Bài mẫu luận văn thạc sĩ luật kinh tế tại tri thức cộng đồng.docx

minhhoangvanhapipax 8 views 91 slides Feb 21, 2025
Slide 1
Slide 1 of 91
Slide 1
1
Slide 2
2
Slide 3
3
Slide 4
4
Slide 5
5
Slide 6
6
Slide 7
7
Slide 8
8
Slide 9
9
Slide 10
10
Slide 11
11
Slide 12
12
Slide 13
13
Slide 14
14
Slide 15
15
Slide 16
16
Slide 17
17
Slide 18
18
Slide 19
19
Slide 20
20
Slide 21
21
Slide 22
22
Slide 23
23
Slide 24
24
Slide 25
25
Slide 26
26
Slide 27
27
Slide 28
28
Slide 29
29
Slide 30
30
Slide 31
31
Slide 32
32
Slide 33
33
Slide 34
34
Slide 35
35
Slide 36
36
Slide 37
37
Slide 38
38
Slide 39
39
Slide 40
40
Slide 41
41
Slide 42
42
Slide 43
43
Slide 44
44
Slide 45
45
Slide 46
46
Slide 47
47
Slide 48
48
Slide 49
49
Slide 50
50
Slide 51
51
Slide 52
52
Slide 53
53
Slide 54
54
Slide 55
55
Slide 56
56
Slide 57
57
Slide 58
58
Slide 59
59
Slide 60
60
Slide 61
61
Slide 62
62
Slide 63
63
Slide 64
64
Slide 65
65
Slide 66
66
Slide 67
67
Slide 68
68
Slide 69
69
Slide 70
70
Slide 71
71
Slide 72
72
Slide 73
73
Slide 74
74
Slide 75
75
Slide 76
76
Slide 77
77
Slide 78
78
Slide 79
79
Slide 80
80
Slide 81
81
Slide 82
82
Slide 83
83
Slide 84
84
Slide 85
85
Slide 86
86
Slide 87
87
Slide 88
88
Slide 89
89
Slide 90
90
Slide 91
91

About This Presentation

Viết báo cáo thuê 24h nhận viết thuê luận văn Thạc sĩ - Tốt nghiệp. Zalo: 0878 651 242


Slide Content

HÀ NỘI, 2025
VIẾT BÁO CÁO THUÊ 24H
VIẾT THUÊ LUẬN VĂN THẠC SĨ – TỐT NGHIỆP
ZALO: 0878 651 242
NGUYỄN NGỌC TÂN
CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
TRONG LĨNH VỰC QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, 2025
VIẾT BÁO CÁO THUÊ 24H
VIẾT THUÊ LUẬN VĂN THẠC SĨ – TỐT NGHIỆP
ZALO: 0878 651 242
NGUYỄN NGỌC TÂN
CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
TRONG LĨNH VỰC QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN VĂN CƯƠNG

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, tài liệu, kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố
trong bất kì công trình nào. Những nội dung trong luận văn có sử dụng tài
liệu tham khảo đều được trích dẫn nguồn một cách đầy đủ và chính xác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
NGUYỄN NGỌC TÂN

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................1
Chương 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
TRONG LĨNH VỰC QUẢNG CÁO VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH...............5
1.1.Những vấn đề lý luận về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng
cáo..........................................................................................................................5
1.2.Những vấn đề lý luận pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong
lĩnh vực quảng cáo.................................................................................................15
1.3..........................................................................................................................Ki
nh nghiệm một số nước trên thế giới trong việc xử lý hành vi cạnh tranh
không lành mạnh....................................................................................................28
Chương 2. THỰC TRẠNG XỬ LÝ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
TRONG LĨNH VỰC QUẢNG CÁO THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM............33
2.1.Th
ực trạng hoạt động quảng cáo và các dạng hành vi cạnh tranh không lành

m
ạnh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam
..........................................................33
2.2.Th
ực trạng quy
định ph
áp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực

qu
ảng cáo
...............................................................................................................42
2.3Thực trạng xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng
cáo ở Việt Nam......................................................................................................49
Chương 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT V
À NÂNG CAO HIỆU
QU

TH
ỰC
THI PH
ÁP
LUÂ
̣T
V
Ề
X
Ử
L

H
ÀNH
VI CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC QUẢNG CÁO Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY 56
3.1.Phương hướng hoàn thiện pháp luật x
ử
l

h
ành
vi cạnh tranh không lành
mạnh trong lĩnh vực quảng cáo
ở Việt Nam hiện nay
...........................................56
3.2.Giải pháp hoàn thiện pháp luật x
ử
l

h
ành
vi cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực quảng cáo
ở Việt Nam hiện nay
.....................................................57
3.3.Gi
ải
ph
áp
nâng cao hiê
̣u
qu

th
ực
thi ph
áp
luâ
̣t
x
ử
l

h
ành
vi c
ạnh
tranh
không l
ành
m
ạnh
trong l
ĩnh
v
ực
qu
ảng
c
áo
ở Viê
̣t
Nam.......................................73
KẾT LUẬN..............................................................................................................78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................79

1
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Cạnh tranh là một đặc trưng của nền kinh tế th
ị trường. Một nền kinh tế
th
ị trường sẽ không phát triển nếu không có cạnh tranh, và để thúc đẩy cạnh
tranh thì quảng cáo là một yếu tố hàng đầu của mỗi doanh nghiệp. Do đó, hoạt
động quảng cáo không chỉ đơn thuần là một hành vi thương mại mà nó cũng là
một biện pháp, một hành vi cạnh tranh không thể thiếu trong kinh doanh.
Hoạt động quảng cáo
ở Việt Nam được hình thành cùng với sự chuyển
hướng của nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế th
ị trường,
quảng cáo là một hành vi thương mại tuy không còn mới mẻ, nhưng hiện tại có
rất loại hình quảng cáo khiến lĩnh vực này đã nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp ảnh

ởng đến hoạt động cạnh tranh không lành mạnh của các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế khác nhau, các doanh nghiệp nước ngoài và làm xấu môi
trường kinh doanh của Việt Nam. Pháp luật điểu chỉnh với những hoạt động này
còn bất cập. Cụ thể là các văn bản pháp luật điều chỉnh về hoạt động quảng cáo
được qui đ
ịnh ở luật
quảng cáo 2012, pháp luật điều chỉnh cạnh tranh
ở luật
cạnh
tranh 2003 có hiệu lực 1/7/2005 Luật Cạnh tranh có hiệu lực góp phần tạo môi
trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh cho nền kinh tế th
ị trường ở nước ta.
Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn tồn tại rất nhiều hình thức quảng cáo không lành
mạnh dễ dàng khiến cho doanh nghiệp chân chính thiệt hại, lâm vào hoàn cảnh
phá sản và người tiêu dùng b
ị ảnh hưởng mua sản phẩm nhưng chất lượng, giá
cả không đúng như quảng cáo đưa ra tiền mất tật mang. Điều này làm cho th

trường tr
ở nên bất ổn. Trong khi đó, pháp luật cạnh tranh vẫn chưa phát huy
được vai trò của mình trong việc hạn chế các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh. Trước tình hình này, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật cạnh
tranh điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong quảng cáo nhằm bảo
vệ quyền lợi doanh nghiệp, người tiêu dùng, tạo môi trường cạnh tranh lành
mạnh là rất cần thiết. Vì vậy, học viên xin chọn đề tài luận văn thạc sĩ của mình
là: “Cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo thương mại theo
pháp luật Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu các quy đ
ịnh về hành vi này dưới
góc độ pháp luật cạnh tranh.

2
2.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Việc nghiên cứu, phân tích vấn đề cạnh tranh không lành mạnh tương đối
mới mẻ nhưng đã có nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu, đã
có một số công trình nghiên cứu có giá tr
ị được công bố. Có thể kể đến một số
công trình có giá tr
ị liên quan trực tiếp đến chuyên ngành cũng như đề tài luận
văn như: Luận văn Tiến sĩ luật học của tác giả Hồ Th
ị Duyên về “Pháp luật về
hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
ở Việt Nam hiện nay”;
Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Trần Dũng Hải về “Hoạt động quảng cáo
thương mại
ở Việt Nam. Những vấn đề lý luận và thực tiễn”; Luận văn thạc sĩ
Luật học về “Pháp luật quảng cáo với vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”
của tác giả Đào Th
ị Tuyết Vân; “Pháp luật
điều chỉnh hành vi quảng cáo so sánh
của Liên minh Châu Âu và Việt Nam- Nghiên cứu dưới góc độ so sánh luật” của
tác giả Trương Hồng Quang….
Ngoài ra có ít công trình nghiên cứu về Cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực quảng cáo theo pháp luật hiện nay, vì luật cạnh tranh 2018 có hiệu
lực là ngày 1/7/2019 hiện tại khi làm luận văn vẫn chưa có hiệu lực cho nên
chưa nắm rõ tình hình thực trạng của luật, mặt khác luật cạnh tranh 2004 vẫn còn
nhiều điểm bất cập,chưa hợp lý, chưa rõ ràng cụ thể và thiếu tính thực thi vì vậy
đề tài nghiên cứu “Cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo
thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện nay” là cần thiết và có ý nghĩa.
3.Mục đích và nhiệmvụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứ : Phát hiện những nguyên nhân, bất cập, mâu thuẫn,
chồng chéo, những vấn đề còn chưa rõ ràng hay bất hợp lý, thiếu khả năng thực
thi trong thực tiễn của các quy đinh pháp luật điều chỉnh hoạt động quảng cáo
nhằm đảm bảo cạnh tranh lành mạnh. Từ đó đề xuất những kiến ngh
ị, giải pháp
tiếp tục hoàn thiện pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh
ở Việt Nam
cũng như pháp luật về quảng cáo.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn thực hiện
các nhiệm vụ sau đây:

3
Một là: Làm rõ những vấn đề về mặt lý luận, về mặt khái niệm, vai trò,
những tác động của quảng cáo đối với sự cạnh tranh trong kinh tế th
ị trường.
Hai là: phân tích, nghiên cứu pháp luật thực đ
ịnh về quảng cáo, tính hiệu
quả của cơ chế điều chỉnh pháp luật đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực quảng cáo.
Ba là: Phát hiện, phân tích những bất cập, khó khăn, vướng mắc trong nội
dung các qui đ
ịnh pháp luật cũng như thực tiễn thi hành các qui định đó và đề
xuất kiến ngh
ị, giải pháp hoàn thiện pháp luật
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1.Đối tượng nghiên cứu:
Thứ nhất luận văn nghiên cứu các qui đ
ịnh pháp luật điều chỉnh nhũng hành vi
cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo và các qui đ
ịnh pháp luật
liên quan trong hệ thống pháp luật cạnh tranh.
Thứ hai luận văn nghiên cứu các qui đ
ịnh về pháp luật quảng cáo, pháp luật
chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo của một số nước
khác trong khu vực và trên thế giới.
4.2.Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn sẽ nghiên cứu những vấn đề lý luận chung liên quan đến hoạt
động quảng cáo trong pháp luật nói chung và pháp luật cạnh tranh nói riêng.
Đồng thời tìm hiểu quá trình thực thi pháp luật về vấn đề này, từ đó đưa ra
những giải pháp nhằm khắc phục tình trạng quảng cáo gây nhầm lẫn nhằm cạnh
tranh không lành mạnh
ở Việt Nam.
5.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành tốt đề tài, học viên sẽ sử dụng kết hợp các phương pháp
nghiên cứu như: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp; phương pháp
diễn d
ịch, phương pháp quy nạp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh,
phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp tiếp cận liên ngành…. Và nhiều
phương pháp nghiên cứu của các ngành Khoa học xã hội nói chung cũng như
ngành luật học nói riêng.

