đề án lý thuyết tài chính tiền tệ neu.docx

cNguynMinh93 44 views 27 slides Jan 14, 2025
Slide 1
Slide 1 of 27
Slide 1
1
Slide 2
2
Slide 3
3
Slide 4
4
Slide 5
5
Slide 6
6
Slide 7
7
Slide 8
8
Slide 9
9
Slide 10
10
Slide 11
11
Slide 12
12
Slide 13
13
Slide 14
14
Slide 15
15
Slide 16
16
Slide 17
17
Slide 18
18
Slide 19
19
Slide 20
20
Slide 21
21
Slide 22
22
Slide 23
23
Slide 24
24
Slide 25
25
Slide 26
26
Slide 27
27

About This Presentation

Bài đề án mô tả các tác động của chính sách tiền tệ ảnh hưởng thế nào đến nền kinh tế thị trường tại Việt Nam qua từng năm. Bài viết được thực hiện từ năm 2020 đến 2024. Mô tả các tác động như lạm phát, covid, thất nghi�...


Slide Content

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO TIÊN TIẾN, CHẤT LƯỢNG CAO VÀ POHE
----

----
ĐỀ ÁN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
ĐỀ TÀI:
TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ ĐẾN LẠM
PHÁT TẠI VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2020- 2023
Họ và tên: Nguyễn Minh Đức
MSV: 11218776
Lớp: Ngân Hàng CLC 63
GV hướng dẫn: TS. Phạm Thành Đạt
Hà Nội, T9/2024

LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................4
1. Tính cấp thiết của đề tài..............................................................................4
2. Mục tiêu của đề tài......................................................................................4
3. Nội dung và phạm vi nghiên cứu...............................................................5
4. Kết cấu của đề án.........................................................................................5
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
VÀ LẠM PHÁT...................................................................................................6
1.1. Khái quát về chính sách tiền tệ...............................................................6
1.1.1. Khái niệm...........................................................................................6
1.1.2. Vai trò của chính sách tiền tệ...........................................................6
1.1.3. Các công cụ của chính sách tiền tệ...................................................8
a. Dự trữ bắt buộc...................................................................................8
b. Lãi suất.................................................................................................8
c. Tái chiết khấu.......................................................................................9
d. Hoạt động thị trường mở..................................................................10
1.1.4. Phân loại chính sách tiền tệ............................................................10
a. Chính sách tiền tệ mở rộng...............................................................10
b. Chính sách tiền tệ thắt chặt..............................................................10
c. Chính sách tiền tệ trung lập..............................................................11
1.2. Khái quát về lạm phát............................................................................11
1.2.1. Khái niệm.........................................................................................11
1.2.2. Phân loại lạm phát...........................................................................12
a. Phân loại lạm phát theo mức độ.......................................................12
b. Phân loại lạm phát theo nguyên nhân.............................................12
1.2.3. Nguyên nhân xảy ra lạm phát........................................................13
1.2.4. Tác động của lạm phát đến nền kinh tế........................................13
a. Tác động tiêu cực...............................................................................13
b. Tác động tích cực..............................................................................14
1.3. Tác động của chính sách tiền tệ đến lạm phát.....................................15

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
ĐẾN LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2020-2023 .......................16
2.1. Thực trạng lạm phát tại Việt Nam (2020-2023)...................................16
2.2. Thực trạng chính sách tiền tệ tại Việt Nam (2020-2023)....................17
2.3. Thực trạng tác động của chính sách tiền tệ đến lạm phát tại Việt
Nam (2020-2023)............................................................................................18
2.3.1. Tác động tích cực.............................................................................18
2.3.2. Tác động tiêu cực.............................................................................19
2.4. Đánh giá hiệu quả của chính sách tiền tệ trong việc kiềm chế lạm
phát tại Việt Nam (2020-2023).....................................................................20
2.4.1. Thành tựu.........................................................................................20
2.4.2. Hạn chế.............................................................................................21
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHÍNH SÁCH TIỀN
TỆ TRONG KIỀM CHẾ LẠM PHÁT ............................................................22
3.1. Các nguy cơ dẫn tới tái lạm phát..........................................................22
3.2. Đề xuất giải pháp....................................................................................22
KẾT LUẬN........................................................................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................26

LỜI MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính sách tiền tệ là một trong những công cụ quan trọng nhất của nhà nước trong việc
quản lý nền kinh tế vĩ mô, với mục tiêu duy trì sự ổn định tài chính, thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế và kiểm soát lạm phát. Lạm phát, một hiện tượng kinh tế phức tạp và có ảnh hưởng sâu
rộng, có thể gây ra những tác động tiêu cực đến sự phát triển của nền kinh tế nếu không được
kiểm soát tốt. Vì vậy, mối quan hệ giữa chính sách tiền tệ và lạm phát luôn là một chủ đề
trọng tâm trong các nghiên cứu kinh tế học.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự biến động không ngừng của nền kinh tế thế giới, đặc
biệt là sau những cú sốc lớn như đại dịch COVID-19, cuộc khủng hoảng năng lượng, và biến
động về chuỗi cung ứng, các nền kinh tế trên thế giới đang phải đối mặt với những thách thức
lớn trong việc kiểm soát lạm phát. Ở Việt Nam, nền kinh tế đang trong giai đoạn phát triển
nhanh chóng, nhưng cũng không tránh khỏi những áp lực từ lạm phát do các yếu tố nội tại và
ngoại tại. Chính vì vậy, việc nghiên cứu về chính sách tiền tệ và tác động của nó đến lạm phát
tại Việt Nam là hết sức cần thiết và cấp bách.
Một lý do khác để chọn đề tài này là vì chính sách tiền tệ, mặc dù đã có nhiều nghiên
cứu, nhưng vẫn luôn là một lĩnh vực có sự biến đổi và cần cập nhật liên tục, đặc biệt là trong
bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với những biến động phức tạp và chưa từng có.
Những công cụ truyền thống như lãi suất, dự trữ bắt buộc, tỷ giá hối đoái hay các chính sách
nới lỏng định lượng (quantitative easing) đều cần được đánh giá lại dựa trên các điều kiện
kinh tế mới, để đảm bảo chúng có thể phát huy hiệu quả trong việc kiểm soát lạm phát mà
không gây tổn hại đến các mục tiêu kinh tế khác như tăng trưởng và tạo việc làm.
Hơn nữa, từ góc độ học thuật, nghiên cứu này góp phần làm rõ thêm những lý thuyết
kinh tế về mối quan hệ giữa cung tiền và lạm phát, cũng như sự tác động qua lại giữa các yếu
tố kinh tế khác nhau. Nó giúp cung cấp một cái nhìn toàn diện và cập nhật về cách mà các
quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam, có thể vận dụng linh hoạt các
công cụ tiền tệ để kiểm soát lạm phát, đồng thời duy trì sự phát triển bền vững của nền kinh
tế.
Từ những lý do trên, việc nghiên cứu “Chính sách tiền tệ và tác động của nó đến lạm
phát” không chỉ là một vấn đề có tính lý luận và thực tiễn cao, mà còn mang ý nghĩa quan
trọng trong bối cảnh Việt Nam hiện nay. Đề tài này sẽ góp phần cung cấp các giải pháp cụ thể
và có cơ sở khoa học để hỗ trợ nhà nước và các cơ quan chức năng điều chỉnh chính sách một
cách hiệu quả nhằm đạt được mục tiêu kiểm soát lạm phát và thúc đẩy sự phát triển kinh tế ổn
định, bền vững.
2. Mục tiêu của đề tài
Tìm hiểu về những tác động của chính sách tiền tệ đến lạm phát tại Việt Nam trong
khoảng thời gian từ 2020 đến 2023. Để làm rõ vấn đề trên, đề án sẽ tập trung làm rõ và phân
tích những vấn đề sau:
Thứ nhất, làm rõ cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa chính sách tiền tệ và lạm phát.
Thứ hai, phân tích thực trạng tác động của chính sách tiền tệ đến lạm phát tại Việt Nam.
Thứ ba, đánh giá tác động của các yếu tố quốc tế đến việc điều hành chính sách tiền tệ
và lạm phát ở Việt Nam.

Thứ tư, đề xuất các giải pháp chính sách tiền tệ hiệu quả nhằm kiểm soát lạm phát trong
thời gian tới.
3. Nội dung và phạm vi nghiên cứu
Đề tài sẽ xem xét mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp giữa chính sách tiền tệ và sự biến
động của lạm phát, nhằm xác định mức độ tác động của từng công cụ chính sách tiền tệ đến
lạm phát trong nền kinh tế Việt Nam. Nghiên cứu tập trung phân tích các biện pháp chính
sách tiền tệ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực thi từ năm 2020 đến năm 2023, nhằm
kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Đồng thời, đề tài cũng phân tích các yếu tố khác
ảnh hưởng đến lạm phát như chi phí sản xuất, giá cả hàng hóa quốc tế, và lạm phát nhập khẩu.
Các biến động kinh tế toàn cầu, đặc biệt là trong giai đoạn đại dịch COVID-19 và khủng
hoảng chuỗi cung ứng, cũng sẽ được xem xét để đánh giá tác động của các yếu tố ngoại sinh
đến lạm phát Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu tập trung vào giai đoạn từ năm 2018 đến năm 2023. Đây là khoảng
thời gian nền kinh tế Việt Nam đối mặt với nhiều thách thức lớn như đại dịch COVID-19,
khủng hoảng năng lượng, căng thẳng thương mại quốc tế, và sự thay đổi của chuỗi cung ứng
toàn cầu. Các yếu tố này đã ảnh hưởng mạnh đến chính sách tiền tệ và lạm phát, đòi hỏi phải
có một nghiên cứu sâu rộng về cách Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ứng phó với các biến
động này thông qua các chính sách tiền tệ.
4. Kết cấu của đề án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, bài làm gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết chung về chính sách tiền tệ và lạm phát.
Chương 2: Thực trạng tác động của chính sách tiền tệ đến lạm phát tại việt nam giai
đoạn 2020-2023.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả chính sách tiền tệ trong kiềm chế lạm phát.

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ
LẠM PHÁT
1.1. Khái quát về chính sách tiền tệ
1.1.1. Khái niệm
Chính sách tiền tệ, là một bộ phận trong tổng thể hệ thống chính sách kinh tế của nhà
nước để thực hiện việc quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế
– xã hội trong từng giai đoạn nhất định.
Chính sách tiền tệ có thể được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa thông thường. Theo nghĩa
rộng thì chính sách tiền tệ là chính sách điều hành toàn bộ khối lượng tiền trong nền kinh tế
quốc dân nhằm tác động đến 4 mục tiêu lớn của kinh tế vĩ mô, trên cơ sở đó đạt được mục
tiêu cơ bản là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả hàng hoá. Theo
nghĩa thông thường là chính sách quan tâm đến khối lượng tiền cung ứng tăng thêm trong thời
kỳ tới (thường là một năm) phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế dự kiến và chỉ số lạm phát
nếu có, tất nhiên cũng nhằm ổn định tiền tệ và ổn định giá cả hàng hoá .
Chúng ta có thể khẳng định rằng, nếu như chính sách tài chính chỉ tập trung vào thành
phần. Kết cấu các mức chi phí thuế khoá của nhà nước, thì chính sách tiền tệ quốc gia lại tập
trung vào mức độ khả năng thanh toán cho toàn bộ nền kinh tế quốc gia, bao gồm việc đáp
ứng khối lượng tần cung ứng cho lưu thông, điều khiển hệ thống tiền tệ và khối lượng tín
dụng đáp ứng vốn cho nền kinh tế , tạo điều kiện và thúc đẩy hoạt động của thị trường tiền tệ,
thị trường vốn theo những quỹ đạo đã định, kiểm soát hệ thống các ngân hàng thương mại,
cùng với việc xác định tỷ giá hối đoái hợp lý nhằm ổn định và thúc đẩy kinh tế đối ngoại và
kinh tế ngoại thương nhằm mục tiêu cuối cùng là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng
tiền, ổn định giá cả hàng hoá.
1.1.2. Vai trò của chính sách tiền tệ
Trong hệ thống các công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước thì chính sách tiền tệ là một
trong những chính sách quan trọng nhất vì nó tác động trực tiếp vào lĩnh vực lưu thông tiền tệ.
Song nó cũng có quan hệ chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác như chính sách tài
khoá, chính sách thu nhập, chính sách kinh tế đối ngoại. Đối với Ngân hàng trung ương, việc
hoạch định và thực thi chính sách chính sách tiền tệ là hoạt động cơ bản nhất, mọi hoạt động
của nó đều nhằm làm cho chính sách tiền tệ quốc gia được thực hiện có hiệu quả hơn. Các
mục tiêu chính của chính sách tiền tệ bao gồm:
* Mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định giá trị đồng tiền
Duy trì mức lạm phát ổn định và thấp, thường trong khoảng 2-3% mỗi năm đối với
nhiều quốc gia phát triển, nhằm đảm bảo sức mua của đồng tiền và giữ cho giá cả trên thị
trường không biến động quá lớn. .NHTW thông qua CSTT có thể tác động đến sự tăng hay
giảm giá trị đồng tiền của nước mình. Giá trị đồng tiền ổn định được xem xét trên 2 mặt: sức
mua đối nội của đồng tiền (chỉ số giá cả hàng hoá và dịch vụ trong nước) và sức mua đối
ngoại (tỷ giá của đồng tiền nước mình so với ngoại tệ). Tuy vậy, CSTT hướng tới ổn định giá
trị đồng tiền không có nghĩa là tỷ lệ lạm phát bằng không, vì như vậy nền kinh tế không thể

