì
phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch.
1.4.2.Vấn đề nuôi con chung khi ly hôn
Sau khi ly hôn thì quan hệ giữa cha – mẹ đã kết thúc nhưng quan hệ giữa
cha mẹ và con vẫn tồn tại. Cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc,
nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành
vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Quyền và nghĩa vụ nuôi con của mỗi bên sau khi ly do hai vợ chồng thỏa thuận.
Trong trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho
bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con, nếu con từ đủ 7 tuổi
trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp
người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
7

Người cha hoặc người mẹ không trực tiếp nuôi con phải cấp dưỡng nuôi con (theo
quy định cấp dưỡng).
8

CHƯƠNG 2: LY HÔN Ở NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1.Thực trạng về tình hình ly hôn nước ta hiện nay
2.1.1.Đánh giá chung tình hình ly hôn của nước ta hiện nay
Với sự phát triển chóng mặt của kinh tế xã hội hiện nay, cuộc sống vật
chất và tinh thần của con người ngày càng được đáp ứng đầy đủ. Cuộc sống trở
nên ấm no có thể làm cho mỗi các nhân quên đi những niềm hạnh phúc vô giá
mà một mái ấm thực sự mang lại. Khi hạnh phúc gia đình không còn được vun
đắp, tình cảm đã nguội lạnh thì ly hôn là một biện pháp thường thấy ở những
cặp vợ chồng. Điều đó góp phần vào tình trạng ly hôn ngày một tăng nhanh ở
nước ta hiện nay, đặc biệt ở giới trẻ.
Theo thống kê của Tòa án Nhân dân tối cao năm 2010, nước ta có gần
8.000 vụ ly hôn, tăng hơn 9.700 vụ so với năm 2009. Trong đó, số cặp vợ
chồng trẻ dưới 40 tuổi ly hôn chiếm khoảng 30%. Những con số trên đó cho
thấy tình trạng ly hôn từ hơn 10 năm trước đã ở mức độ đáng báo động. Và 9
năm sau, theo thống kê của Tòa án Nhân dân các cấp, ở Việt Nam có khoảng
60.000 vụ/năm, tương đương 0.75 vụ/1.000 dân. Tỷ lệ ly hôn so với kết hôn là
25% nghĩa là trong 4 đôi đăng ký kết hôn thì lại có một đôi ra tòa vào năm 2019,
dân số tình trạng ly hôn chiếm tới 2.1% dân số. Tòa án nhân dân lúc nào cũng
trong tình trạng bận rộn bởi án ly hôn chiếm tới 50% các án về dân sự nói
chung[5].
Còn theo một công trình nghiên cứu xã hội học của tiến sĩ Nguyễn Minh
Hòa (Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP Hồ Chí Minh) tỷ lệ ly
hôn/kết hôn ở Việt Nam là 31.4%, tức là cứ ba cặp kết hôn thì lại có một cặp ly
hôn. Con số khó tin, nhưng đó là sự thật. Điều đáng buồn hơn là 60% số vụ ly
hôn này thuộc về các gia đình trẻ, tuổi vợ chồng chỉ từ 23 – 30, trong đó 70% ly
hôn khi mới kết hôn chỉ từ 1 – 7 năm và hầu hết đã có con… Kết quả này cũng
được phản ánh rõ nét qua thực tiễn xét xử án ly hôn, khi độ tuổi ly hôn ngày
càng trẻ hóa. Ly hôn trong gia đình trẻ đang gia tăng, từ 18 – 30 tuổi là 34,7%,
9