4
6.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn là một công trình nghiên cứu một cách có hệ thống, chuyên sâu
dưới góc độ lý luận kinh tế cụ thể làCạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực
quảng cáo thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
Luận văn góp phần bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về cạnh
tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo thương mại. Luận văn có thể
được sử dụng làm tài liệu trong tham khảo trong việc điều chỉnh hành vi cạnh
tranh không lành mạnh trong quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi doanh nghiệp,
người tiêu dùng, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo
thương mại tại Việt Nam.
Luận văn có thể sử dụng để tham khảo, xây dựng giải pháp nhằm khắc
phục tìnhtrạng quảng cáo gây nhầm lẫn nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Việt Nam.
7.Kết cấu của luận văn
Ngoài phần m
ở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn có kết cấu gồm ba chương sau:
Chương 1: Lý luận chung về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực
quảng cáo và pháp luật điều chỉnh
Chương 2: Thực trạng chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực
quảng cáo
ở Việt Nam theo quy định của pháp luật
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật chống cạnh
tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo
ở Việt Nam hiện nay

5
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
TRONG LĨNH VỰC QUẢNG CÁO VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH
1.1.Những vấn đề lý luận về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực
quảng cáo
1.1.1.Khái niệm về cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh.
a.Khái niệm về cạnh tranh
Khi nền kinh tế th
ị trường xuất hiện thì khái niệm cạnh tranh ra đời. Nền
sản xuất hàng hóa ra đời cùng với cạnh tranh và tr
ở thành đặc trưng của kinh tế
th
ị trường. Cạnh tranh là sự ganh đua
giữa các chủ thể kinh tế vừa là môi trường,
vừa là động lực nội tại thúc đẩynền kinh tế phát triển. Trong nền kinh tế th

trường, các chủ thể tham gia vào các hoạt động kinh tế có quyền tự do kinh
doanh, tự do cạnh tranh theo quy luật khách quan của nó và nhiều hìnhthức s

hữu được pháp luật thừa nhận và bảo hộ. Trong l
ịch sử phát triển của nền kinh tế
thế giới đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về cạnh tranh:
Từ điển kinh doanh của Anh (xuất bản năm 1992): Cạnh tranh được xem là
sự ganh đua, sự kình đ
ịch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh
giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía
mình [20].
Theo pháp luật của Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ, “cạnh tranh là việc tranh đua giữa
các nhà kinh doanh nhằm tìm kiếm và bảo toàn một loại khách hàng trên thị
trường” .
Theo từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam: Cạnh tranh là hoạt động tranh
đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân, các nhà kinh
doanh trong nền kinh tế th
ị trường, bị chi phối bởi quan hệ cung - cầu, nhằm
giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và th
ị trường có lợi nhất [19].
Như vậy, cạnh tranh buộc các chủ thể kinh tế, những người sản xuất và
buôn bán hàng phải không ngừng cải tiến kĩ thuật, tổ chức quản lí để tăng năng
suất lao động, nâng cao chất lượng hàng hoá, thay đổi mẫu mã, bao bì phù hợp
với th

hiếu của khách hàng; giữ uy tín; cải tiến nghiệp vụ thương mại và d
ịch
vụ,

6
bình ổn giá thành hoặc giảm giá bán và tăng lợi nhuận.

7
Về vấn đề "cạnh tranh"
ở Việt Nam, một số nhà khoa học cho rằng, cạnh
tranh là vấn đề giành lợi thế về giá cả hàng hóa - d
ịch vụ
(mua và bán). Mục đích
trực tiếp của hoạt động cạnh tranh trên th

trường của các chủ thể kinh tế là giành
lợi thế để hạ thấp giá cả của các yếu tố "đầu vào" trong chu trình sản xuất - kinh
doanh và nâng cao giá "đầu ra", sao cho giành được mức lợi nhuận cao nhất với
mức chi phí hợp lý nhất.
Mặc dù có nhiều cách tiếp cận khác nhau và đ
ịnh nghĩa có thể là khái
quáthay cụ thể đi nữa thì nhìn chung, cạnh tranh có những điểm đặc trưng sau:
-Là sự ganh đua, tranh giành quyền lợi, ảnh hư
ởng;
-Chủ thể là các tổ chức, cá nhân có hoạt động kinh doanh trong cùng một
th
ịtrường liên quan;
-Các chủ thể cạnh tranh đểu có chung một mục đích sinh lời.
Tóm lại, bất kỳ doanh nghiệp nào khi tham gia vào th
ị trường đều có
chung một mục đích là phát triển sản xuất kinh doanh. Hoạt động cạnh tranh
luôn diễn ra trong một không gian và thời gian nhất đ
ịnh. Do vậy, cạnh tranh
được xem là một hiện tượng xã hội mang bản chất kinh tế và xã hội riêng có.
Bản chất kinh tế củacạnh tranh thể hiện mục đích vì lợi nhuận và chi phối th

trường. Bản chất xã hội của cạnh tranh bộc lộ đạo đức kinh doanh và uy tín kinh
doanh của mỗi chủ thể cạnhtranh trong quan hệ đối với những người lao động
trực tiếp tạo ra tiềm lực cạnh tranh.
Như vậy qua các khái niệm đã nêu
ở trên ta có thể hiểu một cách đầy đủ:
Cạnh tranh là quá trình kinh tế mà trong đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau để
chiếm lĩnh th
ị trường, giành lấy khách hàng và các điều kiện thuận lợi trong các
hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Thực chất của cạnh tranh là sự tranh
giành về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể khi tham gia th
ị trường.
b.Khái niệm cạnh tranh không lành mạnh.
Cạnh tranh là một hiện tượng kinh tế-xã hội, cạnh tranh có tính hai mặt,
hai mặt mâu thuẫn nhưng cùng thống nhất trong một hiện tượng khách quan.
Cạnh tranh có tính tích cực khi nó là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển thông

8
qua việc đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm....
Nhưng nó sẽ là tiêu cực khi tr
ở thành công cụ để triệt tiêu nhau giữa các doanh
nghiệp bằng nhũng thủ đoạn mà không phải bằng chính năng lực cạnh tranh thực
sự của mình. Dựa vào mục đích và tính chất của các phương thức thực hiện hành
vi cạnh tranh đó, người ta phân cạnh tranh thành hai loại: hành vi cạnh tranh biểu
hiện tính tích cực là cạnh tranh lành mạnh và những hành vi biểu hiện tính tiêu
cực được gọi là cạnh tranh không lành mạnh. Theo đó, hành vi cạnh tranh được
coi là lành mạnh khi đảm bảo các tiêu chísau:
-Tuân thủ pháp luật;
-Tôn trọng truyền thống, tập quán kinh doanh;
-Tôn trọng đạo đức kinh doanh được nhà nước và xã hội chấp nhận;
-Kết hợp hài hoà lợi ích của người kinh doanh với lợi ích của những
ngườikhác, lợi ích của nhà nước và xã hội.
Hành vi cạnh tranh vi phạm một trong các tiêu chí trên được coi là cạnh
tranh không lành mạnh. Cạnh tranh không lành mạnh làm triệt tiêu đối thủ cạnh
tranh, lừadối khách hàng ảnh hư
ởng đến quyền lợi
của người tiêu dùng cũng như
có tác động xấu đến môi trường kinh doanh. Do vậy, pháp luật mỗi nước có cách
gọi khác nhau đối với hành vi này nhưng nhìn chung đều phân biệt cạnh tranh
thành: cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh.
Khái niệm cạnh tranh không lành mạnh có tính chất tương đối và luôn
thay đổi do các hành vi cạnh tranh luôn thay đổi, rất đa dạng và phức tạp cùng
với sự vận động của nền kinh tế th
ị trường. Hơn nữa, việc xác định cạnh tranh
lành mạnh hay không lành mạnh còn phụ thuộc vào quan niệm, truyền thống văn
hoá, đạo đức và tập quán kinh doanh. Do đó, về mặt lập pháp, thay vì đưa ra một
khái niệm lập pháp về cạnh tranh không lành mạnh, đa số pháp luật về cạnh
tranh các nước dã liệt kê trong văn bản pháp luật về cạnh tranh nước mình những
hành vi b
ị coi là cạnh tranh không lành mạnh và quy định các chế tài xử Lí.
Theo Khoản 2, Điều 10,Công ước Paris về bảo hộ quyền s
ở hữu trí tuệ
đ
ịnh nghĩa cạnh tranh không lành mạnh như sau: “Bất kỳ hành vi cạnh tranh nào

9
trái với các hoạt động thực tiễn trung thực trong lĩnh vực công nghiệp và thương
mại đều b
ị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh”
Theo Khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004 của Việt Nam quy đ
ịnh:
“Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp
trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh
doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của các doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng” [9].
Tóm lại, dù được đ
ịnh nghĩa dưới hình thức nào thì những hành vi cạnh
tranh không lành mạnh thường được thể hiện dưới các kiểu điển hình như:
Xâm phạm đến quyền s
ở hữu công nghiệp (sử dụng không xin phép tên doanh
nghiệp; nhái nhãn hiệu hàng hoá, biểu tượng... của doanh nghiệp khác đã được
đăng ký; nhái kiểu dáng, bao bì sản phẩm của doanh nghiệp khác gây nhầm lẫn
cho khách hàng…); Quảng cáo so sánh, quảng cáo gian dối gây nhầm lẫn;
Khuyến mại bất hợp pháp; Dèm pha bôi nhọ đối thủ; Xâm phạm bí mật kinh
doanh; Phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp khách hàng; Cản tr
ở, can thiệp
vào sự lựa chọn của khách hàng trong quá trình mua bán hàng hoá...
Những hành vi này đều dẫn đến hậu quả là vì lợi ích của mình mà gây tổn
hại đến lợi ích của người khác. Nên nó là một hành vi cần phải điều chỉnh b
ởi
pháp luật để đảm bảo môi trường kinh doanh lành mạnh.
1.1.2.Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo.
1.1.2.1Khái niệm quảng cáo, v

trí, vai trò của quảng cáo.
a.Khái niệm và đặc điểm của quảng cáo.
Trong nền kinh tế th
ị trường phát triển mạnh như hiện nay thì một trong
những việc thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp không thể thiếu là quảng cáo.
Quảng cáo là hình thức tuyên truyền được trả phí hoặc không để thực hiện việc
giới thiệu thông tin về sản phẩm, d
ịch vụ, công ty hay ý tưởng, quảng cáo là hoạt
động truyền thông phi trực tiếp giữa người với người mà trong đó người muốn
truyền thông phải trả tiền cho các phương tiện truyền thông đại chúng để đưa
thông tin đến thuyết phục hay tác động đến người nhận thông tin.