phát triển được. Trong điều kiện nền kinh tế trì trệ thì kiểm soát lạm phát ở một tỷ lệ hợp lý
(thường ở mức một con số) sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế trở lại.
* Mục tiêu tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp
Thất nghiệp cao thường gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế và xã hội,
bao gồm giảm mức thu nhập của người dân, giảm tiêu dùng và gia tăng bất ổn xã hội. Chính
sách tiền tệ giúp giảm thất nghiệp bằng cách thúc đẩy hoạt động sản xuất và đầu tư. Giảm tỷ
lệ thất nghiệp và tăng cường cơ hội việc làm cho người lao động bằng cách khuyến khích các
hoạt động kinh tế. CSTT mở rộng hay thắt chặt có ảnh hưởng trực tiếp tới việc sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực xã hội, quy mô sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh hưởng tới
tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế. Để có một tỷ lệ thất nghiệp giảm thì phải chấp nhận một tỷ
lệ lạm phát gia tăng.
* Mục tiêu tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu của mọi chính phủ trong việc hoạch định các chính
sách kinh tế vĩ mô của mình, để giữ cho nhịp độ tăng trưởng đó ổn định, đặc biệt việc ổn định
giá trị đồng bản tệ là rất quan trọng, nó thể hiện lòng tin của dân chúng đối với Chính phủ.
Mục tiêu này chỉ đạt được khi kết quả hai mục tiêu trên đạt được một cách hài hoà. Tăng
trưởng kinh tế mạnh mẽ thường đi đôi với việc tạo thêm nhiều cơ hội việc làm, cải thiện thu
nhập và mức sống của người dân. Chính sách tiền tệ hợp lý giúp tạo ra một môi trường thuận
lợi cho các doanh nghiệp phát triển, mở rộng quy mô và tăng cường sản xuất. Khi ngân hàng
trung ương muốn thúc đẩy tăng trưởng, họ có thể giảm lãi suất, khuyến khích vay mượn và
đầu tư. Bằng cách tăng cung tiền, ngân hàng trung ương giúp tạo ra nhiều nguồn vốn sẵn có
để kích thích hoạt động sản xuất và tiêu dùng.
* Ổn định thị trường tài chính
Tình trạng khủng hoảng tài chính có thể làm giảm khả năng của thị trường tài chính
trong việc tạo ra kênh dẫn vốn cho người có cơ hội đầu tư vào sản xuất, qua đó làm giảm quy
mô hoạt động kinh tế. Bởi vậy, việc tạo ra hệ thống tài chính ổn định hơn, tránh được các
cuộc khủng hoảng tài chính là mục tiêu quan trọng của NHTW. Sự ổn định thị trường tài
chính được hỗ trợ bởi sự ổn định của lãi suất, bởi vì sự biến động của lãi suất tạo ra sự bất
định lớn cho các định chế tài chính. Sự gia tăng lãi suất tạo ra các tổn thất lớn về vốn cho trái
phiếu dài hạn và các khoản cho vay cầm cố, cũng như những tổn thất này có thể làm cho các
định chế tài chính nắm giữ nó sụp đổ.
* Ổn định thị trường hối đoái
Với tầm quan trọng ngày càng tăng của tỷ giá hối đoái trong thương mại quốc tế, ổn
định tỷ giá trở thành mục tiêu mong muốn của CSTT. Tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng đến sức
cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ trong nước so với nước ngoài. Ngoài ra, ổn định tỷ giá
giúp cho các doanh nghiệp và cá nhân trao đổi hàng hoá với nước ngoài dễ dàng lập kế hoạch
hơn. Biến động tỷ giá có thể gây ra sự bất ổn trong hoạt động đầu tư, thương mại quốc tế và
phát triển kinh tế. Khi tỷ giá biến động mạnh, xuất nhập khẩu sẽ bị ảnh hưởng nặng nề, làm
thay đổi lợi ích kinh doanh của các công ty trong và ngoài nước. Một mức tỷ giá ổn định giúp
đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Ngân hàng trung ương có thể điều chỉnh lãi
suất và can thiệp vào thị trường ngoại hối để giữ tỷ giá hối đoái trong một khoảng nhất định.
Điều này giúp các doanh nghiệp yên tâm trong việc lập kế hoạch đầu tư dài hạn, đặc biệt
trong các lĩnh vực liên quan đến xuất nhập khẩu.
* Ổn định thị trường lãi suất
Sự biến động của lãi suất có thể tạo ra tính bất định trong nền kinh tế và khó khăn trong
lập kế hoạch cho tương lai. Biến động của lãi suất ảnh hưởng tới lượng dự trữ, mức chi tiêu

của người dân và đồng thời ảnh hưởng tới khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp. Giữa các mục tiêu trên có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ nhau, không tách rời.
Nhưng xem xét trong thời gian ngắn hạn thì các mục tiêu này có thể mâu thuẫn với nhau thậm
chí triệt tiêu lẫn nhau. Vậy để đạt được các mục tiêu trên một cách hài hoà thì
NHTW trong khi thực hiện CSTT cần phải có sự phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô
khác.
1.1.3. Các công cụ của chính sách tiền tệ
a. Dự trữ bắt buộc
Trong hoạt động tín dụng và thanh toán, các ngân hàng thương mại có khả năng biến
những khoản tiền gửi ban đầu thành những khoản tiền gửi mới cho cả hệ thống, khả năng sinh
ra bội số tín dụng, tức là khả năng tạo tiền. Để khống chế khả năng này, ngân hàng trung ương
buộc các ngân hàng thương mại phải trích một phần tiền huy động được theo một tỷ lệ quy
định gửi vào ngân hàng trung ương không được hưởng lãi. Do đó cơ chế hoạt động của công
cụ dự trữ bắt buộc nhằm khống chế khả năng tạo tiền, hạn chế mức tăng bội số tín dụng của
các ngân hàng thương mại.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ giữa số lượng phưong tiện thanh toán cần khống chế (bị
“vô hiệu hoá” về mặt thanh toán) trên tổng số tiền gửi nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán
và khả năng tín dụng của các ngân hàng thương mại.
Khi lạm phát cao, ngân hàng trung ương nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khả năng cho vay
và khả năng thanh toán của các ngân hàng bị thu hẹp (do số nhân tiền tệ giảm), khối lượng tín
dụng trong nền kinh tế giảm (cung tiền giảm) dẫn tới lãi suất tăng, đầu tư giảm do đó tổng cầu
giảm và làm cho giá giảm (tỷ lệ lạm phát giảm). Ngược lại nếu ngân hàng trung ương hạ thấp
tỷ lệ dự trữ bắt buộc tức là tăng khả năng tạo tiền, thì cung về tín dụng của các ngân hàng
thương mại cũng tăng lên, khối lượng tín dụng và khối lượng thanh toán có xu hướng tăng,
đồng thời tăng xu hướng mở rộng khối lượng tiền. Lý luận tương tự như trên thì việc tăng
cung tiền sẽ dẫn tới tăng giá (tỷ lệ lạm phát tăng). Như vậy công cụ DTBB mang tính hành
chính áp đặt trực tiếp , đầy quyền lực và cực kỳ quan trọng để cắt cơn sốt lạm phát, khôi phục
hoạt động kinh tế trong trường hợp nền kinh tế phát triển chưa ổn định và khi các công cụ thị
trường mở tái chiết khấu chưa đủ mạnh để có thể đảm trách điều hoà mức cung tiền tệ cho
nền kinh tế. Nhưng công cụ dự trữ bắt buộc quá nhạy cảm, vì chỉ thay đổi nhỏ trong tỷ lệ dự
trữ bắt buộc đã làm cho khối lượng tiền tăng lên rất lớn khó kiểm soát. Mặt khác một điều bất
lợi nữa là khi sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để kiểm soát cung ứng tiền tệ như việc tăng dự
trữ bắt buộc có thể gây nên vấn đề khả năng thanh khoản ngay đối với một ngân hàng có dự
trữ vượt mức quá thấp, thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc không ngừng cũng gây nên tình trạng
không ổn định cho các ngân hàng. Chính vì vậy sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để kiểm soát
cung tiền tệ qua đó kiểm soát lạm phát ít đưọc sử dụng trên thế giới (đặc biệt là những nước
phát triển, có nền kinh tế ổn định).
b. Lãi suất
Lãi suất là một công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ. Nó được áp dụng nhất quán
trong một lãnh thổ và được ngân hàng nhà nước điều hành chặt chẽ và mềm dẻo tuỳ theo từng
thời kỳ cho phù hợp với nhu cầu huy động vốn và cung ứng vốn. Như vậy chúng ta có thể
thấy rằng lãi suất tác động làm thay đổi cầu tiền tệ trong dân cư, và làm thay đổi tỷ lệ lạm
phát. Thật vậy, khi có lạm phát. Ngân hàng nhà nước sẽ tăng lãi suất tiền gửi. Chính vì thế
người dân và các công ty sẽ đầu tư vào ngân hàng (gửi tiền vào ngân hàng) có lợi hơn là đầu
tư vào sản xuất kinh doanh. Như vậy cầu tiền giảm do đó tổng đầu tư giảm, làm cho tổng cầu