từ 30 – dưới 50 là hơn 55%, hơn 50 tuổi là 8,7%. Như vậy, thực trạng số năm
kết hôn ngày càng ngắn lại. Đây là thực tế mà trung tâm tư vấn nào cũng thấy rất
rõ[2].
Trong cuộc sống hiện đại, dường như những cặp vợ chồng trẻ chưa cảm
nhận được hết những giá trị của gia đình. Trước khi bước vào cuộc sống chung
họ không có sự chuẩn bị đối với mặt khó khăn. Để rồi mỗi khi xảy ra va chạm,
họ thường chọn giải pháp tiêu cực là ly hôn. Với tình hình diễn ra đáng báo
động như trên thì mọi người trong chúng ta cần ý thức thật đúng đắn về vấn đề
hôn nhân và ly hôn.
2.1.2.Một số vụ việc cụ thể
- Vụ ly hôn của vợ chồng ông Đặng Lê Nguyên Vũ và bà Lê Hoàng
Diệp Thảo
Tóm tắt vụ việc:
Vụ việc của vợ chồng chủ hãng cafe Trung Nguyên là một vụ ly hôn đầy
chấn động trên cả nước và có sức ảnh hưởng lớn. Và gây ra một làn sóng dư
luận trong quá trình xét xử. Tuy nhiên cuối cùng Tòa án Nhân dân cũng đã đưa
ra phán quyết cuối cùng.
Tháng 4-2015, bà Lê Hoàng Diệp thảo bất ngờ bị chồng mình bãi chức
danh phó tổng giám đốc tại tập đoàn Trung Nguyên. Từ đó, bà Thảo và ông Vũ
xuất hiện nhiều mâu thuẫn trong cuộc sống gia đình. Tháng 10-2015, bà Thảo
nộp đơn ly hôn lên tòa án nhân dân TP. HCM và đến tháng 11 tòa chính thức thụ
lý vụ án.
Tháng 8-2017, cơ quan tư pháp áp dụng những biện pháp khẩn cấp tạm
thời để bảo vệ tài sản của ông Phạm Lê Nguyên Vũ và bà Lê Hoàng Diệp Thảo.
Sau đó, Tòa án nhân dân TP. HCM tổ chức ba phiên hòa giải nhưng bà Thảo đều
vắng mặt nên Tòa án quyết định đình chỉ vụ án ly hôn.
Sau khi bà Thảo làm đơn kháng cáo bãi bỏ quyết định đình chỉ ly hôn
thành công. Ngày 20-2-2019, phiên tòa sơ thẩm vụ ly hôn vợ chồng Trung
Nguyên diễn ra. Đến ngày 27-3-2019, tòa án sơ thẩm quyết định chấp thuận cho
10

ông Vũ và bà Thảo Ly hôn, tiến hành phân chia tài sản và quyền nuôi con.
Nhưng vì nhận thấy những điều bất hợp lý trong bản án sơ thẩm về phân chia tài
sản, bà Thảo và ông Vũ quyết định kháng cáo bản án sơ thẩm. Sau những phiên
tòa bị hoãn vào tháng 9, 10, 11 năm 2019 thì đến 2-12-2019, Tòa án nhân dân
cấp cao TP. HCM mở phiên phúc thẩm xét xử vụ ly hôn. Hai ngày sau đó, viện
Kiểm sát đề nghị hủy bản án sơ thẩm liên quan đến vấn đề liên quan đến việc
phân chia tài sản, đề nghị trả tòa hồ sơ để cấp sơ thẩm xét xử lại.
Kết quả xử lí:
Bản án phúc thẩm ngày 5-12-2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại
TP.HCM đã tuyên xử công nhận thuận tình ly hôn giữa bà Thảo và ông Vũ. Về
cấp dưỡng, tòa công nhận sự tự nguyện của bà Thảo về việc nuôi bốn người con,
ông Vũ cấp dưỡng 2,5 tỷ đồng mỗi người con/năm từ năm 2013 đến khi học
xong đại học.
Về chia tài sản chung: tổng tài sản của bà Thảo với ông Vũ giải quyết chia
giá trị hơn 7.900 tỷ đồng (làm tròn). Bà Lê Hoàng Diệp Thảo được chia tổng số
tài sản trị giá hơn 3.245 tỷ đồng, ông Đặng Lê Nguyên Vũ được chia tổng số tài
sản trị giá hơn 4.687 tỷ đồng.
Trong đó, về bất động sản, Tòa án Nhân dân tối cao tuyên giao cho bà Lê
Hoàng Diệp Thảo 7 bất động sản, tổng trị giá gần 376 tỷ đồng; giao ông Đặng
Lê Nguyên Vũ 6 bất động sản, tổng trị giá được chia là hơn 350 tỷ đồng. Ông
Vũ và bà Thảo có trách nhiệm liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để
làm thủ tục chuyển đổi giấy chứng nhận.
Về bất động sản, tòa giao ông Vũ sở hữu toàn bộ sáu căn nhà và đất mà
ông Vũ đang quản lý và sử dụng có giá trị 350 tỷ đồng tại TP. HCM, TP. Nha
Trang (Khánh Hòa) và TP. Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk). Tòa giao bà Thảo sở hữu
số bất động sản trị giá gần 376 tỉ đồng tại TP.HCM và TP Đà Nẵng, cùng số tài
sản là tiền, vàng, các loại ngoại tệ đang gửi ngân hàng, tổng cộng là 1.764 tỉ
đồng. Ông Vũ phải thanh toán chênh lệch tài sản cho bà Thảo gần 1.224 tỉ đồng.
11