10
Quảng cáo là những nỗ lực nhằm tác động tới hành vi, thói quen mua
hàng của người tiêu dùng hay khách hàng bằng cách cung cấp những thông điệp
bán hàng theo cách thuyết phục về sản phẩm hay d
ịch vụ của người bán.
Thi trường là khu vực và không gian trao đổi hàng hoá. Nhưng tự
chúng,hàng hoá không thể đi tới th
ị trường và trao đổi với nhau được, điều đó
chỉ đượcthực hiện thông qua những chủ thể với những quan hệ kinh tế đan xen
phát sinhtrong quá trình sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng mà sợi dây liên kết
với nhau là traođổi hàng hoá. Đê thúc đẩy quá trình trao đổi hàng hoá diễn ra
nhanh hơn, hiệu quảhơn, biện pháp tác động trực tiếp chính là quảng cáo.Cho
đến nay, quảng cáo là đối tượng nghiên cứu của nhiều lĩnh vực khoahọc, được
coi là một hiện tượng xã hội gắn liền với hình thái th
ị trường của mỗiquốc gia.
Khái niệm về quảng cáo được đề cập dưới nhiều góc độ khác
nhau. Dưới góc độ kinh tế:
Trong Xã hội chủ nghĩa quảng cáo là để báo tin đúng đắn về hàng hoá đã
có, về tínhnăng và phẩm chất của hàng hoá. Quảng cáo dùng để khêu gợi những
th
ị hiếu củangười tiêu dùng, tuyên truyền những hàng hoá mới để có thể nâng
cao trình độ tiêudùng của nhân dân” .
Theo Từ Điển Black’s Law: “ Quảng cáo là việc khuyến cáo, thông báo,
đềngh
ị, giới thiệu hay đưa ra thông tin để gây sự chú ý của công chúng bằng bất
kỳmột phương tiện nào như bằng miệng hay bằng văn bản hoặc áp phích do
người bán thực hiện bằng bất kỳ cách nào để đáp ứng yêu cầu kinh doanh, không
b
ị giới hạn về số lương, lời nói và được in trên báo hay các sản phẩm khác hoặc
trên radio hay truyền hình hoặc những hình thức truyền tải thông tin như tờ rơi,
dấu hiệu,catalo hay thư từ ... hay những nhãn hiệu đính kèm”
Dưới góc độ pháp lý:
Theo khoản 1 Điều 2 Luật Quảng cáo 2012 của Việt Nam quy đ
ịnh
“Quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện nhằm giới thiệu đến công chúng sản
phẩm, hàng hóa, d
ịch vụ có mục đích sinh lợi; sản phẩm, dịch vụ không có mục
đích sinh lợi; tổ chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm, hàng hoá, d
ịch
vụ được giới
thiệu, trừ tin thời sự; chính sách xã hội; thông tin cá nhân.”[11]

11
Theo Điều 2 của Luật Quảng cáo của nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa đ
ịnh nghĩa: “ Quảng cáo là việc mà một nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ trả
tiền cho việc giới thiệu hàng hoá, d
ịch vụ của họ một cách trực tiếp hay giántiếp
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng dưới mọi hình thức để thông
tintrên diện rộng” [11].
b.Đặc điểm của quảng cáo.
Mặc dù có nhiều khái niệm pháp lý khác nhau về quảng cáo thương
mại,nhưng nhìn chung các đ
ịnh nghĩa đều thể hiện được nhũng đặc điểm cơ bản
saucủa hành vi quảng cáo:
+ Quảng cáo là hoạt động quảng bá, giới thiệu hàng hoá, d
ịch vụ của nhà
sản xuất.Trong nền kinh tế sản xuất, không có sản phẩm nào sản xuất ra lại tự nó
đi đến tay người tiêu dùng và được người tiêu dùng chấp nhận một cách vô điều
kiện.Bất kỳ một nhà sản xuất nào muốn tiêu thụ được hàng hoá đều phải có hoạt
động quảng bá, giới thiệu về sản phẩm của mình về tính năng, chất lượng, mẫu
mã nhận biết của sản phẩm. Giới thiệu hàng hoá, d
ịch vụ ở đây được hiểu là giới
thiệu về các tính năng, công dụng, sự thiết yếu của sản phẩm đối với người tiêu
dùng. Chính vì vậy, hoạt động quảng cáo sẽ có liên quan đến rất nhiều lĩnh vực
kinh tế xã hội khác,như liên quan đến vấn đề s
ở hữu công nghiệp (nhãn mác
hàng hoá, kiểu dáng côngnghiệp...),y tế (chất lượng sản phẩm), văn hoá (hình
thức giới thiệu có vi phạm đạo đức xã hội, truyền thống văn hoá dân tộc hay
không)...
+ Quảng cáo được thực hiện thông qua các phương tiện quảng cáo.Quảng
cáo là một khái niệm trừu tượng tổn tại dưới dạng âm thanh, chữ viết,lình ảnh.
Do đó, phải được thể hiện trên một vật mang thông tin nhất đ
ịnh là phương tiện
quảng cáo. Các phương tiện quảng cáo
ở đây được hiểu là phương tiện thông tin
đại chúng như radio, truyền hình, báo chí, bảng, biển, panô, áp phích.. .hay các
vật thể di động như ô tô, tàu hoả, xe điện, xe đẩy hàng rong... Quảng cáo được
thực hiện thông qua nhiều phương tiện quảng cáo khác nhau, nhưng việc thực
hiện thông qua phương tiện thông tin đại chúng là một đặc trưng ưu thế của

12
quảng cáo so với các hình thức xúc tiến thương mại khác như triển lãm, hội chợ,
trưng bày hàng hoá.
+ Đối tượng của quảng cáo là khách hàng.Nhiệm vụ của quảng cáo là đưa
thông tin về sản phẩm đến với khách hàngnhằm bán được nhiều hàng hoá, nên
đối tượng tác động trực tiếp của quảng cáo chính là khách hàng. Khách hàng

đây có thể hiểu là bán hàng kinh doanh hay người tiêu dùng. Trong đó, bán hàng
kinh doanh có thể coi là đối tượng trung gian,còn người tiêu dùng mới là đối
tượng tiêu thụ sản phẩm cuối cùng.
+ Mục đích của quảng cáo là vì uy tín của sản phẩm, của doanh nghiệp, vì
lợi nhuận.Mục đích của quảng cáo là thuyết phục và thông tin cho dân chúng,
gửi tới họ các thông điệp. Nếu dân chúng nhận được một thông điệp sai sự thật,
thì trong lẩn tới có khả năng họ sẽ không lưu tâm nữa. Nếu như thông điệp gây
chướng tai gai mắt cho người ta thay vì tạo ảnh hư
ởng thuận lợi, thì nó sẽ là sự
lãng phí. Nếu coi “ cạnh tranh là linh hồn sống của th
ị trường thì quảng cáocó
thể được coi là một phần diện mạo của cạnh tranh. Với chức năng thông tin của
quảng cáo, nhiều hành vi cạnh tranh không lành mạnh đều được thể hiện thông
qua phương thức quảng cáo một cách trực tiếp.
c.Vị trí, vai trò của quảng cáo.
Hàng hoá cũng không thể tự nó đi đến với người tiêu dùng mà hàng hoá
và d
ịch vụ đó phải thông qua lưu thông, tiếp thị, quảng cáo. Nhờ vào quảng cáo
mà người tiêu dùng biết đến sản phẩm, thông qua quá trình lưu thông mà hàng
hoá đến được tay người tiêu dùng. Quảng cáo không chỉ là phương thức cung
cấp thông tin đến người tiêu dùng mà nó còn là một chiêu thức để tranh giành
ảnh hư
ởng giữa các hàng hoá thuộc cùng một loại sản phẩm, nó tác động trực
tiếp đến sự lựa chọn của người tiêu dùng. Do vậy, quảng cáo thương mại với v

trí là một hoạt động xúc tiến thương mại nhằm phát triển hoạt động kinh doanh,
là một hành vi cạnh tranh quantrọng không thể thiếu trong kinh doanh. Với v
ị trí
đó, quảng cáo có vai trò rất quan trọng trong cạnh tranh, cụ thể là:

13
-Quảng cáo có vai trò xúc tiến thương mại, quảng cáo tên tuổi của doanh
nghiệp, của sản phẩm làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Từ
đó,quảng cáo tạo nên sự đe doạ đối thủ cạnh tranh, tạo v
ị thế độc quyển cho
hàng hoá, d
ịch vụ của mình trên thương trường. Để đạt được mục đích nói trên,
quảng cáo sẽ tác động theo hai xu hướng đến môi trường cạnh tranh: quảng cáo
trung thực và quảng cáo gian dối. Quảng cáo trung thực có tác động tích cực đến
th
ị trường thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo sân chơi bình đẳng giữa các doanh
nghiệp. Ngược lại, quảng cáo gian dối là một biểu hiện của hành vi cạnh tranh
không lành mạnh có tác động xấu đến quyền tự do kinh doanh của các doanh
nghiệp khác và ảnh hư
ởng đến quyền lợi của người tiêu dùng.
-Quảng cáo khuyên khích nhu cầu và quyết đ
ịnh của khách hàng vào
hàng hoá hoặc d
ịch vụ được cung cấp. Vai trò ban đầu của quảng cáo là chức
năng truyền tải thông tin về hàng hoá và d
ịch vụ đến người tiêu dùng. Thị hiếu
người tiêu dùng thường quyết đ
ịnh phương pháp, cách thức tiếp cận của nhà sản
xuất. Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thì người tiêu dùng cũng như
người bán hàng có rất nhiều cách tiếp cận thông tin một cách dễ dàng và đa dạng.
Vì vậy, trong kinh doanh các doanh nghiệp phải cực kỳ tỉnh táo, cần có những
nghệ thuật quảng cáo tinh vi.Ngày nay, quảng cáo đã tr
ở thành vai trò định
hướng cho tiêu dùng. Điều này làm che mờ các khái niệm truyền thống về quảng
cáo do người tiêu dùng ngày càng có xu hướng sử dụng sàn phẩm, d
ịch vụ không
phải vì chức năng của nó mà vì vai trò của nó. Quảng cáo có thể tạo ra sự lệ
thuộc của khách hàng vào hàng hoá, d
ịch vụ được cung cấp.
-Quảng cáo mang tính đ
ịnh hướng thẩm mỹ, kích thích sáng tạo của các
doanh nghiệp, làm đa dạng hoá phương thức cạnh tranh giữa các doanh nghiệp.
Vai trò này của quảng cáo là hệ quả của vai trò khuyến khích nhu cầu người tiêu
dùng nói
ở trên. Bởi lẽ quảng cáo muốn thu hút
khách hàng chú ý đến sản phẩm,
dẫn dụ người tiêu dùng thì nó phải thể hiện được sức hấp dẫn, lôi cuốn nội dung
cũng như hình thức của quảng cáo. Theo một học giả người Pháp thì người ta
mua một sản phẩm tức là người ta mua một sự thích thú. Phải chăng vì lý do đó