giảm dẫn tới giá giảm. Nhưng chúng ta biết rằng in= ii + ir trong đó in là tỷ lệ lãi suất danh
nghĩa, il: tỷ lệ lãi suất thực tế và ii là tỷ lệ lạm phát, do đó khi có lạm phát cao, áp dụng chính
sách lãi suất ở đây chính là việc tăng tỷ lệ lãi suất danh nghĩa cao hơn hẳn tỷ lệ lạm phát (để
duy trì lãi suất thực dương) qua đó mới tạo được cầu tiền danh nghĩa tương ứng với cầu tiền
thực tế. Tóm lại khi lãi suất tiền gửi cao thì động viên được nhiều người gửi tiền vào NHTM
và ngược lại. NHTM mua tín phiếu NHNN với lãi suất kinh doanh có lãi thì sẽ giảm được
khối lượng tín dụng.
Nếu lãi suất tiền (cho vay) cao sẽ làm nản lòng người vay vì kinh doanh bằng vốn vay
NHTM không có lợi nhuận. Như vậy dùng công cụ lãi suất có thể tăng hoặc giảm khối lượng
tín dụng của NHTM để đạt được mục đích của chính sách tiền tệ (ổn định tỷ lệ lạm phát). Tuỳ
từng thời điểm mà chính sách lãi suất được áp dụng thành công trong việc chống lạm phát. Ở
Việt nam đã áp dụng rất thành công chính sách lãi suất vào những năm cuối thập kỷ 80 trong
việc giảm tỷ lệ lạm phát từ 3 con số xuống còn một con số do nền kinh tế ở nước ta lúc đó là
nền kinh tế tuy đã mở cửa nhưng chưa mở hẳn, do đó chỉ có tác động trong nước đầu tư bằng
Việt nam đồng chứ quốc tế ít đầu tư vào. Chính vì thế ngày nay không thể áp dụng chính sách
lãi suất với tỷ lệ lãi suất rất cao để giảm tỷ lệ lạm phát mà phải quan tâm đến mối quan hệ
giữa lãi suất trong nước và lãi suất nước ngoài . Trong việc kiểm soát lạm phát đây là công cụ
cổ điển, các nước ngày càng ít sử dụng hơn. Tuy đây là một công cụ rất quan trọng trong việc
kiểm soát lạm phát và huy động vốn cũng như cung cấp vốn.
c. Tái chiết khấu
Tái chiết khấu là phương thức để ngân hàng trung ương đưa tiền vào lưu thông, thực
hiện vai trò người cho vay cuối cùng. Thông qua việc tái chiết khấu, ngân hàng trung ương đã
tạo cơ sở đầu tiên thúc đẩy hệ thống ngân hàng thương mại thực hiện việc tạo tiền, đồng thời
khai thông thanh toán. Tái chiết khấu là đầu mối tăng tiền trung ương, tăng khối lượng tiền tệ
vào lưu thông. Do đó ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình điều khiển khối lượng tiền và điều
hành chính sách tiền tệ. Tuỳ theo tình hình từng giai đoạn, tuỳ thuộc yêu cầu của việc thực
hiện chính sách tiền tệ trong giai đoạn ấy, cần thực hiện chính sách “nới lỏng” hay “thắt chặt”
tín dụng mà ngân hàng trung ương quy định lãi suất thấp hay cao. Lãi suất tái chiết khấu đặt
ra từng thời kỳ phải có tác dụng hướng dẫn, chỉ đạo lãi suất tín dụng trong nền kinh tế của
giai đoạn đó.
Khi ngân hàng trung ương nâng lãi suất tái chiết khấu buộc các ngân hàng thương mại
cũng phải nâng lãi suất tín dụng của mình lên để không bị lỗ vốn. Do lãi suất tín dụng tăng
lên, giảm “cầu” về tín dụng và kéo theo giảm cầu về tiền tệ (nhu cầu về giữ tiền của nhân dân
giảm đi). Do đó đầu tư giảm đi dẫn tới tổng cầu giảm và làm cho giá giảm (tỷ lệ lạm phát
giảm). Trường hợp ngược lại tức là ngân hàng trung ương kích thích tăng cung cầu tiền tệ và
làm cho giá tăng (tỷ lệ lạm phát tăng). ở các nước công cụ nghiệp vụ trực tiếp để thực hiện tái
chiết khấu là thương phiếu, hoặc các loại tín phiếu là những công cụ rất thông dụng trên thị
trường tiền tệ và thị trường vốn nhưng ở nước ta chưa có công cụ truyền thống để thực hiện
việc chiết khấu và tái chiết khấu. Mặt khác công cụ tái chiết khấu vừa có khả năng giải quyết
khả năng thanh toán vừa có khả năng mở rộng khối lượng tín dụng cho nền kinh tế. Cho nên
có thể ví công cụ tái chiết khấu là cáí bơm hai chiều vừa hút vừa đẩy. Khi bơm đảy ra là cung
thêm tiền cho nền kinh tế, khi có hiện tượng thiểu phát. Và bơm hút vào thu hồi lượng tiền khi
nền kinh tế có hiện tượng lạm phát.
Tuy nhiên khi NHTW ấn định lãi suất chiết khấu tại một mức nào đó sẽ xảy ra những
biến động lớn trong khoảng cách giữa lãi suất thị trường và lãi suất chiết khấu vì khi đó lãi
suất cho vay thay đổi. Những biến động này dẫn đến những thay đổi ngoài ý định trong khối

lượng cho vay chiết khấu và do đó thay đổi trong cung ứng tiền tệ làm cho việc kiểm soát
cung ứng tiền tệ vất vả hơn. Đây chính là hạn chế của công cụ tái chiết khấu trong việc kiểm
soát lạm phát.
d. Hoạt động thị trường mở
Nếu như công cụ lãi suất tái chiết khấu là công cụ thụ động của NHTW, tức là NHTW
phải chờ NHTM đang cần vốn đưa thương phiếu, kỳ phiếu… đến để xin “tái cấp vốn” thì
nghiệp vụ thị trường mở là công cụ chủ động của ngân hàng trung ương để điều khiển khối
lượng tiền, qua đó đã kiểm soát được lạm phát.
Qua nghiệp vụ thị trường mở, NHTW chủ động phát hành tiền trung ương vào lưu
thông hoặc rút bớt tiền khỏi lưu thông bằng cách mua bán các loại trái phiếu ngân hàng quốc
gia nhằm tác động trước hết đến khối lượng tiền dự trữ trong quỹ dự trữ của các NHTM và
các tổ chức tài chính, hạn chế tiềm năng tín dụng và thanh toán của các ngân hàng này, qua đó
điều khiển khối lượng tiền trong thị trường tiền tệ chúng ta. Khi nghiên cứu phần trước đã biết
rằng khối lượng tiền tệ ảnh hưởng trực tiếp tới tỷ lệ lạm phát, việc thay đổi cung tiền tệ sẽ làm
thay đổi tỷ lệ lạm phát.
Trong nghiệp vụ thị trường mở, ngân hàng trung ương điều khiển cả khối lượng tiền tệ
và lãi suất tín dụng thông qua “giá cả” mua và bán trái phiếu. Tất cả những cuộc can thiệp vào
khối lượng tiền bằng công cụ thị trường mở đều được tiến hành dường như là lặng lẽ và vô
hình, “không can thiệp thô bạo”, điều khiển mạnh mà không chứa đựng “một chút mệnh
lệnh”. Một mặt nghiệp vụ thị trường mở có thể dễ dàng đảo ngược lại. Khi có một sai lầm
trong lúc tiến hành nghiệp vụ thị trường mở, như khi thấy cung tiền tệ tăng hoặc giảm quá
nhanh ngân hàng thương mại có thể lập tức đảo ngược lại bằng cách bán trái phiếu hoặc mua
trái phiếu và ngược lại.
Đây là công cụ cực kỳ quan trọng của nhiều NHTW, và được coi là vũ khí sắc bén nhất
đem lại sự ổn định kinh tế nói chung, ổn định lạm phát nói riêng. Nhưng ở nước ta đang ở
trong thời kỳ đặt nền móng. Bởi vì nghiệp vụ này đòi hỏi phải có môi trường pháp lý nhất
định. Trong thời kỳ lạm phát đến 3 con số, Việt Nam đã áp dụng chính sách lãi suất để đẩy lùi
lạm phát rất nhanh chóng.
1.1.4. Phân loại chính sách tiền tệ
a. Chính sách tiền tệ mở rộng
Chính sách tiền tệ mở rộng là công cụ mà ngân hàng trung ương sử dụng để thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế khi nền kinh tế đang đối mặt với suy thoái hoặc tăng trưởng chậm. Mục
tiêu chính của chính sách này là tăng cung tiền và giảm lãi suất, giúp làm giảm chi phí vay
vốn, từ đó khuyến khích đầu tư và tiêu dùng. Các biện pháp phổ biến bao gồm giảm lãi suất
cơ bản, mua trái phiếu từ các ngân hàng thương mại nhằm bơm thêm tiền vào hệ thống tài
chính, và giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các ngân hàng. Chính sách này thường được áp dụng
trong thời kỳ suy thoái kinh tế để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp mở rộng sản
xuất và người tiêu dùng tăng chi tiêu, qua đó kích thích tổng cầu và tạo việc làm. Tuy nhiên,
nếu cung tiền tăng quá mức so với nhu cầu, chính sách tiền tệ mở rộng có thể dẫn đến lạm
phát cao.
b. Chính sách tiền tệ thắt chặt
Chính sách tiền tệ thắt chặt áp dụng khi nền kinh tế đối mặt với tình trạng lạm phát cao
và cần được kiểm soát. Mục tiêu của chính sách này là làm giảm cung tiền và tăng lãi suất để
kiềm chế mức tăng giá cả trong nền kinh tế. Các biện pháp thắt chặt bao gồm tăng lãi suất,
bán trái phiếu và tài sản tài chính, cũng như tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng

thương mại. Khi lãi suất tăng, chi phí vay mượn trở nên đắt đỏ hơn, dẫn đến việc giảm chi
tiêu tiêu dùng và đầu tư. Mặc dù chính sách này giúp giảm lạm phát và ổn định giá cả, nó
cũng có thể làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế, làm tăng tỷ lệ thất nghiệp và giảm sức mua
của người tiêu dùng.
c. Chính sách tiền tệ trung lập
Chính sách tiền tệ trung lập được áp dụng khi nền kinh tế đang ở trạng thái ổn định và
không cần sự can thiệp mạnh mẽ để kích thích tăng trưởng hay kiểm soát lạm phát. Trong
chính sách này, ngân hàng trung ương duy trì cung tiền và lãi suất ở mức ổn định, không quá
mở rộng như trong chính sách tiền tệ mở rộng, cũng không quá thắt chặt như trong chính sách
tiền tệ thắt chặt. Mục tiêu của chính sách tiền tệ trung lập là duy trì sự cân bằng trong nền
kinh tế, ngăn ngừa các biến động lớn về giá cả hoặc lãi suất và tạo điều kiện cho tăng trưởng
kinh tế bền vững mà không gây ra lạm phát hay suy giảm. Đây là chính sách thường được áp
dụng khi nền kinh tế hoạt động tốt, với cả mức tăng trưởng và lạm phát đều nằm trong tầm
kiểm soát.
1.2. Khái quát về lạm phát
1.2.1. Khái niệm
Theo trường phái lạm phát “lưu thông tiền tệ”, họ cho rằng lạm phát tiền tệ là đưa nhiều
tiền thừa (bất kể là kim loại hay tiền giấy) và lưu thông làm cho giá cả hàng hoá tăng lên.
Chúng ta đều biết rằng không phải bất cứ số lượng tiền nào tăng lên trong lưu thông với nhịp
điệu nhanh hơn sản xuất cũng đều là lạm phát, nếu như nhà nước không giảm bớt nội dung
vàng hoặc giá trị tượng trưng trong đồng tiền để bù đắp cho bội chi ngân sách. K.Mazx đã chỉ
ra rằng ý nghĩ về lạm phát của học thuyết này là quá đơn giản. Những người theo học thuyết
này đã dùng logic hình thức để kết hợp một cách máy móc hiện tượng tăng số lượng tiền với
hiện tượng tăng giá để rút ra bản chất kinh tế của lạm phát.
Trường phái lạm phát “cần dư thừa tổng quát” (hay “cầu kéo”) mà đại diện là J.Keynes
cho rằng. Lạm phát là “cầu dư thừa tổng quát cho phát hành tiền ra quá mức sản xuất trong
thời kỳ toàn dụng dẫn đến mức giá chung tăng. Chúng ta nhận thức được rằng nói lạm phát là
“cầu dư thừa tổng quát” là không chính xác, vì trong giai đoạn khủng hoảng ở thời kỳ CNTB
phát triển mặc dù có khủng hoảng sản xuất thừa mà không có lạm phát. Còn ở Việt Nam trong
năm 1991 có tình trạng cung lớn hơn cầu mà vẫn có lạm phát giá cả và lạm phát tiền tệ. Tuy
Keynes đã tiến sâu hơn trường phái lạm phát lưu thông tiền tệ là không lấy hiện tượng bề
ngoài, không coi điều kiện của lạm phát là nguyên nhân của lạm phát nhưng lại mắc sai lầm
về mặt logíc là đem kết quả của lạm phát quy vào bản chất của lạm phát. Khái niệm của
Keynes vẫn chưa nên được đúng bản chất kinh tế – xã hội của lạm phát.
Trường phái lạm phát giá cả họ cho rằng lạm phát là sự tăng giá. Thực chất lạm phát chỉ
là một trong nhiều nguyên nhân của tăng giá. Có những thời kỳ giá mà không có lạm phát
như: thời kỳ “cách mạng giá cả” ở thế kỷ XVI ở châu Âu, thời kỳ hưng thịnh của một chu kỳ
sản xuất, những năm mất mùa… tăng giá chỉ là hệ quả là một tín hiệu dễ thấy của lạm phát
nhưng có lúc tăng giá lại trở thành nguyên nhân của lạm phát. Lạm phát xảy ra là do tăng
nhiều cái chứ không phải chỉ đơn thuần do tăng giá. Vì vậy quan điểm của trường phái này đã
lẫn lộn giữa hiện tượng và bản chất, làm cho người ta dễ ngộ nhận giữa tăng giá và lạm phát.
K.Marx đã cho rằng “lạm phát là sự tràn đầy các kênh, các luồng lưu thông những tờ
giấy bạc thừa làm cho giá cả (mức giá) tăng vọt và việc phân phối lại sản phẩm xã hội giữa
các giai cấp trong dân cư có lợi cho giai cấp tư sản. Ở đây Marx đã đứng trên góc độ giai cấp
để nhìn nhận lạm phát, dẫn tới người ta có thể hiểu lạm phát là do nhà nước do giai cấp tư