Giao bà Lê Hoàng Diệp Thảo được sở hữu toàn bộ tiền đứng tên bà Thảo
gửi tại các ngân hàng, với số tiền hơn 1.551 tỷ đồng. Giao ông Đặng Lê Nguyên
Vũ được sở hữu toàn bộ số cổ phần đang ghi tên ông Vũ và bà Lê Hoàng Diệp
Thảo tại các công ty trong Tập đoàn Trung Nguyên, tương đương số tiền trị giá
khoảng 5.655 tỷ đồng. Qua đó, Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao
tuyên ông Vũ thanh toán cho bà Thảo số tiền chênh lệch về giá trị tài sản thực
nhận so với giá trị tài sản được chia là hơn 1.318 tỉ đồng. Các quyết định khác
của bản án phúc thẩm vẫn giữ nguyên[4].
- Vụ việc ly hôn của anh Ngô Trọng Văn và chị Vũ Thị Thúy
Tóm tắt vụ việc:
Tuy đây là một vụ ly hôn ở địa phương, tuy nhiên qua vụ ly hôn của anh
Ngô Trọng Văn và chị Vũ Thị Thúy ở Bắc Ninh đã cho ta nhiều bài học đối với
những tài sản có giá trị cao và cần tuân thủ đúng những quy định của pháp luật
để bảo vệ tài sản của mình.
Năm 1995, chị Vũ Thị Thúy (sinh năm 1977) kết hôn với anh Ngô Trọng
Văn (sinh năm 1975) là người cùng xã (xã Mão Điền, huyện Thuận Thành, tỉnh
Bắc Ninh). Năm 1998, anh trai chị Thúy là Vũ Đăng Thành đã đưa vợ chồng chị
sang Liên bang Nga để lao động. Đến năm 2013 và 2016, lần lượt vợ chồng chị
về Việt Nam để kinh doanh. Vợ chồng chị Thúy sinh được hai người con, đến
nay các cháu đã bắt đầu vào đại học. Trong quá trình lao động ở Liên bang Nga,
vợ chồng anh chị có tích lũy được một số tiền và gửi về Việt Nam và nhờ người
anh bên chồng giữ hộ và để số tài sản đó cho chồng và bố chồng đứng tên. Đến
năm 2016, chị Thúy phát hiện chồng mình có người phụ nữ khác, cuộc sống nảy
sinh nhiều mâu thuẫn, không thể tiếp tục chung sống. Cuối năm 2017, chị Thúy
đã viết đơn gửi Tòa án Nhân dân tỉnh Bắc Ninh xin ly hôn. Tuy nhiên lúc này,
anh Ngô Trọng Văn không chấp nhận chia tài sản chung của hai vợ chồng.
Không chỉ vậy, anh Văn cũng âm thầm một mình đến ngân hàng giải ngân
khoản tiền 3,4 tỷ đồng (đứng tên vay là hai vợ chồng) mà chị Thúy không hề
biết.
12