14
mà quảng cáo đã tr
ở thành một trong những biện pháp xúc tiến thương mại rất
phổ biến và có vai trò hết sức quan trọng. Đặc biệt là trong vai trò tác động đến
tâm lý, s
ở thích của khách hàng để kích thích tiêu dùng. Tuy nhiên, việc khai
thác yếu tố tâm lý này không phải bao giờ cũng lành mạnh mà đôi khi nó cũng
có những biểu hiện không lành mạnh.
Ví dụ như quảng cáo thời trang rất có ảnh hư
ởng đến
đ
ịnh hướng
thẩm mỹ
của giới trẻ. Những kiểu quần áo không phù hợp với truyền thống văn hoá của
Việt Nam, nhưng bằng biện pháp sử dụng các minh tinh màn bạc quảng cáo cho
sản phẩm khiến cho những mẫu đó tr
ở thành ‘"tiêu chí sành điệu”
cho giới trẻ do
họ muốn giống thần tượng của mình. Điều đó giải thích nguyên do của những s

thích tóc đỏ, môi đen mà dư luận vẫn phê phán. Có thể nói, quảng cáo không chỉ
có v
ị trí quan trọng trong cạnh tranh mà nó còn rất có ý nghĩa về mặt xã hội, và
bằng việc tác động đến xúc cảm, tình cảm , đến s
ở thích của người tiêu dùng,
quảng cáo có vai trò đ
ịnh hướng thẩm mỹ cho người tiêu dùng.
-Quảng cáo cũng góp phần thúc đẩy phát triển xã hội. B
ởi vì nếu hàng
hoá được bán nhiều hơn do hiệu quả của quảng cáo, thì chi phí đầu vào của các
nhà sản xuất sẽ giảm và điều này làm cho giá thành giảm, như vậy quảng cáo đã
giúp chongười tiêu đùng được mua hàng với giá rẻ hơn. Việc bán được nhiều
hàng hoá, hàng hoá không chỉ giúp ích cho nhũng người cần sử dụng nó mà nó
cũng là nguyên do tạo thêm nhiều công ăn việc làm trong khu vực sản xuất kinh
doanh.
Tại các nước phát triển, quảng cáo nếu được sử dụng hợp lý sẽ đóng một
vaitrò hết sức quan trọng trong việc thành công hay thất bại của nhà sản xuất,
cung ứng d
ịch vụ. Chi
phí quảng cáo là một khoản chi phí mang tính bắt buộc và
chiếm một tỷ lệ 20% đến 30% cho chi phí kinh doanh [26].
Với v
ị trí, vai trò của quảng cáo trong cạnh tranh, cùng với các lĩnh vực
pháp luật khác trong hệ thống văn bản pháp luật cạnh tranh, pháp luật quảng cáo
góp phần tạo thành cơ chế điều chỉnh các quan hệ pháp luật cạnh tranh trong lĩnh
vực quảng cáo được điều tiết bằng hoạt động quản lý nhà nước.

15
1.1.2.1. Khái niệm cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo
Cũng như lý luận chung về hành vi cạnh tranh không lành mạnh
ở trên,
hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo cũng mang những
đặc trưng chung nhất của một hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy đ
ịnh
của Công ước Paris. Tuy nhiên, do những đặc thù riêng của ngành quảng cáo,
những Hành vi quảng cáo không lành mạnh có những đặc điểm riêng.
Khái niệm hành vi quảng cáo không lành mạnh tuỳ thuộc vào đặc điểm
pháp lý và truyền thống văn hoá, tập quán kinh doanh của mỗi nước. Pháp luật
mỗi quốcgia quy đ
ịnh hành vi quảng cáo không lành mạnh có thể khác nhau, ví
dụ như Luật quảng cáo của Mỹ (Luật của hội đổng thương mại liên bang - FTC)
không cấm hình thức quảng cáo so sánh miễn sao nhà quảng cáo chứng minh
được "luận điểm" của mình, trong khi đó pháp luật của Trung Quốc, Malaysia,
Việt Nam... lại cấm nội dung quảng cáo này. Nhưng nhìn chung, khi nghiên cứu
về các hành vi này, ngoàicác tiêu chí chung ra, quảng cáo không lành mạnh được
xác đ
ịnh dựa trên nhữngtiêu chí sau:
+ Căn cứ vào tính pháp lý : quảng cáo hợp pháp và quảng cáo không hợp
pháp. Theo đó, quảng cáo không lành mạnh thường là những quảng cáo không
hợp pháp.Pháp luật là một tiêu chí để phân biệt quan hệ pháp luật, hành vi pháp
luật rõ ràng nhất, những hành vi mà pháp luật cho phép là những hành vi hợp
pháp, và ngược lại. Tuy nhiên, pháp luật không phải là một cái áo quá rộng để
bao trùm hế tmọi hành vi quảng cáo được xem là không lành mạnh. Thực tế có
những hành vi quảng cáo không vi phạm pháp luật nhưng lại vi phạm các quy
phạm đạo đức cũng b
ị coi là hành vi quảng cáo để cạnh tranh khống lành mạnh.
Đây là lý do phải có sự kết hợp trong điều chỉnh các hành vi quảng cáo không
lành mạnh bằng quy phạm pháp luật và các quy phạm đạo đức, tập quán sẽ được
phân tích
ở phần sau của luậnvăn.
+ Căn cứ vào nội dung: quảng cáo trung thực và quảng cáo gian dối. Đây
là một trong những căn cứ quan trọng trong việc xác đ
ịnh hành vi quảngcáo nào
là hành vi cạnh tranh lành mạnh hay hành vi cạnh tranh không lành mạnh.Theo

16
đó, quảng cáo không lành mạnh là những hành vi quảng cáo gian dối, sai sựthật
bằng các thủ pháp như so sánh, đưa thông tin quảng cáo quá lời...với mụcđích
xâm hại trực tiếp đến quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng và đối thủ
cạnhtranh.
1.2.Những vấn đề lý luận pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành
mạnh trong lĩnh vực quảng cáo
1.2.1.Sự cần thiết điều chỉnh pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành
mạnh trong lĩnh vực quảng cáo
Theo quan điểm lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, “ điều chỉnh
pháp luật là việc Nhà nước dựa vào pháp luật, sử dụng các phương tiện pháp lý
đặc thù quy phạm pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật, quan hệ pháp luật, hành
vi thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý) để điều chỉnh các quan hệ xã hội, tác
dộng đến các quan hệ xã hội theo phương hướng nhất đ
ịnh.
Hiểu theo nghĩa này, điều chỉnh pháp luật đối với hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo tại Việt Nam là việc Nhà nước đ
ịnh
ra luật và ban hành pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh
vực quảng cáo để dựa vào pháp luật điểu chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực
hoạt động quảng cáo tại Việt Nam, nhằm xác lập những quyền và nghĩa vụ cụ
thể của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ này, đổng thời tạo cơ chế để thực
hiện các quyền và nghĩa vụ
Cơ chế điều chỉnh pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong bất
kỳ lĩnh vực chuyên ngành nào cũng bao gồm các quy phạm pháp luật xác đ
ịnh
hành vi b
ị coi là cạnh tranh không lành mạnh; trách nhiệm pháp lý của các chủ
thể thực hiện hành vi; trình tự, thủ tục khiếu nại và thủ tục giải quyết; các biện
pháp chế tài được áp dụng.
Cơ chế điều chỉnh pháp luật cạnh tranh đối với hành vi quảng cáo không
lành mạnh là một hệ thống các biện pháp pháp luật có mối quan hệ mật thiết với
nhau, ác động lẫn nhau, thông qua đó mà thực hiện sự tác động lên các quan hệ
trong lĩnh vực quảng cáo. Hệ thống đó bao gồm: các qui phạm pháp luật cạnh

17
tranh nói chung là qui phạm pháp luật quảng cáo nói riêng, các quan hệ pháp luật

18
cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo và việc thực hiện pháp luật cạnh tranh trong
lĩnh vực này.
1.2.2.Mục đích, phạm vi và đối tượng điều chỉnh
Khi xây dựng một văn bản pháp luật bất kỳ, nhà làm luật luôn phải xác
đ
ịnh được rằng văn bản pháp luật này được ban hành với mục đích gì? phạm vi
điều chỉnh của nó đến đâu? và đối tượng điều chỉnh của nó là cái gì? Trả lời
được ba câu hỏi này tức là đã xác đ
ịnh được những nội dung cần quy định trong
văn bản.
Do quảng cáo có những đặc thù riêng so với các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh khác nên điều chỉnh pháp luật trong lĩnh vực này cần xác lập một cơ
chế điều chinh phù hợp với qui luật vận động của nó mới đạt được hiệu quả pháp
luậtnhư mong muốn.
1.2.2.1.M ục đích điều chỉnh
-Ngăn chặn các hành vi quảng cáo sai trái bằng việc quy đ
ịnh các quyền
và nghĩa vụ cụ thể của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật quảng cáo.
các chủ thể có căn cứ pháp lý để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình,
tránh vi phạm pháp luật và có thể tố giác hành vi phạm luật;
-Giải quyết các tranh chấp phát sinh và xử lý vi phạm nhằm mục đích răn
đe, giáo dục;
-Xây dụng nguyên tắc, chuẩn mực ứng xử trong kinh doanh và các hoạt
động liên quan đến quảng cáo.
-Nhằm xây dựng trật tự kinh doanh trong lĩnh vực hoạt động quảng cáo,
khuyến khích cạnh tranh và phát triển kinh doanh một cách lành mạnh thông qua
việc bảo vệ quyền lợi của đối thủ cạnh tranh, người tiêu dùng, trật tự quản lý nhà
nước.
1.2.2.2.Phạm vỉ điểu chỉnh.
Phạm vi điều chinh của pháp luật là phạm vi các quan hệ xã hội được
pháp luật nói chung điều chỉnh. Xác đ
ịnh phạm vi điều chỉnh là xác định “ranh
giới” của việc sử dụng pháp luật vào việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Giới