bản, để bóc lột một lần nữa giai cấp vô sản. Quan điểm này có thể xếp vào quan điểm lạm
phát “lưu thông tiền tệ” song định nghĩa này hoàn hảo hơn vì nó đề cấp tới bản chất kinh tế –
xã hội của lạm phát. Tuy nhiên nó có nhược điểm là cho rằng lạm phát chỉ là phạm trù kinh tế
của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và chưa nêu được ảnh hưởng của lạm phát trên phạm vi quốc
tế.
Chúng ta có thể dễ chấp nhận quan điểm của trường phái giá cả, (ở nước ta và nhiều
nước quan niệm này tương đối phổ biến). Sở dĩ như vậy là vì thế kỷ XX là thế kỷ lạm phát,
lạm phát hầu như diễn ra ở tuyệt đại bộ phận các nước mà sự tăng giá lại là tín hiệu nhạy bén,
dễ thấy của lạm phát. Như vậy chúng ta sẽ hiểu đơn giản là “lạm phát là sự tăng giá kéo dài,
là sự thừa các đồng tiền trong lưu thông, là việc nhà nước phát hành thêm tiền nhằm bù đắp
bội chi ngân sách”. Hay lạm phát là chính sách đặc biệt nhanh chóng và tối đa nhất trong các
hình thức phân phối lại giá trị vật chất xã hội mà giai cấp cầm quyền sử dụng để đáp ứng nhu
cầu chi tiêu. Nhưng nói chung lạm phát là một hiện tượng của các nền kinh tế thị trường.
Định nghĩa lạm phát còn rất nhiều vấn đề để chúng ta có thể nghiên cứu một cách sâu sắc.
Nhưng khi xảy ra lạm phát (vừa phải, phi mã, hay siêu lạm phát) thì tác động của nó sẽ ảnh
hưởng trực tiếp tới đời sống kinh tế xã hội.
1.2.2. Phân loại lạm phát
a. Phân loại lạm phát theo mức độ
* Lạm phát vừa phải:
Đây là loại lạm phát mà giá cả tăng chậm, thường dưới 10% mỗi năm. Tốc độ tăng giá
là vừa phải và tương đối ổn định. Lạm phát vừa phải không gây ra quá nhiều rủi ro cho nền
kinh tế. Người tiêu dùng, doanh nghiệp, và nhà đầu tư có thể dễ dàng thích nghi với sự thay
đổi này. Ở mức lạm phát này, thu nhập của người dân thường vẫn tăng trưởng tương đối, và
giá cả hàng hóa tăng không gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức mua. Ở nhiều nước phát
triển, mức lạm phát mục tiêu thường nằm trong khoảng 2-3%/năm. Điều này giúp duy trì sự
ổn định kinh tế, kích thích đầu tư và tiêu dùng mà không gây ra sự mất giá mạnh của đồng
tiền.
* Lạm phát phi mã:
Lạm phát phi mã là khi giá cả tăng nhanh và mạnh, thường từ 10% đến vài trăm phần
trăm mỗi năm. Ở mức này, giá cả tăng chóng mặt và ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế.
Lạm phát phi mã gây ra sự xáo trộn lớn trong đời sống kinh tế và xã hội. Sức mua của người
dân giảm nhanh chóng, giá trị của đồng tiền bị suy yếu, và thị trường tài chính trở nên bất ổn.
Đặc biệt, việc lập kế hoạch tài chính dài hạn trở nên rất khó khăn vì giá cả thay đổi liên tục. Ở
một số quốc gia đang phát triển hoặc trong giai đoạn khủng hoảng, như Argentina vào cuối
thế kỷ 20, lạm phát phi mã đã xảy ra khi giá cả tăng vọt, dẫn đến khủng hoảng tiền tệ.
* Siêu lạm phát:
Đây là mức lạm phát cực kỳ cao, thường trên 1000% mỗi năm. Trong trường hợp
nghiêm trọng, giá cả có thể tăng gấp đôi chỉ trong vòng vài ngày hoặc vài tuần. Siêu lạm phát
thường dẫn đến sự sụp đổ của đồng tiền quốc gia, khi mà tiền tệ mất giá nhanh đến mức
người dân không còn tin tưởng vào giá trị của nó. Họ có thể chuyển sang sử dụng ngoại tệ
mạnh (như USD) hoặc hàng hóa để trao đổi. Siêu lạm phát thường xảy ra khi chính phủ in quá
nhiều tiền để tài trợ cho thâm hụt ngân sách mà không có sự kiểm soát.
b. Phân loại lạm phát theo nguyên nhân
* Lạm phát do cầu kéo:

Xảy ra khi nhu cầu tổng thể về hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế vượt quá khả năng
cung cấp. Điều này có thể do thu nhập của người dân tăng, chi tiêu chính phủ tăng mạnh hoặc
chính sách tiền tệ nới lỏng làm cho tín dụng trở nên dễ dàng hơn. Khi lượng cầu tăng vượt
quá lượng cung, giá cả sẽ bị đẩy lên. Lạm phát do cầu kéo thường xảy ra khi nền kinh tế tăng
trưởng mạnh và có nhiều nguồn vốn đầu tư, nhưng năng lực sản xuất không theo kịp tốc độ
tăng trưởng này. Do đó, giá cả của các mặt hàng và dịch vụ tăng cao, và nền kinh tế có thể trở
nên quá nóng.
* Lạm phát do chi phí đẩy:
Xảy ra khi chi phí sản xuất tăng lên, dẫn đến giá thành sản phẩm cuối cùng cũng tăng.
Điều này có thể do giá nguyên liệu thô tăng, tiền lương lao động tăng, hoặc sự gia tăng của
các yếu tố đầu vào quan trọng khác. Ví dụ, khi giá dầu mỏ tăng mạnh, chi phí vận chuyển, sản
xuất điện, và nhiều loại hàng hóa khác cũng tăng lên, dẫn đến lạm phát do chi phí đẩy. Lạm
phát do chi phí đẩy có thể gây ra suy thoái kinh tế kèm theo lạm phát, còn gọi là stagnation.
Khi giá cả tăng do chi phí sản xuất, các doanh nghiệp có thể phải giảm sản xuất hoặc tăng giá
bán, dẫn đến sự giảm cầu trong khi giá cả vẫn tiếp tục tăng.
* Lạm phát cơ cấu:
Lạm phát cơ cấu xuất phát từ các vấn đề nội tại trong nền kinh tế, như sự mất cân đối
giữa các ngành kinh tế hoặc các chính sách quản lý kém hiệu quả. Các yếu tố như chính sách
tiền lương cứng nhắc, quy định quản lý sản xuất không phù hợp, hoặc sự phân phối tài nguyên
không đồng đều có thể gây ra lạm phát. Lạm phát cơ cấu thường diễn ra trong dài hạn và đòi
hỏi phải có các cải cách cấu trúc trong nền kinh tế để giải quyết. Nó không phải là kết quả
trực tiếp của sự gia tăng trong cầu hoặc chi phí, mà liên quan đến sự phân bổ nguồn lực không
hiệu quả.
1.2.3. Nguyên nhân xảy ra lạm phát
Lạm phát là hiện tượng tăng giá chung và liên tục của hàng hóa và dịch vụ trong nền
kinh tế, và có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến nó. Một trong những nguyên nhân chính
là lạm phát do cầu kéo, xảy ra khi tổng cầu tăng mạnh hơn khả năng cung ứng, thường do thu
nhập người dân tăng, chính sách tiền tệ mở rộng, hoặc xuất khẩu tăng. Lạm phát do chi phí
đẩy xảy ra khi giá nguyên liệu thô, chi phí lao động hoặc thuế tăng, khiến chi phí sản xuất cao
hơn và giá cả tăng theo. Kỳ vọng lạm phát cũng là một yếu tố quan trọng, khi doanh nghiệp
và người tiêu dùng dự đoán giá sẽ tăng trong tương lai, họ tăng giá hàng hóa và yêu cầu tăng
lương, tạo ra vòng xoáy lạm phát. Ngoài ra, việc cung tiền tăng quá nhanh cũng có thể gây ra
lạm phát do lượng tiền lưu thông vượt quá nhu cầu hàng hóa và dịch vụ. Lạm phát nhập khẩu
xảy ra khi giá hàng hóa nhập khẩu tăng do giảm giá trị của đồng nội tệ hoặc lạm phát từ các
đối tác thương mại. Các yếu tố cấu trúc, như tắc nghẽn trong sản xuất hoặc các biện pháp
kiểm soát giá bị dỡ bỏ, cũng góp phần gây lạm phát. Bất ổn chính trị và kinh tế hoặc các
quyết định hành chính như điều chỉnh giá cả các dịch vụ công cũng có thể đẩy giá lên. Tóm
lại, lạm phát là kết quả của nhiều yếu tố kinh tế và chính trị khác nhau, đòi hỏi sự can thiệp
hợp lý từ các chính phủ và ngân hàng trung ương để kiểm soát và đảm bảo ổn định kinh tế.
1.2.4. Tác động của lạm phát đến nền kinh tế
Lạm phát có những tác động nhất định đến nền kinh tế của một quốc gia, bao gồm cả
tác động tiêu cực và tích cực.
a. Tác động tiêu cực
* Ảnh hưởng đến lãi suất:

Lãi suất chính là yếu tố chịu ảnh hưởng đầu tiên của lạm phát. Lạm phát tăng cao, việc
huy động vốn của các ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Để huy động được vốn, hoặc không
muốn vốn từ ngân hàng mình chạy sang các ngân hàng khác, thì phải nâng lãi suất huy động
sát với diễn biến của thị trường vốn. Nhưng nâng lên bao nhiêu là hợp lý, luôn là bài toán khó
đối với mỗi ngânhàng. Vì Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa - Tỷ lệ lạm phát nên khi lạm
phát tăng, để giữ cho lãi suất thực trong nước được ổn định thì lãi suất danh nghĩa phải tăng
theo mức tăng của lạm phát. Điều này kéo theo hệ quả làm suy thoái nền kinh tế, các hoạt
động vay nợ và đầu tư giảm dẫn đến một lượng lớn lao động không có công ăn việc làm.
* Ảnh hưởng đến thu nhập thực tế của người lao động:
Thu nhập thực tế và thu nhập danh nghĩa của người lao động và lạm phát có mối quan
hệ với nhau. Nếu lạm phát tăng nhưng mức thu nhập danh nghĩa không đổi sẽ dẫn đến thu
nhập thực tế của người lao động bị giảm. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của
người lao động và cả doanh nghiệp. Lạm phát không chỉ làm giảm giá trị thực tế của những
tải sản không phát sinh lãi mà còn làm giảm thu nhập từ những khoản lãi của những tài sản
phát sinh lãi.
* Ảnh hưởng đến phân phối thu nhập:
Khi lạm phát tăng lên đồng nghĩa với việc giá trị của đồng tiền bị giảm xuống, điều này
sẽ có lợi cho những người đi vay vốn để đầu cơ trục lợi dẫn đếnnhu cầu vay cao kéo theo lãi
suất cũng tăng cao. Tầng lớp những người giàu có sẽ dựa vào lạm phát mà thu gom, vơ vét,
đầu cơ tích trữ hàng hóa, tài sản dẫn đến sự chênh lệch lớn trong quan hệ cung cầu hàng hóa
trên thị trường. Tình trạng ngày càng làm mất cân đối nghiêm trọng quan hệ cung – cầu hàng
hoá trên thị trường, giá cả hàng hoá lại càng lên cao hơn. Trong khi đó, những người lao động
nghèo vốn đã nghèo càng trở nên khốn khó hơn, họ thậm chí không mua nổi những hàng hoá
tiêu dùng thiết yếu. Tình trạng này kéo dài sẽ gây nên những rối loạn trong nền kinh tế và tạo
ra khoảng cách lớn về thu nhập, về mức sống giữa người giàu và người nghèo.
* Ảnh hưởng đến khoản nợ quốc gia:
Tình trạng lạm phát sẽ làm cho tỷ giá ngoại tệ so với đồng tiền trong nước tăng, đồng
tiền trong nước sẽ trở nên mất giá hơn so với đồng tiền nước ngoài khiến cho các khoản nợ
nước ngoài sẽ trở nên nghiêm trọng hơn.
b. Tác động tích cực
* Tránh nguy cơ giảm phát:
Lạm phát giúp giữ cho nền kinh tế không rơi vào vòng xoáy giảm phát, nơi mà sự giảm
giá gây ra đình trệ kinh tế kéo dài và làm gia tăng thất nghiệp. Một mức lạm phát vừa phải
giúp tránh được nguy cơ giảm phát, tình trạng mà giá cả giảm liên tục trong nền kinh tế. Giảm
phát có thể gây thiệt hại nghiêm trọng, làm giảm động lực tiêu dùng và đầu tư vì mọi người có
xu hướng chờ đợi giá cả giảm thêm. Đồng thời, giảm phát làm gia tăng gánh nặng nợ vì giá trị
thực của khoản nợ tăng lên.
* Thúc đẩy tăng trưởng lợi nhuận doanh nghiệp:
Khi giá cả hàng hóa và dịch vụ tăng lên do lạm phát, doanh thu của các doanh nghiệp
cũng tăng, đặc biệt là các doanh nghiệp trong ngành sản xuất và bán lẻ. Khi giá cả bán lẻ tăng,
lợi nhuận biên có thể tăng lên nếu chi phí sản xuất không tăng theo tỷ lệ tương ứng. Lợi
nhuận cao hơn giúp các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, tăng cường đầu tư và tuyển dụng lao
động, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế chung.
* Khuyến khích tiêu dùng và đầu tư:
Khi mức lạm phát vừa phải, người tiêu dùng và doanh nghiệp có xu hướng chi tiêu và
đầu tư nhiều hơn thay vì giữ tiền mặt. Điều này xảy ra vì lạm phát làm giảm giá trị của tiền