Kết quả xử lí:
Với bằng chứng có trong hồ sơ vụ án, lời khai của các bên đương sự, tòa
án ở cả cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã làm rõ quyền sở hữu từng loại tài sản
này.Từ các căn cứ có trong hồ sơ vụ án, tòa phúc thẩm đã chấp nhận yêu cầu của
chị Vũ Thị Thúy xác định các mảnh đất số 282 Ngô Gia Tự, thửa đất tại xóm
Táo, xã Mão Điền, thửa đất L06-09 phường Kinh Bắc là tài sản chung của vợ
chồng chị. Tòa cũng phán quyết chia đôi số tài sản này, chị Thúy-anh Văn mỗi
người hưởng một nửa. Tòa đã bác toàn bộ đơn kháng cáo của anh Ngô Trọng
Văn và người thân, đồng thời giữ nguyên bản án sơ thẩm. Đối với khoản vay 3,4
tỷ đồng tại ngân hàng, tòa xác định giải ngân cho anh Văn nên anh Văn phải có
trách nhiệm trả số tiền này[1].
- Vụ ly hôn của Ông Bùi Đức Minh và Bà Nguyễn Thanh Thủy (Phó
chủ tịch tập đoàn Bảo Sơn)
Tóm tắt vụ việc:
Ông Bùi Đức Minh kết hôn với Bà Nguyễn Thanh Thủy (nay là Phó chủ
tịch Tập đoàn Bảo Sơn) từ năm 2004 và có hai con chung. Cuối năm 2010, Bà
Thủy gửi đơn lên Tòa án Nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội, yêu cầu
khởi kiện xin ly hôn. Về con chung, giao cho Bà Thủy trực tiếp chăm sóc, nuôi
dưỡng cả hai cho đến khi các cháu tròn 18 tuổi hoặc cho đến khi có sự thay đổi
khác. Bùi Đức Minh có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở. Về
tài sản, dành quyền khởi kiện tranh chấp tài sản chung, sở hữu chung cho anh
Bùi Đức Minh nếu có chứng cứ chứng minh và có yêu cầu. Tài sản lớn nhất
trong vụ tranh chấp trên chính là toàn bộ quyền sử dụng đất tại dự án Khu du
lịch sinh thái cao cấp An Khánh - Hoài Đức, đứng tên Nguyễn Thanh Thủy -
Tổng giám đốc công ty Trách nhiệm hữu hạn giải trí Thiên đường Bảo Sơn làm
chủ đầu tư rộng 34 ha.
Ngày 21/4/2011, Tòa án Nhân dân quận Hoàn Kiếm mở phiên tòa sơ
thẩm xét xử vụ việc này. Bản án của Tòa án Nhân dân quận Hoàn Kiếm quyết
định, Bà Nguyễn Thanh Thủy được ly hôn với ông Bùi Đức Minh. Sau khi tòa
13

