thanh khoản thông qua nghiệp vụ thị trường mở (OMO), nhằm đảm bảo sự ổn định của hệ
thống tài chính trong bối cảnh khó khăn. Nhờ những biện pháp này, áp lực lạm phát đã được
giảm bớt, với mức lạm phát cả năm được kiềm chế ở mức 3,23%, trong khi nền kinh tế vẫn
giữ được sự ổn định và tăng trưởng.
Năm 2021, ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ mở rộng
nhưng không mở rộng quá mức, với mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và hỗ
trợ tăng trưởng kinh tế, nhằm hỗ trợ nền kinh tế phục hồi sau những ảnh hưởng nặng nề của
đại dịch COVID-19. Mặc dù áp lực lạm phát gia tăng, NHNN vẫn tiếp tục giữ các mức lãi
suất điều hành thấp, trong đó lãi suất tái cấp vốn vẫn được duy trì ở mức 4,0% và lãi suất tái
chiết khấu ở mức 2,5% để hỗ trợ thanh khoản cho nền kinh tế. Bên cạnh việc giữ ổn định lãi
suất, NHNN cũng chỉ đạo các ngân hàng thương mại tiếp tục triển khai các gói hỗ trợ tín
dụng, cơ cấu lại nợ, giảm lãi suất cho vay và hỗ trợ doanh nghiệp và cá nhân bị ảnh hưởng bởi
dịch bệnh. Tính đến cuối năm 2021, tổng dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng tăng khoảng
13,61% so với cuối năm 2020, cho thấy sự nỗ lực trong việc duy trì dòng vốn hỗ trợ sản xuất
kinh doanh. Để kiểm soát lạm phát và đảm bảo ổn định tỷ giá, NHNN tiếp tục can thiệp thị
trường ngoại hối khi cần, giữ cho tỷ giá USD/VND ổn định trong bối cảnh biến động toàn
cầu.
Có thể thấy, 2022 là một năm đầy sóng gió đối với nền kinh tế toàn cầu; là năm mà kinh
tế thế giới và trong nước khó khăn hơn rất nhiều so với đánh giá, dự báo trước đó. Diễn biến
của đại dịch Covid-19 phức tạp, xung đột Nga - Ukraine và những hệ quả như gián đoạn
chuỗi cung ứng toàn cầu, giá cả các hàng hóa nguyên vật liệu tăng cao, làm tăng áp lực lạm
phát toàn cầu. Để kiềm chế lạm phát và bảo vệ sự ổn định tài chính, các ngân hàng trung ương
trên thế giới đã tăng tốc thắt chặt chính sách tiền tệ thông qua tăng lãi suất, nhất là việc Cục
Dự trữ liên bang Hoa Kỳ (Fed) tăng lãi suất mạnh đã dẫn đến sự tăng giá mạnh của đồng USD
so với nhiều loại tiền tệ khác. Năm 2022, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã kiểm soát chặt
chẽ tín dụng cho những lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, yêu cầu các tổ chức tín dụng bảo đảm an toàn
hoạt động. Bảo đảm đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho người dân, doanh nghiệp, nhất là đối
với các lĩnh vực ưu tiên theo chỉ đạo của Chính phủ. Đáng chú ý, sau một thời gian dài kiên
định với chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng 14%, thời điểm khi chỉ còn ba tuần nữa sẽ kết thúc năm
2022, khi nhận thấy tác động của tình hình thế giới đối với Việt Nam dịu bớt, nhiều chỉ tiêu vĩ
mô đã cho thấy những dấu hiệu rất tích cực,... Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã quyết định
nới chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng thêm từ 1,5 - 2% cho toàn hệ thống các tổ chức tín dụng.
Mặc dù trong năm 2023 NHNN đã thực hiện việc chuyển sang CSTT nới lỏng thông
qua việc liên tục giảm lãi suất điều hành nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp cũng như nền kinh tế
phục hồi sau đại dịch, tuy nhiên lạm phát vẫn được duy trì ở mức phù hợp. CPI tháng 10 và
tháng 11 lần lượt là 0,08% và 0,25%, thấp hơn mức bình quân 3 tháng trước đó (0,80%) và
thấp hơn so với cùng kì năm 2022. CPI năm 2023 tăng 3,25%, phù hợp với mục tiêu mà
Chính phủ đã đề ra. NHNN liên tục giảm 04 lần lãi suất điều hành trong bối cảnh lãi suất thế
giới tiếp tục tăng và neo ở mức cao với mức giảm 0,5 - 2%/năm trong năm 2023. Việc liên tục
điều chỉnh giảm các mức lãi suất điều hành được đánh giá là giải pháp linh hoạt, phù hợp với
điều kiện thị trường, giúp hỗ trợ hoạt động sản xuất, kinh doanh thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
2.3. Thực trạng tác động của chính sách tiền tệ đến lạm phát tại Việt Nam (2020-2023)
2.3.1. Tác động tích cực
Từ năm 2020 đến 2023, chính sách tiền tệ của Việt Nam đã có những tác động rõ rệt
đến lạm phát, qua việc điều chỉnh các yếu tố như lãi suất, tăng trưởng GDP, và tỷ lệ thất