19
hạn cho phép đó chứa đựng khả năng lựa chọn hành vi của các chủ thể. Việc xác

20
đ
ịnh phạm vi điều chỉnh đối với bất kỳ một lĩnh vực pháp luật nào cũng có ý
nghĩa rất quan trọng. Nó đ
ịnh hướng cho sự phát triển của đối tượng điều chỉnh.
Và nói một cách khác phạm vi điều chỉnh của pháp luật được xác đ
ịnh bằng
chính các quan hệ giữa các chủ thể phát sinh b
ởi nhóm các hành vi thuộc đối
tượng điều chỉnh của pháp luật trong lĩnh vực đó.
Phạm vi điều chỉnh pháp luật đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực quảng cáo là phạm vi các quan hệ xã hội được pháp luật quảng
cáo vàcác luật chuyên ngành có liên quan khác điều chỉnh. Theo đó, phạm vi
điều chỉnh pháp luật đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực
quảng cáođược xác đ
ịnh bởi các quan hệ giữa các chủ thể là Nhà nước, người
quảng cáo và khách hàng phát sinh b
ởi nhóm các hành vi quảng cáo so sánh,
quảng cáo gian dối...
Các hành vi đó được thể hiện thông qua các mối quan hệ xã hội sau:
-Mối quan hệ giữa chủ quảng cáo với người tiêu dùng và đối thủ cạnh tranh;
-Mối quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước và các chủ thể cạnh tranh
trong lĩnh vực quảng cáo, kinh doanh;
-Mối quan hệ giữa cơ quan tài phán và các chủ thể cạnh tranh.
1.2.2.3.Đối tượng điều chỉnh.
Đối tượng điều chỉnh được xác đ
ịnh bởi nhóm các hành vi quảng cáo sai
lệch, quảng cáo gian dối do các chủ thể kinh doanh tiến hành vì mục đích mục
đích xâm hại trực tiếp đến quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng và đối thủ
cạnh tranh. Việc xác đ
ịnh được rõ đối tượng điểu chỉnh của pháp luật đối với
hành vi cạnh tranh không lành mạnh có ý nghĩa quyết đ
ịnh trong việc xác định
đối tượng áp dụng pháp luật điều chỉnh chúng.
Tuy nhiên, bên cạnh việc xác đ
ịnh được mục đích, phạm vi và đối tượng
điều chỉnh của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực
quảng cáo, việc xác đ
ịnh những nguyên tắc điều chỉnh để hình thành nên chuẩn
mực phù hợp với đặc thù của lĩnh vực cần điều chỉnh là vô cùng quan trọng.
Những nguyên tắc điều chỉnh pháp luật này sẽ là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình

21
xây dựng các quy phạm pháp luật cụ thể một cách logic, đạt được hiệu quả khi
áp dụng vào thực tiễn.
1.2.3.Nguyên tắc điều chỉnh pháp luật về hành vi cạnh tranh không mạnh
trong lĩnh vực quảng cáo
1.2.3.1.Nguyên tắc đảm bảo quyền tự do kinh doanh
Bảo đảm quyền tự do kinh doanh của cá nhân, doanh nghiệp là yếu tố rất
quan trọng đối với một nền kinh tế phát triển, đồng thời cũng là đảm bảo quyền
con người. Cùng với sự phát triển, quyền con người được đảm bảo, quyền tự do
kinh doanh tại Việt Nam đã có nhiều bước tiến mạnh mẽ và được bảo vệ bằng
khuôn khổ pháp lý... Lý thuyết về quyền tự do kinh doanh là một trong những lý
luận kinh điển của các học thuyết kinh tế trên thế giới mà điển hình nhất là của
Adam Smith (1723-1790)là nhà kinh tế chính tr
ị học và triết gia đạo đức học lớn
người Scotland; là nhân vật m
ở đường cho phát triển lý luận kinh tế, người cho
rằng hoạt động kinh tế của con người là hoạt động tự do, do “bàntay vô hình”
dẫn dắt hoặc do quy luật khách quan chi phối. Theo ông, đảm bảo tự do kinh tế
chính là bảo đảm sự tự do cạnh tranh giữa các chủ thể thamgia th
ị trường trong
đó có việc bảo đảm quyền tự lựa chọn của người tiêu dùngtrong xã hội. Hoạt
động của nền kinh tế là sản xuất cái gì? cho ai? Sản xuấtnhư thế nào? Tất cả đểu
được giải quyết thông qua th
ị trường. Tuy nhiên, theoP.A Samuel son – nhà kinh
tế học, ông cho rằng hệ thống kinh tế th
ị trường không phải là hệ thống hỗn độn
vô chính phủ mà là một trật tự kinh tế. Để điều chỉnh nền kinh tế th
ị trường phá
ttriển hiệu quả, công bằng và có trật tự thì không thể thiếu được “ bàn tay vô
hình” của th
ị trường và “ bàn tay hữu hình” của Nhà nước. Bởi vì: “ Cơ chế thị
trường xác đ
ịnh giá cả và sản lượng trong nhiều lĩnh vực, trong khi đó, Nhànước
điều tiết th
ị trường bằng các chính sách thuế, chi tiêu, trật
tự phân phối lưu thông
và luật lệ. Cả hai bên th
ị trường và Nhà nước đều có tính chất thiết yếu. Điều
hành một nền kinh tế không có Nhà nước hoặc không có th
ị trường thì cũng như
con người đ
ịnh vỗ tay bằng một bàn tay.

22
Hình ảnh minh họa
Tóm lại, quyền tự do kinh doanh là quyền bất khả xâm phạm của mỗi chủ
thể kinh doanh, sự tự do này không phải là sự tự do tuỳ tiện mà nó phảilàm trong
khuôn khổ pháp luật của nhà nước trên tinh thần được làm những gì mà pháp
luật không cấm. Tuy nhiên, sự can thiệp của Nhà nước phải phù hợp với các
nguyên tắc cơ bản của kinh tế th
ị trường, phải tôn trọng các quy luật khách quan
của nền kinh tế th
ị trường.
Quyền tự do kinh doanh là một quyền được thừa nhận và tôn trọng
ở hầu
hết các nước trên thế giới, nó được coi là nguyên tắc hiến đ
ịnh của nhiều nước,
trong đó có Việt Nam. Điều 33 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2013 đã nêu rõ: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những
ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Khoản 1 Điều 7 Luật Doanh nghiệp năm
2014 cũng quy đ
ịnh một trong các quyền của doanh nghiệp là
“Tự do kinh
doanh trong những ngành, nghề mà luật không cấm” [13].
Để đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các chủ thể kinh tế theo quy đ
ịnh
của Hiến pháp, Luật Doanh nghiệp 2014, Luật Đầu tư 2014 và các văn bản
hướng dẫn thi hành đã tạo hành lang pháp lý để ghi nhận quyền tự do kinh doanh
của người dân, giúp doanh nghiệp chủ động thực hiện kinh doanh các ngành,
nghề mà pháp luật không cấm. Quyền tự do kinh doanh được coi là nguyên tắc
của các nguyên tắc khác trong môi trường pháp lý kinh doanh. Quảng cáo
thương mại là một hành vi kinh doanh, do vậy nguyên tắc này cũng được coi là
nguyên tắc xương sống của các quy phạm pháp luật điều chỉnh những hành vi

23
này [15].

24
1.2.3.2.Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của các chủ thể tham giavào hoạt
động quảng cáo.
Bình đẳng trước pháp luật là một trong những nguyên tắc cơ bản, được
thể chế hóa trong nhiều văn kiện quốc tế và quốc gia. Nguyên tắc bình đẳng
trước pháp luật phản ánh những nội dung căn bản, đó là, tất cả mọi chủ thể tham
gia hoạt động quảng cáo có v

thế ngang nhau trước pháp luật và có quyền không
b
ị phân biệt đối xử. Quyền bình đẳng trước pháp luật
của các chủ thể kinh tế
được thể hiện trên hai khía cạnh, bình đẳng khi tham gia vào các quan hệ kinh
doanh và quyền bình đẳng khi giải quyết các tranh chấp nảy sinh trong cùng một
điều kiện như nhau, các chủ thể tham gia hoạt động quảng cáo được hư
ởng
quyền và nghĩa vụ như nhau, có tư cách pháp lý như nhau.
Quyền bình đẳng trước pháp luật còn là quyền không b
ị pháp luật phân
biệt đối xử trong việc hư
ởng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ. Pháp luật luôn
đặt giá tr
ị bình đẳng làm thước đo, tiêu chuẩn để lấp đầy khoảng cách không
bình đẳng đó bằng việc quy đ
ịnh các quyền, nghĩa vụ pháp lý ngang nhau. Pháp
luật là thước đo chuẩn mực của bình đẳng, là công cụ để bảo đảm sự bình đẳng
giữa con người với con người. Bất kỳ công dân nào vi phạm pháp luật đều b
ị xử
lý bằng các chế tài theo quy đ
ịnh của
pháp luật. Quyền bình đẳng trước pháp luật,
không b
ị pháp luật phân biệt, đối xử còn là quyền được hưởng tất cả các quyền
con người như nhau
ở mọi nơi, mọi lúc và mọi hoàn cảnh. Quyền được pháp luật
bảo vệ một cách bình đẳng là nhu cầu đòi hỏi cần có phương tiện, công cụ pháp
lý từ phía Nhà nước. Vì vậy, pháp luật ghi nhận các quyền bình đẳng và tạo ra cơ
chế bảo vệ quyền đó khi nó b
ị xâm phạm, với việc mọi hành vi vi phạm đều phải
b
ị xử lý như nhau trước pháp luật.
Quyền bình đẳng trước pháp luật của các chủ thể được thể hiện trên hai
khía cạnh, bình đẳng khi tham gia vào các quan hệ kinh doanh và quyền bình
đẳng khi giải quyết các tranh chấp nảy sinh.Trong quan hệ pháp luật về quảng
cáo, các chủ thể tham gia vào quan hệ này bao gồm:

25
-Quan hệ giữa chủ thể kinh doanh có sản phẩm quảng cáo và Nhà nước,
trong mối quan hệ này, tính bình đẳng thể hiện
ở chỗ các nhà sản xuất đều được
tham gia hoạt động quảng cáo của mình như nhau, không ai được ưu đãi hơn vê
mặt số lượng, nội dung, thời lượng quảng cáo.. .tuân thủ theo các quyền và nghĩa
vụ mà pháp luật quy đ
ịnh.
-Quan hệ giữa chủ thể kinh doanh có hàng hoá, d
ịch vụ quảng cáo và
người tiêu dùng. Việc đảm bảo sự bình đẳng giữa các chủ thể này là việc bảo
đảm cho họ được tham gia vào quan hệ một cách trung thực, mỗi bên đều phải
có những quyền và nghĩa vụ tương ứng. Người tiêu dùng được quyền thông tin
đầy đủ về sản phẩm cần mua một cách trung thực, hay nói cách khác họ phải
được tự do ý chí khi tham gia vào hợp đồng mua bán hàng hoá, không b
ị lợi
dụng do tác động của quảng cáo không trung thực.
Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của các chủ thể tham gia vào quan
hệ quảng cáo thể hiện
ở sự tự do ý chí của các chủ thể. Đây cũng là một nguyên
tắc bất d
ịch của nhiều ngành luật, đặc biệt là luật dân sự.
1.2.3.3.Nguyên tắc bảo đảm cạnh tranh.
Nguyên tắc bảo đảm cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo là khuyến khích
quảng cáo trung thực, nghiêm cấm các hành vi quảng cáo gian dối.
Khuyến khích quảng cáo và nghiêm cấm các hành vi quảng cáo gian dối
làvì cùng một mục đích của nguyên tắc này. Muốn thúc đẩy sảnxuất phát triển
chúng ta cần phải đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại màtrong đó,
quảng cáo là một biện pháp ưu tiên hàng đầu của mỗi doanh nghiệp.
Quáng cáo được thực hiện một cách đa dạng và phong phú sẽ tạo môi
trường để tiếp cận hàng hoá cuả các doanh nghiệp và người tiêu dùng một cách
thuận lợi hơn. Từ đó phát triển được sản xuất, lưu thông hàng hoá. Việc khuyến
khích quảng cáo phải được thực hiện đồng thời với việc ban hành các qui đ
ịnh
và thiết chế đảm bảo cho hành vi này, việc nghiêm cấm các hành vi quảng cáo
gian dối, xây dựng và thực hiện các chế tài đối với hành vi vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực này sẽ tạo một môitrường thuận lợi cho quảng cáo phát triển.