tuyên án, Minh đã làm đơn kháng cáo toàn bộ bản án, yêu cầu hủy bản án sơ
thẩm ngày 21/4/2011. Không muốn ly hôn và Minh cho rằng, nguyên nhân dẫn
đến hạnh phúc gia đình bị tan vỡ là do ông Trần Thế Cương (sinh năm 1973, trú
tại phường Vĩnh Phúc, quận Ba Đình) và ông Nguyễn Mạnh Cường (sinh năm
1973, trú tại phố Hoàng Hoa Thám, quận Ba Đình) có quan hệ bất chính với Bà
Thủy. Ngoài ra, Minh nghi ngờ việc không được nuôi con là do ông Nguyễn
Hữu Độ (sinh năm 1962, trú tại phố Thái Hà, quận Đống Đa – Giám đốc Sở
GD&ĐT Hà Nội) đã cố ý can thiệp.Theo lý giải của bị cáo, ông Độ đã không
giải quyết khiếu nại trong việc tố cáo một số giáo viên, hiệu trưởng đã không
cho ông Minh gặp con và ông Độ đã tham gia “chạy án” trong vụ ly hôn với vợ.
Với lý do này, Bùi Đức Minh đã làm đơn tố cáo ông Trần Thế Cương,
Nguyễn Mạnh Cường và ông Nguyễn Hữu Độ, đồng thời phát tán thông tin với
nội dung: Ông Cương, Cường có quan hệ bất chính với Bà Thủy, ông Độ là mắt
xích trong đường dây “chạy án” tới các cơ quan trung ương và thành phố để xử
ly hôn bất lợi cho bị cáo. Để phục vụ việc phát tán các tài liệu bịa đặt, Minh đã
tạo lập một trang Web và hơn 236 sim điện thoại di động các mạng, nhắn tin cho
một số lãnh đạo các Sở, ban, ngành thành phố Hà nội, nơi các ông Độ, Cương và
Cường công tác.
Tại phiên xử, trả lời về những chứng cứ, tài liệu chứng minh cho những
nội dung tố cáo vợ ngoại tình, Minh khai nhận “chỉ thấy tin nhắn qua lại của vợ
và những người đàn ông khác, chưa từng bắt quả vợ phản bội”. Trong phần
thẩm vấn, Minh cũng thừa nhận đã sai khi loan truyền những thông tin không có
cơ sở. Ông Minh cũng không chứng minh được tài sản chung giữa ông và bà
Thủy.
Kết quả xử lí:
Sau khi xem xét toàn diện vụ án, Toà tuyên phạt bị cáo Bùi Đức Minh 15
tháng tù. Ông Minh không chứng minh được tài sản chung giữa ông và bà Thủy
và quyền nuôi 2 con chung vẫn thuộc về bà Thủy[6].
2.2.Giải pháp hạn chế tình trạng ly hôn ở nước ta
14

Ly hôn đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng mà nước ta đang gặp phải,
Các trường hợp ly hôn có xu hướng diễn biến phức tạp và khó giải quyết. Bên
cạnh đó Ly hôn còn để lại nhiều hậu quả cho bản thân và gia đình. Tuy nhiên
tình trạng ly hôn có thể suy giảm nếu áp dụng những giải pháp hợp lý.
Để hạn chế tình trạng ly hôn hiện nay, chúng tôi xin đề xuất một số ý
kiến:
- Giải pháp kinh tế, chính trị, xã hội:
Tìm những giải pháp đúng hướng trong việc phát triển kinh tế hộ gia đình
cũng như định hướng chiến lược phát triển nền kinh tế một cách đúng đắn. Để từ
đó hộ gia đình có một nền kinh tế mạnh phát triển bền vững ổn định. Thực tế
cho thấy, một nền kinh tế tốt có tính chất phát triển bền vững ổn định sẽ khiến
cho mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình trở nên tốt đẹp hơn. Những
mâu thuẫn xuất phát từ lý do túng bẩn, khó khăn về kinh tế không còn xuất hiện
trong các gia đình nữa. Và đương nhiên các vụ án xuất phát từ lý do kinh tế
cũng đã không còn nữa.
Nền kinh tế chính trị xã hội tác động rất lớn đến sự phát triển của xã hội
nói chung cũng như gia đình nói riêng. Xã hội càng tiến bộ văn minh thì con
người càng có ý thức trong thiết lập và củng cố mối quan hệ của mình. Đẩy lùi
những mâu thuẫn xuất hiện trong gia đình chính là hạn chế rủi ro của các vụ ly
hôn. Một gia đình giàu mạnh, ấm lo hạnh phúc thì không lý gì dẫn đến tình trạng
ly hôn.
Để xây dựng gia đình bền vững, hạnh phúc, các cặp vợ chồng cần nhận
thức vai trò, vị trí, trách nhiệm của mình và phải biết yêu thương, lắng nghe,
chia sẻ, tôn trọng, nhường nhịn, thủy chung với nhau. Mỗi người nên tự biết
điều chỉnh, bỏ cái tôi, khi có mâu thuẫn, xung đột xảy ra cần bình tĩnh, khéo léo
giải quyết các vấn đề. Nói không với những tệ nạn xã hội. Điều quan trọng nhất
là phải biết nghĩ về con cái, tôn trọng những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia
đình Việt Nam. Trước khi kết hôn cần trang bị kiến thức, kỹ năng tổ chức cuộc
sống gia đình, có nghề nghiệp và thu nhập ổn định.
15