theo thời gian, tức là nếu họ để tiền mặt không sử dụng, sức mua của nó sẽ giảm dần. Khuyến
khích tiêu dùng và đầu tư góp phần tăng cường hoạt động kinh tế, kích thích tăng trưởng
GDP. Điều này đặc biệt quan trọng trong giai đoạn kinh tế đình trệ hoặc suy thoái, khi các
chính phủ thường sử dụng các biện pháp kích thích lạm phát để thúc đẩy chi tiêu và sản xuất.
1.3. Tác động của chính sách tiền tệ đến lạm phát
Mối quan hệ giữa chính sách tiền tệ và lạm phát rất chặt chẽ và phức tạp, vì chính sách
tiền tệ là một trong những công cụ quan trọng nhất mà các ngân hàng trung ương sử dụng để
kiểm soát lạm phát và ổn định giá cả. Mối quan hệ này có thể được hiểu qua cách các biện
pháp chính sách tiền tệ ảnh hưởng đến lượng cung tiền, lãi suất, và các yếu tố kinh tế khác, từ
đó tác động đến mức lạm phát trong nền kinh tế. Lạm phát thường phản ánh sự mất cân bằng
giữa lượng tiền và tổng cung hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế. Chính sách tiền tệ tác
động trực tiếp đến lạm phát thông qua các cơ chế sau.
Chính sách tiền tệ có vai trò quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát thông qua điều
chỉnh cung tiền và lãi suất trong nền kinh tế. Khi ngân hàng trung ương thực hiện chính sách
tiền tệ mở rộng, họ tăng lượng cung tiền và hạ lãi suất với mục tiêu thúc đẩy chi tiêu và đầu
tư. Khi lãi suất giảm, chi phí vay vốn trở nên rẻ hơn, khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng
sản xuất và người tiêu dùng tăng cường mua sắm. Kết quả là tổng cầu trong nền kinh tế tăng
lên. Nếu cung hàng hóa và dịch vụ không theo kịp đà tăng trưởng của cầu, giá cả sẽ tăng, gây
ra lạm phát. Ví dụ, khi lãi suất thấp, nhiều người vay tiền mua nhà, khiến giá bất động sản
tăng, điều này có thể dẫn đến lạm phát tài sản. Lạm phát xảy ra khi có quá nhiều tiền lưu
thông trong nền kinh tế mà lượng hàng hóa và dịch vụ không đủ đáp ứng.
Ngược lại, khi nền kinh tế đối mặt với nguy cơ lạm phát vượt mức, ngân hàng trung
ương có thể áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt. Biện pháp này nhằm giảm cung tiền và tăng
lãi suất để kiềm chế sự tăng giá quá mức. Khi lãi suất tăng, chi phí vay vốn trở nên cao hơn,
khiến các doanh nghiệp và người tiêu dùng cắt giảm đầu tư và chi tiêu. Từ đó, tổng cầu giảm,
làm giảm áp lực tăng giá hàng hóa và dịch vụ, giúp kiểm soát lạm phát. Ngoài ra, việc bán trái
phiếu chính phủ hoặc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng là cách ngân hàng trung ương thu hồi
lượng tiền lưu thông, làm giảm lượng tiền sẵn có trong hệ thống tài chính, giúp hạ nhiệt nền
kinh tế quá nóng.
Tuy nhiên, việc áp dụng các chính sách tiền tệ cần được điều chỉnh một cách thận trọng.
Nếu chính sách mở rộng được duy trì quá lâu hoặc áp dụng quá mức, nó có thể dẫn đến lạm
phát không kiểm soát, làm suy yếu sức mua của người tiêu dùng và gây bất ổn kinh tế. Ngược
lại, chính sách thắt chặt nếu quá khắc nghiệt có thể làm giảm đáng kể tốc độ tăng trưởng kinh
tế, thậm chí gây suy thoái và làm tăng tỷ lệ thất nghiệp, vì chi phí vay vốn cao sẽ làm cho các
doanh nghiệp ngần ngại đầu tư, và người tiêu dùng sẽ hạn chế chi tiêu.
Ngoài ra, chính sách tiền tệ còn ảnh hưởng đến kỳ vọng lạm phát của doanh nghiệp và
người tiêu dùng. Nếu ngân hàng trung ương thể hiện sự quyết tâm kiểm soát lạm phát bằng
cách thắt chặt chính sách tiền tệ, kỳ vọng về lạm phát tương lai sẽ giảm, giúp ổn định giá cả
trên thị trường. Ngược lại, nếu chính sách tiền tệ quá nới lỏng mà không có tín hiệu kiểm soát,
kỳ vọng lạm phát có thể tăng cao, làm cho các doanh nghiệp tăng giá sản phẩm và dịch vụ,
gây ra lạm phát thực tế cao hơn.
Tóm lại, chính sách tiền tệ có thể là công cụ hiệu quả để điều chỉnh lạm phát, thông qua
việc kiểm soát cung tiền và lãi suất. Tuy nhiên, cả chính sách mở rộng và thắt chặt đều cần
được điều chỉnh cẩn thận để tránh gây ra những tác động tiêu cực lên nền kinh tế, đảm bảo
duy trì sự cân bằng giữa tăng trưởng và ổn định giá cả.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ ĐẾN
LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2020-2023
2.1. Thực trạng lạm phát tại Việt Nam (2020-2023)
Việt Nam đã và đang rất nỗ lực trong quá trình xây dựng một nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực tế, từ Đại hội Đảng lần thứ VI đến Đại hội Đảng lần thứ
XII, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã và đang ngày càng được hoàn
thiện và đã chứng minh được tính đúng đắn khi đã giúp cho Việt Nam ta thoát khỏi thời kỳ
khó khăn về kinh tế, đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế có những năm thuộc nhóm cao trên
thế giới. Từ một nước nghèo với thu nhập thấp, giờ đây nước ta đã có mặt trong nhóm nước
có thu nhập.
Năm 2020, tình hình lạm phát tại Việt Nam chịu nhiều tác động phức tạp từ cả yếu tố
trong nước và quốc tế, đặc biệt là do đại dịch COVID-19 bùng phát và các biện pháp phong
tỏa, giãn cách xã hội. Trong năm này, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Việt Nam có nhiều biến
động. Lạm phát trung bình cả năm 2020 đạt khoảng 3,23%, nằm trong phạm vi mục tiêu mà
Chính phủ đặt ra là dưới 4%. Đại dịch khiến chuỗi cung ứng toàn cầu bị gián đoạn, nhu cầu
tiêu dùng trong nước suy giảm, và các hoạt động sản xuất bị đình trệ, điều này làm giảm áp
lực lạm phát do nhu cầu suy yếu. Tuy nhiên, các mặt hàng thiết yếu như thực phẩm, dịch vụ y
tế và nhu yếu phẩm khác lại có sự tăng giá do nguồn cung hạn chế, đặc biệt là trong thời gian
các biện pháp phong tỏa được thực thi. Chính phủ Việt Nam và Ngân hàng Nhà nước thực
hiện các chính sách tiền tệ linh hoạt và chính sách tài khóa hỗ trợ nền kinh tế. Lãi suất được
cắt giảm nhiều lần để kích thích tiêu dùng và đầu tư, đồng thời gói hỗ trợ tài chính cho các
doanh nghiệp và người lao động bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh cũng được triển khai. Điều này
giúp ổn định giá cả và kiềm chế lạm phát trong tầm kiểm soát.
Tính đến cuối năm 2021, chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam tăng khoảng 1,84% so với
cuối năm 2020. Đây là mức lạm phát thấp nhất trong 5 năm liên tiếp và thấp hơn so với mục
tiêu 4% mà Chính phủ đặt ra. Điều này xảy ra là do đại dịch Covid 19, nhu cầu tiêu dùng của
người dân Việt Nam giảm xuống ở nhiều lĩnh vực dẫn đến áp lực lạm phát ở một số mặt hàng
giảm đi, đặc biệt là các dịch vụ liên quan đến du lịch, giải trí và khách sạn.
Năm 2022, Chỉ số giá tiêu dùng nước ta (CPI) ở mức 3.15% thấp hơn nhiều so với mức
trung bình các nước trong khu vực là 7,85%, còn các nước phát triển có thời điểm lạm phát
đạt đến hai con số. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng
cho sản xuất năm 2022 tăng 6.79% so với năm 2021, mức tăng cao nhất trong vòng 10 năm
qua. Chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa tăng 8,56%, mức tăng cao nhất từ năm 2012 trong khi
hơn 90% giá trị kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam là nhập khẩu tư liệu sản xuất. Mặc dù
kinh tế thế giới 2022 ảm đạm, nhiều nền kinh tế rơi vào đình trệ song Việt Nam dường như đã
vượt qua thách thức, đạt mức tăng trưởng cao và lạm phát thấp đạt được mục tiêu kép: GDP
năm 2022 ước tính tăng 8.02% so với năm 2021, đạt mức tăng cao nhất trong giai đoạn 2011-
2022 trong khi đó lạm phát bình quân năm 2022 chỉ ở mức 3,15% thấp hơn nhiều so với mục
tiêu 45 được Quốc hội giao. Ngoài ra, đồng Việt Nam cũng được coi là đồng tiền có tính ổn