26
1.2.3.4.Nguyên tắc tôn trọng quyền sáng tạo của chủ thể quảng cáo
Nếu như các nguyên tắc kể trên được xem là những nguyên tắc chung cho
các hành vi kinh doanh thì nguyên tắc tôn trọng quyền sáng tạo của chủ thể
quảng cáo là một nguyên tắc đặc trưng cho lĩnh vực pháp luật này. Quảng cáo là
quyền của mỗi doanh nghiệp có hàng hoá quảng cáo, nó làquyền phái sinh của
quyền tự do kinh doanh. Chính vì vậy, chủ doanh nghiệp cóquyền quảng cáo sản
phẩm của mình theo cách mà họ cho là có hiệu quả nhất choviệc xúc tiến thương
mại doanh nghiệp. Hơn nữa, quảng cáo là một hành vi cạnhtranh nên yếu tố bất
ngờ, đặc trưng, gây ấn tượng riêng cho khách hàng đối với sảnphẩm mang tính
quyết đ
ịnh đến hiệu quả của việc quảng cáo. Do vậy, yếu tố sángtạo của mỗi
chủ
thể tham gia hoạt động quảng cáo là một yếu tố không thể thiếu vàngày càng
được phát huy trong môi trường cạnh tranh hiện nay. Ví dụ như việc quảng cáo
mì tôm Hảo Hảo bằng hình thức giải thư
ởng trong mỗi gói mỳ tôm đều có thẻ
cào có hình các phần thư
ởng như xe ô tô, xe máy, tivi....đánh vào thị hiếu của
người tiêu dùng đã mang lại một nguồn thu rất lớn cho doanh nghiệp.
Quảng cáo có liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hoá - xã hội khác
nên nhà nước cần phải điểu chỉnh đến hoạt động này trong khuôn khổ để vừa
khuyến khích được quảng cáo vừa hạn chế được những hành vi quảng cáo sai
lệch, vi phạm đạo đức kinh doanh gây hậu quả xấu cho môi trường kinh doanh
cũng như xã hộinói chung. Việc thừa nhận và tôn trọng nguyên tắc này sẽ là một
cơ s
ở để xây dựngpháp luật điều chỉnh hoạt động quảng cáo của nhà cầm quyền
hợp lý, để luật thực sựđi vào đời sống một cách không khiên cưỡng.
1.2.3.5.Nguyên tắc điều chỉnh thống nhất Luật Cạnh tranh và các văn bản pháp
luật khác có liên quan.
Là bộ phận của pháp luật điều chỉnh nền kinh tế th
ị trường, Luật Cạnh
tranh được kỳ vọng là công cụ quan trọng nhằm tạo lập và đảm bảo một môi
trường kinh doanh bình đẳng và sự vận hành hiệu quả của nền kinh tế th
ị trường.
Để đạt được sự kỳ vọng đó, đòi hỏi pháp luật cạnh tranh phải có sự đồng bộ,
thống nhất, dựa trên nền tảng của bình đẳng và tự do kinh doanh, hướng đến

27
cạnh tranh lành mạnh. Thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy có sự xung đột giữa
Luật Cạnh tranh và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Trong trường hợp
có mâu thuẫn giữa các quy đ
ịnh của pháp luật, nguyên tắc đưa ra là ưu tiên áp
dụng luật chuyên ngành so với luật chung.
Đây là một nguyên tắc pháp lý có thể được áp dụng trong những trường
hợp nhất đ
ịnh và
trong những điều kiện xác đ
ịnh.
Tuy nhiên, khi áp dụng nguyên
tắc này cần phải xác đ
ịnh một cách rõ ràng đâu là luật chuyên ngành, đâu là luật
chung hay nói cách khác phải xác đ
ịnh đâu là luật chung đâu là luật riêng. Trong
quan hệ này có thể một văn bản pháp luật được coi là luật chung nhưng trong
quan hệ khác văn bản pháp luật đó có thể được coi là luật riêng. Trong quan hệ
với các luật khác, Luật Cạnh tranh là luật chung hay luật riêng cũng là một trong
những vấn đề còn gây nhiều tranh cãi. Để xác đ
ịnh Luật Cạnh tranh là Luật
chung hay Luật chuyên ngành, hiện nay có hai quan điểm:
Thứ nhất, nếu đứng trên quan điểm Luật Cạnh tranh là hiến pháp của nền
kinh tế th
ị trường, áp dụng chung cho tất cả các doanh nghiệp trong mọi ngành
nghề, lĩnh vực của nền kinh tế thì lúc đó Luật cạnh tranh sẽ là luật chung và các
pháp luật chuyên ngành khác là luật riêng.
Thứ hai, nếu đứng trên quan điểm Luật Cạnh tranh chỉ quy đ
ịnh và điều
chỉnh riêng đối với vấn đề cạnh tranh mà không quy đ
ịnh và điều chỉnh đối với
những vấn đề khác trong các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế thì khi đó Luật
Cạnh tranh lại được coi như luật riêng. Theo chúng tôi, mặc dù, Luật Cạnh tranh
có đối tượng áp dụng là các chủ thể kinh doanh trong mọi ngành nghề, lĩnh vực
kinh tế nhưng, Luật Cạnh tranh không điều chỉnh tất cả các hoạt động của các
chủ thể kinh doanh mà chỉ điều chỉnh hoạt động cạnh tranh trên th
ị trường, trong
đó bao gồm nhận diện hành vi cạnh tranh không lành mạnh và xử lý các hành vi
này. Do vậy, Luật Cạnh tranh phải được coi là luật chuyên ngành.
Với tư cách là luật chuyên ngành, trong quá trình áp dụng có thể phát sinh
các xung đột giữa: (i) Luật Cạnh tranh với các Luật chung và (ii) Luật Cạnh
tranh với các văn bản pháp luật chuyên ngành khác. Để giải quyết vấn đề này,

28
Luật Cạnh tranh đã xác đ
ịnh phạm vi điều chỉnh là “quy định về hành vi hạn chế
cạnh tranh, hành vi cạnh tranh không lành mạnh, trình tự, thủ tục giải quyết vụ
việc cạnh tranh, biện pháp xử lý vi phạm pháp luật cạnh tranh". Luật Cạnh tranh
cũng chỉ rõ trường hợp có sự khác nhau giữa quy đ
ịnh của Luật Cạnh tranh với
quy đ
ịnh của luật khác về hành vi hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành
mạnh thì áp dụng quy đ
ịnh của Luật Cạnh tranh. Quy định này là nền tảng pháp
lý giúp đảm bảo sự tương thích, phù hợp và thống nhất của cả hệ thống pháp luật
liên quan đến vấn đề cạnh tranh. Nếu các văn bản pháp luật chuyên ngành xây
dựng và ban hành văn bản mới trong đó có điều chỉnh về hành vi cạnh tranh nói
chung và cạnh tranh không lành mạnh nói riêng cần tham khảo các quy đ
ịnh
này,
tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật. Là bộ phận của pháp
luật chống cạnh tranh không lành mạnh, pháp luật về hành vi quảng áo nhằm
cạnh tranh không lành mạnh phải tuân thủ tất cả các nguyên tắc này. Hay nói
cách khác, trong quá trình giải quyết vụ việc về hành vi quảng cáo nhằm cạnh
tranh không lành mạnh, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải áp dụng các quy
đ
ịnh của pháp luật xứ lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh để nhận diện hành
vi và áp dụng các chế tài đối với chủ thểthực hiện hành vi đó.
1.2.4.Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong việc điều chỉnh cáchành
vi quảng cáo không lành mạnh.
Pháp luật và đạo đức là hai phạm trù có mối quan hệ tương hỗ trong điều
chỉnh các quan hệ xã hội. Mối quan hệ này luôn là một vấn đề nhạy cảm của xã
hội.Vậy, mối quan hệ đó được thể hiện như thế nào? quy phạm pháp luật hay
quy phạmđạo đức sẽ đạt được hiệu quả điều chỉnh các quan hệ xã hội hơn?
Nếu coi pháp luật như là một công cụ điều chỉnh hành vi của con người
bằngý chí của Nhà nước thì đạo đức cũng được coi là sự tự điều chỉnh đối với
các hành vivà mối quan hệ xã hội của con người Cùng với pháp luật, các quy
phạm đạo đức đang hàng ngày hàng giờ điều chỉnh các lĩnh vực sinh hoạt xã hội
và rất có hiệu quả. Nhưng khác với pháp luật được đảm bảo thi hành bằng cưỡng
chế nhà nước, các quy phạm đạo đức được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh dư