- Giải pháp giáo dục pháp luật, giáo dục ý thức đạo đức.
Cần khuyến khích các cặp vợ chồng trước khi làm đơn xin ly hôn tại tòa
án thì cần hòa giải ở cơ sở. Hòa giải viên là những người thường xuyên gắn bó,
gần gũi với các cặp vợ chồng ở nơi sinh sống. Họ sẽ đưa ra những lời khuyên
đúng đắn, cần thiết cho người trong cuộc, tạo điều kiện hàn gắn mối quan hệ
trong gia đình. Các ngành, các cấp, các tổ chức đoàn thể cần đẩy mạnh các hoạt
động truyền thông về xây dựng gia đình; đặc biệt, chú trọng về giáo dục đời
sống gia đình thông qua các nghi lễ tôn giáo, phong tục tập quán, truyền thống
tốt đẹp của dân tộc về lòng thủy chung, trách nhiệm của vợ chồng và trách
nhiệm với con cái, xã hội. Thực hiện hiệu quả các phong trào “Xây dựng gia
đình văn hóa”, “Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc, tiến bộ”; ngăn
chặn sự xâm nhập của văn hóa ngoại lai, các tệ nạn xã hội vào gia đình. Cần
biểu dương, nhân rộng những tấm gương sáng về đạo lý gia đình, điển hình
trong khó khăn vươn lên xây dựng gia đình hòa thuận, giữ vững hạnh phúc, nuôi
dạy các con ngoan, học giỏi, thành đạt, hiếu thảo, chăm lo phụng dưỡng ông
bà...
Việc hiểu biết pháp luật và có ý thức đạo đức tốt là vấn đề hết sức quan
trọng đối với sự tồn tại của mỗi con người. Nó giúp con người trở nên có ích
hơn đối với xã hội cũng như trong việc xây dựng gia đình. Chúng ta phải tăng
cường công tác tuyên truyền pháp luật đến đời sống nhân dân. Điều này góp
phần nâng cao nhận thức của người dân, để từ đó sống và làm việc theo đúng
chủ trương chính sách Nhà nước và pháp luật đã quy định.
Bên cạnh đó, cần lồng ghép và tổ chức tuyên truyền pháp luật về hôn
nhân gia đình, vai trò của gia đình thông qua các cuộc họp, sinh hoạt đoàn thể ở
cơ sở và thường xuyên mở các cuộc thi về chủ đề hạnh phúc gia đình để gắn kết
tình cảm giữa các thành viên trong gia đình với nhau. Làm tốt công tác an sinh
xã hội, mở các lớp dạy nghề, tạo việc làm để nhân dân có thu nhập ổn định,
không phải bỏ địa phương tìm công việc.
16