định cao trên thế giới trong năm 2022. Để đạt được kết quả như vậy, thứ nhất là do nền kinh
tế Việt Nam chưa phục hồi hoàn toàn. Mặc dù tốc độ tăng trưởng GDP trong năm 2022 đạt
mức 8,02% nhưng tính trung bình giai đoạn 2020-2022 chỉ ở mức 4,52%, tức thấp hơn nhiều
so với mức tiền năng 6-6,5%. Điều này đã chứng tỏ nên kinh tế Việt Nam hiện nay còn nhiều
công suất dư thừa, các doanh nghiệp không tăng giá mạnh, khi cung hàng hòa vẫn khá dồi
dào. Đây là yếu tố kiếm chế giá cả của một số mặt hàng như lương thực, thực phẩm cũng như
hàng tiêu dùng thiết yếu. Thứ hai, mặc dù mặt bằng giá cả trong nền kinh tế năm 2022 chịu
tác động tiêu cực từ xu hướng giá xăng dầu, giá nguyên vật liệu trên thế giới tăng cao nhưng
Việt Nam đã thực hiện một số biện pháp kiểm soát lạm phát nhập khẩu, điều này đã giúp hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và ổn định đời sống của người dân, giảm áp lực
đáng kể lên mặt bằng giá.
Đến năm 2023 tình hình lạm phát tại Việt Nam được kiểm soát khá tốt, với chỉ số giá
tiêu dùng (CPI) tăng 3,25% so với năm 2022, nằm trong mục tiêu đề ra của Quốc hội. Các
yếu tố chính góp phần làm tăng CPI bao gồm giá giáo dục, nhà ở và vật liệu xây dựng, lương
thực, và điện sinh hoạt, tất cả đều tăng từ 4,86% đến 7,91%. Tuy nhiên, sự giảm giá của xăng
dầu và gas (lần lượt giảm 11,02% và 6,94%) đã góp phần kiềm chế mức tăng chung của CPI.
Bên cạnh CPI, lạm phát cơ bản – không bao gồm giá lương thực và năng lượng – tăng 4,16%,
cao hơn so với mức tăng của CPI chung. Điều này cho thấy vẫn còn những áp lực từ các yếu
tố cơ bản của nền kinh tế, dù giá xăng dầu và gas đã giảm đáng kể.
2.2. Thực trạng chính sách tiền tệ tại Việt Nam (2020-2023)
Năm 2020, chính sách tiền tệ của Việt Nam được điều hành theo hướng mở rộng, nhằm
hỗ trợ nền kinh tế đối phó với các tác động nghiêm trọng của đại dịch COVID-19. Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam đã thực hiện nhiều đợt giảm lãi suất điều hành, trong đó có 3 lần giảm lãi
suất tái cấp vốn, đưa mức lãi suất này xuống từ 6,0% còn 4,0%/năm. Lãi suất tái chiết khấu
cũng được điều chỉnh giảm từ 4,0% xuống còn 2,5%/năm .Đặc biệt, NHNN đã yêu cầu các
ngân hàng thương mại cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi và hoãn nợ cho các doanh
nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch. Tính đến cuối năm 2020, tổng dư nợ tín dụng của
các tổ chức tín dụng tăng khoảng 12,13% so với cuối năm 2019, cho thấy dòng vốn vẫn được
duy trì để thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, NHNN cũng thực hiện bơm

thanh khoản thông qua nghiệp vụ thị trường mở (OMO), nhằm đảm bảo sự ổn định của hệ
thống tài chính trong bối cảnh khó khăn. Nhờ những biện pháp này, áp lực lạm phát đã được
giảm bớt, với mức lạm phát cả năm được kiềm chế ở mức 3,23%, trong khi nền kinh tế vẫn
giữ được sự ổn định và tăng trưởng.
Năm 2021, ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ mở rộng
nhưng không mở rộng quá mức, với mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và hỗ
trợ tăng trưởng kinh tế, nhằm hỗ trợ nền kinh tế phục hồi sau những ảnh hưởng nặng nề của
đại dịch COVID-19. Mặc dù áp lực lạm phát gia tăng, NHNN vẫn tiếp tục giữ các mức lãi
suất điều hành thấp, trong đó lãi suất tái cấp vốn vẫn được duy trì ở mức 4,0% và lãi suất tái
chiết khấu ở mức 2,5% để hỗ trợ thanh khoản cho nền kinh tế. Bên cạnh việc giữ ổn định lãi
suất, NHNN cũng chỉ đạo các ngân hàng thương mại tiếp tục triển khai các gói hỗ trợ tín
dụng, cơ cấu lại nợ, giảm lãi suất cho vay và hỗ trợ doanh nghiệp và cá nhân bị ảnh hưởng bởi
dịch bệnh. Tính đến cuối năm 2021, tổng dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng tăng khoảng
13,61% so với cuối năm 2020, cho thấy sự nỗ lực trong việc duy trì dòng vốn hỗ trợ sản xuất
kinh doanh. Để kiểm soát lạm phát và đảm bảo ổn định tỷ giá, NHNN tiếp tục can thiệp thị
trường ngoại hối khi cần, giữ cho tỷ giá USD/VND ổn định trong bối cảnh biến động toàn
cầu.
Có thể thấy, 2022 là một năm đầy sóng gió đối với nền kinh tế toàn cầu; là năm mà kinh
tế thế giới và trong nước khó khăn hơn rất nhiều so với đánh giá, dự báo trước đó. Diễn biến
của đại dịch Covid-19 phức tạp, xung đột Nga - Ukraine và những hệ quả như gián đoạn
chuỗi cung ứng toàn cầu, giá cả các hàng hóa nguyên vật liệu tăng cao, làm tăng áp lực lạm
phát toàn cầu. Để kiềm chế lạm phát và bảo vệ sự ổn định tài chính, các ngân hàng trung ương
trên thế giới đã tăng tốc thắt chặt chính sách tiền tệ thông qua tăng lãi suất, nhất là việc Cục
Dự trữ liên bang Hoa Kỳ (Fed) tăng lãi suất mạnh đã dẫn đến sự tăng giá mạnh của đồng USD
so với nhiều loại tiền tệ khác. Năm 2022, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã kiểm soát chặt
chẽ tín dụng cho những lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, yêu cầu các tổ chức tín dụng bảo đảm an toàn
hoạt động. Bảo đảm đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho người dân, doanh nghiệp, nhất là đối
với các lĩnh vực ưu tiên theo chỉ đạo của Chính phủ. Đáng chú ý, sau một thời gian dài kiên
định với chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng 14%, thời điểm khi chỉ còn ba tuần nữa sẽ kết thúc năm
2022, khi nhận thấy tác động của tình hình thế giới đối với Việt Nam dịu bớt, nhiều chỉ tiêu vĩ
mô đã cho thấy những dấu hiệu rất tích cực,... Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã quyết định
nới chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng thêm từ 1,5 - 2% cho toàn hệ thống các tổ chức tín dụng.
Mặc dù trong năm 2023 NHNN đã thực hiện việc chuyển sang CSTT nới lỏng thông
qua việc liên tục giảm lãi suất điều hành nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp cũng như nền kinh tế
phục hồi sau đại dịch, tuy nhiên lạm phát vẫn được duy trì ở mức phù hợp. CPI tháng 10 và
tháng 11 lần lượt là 0,08% và 0,25%, thấp hơn mức bình quân 3 tháng trước đó (0,80%) và
thấp hơn so với cùng kì năm 2022. CPI năm 2023 tăng 3,25%, phù hợp với mục tiêu mà
Chính phủ đã đề ra. NHNN liên tục giảm 04 lần lãi suất điều hành trong bối cảnh lãi suất thế
giới tiếp tục tăng và neo ở mức cao với mức giảm 0,5 - 2%/năm trong năm 2023. Việc liên tục
điều chỉnh giảm các mức lãi suất điều hành được đánh giá là giải pháp linh hoạt, phù hợp với
điều kiện thị trường, giúp hỗ trợ hoạt động sản xuất, kinh doanh thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
2.3. Thực trạng tác động của chính sách tiền tệ đến lạm phát tại Việt Nam (2020-2023)
2.3.1. Tác động tích cực
Từ năm 2020 đến 2023, chính sách tiền tệ của Việt Nam đã có những tác động rõ rệt
đến lạm phát, qua việc điều chỉnh các yếu tố như lãi suất, tăng trưởng GDP, và tỷ lệ thất

nghiệp. Đối mặt với các biến động kinh tế toàn cầu do đại dịch COVID-19, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam đã áp dụng chính sách tiền tệ nới lỏng, với nhiều lần cắt giảm lãi suất điều
hành nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và hỗ trợ doanh nghiệp. Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam đã thực hiện một loạt các biện pháp nới lỏng tiền tệ để hỗ trợ nền kinh tế, bao gồm hạ lãi
suất điều hành và yêu cầu các ngân hàng thương mại giảm lãi suất cho vay nhằm tạo điều kiện
cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận nguồn vốn rẻ hơn. Lãi suất tái cấp vốn được cắt giảm
từ 6% xuống 4%, và lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa giảm từ 6% xuống 4,5%, nhằm kích
thích đầu tư và tiêu dùng. Tuy nhiên, từ cuối năm 2022 và suốt năm 2023, áp lực lạm phát gia
tăng do giá cả năng lượng và lương thực thế giới leo thang, cộng với sự phục hồi mạnh mẽ
của nhu cầu nội địa. Để đối phó, NHNN bắt đầu thắt chặt chính sách tiền tệ, điều chỉnh lại lãi
suất nhằm kiểm soát lạm phát. Lãi suất tái cấp vốn tăng dần để ngăn chặn đà tăng của giá cả,
nhưng vẫn giữ ở mức hợp lý để không gây ra sốc cho nền kinh tế. Nhờ các biện pháp kịp thời,
lạm phát trong suốt giai đoạn này luôn được duy trì dưới ngưỡng mục tiêu 4%, góp phần ổn
định môi trường kinh doanh và đầu tư .
Chính sách tiền tệ không chỉ giúp ổn định kinh tế vĩ mô mà còn hỗ trợ thị trường lao
động. Trong những thời điểm khó khăn nhất của đại dịch, chính sách giảm lãi suất đã giúp
doanh nghiệp giữ chân người lao động và tiếp tục hoạt động kinh doanh. Dù tỷ lệ thất nghiệp
có tăng nhẹ vào năm 2020 và 2021 (3,72%), nó đã giảm dần vào cuối năm 2022 khi các hoạt
động kinh tế khôi phục. Sự cải thiện của thị trường lao động phản ánh tác động tích cực của
chính sách tiền tệ lên việc duy trì việc làm trong các ngành công nghiệp và dịch vụ quan
trọng.
Chính sách giảm lãi suất của ngân hàng đã phần nào giúp GDP của Việt Nam duy trì
được tăng trưởng tích cực dù chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch. Năm 2020, GDP tăng
2,87% – một con số ấn tượng so với nhiều nền kinh tế khác đang rơi vào suy thoái. Đến năm
2021, khi đại dịch được kiểm soát tốt hơn và các biện pháp kinh tế tiếp tục phát huy hiệu quả,
GDP tăng lên 2,55%, và năm 2022 tăng trưởng ấn tượng với 8,02%, đánh dấu sự phục hồi
mạnh mẽ.
2.3.2. Tác động tiêu cực
Mặc dù chính sách tiền tệ của Việt Nam từ năm 2020 đến 2023 có những tác động tích
cực, nhưng cũng có những tác động tiêu cực nhất định, đặc biệt là khi nhìn vào GDP, tỷ lệ
thất nghiệp, và lãi suất.
Để kiểm soát lạm phát tăng cao vào cuối năm 2022 và 2023, NHNN buộc phải thắt chặt
chính sách tiền tệ bằng cách tăng lãi suất điều hành. Động thái này gây ra tác động ngược cho
nền kinh tế, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp đang phụ thuộc vào nguồn vốn vay để mở
rộng sản xuất và phát triển. Việc tăng lãi suất khiến chi phí vay vốn tăng lên, ảnh hưởng trực
tiếp đến khả năng đầu tư và tiêu dùng, làm chậm quá trình phục hồi kinh tế. Các doanh nghiệp
trong lĩnh vực bất động sản, xây dựng và các ngành công nghiệp phụ thuộc nhiều vào nguồn
vốn đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi sự gia tăng chi phí tài chính. Hơn nữa, việc thắt chặt tiền tệ
đột ngột vào năm 2023 cũng làm cho thị trường tài chính trở nên khó đoán định, ảnh hưởng
đến niềm tin của nhà đầu tư và doanh nghiệp. Điều này đã làm suy giảm động lực đầu tư, kéo
giảm tăng trưởng kinh tế và tăng áp lực lên thị trường lao động.
Trong giai đoạn 2020-2021, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã triển khai
chính sách tiền tệ mở rộng, hạ lãi suất tái cấp vốn và tái chiết khấu nhằm kích thích tiêu dùng
và đầu tư. Tuy nhiên, điều này đã dẫn đến sự phân bổ tín dụng không đồng đều, nhiều khoản
vay không được đầu tư vào sản xuất kinh doanh hiệu quả mà chảy vào các kênh đầu tư tài sản,