29
luận xã hội và lương tâm.Nếu xét về l
ịch sử hình thành và phát triển thì các quy
phạm đạo đức còn có trước quy pháp luật rất lâu. Quy phạm đạo đức được hình
thành dựa trên những quy tắc ứng xử trong sinh hoạt hàng ngày của mỗi con
người, nó được nhân dân công nhận và thực hiện một cách tự nguyện. Do đó,
đạo đức có ý nghĩa bổ sung cho pháp luật trong điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Pháp luật và đạo đức bổ trợ cho nhau trong quản lý xã hội. Có thể nói: pháp luật
là đạo đức tối thiểu và đạo đức là pháp luật tối đa. Đạo đức kinh doanh là một
phạm trù đạo đức xã hội, nó tựa hồ như một thứ trách nhiệm xã hội mà bất kỳ
loại hình kinh doanh nào cũng phải có. Trách nhiệm đối với xã hội tr
ở thành
nhân tố quan trọng hàng đầu của đạo đức kinh doanh. Hoạt động kinh doanh
phải được đánh giá theo giá tr
ị đạo đức của toàn thể xã hội và nền văn hoá của
nó. Điều cốt yếu của hiệu quả điều chỉnh hành vi là trách nhiệm xã hội của mỗi
một chủ thể khi tham gia vào các quan hệ xã hội, đặc biệt là quan hệ kinhdoanh.
Nếu kinh doanh theo kiểu mạnh ai nấy sống, cá lớn nuốt cá bé, chỉ vì mưu cầu
lợi ích cho bản thân mà quên đi hoặc cố tình quên đi trách nhiệm đối với xã
hộithì sẽ gây ra những hậu quả khôn lường lâu dài, làm suy đồi đạo đức kinh
doanh,đạo đức nghề nghiệp và đạo đức xã hội nói chung.
Ví dụ như hành vi quảng cáo thông qua các chương trình tài trợ, nhân đạo,
từ thiện ngày càng được sử dụng nhiều thay cho những quảng cáo thông thường.
Hành vi này mang tính đạo đức và văn hoá nên nó rất có hiệu quả trong việc
quảng bá sản phẩm của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, mặc dù pháp luật có quy
đ
ịnh về việc quảngcáo phải đầy đủ thông tin, trung thực trên nhãn hàng hoá...
Nhưng ví dụ với một sảnphẩm như mỹ phẩm kem dưỡng da, để tạo nên chất này
phải cần đến hàng trăm thứhoá chất mà không thể ghi hết trên nhãn sản phẩm.
Có những chất không gây độchại cho người tiêu dùng ngay lập tức nhưng nó sẽ
có hậu quả lâu dài hoặc sẽ lànguyên nhân cho một căn bệnh nào đó tác động xấu
đến người tiêu dùng. Việc nàypháp luật không thể lường trước được hết, mà chỉ
có các qui phạm đạo đức kinh doanh điểu chỉnh trong vấn đề này được thôi.
Nhưng cơ chế điểu chỉnh của các quy tắc đạo đức không có tính cưỡng chế thi

30
hành như qui phạm pháp luật nên việc nó có đạt được hiệu quả điều chỉnh không
phụ thuộc rất nhiều vào ý chí của chính chủthể.
Doanh nghiệp nào kinh doanh cũng đều vì mục đích cuối cùng là vì lợi
nhuận, tronghoàn cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt thì những thủ đoạn kinh
doanh phát triển làmột tất yếu. Song, tương ứng với mỗi một trình độ phát triển
của th
ị trường (được đánh giá dựa trên tốc độ tăng trưởng, nhận thức của người
kinh doanh và người tiêu dùng) sẽ có nhũng hình thức, phương thức cạnh tranh
tương úng. Hay nói cáchkhác, đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh
không chỉ là đặc điểm “tự thân” mà nó còn b
ị chi phối bởi các yếu tố bên ngoài.
Do vậy, muốn một nền kinh tế th
ị trường phát triển trong một môi trường cạnh
tranh lành mạnh thì bên cạnh việc nâng cao chất lượng qui phạm pháp luật nó
còn phải kết hợp với việc tuyên truyền nâng cao trình độ dân trí, kết hợp giữa
điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng pháp luậtvới các qui phạm đạo đức, tập quán,
xã hội khác.
Có thể nói, “pháp luật, đạo đức không tồn tại một minh mà bao giờ cũng
trong mối quan hệ biện chứng, vừa thống nhất vừa có những sự khác biệt và
cùng nhau tạo nên một sự điều chỉnh mạnh mẽ nhất đối với hành vi và các mối
quan hệ xã hội của con người theo cả chiều tích cực và tiêu cực”. Bằng dư luận
xã hội, các qui phạm đạo đức góp phần quan trọng trong việc điều chỉnh các
hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp. Một qui phạm pháp luật muốn đạt được
hiệu quả pháp luật thì qui phạm đó phải chứa đựng giá tr
ị đạo đức của hành vi.
Một quyết đ
ịnh pháp luật muốn đi vào đời sống và được chấp nhận thì nó phải
“thấu tình đạt lý”vì nếu không khi đưa pháp luật vào thực tiễn đời sống sớm
muộn gì nó cũng sẽ b

dư luận xã hội đào thải. Chính vì vậy, việc nghiên cứu xây
dựng pháp luật cũng như quá trình áp dụng pháp luật vào thực tiễn đời sống
không thể không có mối liên hệ với các qui phạm đạo đức nhằm đạt được hiệu
quả cao trong điều chỉnh pháp luậtnói chung và điều chỉnh pháp luật đối với
hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo nói riêng.

31
1.2.5.Mối quan hệ giữa pháp luật cạnh tranh và các lĩnh vực pháp luật
chuyên ngành khác trong xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong
lĩnh vực quảng cáo
Như đã nói
ở trên, pháp luật xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực quảng cáo không nằm gọn trong một văn bản pháp lý hay luật
chuyên ngành nào, mà nó là tổng hợp các qui đ
ịnh
nằm rải rác trong các qui
phạm pháp luật của nhiều vàn bản luật thuộc nhiều ngành, lĩnh vực pháp lý khác
nhau.
Pháp luật xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng
cáo là hệ thống các qui phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh
vực quảng cáo nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi chính đáng của các chủ thể tham
gia vào quan hệ (các nhà sản xuất, người tiêu dùng) và trật tự kỷ cương đất nước,
đảm bảo đời sống văn hoá xã hội lành mạnh.
Để đạt được mục tiêu đó, pháp luật xử lý hành vi cạnh tranh không lành
mạnh tronglĩnh vực quảng cáo phải đảm bảo được hai nhiệm vụ cơ bản sau:
Thứ nhất là phải có những qui phạm pháp luật qui đ
ịnh các nguyên tắc xử
sự chung đ
ịnh
hướng hành vi của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật này.
Thứ hai là gồm các qui phạm pháp luật về biện pháp xử lý hành vi vi
phạm của các chủ thể để đảm bảo trật tự kỷcương pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, bản thân pháp luật cạnh tranh chỉ là những qui phạm mang
tính nguyên tâc, hình thức xử sự chung cho các đối tượng thực hiện hành vi.
Pháp luật cạnh tranh nói chung cũng như pháp luật quảng cáo nói riêng không tự
thân giải quyết triệt dể, toàn diện được mọi vấn đề có liên quan đến quảng cáo
như các vấn đề liên quan đến s
ở hữu công nghiệp, dân sự, hình sự, hành chính...
Đặc biệt là chế tài xử lý vi phạm trong lĩnh vực này nhất thiết phải có sự hỗ trợ
của pháp luật hành chính, dân sự, hình sự...
Do vậy, khi xem xét cũng như nghiên cứu xây dựng pháp luật chống cạnh
tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo, chúng ta không chỉ chú trọng
đến việc hoàn thiện pháp luật cạnh tranh mà phải hoàn thiện cả các luật chuyên

32
ngành có liên quan. Vì chúng là tập hợp các quy phạm tạo nên một cơ chế
chung thống nhất điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực này.
Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo
của nhiều nước trên thế giới cũng luôn là một hệ thống các qui phạm thống nhất,
liên ngành để điều chinh các hành vi này. Ví dụ như pháp luật quảng cáo của
Singapore,Mỹ, Philipin, Anh... đều có những qui tắc hỗ trợ cho việc thực thi các
qui phạm pháp luật xử lý quảng cáo không lành mạnh.
Tính tương hỗ của pháp luật đã được đề cập trong nhiều nghiên cứu
chuyên ngành về lý luận chung nhà nước và pháp luật. Ở đây, luận văn chỉ xin
nhấn mạnh thêm khía cạnh này trong việc nghiên cứu xem xét hoạt động quảng
cáo không lành mạnh với mục đích tăng phần nhận thức đối với vai trò của hệ
thống pháp luật liên ngành trong việc đảm bảo một môi trường cạnh tranh lành
mạnh, vì sự công bằng,bình đẳng của các doanh nghiệp trong kinh doanh.
1.3.Kinh nghiệm một số nước trên thế giới trong việc xử lý hành vi cạnh
tranh không lành mạnh
Cạnh tranh không lành mạnh là một chiêu trò kinh doanh không chỉ xuất
hiện
ở Việt Nam mà còn xuất hiện ở rất nhiều nước trên thế giới. Một số nước
trên thế giới xử lý rất nghiêm đối với hành vi này. Kinh nghiệm của các nước
trên thế giới có thể là bài học bổ ích cho các nhà làm luật và giới doanh nhân
Việt Nam.
Châu Âu chính là nơi kh
ởi đầu của pháp luật về cạnh tranh không lành
mạnh và cũng là nơi có nhiều cách tiếp cận khác biệt trong quá trình xây dựng
pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh. Ví dụ như Pháp và Anh đều điều
chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên cơ s
ở các nguyên tắc chung về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và cụ thể hoá thông qua các án
lệ; toà án có vai trò rất lớn trong việc đánh giá hành vi cạnh tranh không lành
mạnh và quyết đ
ịnh biện pháp xử lý, với chế tài chủ yếu là bồi thường thiệt hại.
Tại Mỹ, khi có vi phạm xảy ra, sẽ có một phiên điều trần với sự có mặt
của bên vi phạm để làm rõ hành vi, và dựa trên kết quả phiên điều trần ra quyết

33
đ
ịnh buộc đình chỉ và chấm dứt đối với hành vi bị xem là không lành mạnh; các
chế tài về dân sự, về hình sự (phạt tiền, phạt tù…) có thể sẽ được áp dụng. Ngoài
ra, tại một số quốc gia
ở châu Á như Hàn Quốc,… có sự tồn tại song song hai hệ
thống quy đ
ịnh về cạnh tranh không lành mạnh: một hệ thống gắn liền với pháp
luật về s

hữu trí tuệ, một hệ thống nằm trong khuôn khổ pháp luật cạnh tranh và
điều này là tương tự với pháp luật Việt Nam. Nhìn chung, pháp luật Việt Nam
cũng quy đ
ịnh chế tài xử lý đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh là dân
sự, hình sự và hành chính như các nước. Tuy nhiên, số lượng vụ việc b
ị xử lý vi
phạm thì chưa tương ứng với thực trạng hiện nay.
Luật Cạnh tranh Nhật gồm Luật Chống độc quyền (Luật Chống độc quyền
tư nhân và duy trì cạnh tranh công bằng) và hai luật bổ trợ là Luật Chống các
khoản thu lợi bất chính và các trình bày gây nhầm lẫn và Luật Hợp đồng phụ.
Sau khi có kết luận của cơ quan có thẩm quyền về một doanh nghiệp có hành vi
cạnh tranh không lành mạnh thì ngoài các khoản phải bồi thường trực tiếp các
thiệt hại thông qua thu nhập của doanh nghiệp b
ị cạnh
tranh không lành mạnh thì
doanh nghiệp gây ra còn phải bồi thường các khoản thiệt hại gián tiếp như các
chi phí khắc phục hậu quả, chi phí kh
ởi kiện, kể cả phí luật sư và các chi phí
khác. Thời gian doanh nghiệp b
ị cạnh tranh theo kiện càng dài thì chi phí này
càng được đội lên, khi đó doanh nghiệp có hành vi cạnh tranh không lành mạnh
rất lo sợ trước những khoản chi phí này.
Trái lại,
ở Việt Nam nhiều khoản chi phí lại không được công nhận như
phí luật sư để theo đuổi vụ kiện, chi phí bỏ ra cho vụ kiện… do đó nhiều doanh
nghiệp mặc dù b
ị cạnh tranh không lành mạnh nhưng vẫn không muốn theo kiện
vì chi phí lớn, ông cha ta đã có câu “được vạ má sưng” là đúng với tình hình của
chúng ta hiện nay. Điều này đã làm các doanh nghiệp không mặn mà với việc
theo kiện khi b
ị cạnh tranh không lành mạnh.
Luật Thương mại lành mạnh Đài Loan ra đời với rất nhiều mục đích,
không chỉ nhằm bảo đảm cạnh tranh lành mạnh trên th
ị trường mà còn nhằm
duy
trì trật tự cạnh tranh, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và thúc đẩy tính ổn