Đối với các cơ quan Nhà nước có hoạt động liên quan trực tiếp đến lĩnh
vực này như ban tư pháp phường, xã. Cần phải có trách nhiệm hơn nữa đối với
lĩnh vực chuyên môn của mình, trong việc đăng ký giấy chứng nhận đăng ký kết
hôn cho các đối tượng phải đủ điều kiện, cũng như trong việc giải thích các quy
định của pháp luật cho quần chúng nhân dân để từ đó họ thực hiện đúng pháp
luật và tránh những hậu quả đáng tiếc xảy ra.
Việc kết hôn đúng độ tuổi mà pháp luật quy định nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho công dân phát triển lành mạnh độ tuổi trưởng thành. Có đầy đủ
năng lực hành vi dân sự đảm bảo sau khi kết hôn vợ chồng đều là những người
đã trưởng thành, hoàn thiện về thể chất và tinh thần. Điều đó sẽ giúp họ có
những suy nghĩ hoạt động chính chắn hơn trong cuộc sống, có ý thức trách
nhiệm hơn trong việc cùng góp sức xây dựng mái ấm gia đình.
Khuyến khích các cặp vợ chồng kết hôn và sinh con ở độ tuổi phù hợp,
khi nam trên 25 tuổi, nữ trên 22 tuổi vì ở độ tuổi này họ có sự vững vàng về tư
tưởng và tư duy cũng như sự ổn định về kinh tế. Sự tích luỹ về kinh tế là rất
quan trọng đối với sự phát triển của gia đình và công việc nuôi dạy con cái. Nó
sẽ giúp các cặp vợ chồng vượt qua khó khăn trong cuộc sống và hạn chế những
mâu thuẫn phát sinh trong cuộc sống gia đình. Sự thoải mái về mặt tư tưởng có
tác dụng rất lớn trong việc xây dựng một gia đình ấm no hạnh phúc.
Thẩm phán giải quyết án ly hôn phải là những người có kinh nghiệm, có
kiến thức pháp lý và xã hội; khi hòa giải, xét xử, thẩm phán phải kiên trì hòa giải
đoàn tụ, giải thích, chỉ rõ hậu quả khi ly hôn; cần nắm vững căn cứ cho ly hôn
trước khi quyết định. Kiến nghị cơ quan có thẩm quyền bổ sung quy định bắt
buộc phải qua hòa giải ở cơ sở trước khi khởi kiện xin ly hôn, thời gian ly thân
bao lâu mới được ly hôn, kéo dài thời gian vợ đang nuôi con nhỏ thì chồng
không được xin ly hôn...
17

KẾT LUẬN
Như vậy, đối với ly hôn, khi đưa ra các biện pháp giải quyết phải căn cứ
vào nhiều yếu tố bao gồm việc xem xét điều kiện, những trường hợp hạn chế
theo quy định của pháp luật nhà nước Việt Nam. Cùng với đó việc xử lý những
hệ lụy sau ly hôn gồm vấn đề tài sản và phân quyền nuôi con phải dựa trên
những nguyên tắc công bằng và chuẩn mực theo pháp luật.
Sau khi đi qua những quy định của pháp luật về ly hôn, việc nêu lên thực
trạng cùng với những vụ ly hôn cụ thể đã phản ánh tình trạng ly hôn nghiêm
trọng ở nước ta hiện nay. Qua đó, nhắc nhở các quan chức năng có những biện
pháp thích hợp để giảm thiểu tỉ lệ ly hôn xuống mức thấp hơn. Cùng với đó mỗi
cá nhân phải sáng suốt trong quyết định kết hôn và ly hôn, tránh trường hợp ly
hôn không mong muốn để chung tay xây dựng nên một xã hội hạnh phúc, văn
minh.
18