đặc biệt là bất động sản và chứng khoán. Sự gia tăng của bong bóng tài sản từ nguồn tín dụng
nới lỏng đã tạo ra nguy cơ lớn cho nền kinh tế, khiến tốc độ tăng trưởng GDP bị suy giảm
trong năm 2021 và 2022. Mặc dù GDP vẫn duy trì được mức tăng trưởng ấn tượng vào năm
2022 (8,02%), nhưng các khoản đầu tư không hiệu quả vào bất động sản đã kéo theo sự bất ổn
của thị trường và nền kinh tế dần lộ rõ yếu kém vào cuối năm 2022 và 2023.
Chính sách tiền tệ mở rộng trong giai đoạn 2020-2021, đặc biệt là việc giảm lãi suất cho
vay, không thực sự giúp cải thiện bền vững tỷ lệ thất nghiệp. Trong khi chính sách này nhằm
tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn rẻ hơn để duy trì hoạt động và giữ chân
lao động, nhưng nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa lại gặp khó khăn trong việc sử dụng hiệu quả
nguồn vốn vay này. Họ không có đủ năng lực quản lý và chiến lược kinh doanh để thích ứng
với bối cảnh kinh tế mới. Điều này dẫn đến việc nhiều doanh nghiệp phải thu hẹp quy mô,
giảm lao động, làm cho tỷ lệ thất nghiệp không giảm như kỳ vọng.
Chính sách tiền tệ của Việt Nam từ năm 2020 đến 2023 không chỉ đem lại những lợi ích
nhất định mà còn dẫn đến những hệ quả tiêu cực. GDP chậm lại, lạm phát gia tăng, tỷ lệ thất
nghiệp khó kiểm soát, và lãi suất tăng đột ngột đã tạo ra những thách thức lớn cho nền kinh tế.
Những tác động này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc quản lý và điều hành chính sách tiền
tệ một cách cẩn trọng, cần có sự cân nhắc kỹ lưỡng giữa việc kích thích tăng trưởng và kiểm
soát lạm phát, tránh những hệ lụy dài hạn cho sự ổn định kinh tế.
2.4. Đánh giá hiệu quả của chính sách tiền tệ trong việc kiềm chế lạm phát tại Việt Nam (2020-
2023)
2.4.1. Thành tựu
Chính sách tiền tệ của Việt Nam đã đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát và
kiềm chế lạm phát, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế có nhiều biến động trong thập kỷ qua.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã sử dụng linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ
để ổn định giá cả và bảo vệ giá trị của đồng tiền. Trong suốt giai đoạn từ 2020 đến 2023,
chính sách tiền tệ của Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật trong việc kiềm chế lạm
phát.
Từ năm 2020 cho đến 2021, trong giai đoạn covid 19 đầy biến động và thách thức này,
để đối phó với tác động của đại dịch COVID-19, NHNN đã liên tục giảm lãi suất điều hành
nhằm hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế. Trong giai đoạn 2020, NHNN đã cắt giảm lãi suất
tái cấp vốn, lãi suất cho vay qua đêm và lãi suất tái chiết khấu, giúp giảm chi phí vay vốn cho

doanh nghiệp và cá nhân, qua đó duy trì hoạt động kinh tế. Mặc dù áp dụng chính sách tiền tệ
mở rộng để đối phó với suy giảm kinh tế, NHNN vẫn duy trì mức tăng trưởng cung tiền một
cách có kiểm soát. Nhờ đó, lạm phát trong năm 2020 vẫn được giữ ở mức thấp, với chỉ số CPI
(Chỉ số giá tiêu dùng) tăng 3,23%, thấp hơn mục tiêu dưới 4% của Chính phủ. Năm 2021,
NHNN tiếp tục duy trì các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp và người dân thông qua việc giữ lãi
suất điều hành ở mức thấp và gia hạn các gói hỗ trợ tín dụng. Điều này giúp thúc đẩy kinh tế
phục hồi sau những đợt phong tỏa do dịch bệnh mà vẫn giữ được sự kiểm soát lạm phát.
NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ theo hướng cân bằng, vừa hỗ trợ thanh khoản cho hệ
thống ngân hàng, vừa giám sát chặt chẽ tăng trưởng tín dụng để tránh nguy cơ lạm phát cao.
Điều này thể hiện sự linh hoạt trong điều hành chính sách tiền tệ giữa việc thúc đẩy phục hồi
kinh tế và giữ lạm phát ổn định.
Năm 2022, mặc dù Việt Nam đã vượt qua giai đoạn covid 19 khó khăn nhưng lại phải
tiếp tục đối mặt với áp lực lạm phát mạnh do giá năng lượng, thực phẩm, và hàng hóa nhập
khẩu tăng vọt sau xung đột Nga-Ukraine. Mặc dù vậy, NHNN đã áp dụng các biện pháp chính
sách linh hoạt, giữ lạm phát dưới mức mục tiêu với CPI tăng 3,15%, thấp hơn mức tăng mạnh
của nhiều quốc gia khác trong khu vực.
Sang đến năm 2023, trong bối cảnh nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới vẫn chứng
kiến mức lạm phát cao thì Việt Nam năm thứ 12 liên tiếp hoàn thành mục tiêu kiểm soát lạm
phát, có thể nói là một điểm sáng đáng tự hào. Việc kiểm soát thành công lạm phát đã đóng
góp tích cực vào sự ổn định kinh tế vĩ mô nói chung, tăng niềm tin của người dân, doanh
nghiệp vào đồng nội tệ và kiến tạo môi trường kinh doanh thuận lợi. Những thành công về ổn
định kinh tế vĩ mô, phục hồi tăng trưởng và kiểm soát lạm phát trong năm 2023 là một yếu tố
rất quan trọng để tổ chức xếp hạng tín nhiệm Fitch Ratings nâng hạng tín nhiệm quốc gia cho
Việt Nam từ BB lên BB+ (là quốc gia duy nhất trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương và
là một trong số ít các quốc gia trên thế giới được nâng hạng tín nhiệm), qua đó, gia tăng sự
hấp dẫn của thị trường Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Kinh tế vĩ mô ổn định và
lạm phát được kiểm soát sẽ trở thành nền tảng vững chắc cho phục hồi kinh tế bền vững và
hiệu quả trong năm 2024. 
2.4.2. Hạn chế
Chính sách tiền tệ của Việt Nam trong hoạt động kiềm chế lạm phát đã đạt được nhiều
thành tựu nổi bật, tuy vậy vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế mà chúng ta cần phải xem xét lại.
Những hạn chế đó bao gồm:
* Thiếu đồng bộ giữa các công cụ chính sách
Chính sách tiền tệ và các công cụ tài khóa đôi khi không phối hợp nhịp nhàng, dẫn đến
sự chồng chéo hoặc thiếu hiệu quả trong việc kiềm chế lạm phát. Điều này gây khó khăn cho
việc điều chỉnh cung tiền, lãi suất và tỷ giá hối đoái để đạt được các mục tiêu kinh tế tổng thể.
* Sự phụ thuộc vào yếu tố bên ngoài
Nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc nhiều vào xuất nhập khẩu, khiến chính sách tiền tệ dễ
bị ảnh hưởng bởi các cú sốc từ thị trường toàn cầu, như giá dầu, lương thực, hay biến động tỷ
giá. Điều này làm giảm khả năng kiểm soát lạm phát của chính sách tiền tệ trong bối cảnh
biến động toàn cầu.
* Hệ thống tài chính chưa phát triển toàn diện
Sự phát triển chưa đồng đều của các tổ chức tài chính, ngân hàng cùng với thị trường
vốn chưa ổn định có thể làm giảm hiệu quả của chính sách tiền tệ. Điều này gây khó khăn
trong việc kiểm soát lượng cung tiền và quản lý tín dụng.

* Tác động lãi suất đến nền kinh tế
Việc tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát có thể làm chậm tăng trưởng kinh tế, gây áp lực
lên doanh nghiệp và người tiêu dùng, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế đang cần tăng trưởng
mạnh mẽ sau đại dịch.

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
TRONG KIỀM CHẾ LẠM PHÁT
3.1. Các nguy cơ dẫn tới tái lạm phát
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đầy biến động, nguy cơ tái lạm phát tại Việt Nam đang
trở thành một vấn đề đáng lo ngại, đòi hỏi sự quan tâm đặc biệt từ các cơ quan chức năng
nhằm đảm bảo ổn định kinh tế và phát triển bền vững.
Mặc dù mấy năm qua lạm phát đã được kiềm chế. Song nền kinh tế Việt nam vẫn tồn tại
nhiều vấn đề chưa ổn định vững chắc, có thể dẫn tới việc tái lạm phát. Các nhân tố tiềm tàng
làm phát sinh lạm phát cần phải được tính đến khi kiểm soát lạm phát. Nhân tố đầu tiên cần
phải chú ý là cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội chậm được cải thiện, có mặt tiếp tục xuống cấp, tỷ
lệ tiết kiệm và đầu tư còn thấp, nhiều tiềm lực của dân chưa được khai thác vào phát triển sản
xuất , tài sản công và vốn đầu tư của nhà nước còn bị thất thoát lãng phí lớn. Nhân tố thứ hai
chính là sức sản xuất của xã hội chưa được giải pháp triệt để, hiệu quả kinh tế còn thấp, hạn
chế nguồn tích luỹ vốn đầu tư cũng như khả năng cải thiện đời sống. Kế đến là nền kinh tế thị
trường Việt Nam đang ở trình độ ban đầu, vừa chưa được phát triển đầy đủ, vừa chưa được
quản lý tốt, chủ yếu do hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, năng lực và hiệu lực quản lý vĩ mô
chưa đáp ứng yêu cầu. Bộ máy nhà nước, hệ thống tài chính ngân hàng và khu vực doanh
nghiệp nhà nước còn bộc lộ nhiều yếu kém. Bên cạnh đó ở nước ta những năm  qua, nhu cầu
đầu tư về xây dựng cơ bản tăng nhanh trên cả hai khu vực nhà nước và tư nhân. Đầu tư nước
ngoài vào Việt nam ngày một gia tăng do đó ảnh hưởng tới thị trường tiền tệ và thị trường
hàng hoá. Cuối cùng là ngân sách nhà nước đứng trước những yêu cầu lớn về cân đối thu chi
và tạo nguồn bù đắp thiếu hụt hàng năm, trong khi đó môi trường luật pháp môi trường tài
chính còn đang trong quá trình tạo lập và hoàn cảnh. Vì vậy, khả năng mất cân đối trong ngân
sách nhà nước lạm phát tiền tệ là chưa thể lường hết được.
Những nhân tố trên có thể gây ra lạm phát trong những năm tới. Nguy cơ tái lạm phát
tại Việt Nam vẫn là một thách thức lớn trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đầy biến động. Việc
duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và thực hiện các biện pháp kiểm soát lạm phát một cách linh
hoạt và hiệu quả là điều kiện cần thiết để đảm bảo sự phát triển bền vững và ổn định của nền
kinh tế trong dài hạn.
3.2. Đề xuất giải pháp
Trong bối cảnh nền kinh tế có nhiều yếu tố bất ổn, từ sự tăng giá hàng hóa quốc tế, biến
động tỷ giá, cho đến sự phục hồi tín dụng quá nhanh, việc điều hành chính sách tiền tệ cần có
sự điều chỉnh kịp thời và linh hoạt hơn bao giờ hết. Để đạt được hiệu quả trong việc kiểm soát
lạm phát, các giải pháp chính sách tiền tệ không thể tách rời khỏi sự phối hợp đồng bộ với các
chính sách tài khóa, cũng như yêu cầu về cải thiện cơ chế dự báo và quản lý kỳ vọng lạm
phát. Để hoàn thiên chính sách tiền tệ chúng ta phải biết hoàn thiện các công cụ của chính
sách tiền tệ cũng như phối hợp điều hành các công cụ đó.
* Dự trữ bắt buộc
Công cụ dự trữ bắt buộc có ưu điểm lớn trong việc kiểm soát cung tiền tệ là nó có thể
tác động đến tất cả các ngân hàng như nhau và có tác dụng đầy quyền lực đến cung ứng tiền
tệ. Tuy vậy, khi mà dự trữ bắt buộc không được trả lãi, chúng tương đương với một khoản