19

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Nguyễn Anh, Bài học từ vụ tranh chấp tài sản sau ly hôn ở Bắc Ninh, báo
Quân Đội Nhân Dân, truy cập tại đường link: https://www.qdnd.vn/phong-
su-dieu-tra/dieu-tra/bai-hoc-tu-vu-tranh-chap-tai-san-sau-ly-hon-o-bac-
ninh-6396ý, 21/9/2021.
2.Bích Phượng, Thực trạng ly hôn và một số giải pháp nhằm hạn chế ly hôn
ở địa phương, truy cập tại đường link: https://tailieu.vn/doc/tieu-luan-thuc-
trang-ly-hon-va-mot-so-giai-phap-nham-han-che-ly-hon-o-dia-phuong-
166490.htm, 21/9/2021.
3.Thạch Viết Tâm, Tăng cường các giải pháp hạn chế tình trạng ly hôn, báo
Sóc Trăng, truy cập tại đường link: https://www.baosoctrang.org.vn/doi-
song-xa-hoi/tang-cuong-cac-giai-phap-han-che-tinh-trang-ly-hon-
44104.html, 23/9/2021.
4.Phan Thương, Kết thúc tranh chấp ly hôn giữa vợ chồng ông Đặng Lê
Nguyên Vũ: Tài sản chung giải quyết chia trị giá hơn 7900 tỉ đồng, báo
Thanh Niên, truy cập tại đường link: https://thanhnien.vn/ket-thuc-tranh-
chap-ly-hon-giua-vo-chong-ong-dang-le-nguyen-vu-tai-san-chung-giai-
quyet-chia-gia-tri-hon-7900-ti-dong-post1065053.html.,22/9/2021.
5.TS Lê Ngọc Văn, Vài nét về thực trạng gia đình Việt Nam hiện nay, Tạp
chí báo chí và truyền thông số 4, (tháng 7-8)/2005.
6.Theo An Ninh Thế Giới, Chân dung người chồng của vụ ‘ly hôn nghìn tỷ’,
truy cập tại đường link: https://ngoisao.net/chan-dung-nguoi-chong-cua-
vu-ly-hon-nghin-ty-2607376.html, 21/9/2021.
20

PHỤ LỤC
HÌNH ẢNH MINH HỌA
1.Vụ ly hôn của vợ chồng ông Đặng Lê Nguyên Vũ và bà Lê Hoàng
Diệp Thảo
Ông Đặng Lê Nguyên Vũ và Bà Lê Hoàng Diệp Thảo sau phiên tòa thẩm phán.
(Ảnh: Trường Giang)
Ông Đặng Lê Nguyên Vũ và bà Lê Hoàng Diệp Thảo tại thời điểm xử phúc
thẩm (Ảnh: thanhnien.vn).
21

2.Vụ việc ly hôn của anh Ngô Trọng Văn và chị Vũ Thị Thúy
Phiên tòa phúc thẩm vụ việc ly hôn của anh Ngô Trọng Văn và chị Vũ Thị Thúy
diễn ra ngày 29-9-2020 (Ảnh: baomoi.com).
3.Vụ ly hôn của ông Bùi Đức Minh và bà Nguyễn Thanh Thủy (Phó
chủ tịch tập đoàn Bảo Sơn)
Ông Bùi Đức Minh (Ảnh: Ngoisao.net)
22

Tòa án Nhân Dân TP. Hà Nội đã tuyên phạt Bùi Đức Minh, con rể cũ ông
chủ Tập đoàn Bảo Sơn mức án 15 tháng tù giam về tội vu khống (Ảnh:
vietnam.net).
—-----------------------------------------------------
THÔNG TIN HỎI ĐÁP:
Nhanh tay liên hệ chúng tôi theo thông tin dưới đây để được tư vấn và hỗ trợ các thông tin
chi tiết một cách nhanh nhất!
●Hotline/Zalo: 0983.018.995
●Email: [email protected]
●Fanpage:https://www.facebook.com/luanvanuytin.0983018995/
●Địa chỉ: 422 Đường Quang Trung Hà Đông Hà Nội

23