thuế và có thể dẫn tới tình trạng phi trung gian hoá hơn nữa, dự trữ bắt buộc thiếu tính mềm
dẻo, hoặc những thay đổi lớn và thường xuyên ở mức dự trữ cũng sẽ gây nên hỗn loạn và tổn
thất cho các NHTM. Nhưng trước tình trạng lạm phát thấp như hiện nay, NHNN cần giảm tỷ
lệ dự trữ bắt buộc. Bởi vì nhu cầu vốn của nền kinh tế khá lớn, nhưng khả năng huy động vốn
hạn chế, cho nên việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong giai đoạn này sẽ hỗ trợ thêm nguồn vốn
cho các tổ chức tín dụng cho vay nền kinh tế. Mặt khác sự gia tăng tổng phương tiện thanh
toán ở mức kiểm soát được, và tỷ lệ lạm phát cũng có thể kiểm soát được sao cho phù hợp với
sự tăng trưởng kinh tế. Do vậy hạ thấp tỉ lệ dự trữ bắt buộc có thể chấp nhận và phù hợp trong
thời kỳ này.
Một mặt khi quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần chú ý tới quy mô hoạt động của các tổ
chức tín dụng hiện nay sao cho hợp lý. Còn về đối tượng thi hành quy chế dự trữ bắt buộc cần
bổ sung thêm ngân hàng HTX quỹ tín dụng nhân dân và HTX tín dụng để phù hợp với quy
định nội dung luật NHNN. Trong giai đoạn hiện nay, các NHTM gặp khó khăn trong việc huy
động vốn đối với loại tiền gửi từ 12 tháng trở lên (chiếm 15% so với tổng nguồn vốn huy
động). Chính vì vậy nếu muốn huy động được loại tiền gửi này các NHTM phải nâng mức lãi
suất tiền gửi (huy động vốn) lên cao sát lãi suất tiền cho vay. Do đó nếu quy định loại tiền gửi
này cũng phải chịu tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì sẽ gây khó khăn cho các NHTM trong hoạt động
kinh doanh cũng như không khuyến khích được huy động vốn trung và dài hạn để cho vay và
đầu tư phát triển . Vì vậy trong giai đoạn hiện nay chưa nên quy định dự trữ bắt buộc đối với
loại tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên mà chỉ tạm thời quy định dự trữ bắt buộc đối với
tiền gửi huy động dưới 12 tháng. Việc quy định trên sẽ khuyến khích các NHTM bằng các
nghiệp vụ của mình (phát hành trái phiếu NHTM phát hành kỳ phiếu…v.v) thu hút nguồn vốn
cho mục tiêu đầu tư và phát triển.
* Tái chiết khấu
Để thực hiện được công cụ tái chiết khấu có hiệu quả đòi hỏi phải có các công cụ truyền
thống của nó là kỳ phiếu và thương phiếu. Thương phiếu là giấy chứng minh cho hành vi mua
chịu bán chịu hàng hoá , hành vi này gọi là tín dụng thương mại.
Tín dụng thương mại sẽ giúp cho các doanh nghiệp rút ngắn chu kỳ kinh doanh của
mình, tăng vòng quay của vốn. Do đó sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển và tăng trưởng
kinh tế cao. Vì vậy muốn áp dụng công cụ tái chiết khấu như là một công cụ hữu hiệu của
chính sách tiền tệ trong việc kiểm soát lạm phát đòi hỏi phải có nền tảng vững chắc cho sự ra
đời của tín dụng thương mại.
Lãi suất tái chiết khấu có mối quan hệ chặt chẽ với lãi suất chiết khấu của NHTM. Vì
vậy để hoàn thiện công cụ tái chiết khấu cần hoàn thiện việc chiết khấu kỳ phiếu do Ngân
hàng thương mại phát hành cụ thể ở đây là chứng từ có giá. Hiện nay các ngân hàng thường
dùng hình thức nhận cầm cố để cho vay hơn là nhận chiết khấu các chứng từ có giá. Nhưng
theo em hình thức nhận cầm cố cho vay có nhiều nhược điểm hơn so với hình thức chiết khấu.
Thứ nhất đó là thủ tục phức tạp hơn, thứ hai là nhu cầu về vốn được thoả mãn ít hơn. Vì vậy
bản thân em cho rằng các ngân hàng nên mở rộng các hình thức chiết khấu chứng từ có giá để
tạo thuận lợi hơn và bảo đảm lợi ích cho khách hàng.
* Hoạt động thị trường mở
Về mặt lý luận cũng như trong thực tế thị trường mở là một công cụ quan trọng điều tiết
linh hoạt khối lượng tiền tệ trong lưu thông và liên quan trực tiếp đối với cơ chế phát hành
tiền của ngân hàng trung ương. Trong điều kiện ở nước ta hiện nay cần đưa công cụ thị trường
mở vào hoạt động và tăng cường sử dụng công cụ này. Tuy nhiên đến nay cho thấy các điều
kiện để đưa thị trường mở vào hoạt động còn chưa chín muồi. Vì vậy cần có các giải pháp

hoàn thiện công cụ này để mau chóng đưa công cụ này vào hoạt động. Trước hết việc vận
dụng công cụ thị trường mở đòi hỏi trước mắt không chỉ đối với tín phiếu kho bạc mà ngay cả
với trái phiếu kho bạc và các chứng chỉ đầu tư của nhà nước (trái phiếu công trình), cần phải
phát hành theo phương thức đấu thầu thông qua hoạt động của NHNNTW và án NHTM trong
đó tăng cường vai trò của NHNNTW trong việc phát hành tiền để mua trái phiếu chính phủ và
sau đó thực hiện mua bán lại trái phiếu chính phủ với các NHTM, với các tổ chức kinh tế theo
tín hiệu thị trường.
Song để nghiệp vụ thị trường mở phát huy hiệu quả vốn có của nó trong việc điều hành
chính sách tiền tệ, thì bên cạnh việc khẩn trương tạo ra các điều kiện như trên cho thị trường
mở có thể hoạt động, cần thiết phải đổi mới đồng thời các công cụ chính sách tiền tệ như công
cụ tái chiết khấu, dự trữ bắt buộc, lãi suất các điều kiện cần thiết cho sự phát triển của thị
trường liên ngân hàng…. để NHNN có thể điều hành một cách đồng bộ, có sự phối hợp chặt
chẽ giữa các công cụ, qua đó có thể nâng cao năng lực điều hành của NHNN nhằm thực hiện
có hiệu quả mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
* Lãi suất
Trong những năm gần đây, chính sách lãi suất của NHNN đã được sử dụng như một
công cụ quan trọng góp phần tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát. Bằng các biện pháp
điều hành linh hoạt theo chỉ đạo của chính phủ NHNN đã chuyển từ chính sách lãi suất âm
sang lãi suất thực dương, lãi suất trần đã dần dần bám sát chỉ số trượt giá, và quan hệ cung
cầu vốn tín dụng trên thị trường tiền tệ bảo toàn giá trị đồng tiền cho người gửi và được người
vay chấp nhận từ đó ngày càng thu hút thêm nguồn vốn vào hệ thống ngân hàng , đáp ứng nhu
cầu vốn ngày càng tăng cho sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển. Tuy nhiên, công cụ lãi
suất khá quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát hiện nay. Chúng ta nên kiên trì nguyên tắc
lãi suất thực dương để kích thích tiết kiệm đồng thời linh hoạt điều chỉnh lãi suất theo diễn
biến lạm phát nhằm hỗ trợ đầu tư. Ngoài ra cũng cần phải có chính sách lãi suất linh hoạt (lãi
suất cho vay và vay). Về việc xây dựng chính sách lãi suất, NHNN cần có chính sách ưu đãi
cho một số ngành hoặc đối tượng kinh tế quan trọng.
Mặt khác lãi suất và tỷ giá là hai vấn đề nhạy cảm, có tác động tức thời và ảnh hưởng
sâu rộng đối với toàn bộ các hoạt động kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Do giữa chúng có
mối quan hệ hữu cơ với nhau, chính sách lãi suất và tỷ giá phải được xử lý đồng bộ trong
quan hệ phù hợp. Chính vì vậy biện pháp điều chỉnh lãi suất đồng Việt Nam cần đi đôi với
việc quy định lãi suất thích hợp đối với tiền gửi bằng USD để phát huy tối đa vai trò của công
cụ lãi suất trong việc điều hành chính sách tiền tệ.
Tóm lại, điều chỉnh lãi suất cho phù hợp với các diễn biến kinh tế và mục tiêu chính
sách là một biện pháp thông thường của các chính phủ và NHTW trong thời gian tới, dưới sự
chỉ đạo của chính phủ cùng với các biện pháp chính sách khác, NHNN sẽ tiếp tục thực hiện
chính sách lãi suất linh hoạt phù hợp với tình hình và các diễn biến kinh tế nhằm thực hiện
mục tiêu ổn định tiền tệ và phát triển kinh tế của Đảng và nhà nước trong từng thời kỳ.

KẾT LUẬN
Thi hành chính sách tiền tệ chặt chẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc kiểm soát lạm
phát. Thời gian gần đây, ngân hàng nhà nước đã nhận về mình trách nhiệm ổn định giá trị
đồng tiền, chống lạm phát, và đã áp dụng khá thành công các công cụ của chính sách tiền tệ
như: chính sách, dự trữ bắt buộc, hạn mức tín dụng, mở các thị trường nội tệ và ngoại tệ liên
ngân hàng, đấu thầu tín phiếu kho bạc… Tuy nhiên, lạm phát là hiện tượng thường trực của
lưu thông tiền giấy trong nền kinh tế đang chuyển đổi của chúng ta, nguy cơ lạm phát cao
cũng thường xuyên phải đề phòng. Do đó một công cụ nhạy cảm như chính sách tiền tệ không
thể xem nhẹ. Mặt khác ngày càng cần hoàn thiện hơn nữa chính sách tiền tệ trong việc kiểm
soát lạm phát ở mức phù hợp, với tăng trưởng kinh tế nhanh trong sự ổn định kinh tế vĩ mô
góp phần đưa đất nước không bị tụt hậu so với các nước trong khu vực.
Trong giai đoạn 2020-2023, Việt Nam đã đạt được một số thành tựu nhất định trong
việc kiềm chế lạm phát, nhưng vẫn còn tồn tại nhiều thách thức, đặc biệt là rủi ro từ việc tăng
trưởng tín dụng quá nhanh và lạm phát nhập khẩu. Để nâng cao hiệu quả của chính sách tiền
tệ trong kiểm soát lạm phát, cần có sự phối hợp chặt chẽ với các chính sách tài khóa, đồng
thời tăng cường năng lực dự báo, giám sát tín dụng và quản lý kỳ vọng lạm phát. Chỉ khi các
giải pháp này được thực hiện đồng bộ và hiệu quả, Việt Nam mới có thể duy trì ổn định giá
cả, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển kinh tế bền vững trong tương lai.
Bằng sự nỗ lực hiện tại và trong tương lai, sự kế thừa và phát huy những thành tựu của
chính sách tiền tệ, chắc chắn chính sách tiền tệ Việt Nam sẽ đóng góp vai trò quan trọng trong
việc xây dựng đất nước giàu mạnh, ổn định và phát triển sánh vai với các bạn bè quốc tế.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ, đại học kinh tế quốc dân, bản 2016
2. N.Gregory Mankiw, Phần VI, 17 – Tiền tệ và lạm phát, Kinh tế học vĩ mô, Nhà xuất bản
Cengage Learning.
3. Các giải pháp khắc phục lạm phát, Dân kinh tế, từ
http://www.dankinhte.vn/cac-giai-phap-khac-phuc-lam-phat/
4. State Bank of Vietnam. (n.d.). Chính sách tiền tệ với kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ
mô ở Việt Nam. State Bank of Vietnam.
5. Thị trường Tài chính Tiền tệ. (2023, January 15). Chính sách tiền tệ với kiểm soát lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô ở Việt Nam.
6. Tạp chí Cộng sản. (2023, February 21). Điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, thích ứng,
góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế.
7. Tổng cục Thống kê. (2023, December 29). Thông cáo báo chí về tình hình kinh tế – xã hội
quý IV và năm 2023.
8. TOPI. (n.d.). Tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam qua các năm.
9. Tổng cục Thống kê. (2024, tháng 3). Thông cáo báo chí tình hình lao động
10. Agusto & Co. (2023). 2023 Kenya microfinance industry report. Agusto & Co.