34
đ
ịnh
và sự th
ịnh
vượng của toàn bộ nền kinh tế. Luật Thương mại lành mạnh Đài
Loan điều chỉnh các hành vi hạn chế cạnh tranh, hành vi thương mại không lành
mạnh và hoạt động bán hàng đa cấp. Các hành vi thương mại không lành mạnh
được quy đ
ịnh từ Điều 19 đến Điều 24 bao gồm các dạng hành vi: hành vi làm
hàng giả, quảng cáo gây nhầm lẫn hoặc quảng cáo sai sự thật, hành vi gièm pha
nói xấu doanh nghiệp khác, và các hành vi giả dối hoặc hành vi không lành
mạnh gây ảnh hư
ởng tới trật tự thương mại trên thị trường một cách rõ ràng.
Song song với Luật Thương mại lành mạnh, Ủy ban thương mại lành
mạnh Đài Loan còn ban hành các hướng dẫn nhằm hướng dẫn chi tiết về các
hành vi thương mại không lành mạnh được quy đ
ịnh trong Luật. Trong hướng
d
ẫn chi tiết cho Điều 19 Luật Thương mại lành mạnh, Ủy Ban thương mại lành
m
ạnh Đài Loan đã đưa ra các tiêu chí để quyết đ̣inh xem có hay không các hành
vi c
ạnh tranh không lành mạnh của một doanh nghiệp ḅi coi là “có thể hạn chế
c
ạnh tranh lành mạnh”. Theo đó, để quyết đ̣inh xem một doanh nghiệp có thực
hiê
̣n
h
ành
vi h
ạn chế
c
ạnh tranh lành mạnh
hay không, h
ành
vi đ

ph
ải
đư
ợc
xem
x
ét một cách chung hoặc tách biệt nhau, xem “các phương pháp cạnh tranh”
đư
ợc sử dụng bởi doanh nghiệp có lành mạnh không và xem “kết quả của
phương ph
áp cạnh tranh” có làm suy yếu “chức năng cạnh tranh tự do trên tḥi
trư
ờng” hay không.
Còn
ở Úc thì Bộ Luật Cạnh tranh và tiêu dùng 2010 mà tiền thân là Đạo
luật Thương mại 1974 quy đ
ịnh về những hành vi phản cạnh tranh nhằm đảm
bảo tính công bằng và hiệu quả cạnh tranh
ở nước này.
Thứ nhất, cấm bất kỳ hành vi tạo ra chỉ dẫn sai trái hoặc gây nhầm lẫn nào
trong thương mại bằng bất kỳ hình thức nào. Trong đó, có chỉ dẫn sai trái hoặc
gây nhầm lần về hàng hóa hoặc d
ịch vụ; Chỉ dẫn sai trái hoặc gây nhầm lẫn về
bán hàng hóa liên quan đến bất động sản; Chỉ dẫn gây nhầm lẫn liên quan đến
vấn đề việc làm; Khuyến mại dưới hình thức đưa ra các gói giảm giá, quà tặng,
giải thư
ởng; Chỉ dẫn gây nhầm lẫn về bản chất của hàng hóa; Chỉ dẫn gây nhầm
lẫn về bản chất của d
ịch
vụ; Quảng cáo dụ dỗ… Với các hành vi trên mức xử

35
phạt đối với đối tượng vi phạm là công ty đến: 1.100.000 USD; Mức xử phạt đối
với đối tượng vi phạm không phải là công ty đến: 220.000 USD.
Luật pháp cần quy đ
ịnh rõ ràng, chi tiết, xử lý nghiêm để ngăn chặn hành
vi cạnh tranh không lành mạnh.
Luật pháp cần quy đ
ịnh rõ ràng, chi tiết, xử lý nghiêm để ngăn chặn hành
vi cạnh tranh không lành mạnh.
Thứ hai, sự tham gia vào mạng lưới hình tháp: cấm các hành vi tham gia
vào mạng lưới hình tháp. Một mạng lưới hình tháp là một mạng lưới có 2 đặc
tính sau đây: Thứ nhất, để gia nhập vào mạng lưới, một vài hoặc tất cả các thành
viên mới phải cung cấp cho những thành viên khác trong mạng lưới một trong
hai khoản phí sau (gọi là phí gia nhập): một khoản lợi nhuận tài chính hoặc phi
tài chính cho thành viên khác hoặc các thành viên khác, một khoản lợi nhuận tài
chính hoặc phi tài chính một phần cho thành viên khác hoặc các thành viên khác
và một phần cho những người khác.Thứ hai, những người mới tham gia b
ị xui
khiến đóng các khoản phí gia nhập b
ởi
triển vọng rằng họ sẽ được các lợi ích nếu
giới thiệu thêm được những người mới gia nhập thêm vào mạng lưới.
Thứ ba, hành vi đ
ịnh giá: cấm không được cung cấp hàng hóa nếu hàng
hóa đó có nhiều hơn một mức giá quảng cáo, và mức giá hiện cung cấp không
phải là mức giá quảng cáo thấp hơn hoặc thấp nhất. Hành vi ấn đ
ịnh đơn giá
trong các trường hợp nhất đ
ịnh: cấm các hành vi tạo chỉ dẫn có liên quan đến
một số lượng hàng nhất đ
ịnh rằng nếu số hàng này được trả tiền sẽ tạo thành một
phần tiền bồi thường cho nguồn cung hàng hóad
ịch vụ trừ khi người bán hàng
cũng cụ thể hóa đơn giá của hàng hóad
ịch vụ bằng một cách gây chú ý và bằng
một con số duy nhất.
CònNhật Bản lại thành lập Ủy ban Thương mại lành mạnh Nhật Bản để
thực thiLuật Chống độc quyền và Luật Hợp đồng phụ, triển khai thực hiện các
vănbản luật này để bảo vệ môi trường cạnh tranh lành mạnh, c
ởi mở, công bằng.
Ở Pháp cũng thành lập Cục quản lý cạnh tranh để thực hiện quản lý nhà nước về
cạnhtranh, giải quyết các vụ việc cạnh tranh và tham vấn cho nhà nước về

36
xâydựng chính sách cạnh tranh… Có thể thấy, hầu hết, các quốc gia đều
xâydựng cơ quan để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về cạnh tranh và
bảovệ người tiêu dùng. Còn các chức năng về phòng vệ thương mại hay trợ
cấp,chống bán phá giá, đối phó với các vụ kiện thương mại được trao cho các
cơquan chuyên trách khác.
Tiểu kết chương
Như vậy, mọi nền sản xuất suy cho cùng đều nhằm thoả mãn ngày càng
cao các lợi ích vật chất và tinh thần của con người. Đó vừa là mục tiêu, vừa là
động lực thúc đẩy hành động của con người. Nhưng lợi ích trực tiếp của sản xuất
kinh doanh vẫn là những lợi ích vật chất. Mà quan hệ sản xuất kinh doanh không
thể đứng đơn lẻ mà nó phải có những mối liên hệ với các yếu tố liên quan như xã
hội, tự nhiên, môi trường... Theo quan điểm triết học Mác - Lê nin, cạnh tranh
lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh là hai mặt đối lập của cạnh tranh. Do
vậy, dù nó mâu thuẫn với nhau nhưng chúng sẽ vẫn luôn tổn tại và phát triển
trong một mối quan hệ rất biện chứng. Nhiệm vụ của các nhà làm luật là phải
ban hành các văn bản pháp luật để giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa hai mặt
đối lập này để tiến tới làm hài hoà các quan hệ xã hội, quan hệ giữa nhà nước và
công dân.Những cơ s
ở lý luận đã được phàn tích ở chương này chỉ mang tính lý
thuyết, vì việc áp dụng các nguyên tắc điều chỉnh
ở mỗi
nước có chế độ chính tr
ị,
trình độ phát triển khác nhau thì cũng khác nhau. Lý luận chỉ được kiểm nghiệm
khi đã đưa vào thực tiễn. Chúng ta cùng nghiên cứu về thực trạng hoạt động
quảng cáo tại Việt Nam, xem những gì chúng ta đã và chưa làm được, tính hợp
lý, bất hợp lý của các qui phạm pháp luật khi áp dụng vào thực tiễn đã tạo nên
những sự khập khiễng nào, để từ đó rút ra được những biện pháp hoàn thiện
pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh nói chung và trong tĩnh vực quảng
cáo nói riêng.

37
Chương 2
THỰC TRẠNG XỬ LÝ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
TRONG LĨNH VỰC QUẢNG CÁO THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
2.1.Th
ực trạng hoạt động quảng cáo và các dạng hành vi cạnh tranh không
l
ành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam
2.1.1.Thực trạng hoạt động quảng cáo
Dù đã có Luật Quảng cáo và nhiều văn bản điều chỉnh lĩnh vực này,
nhưng ý thức tuân thủ pháp luật về quảng cáo hiện còn nhiều hạn chế, dẫn đến
tình trạng lộn xộn, thậm chí vi phạm đạo đức kinh doanh, thuần phong mỹ tục.
Trong sự phát triển của kinh tế th
ị trường và bùng nổ thông tin hiện nay, quảng
cáo phát triển rất mạnh mẽ. Ở nước ta, quảng cáo lâu nay vẫn được coi như một
biện pháp hiệu quả để các doanh nghiệp bán hàng. Thế nhưng đã xuất hiện tình
trạng quảng cáo vi phạm thuần phong mỹ tục, mang tính bạo lực, hoặc liên quan
tới yếu tố sex (tình dục), phóng đại quá mức hoặc sai sự thật; thậm chí có quảng
cáo bóp méo sự thật, bóp méo cả ngôn ngữ sử dụng trong quảng cáo,… Dư luận
từng ồn ào trước việc cầu thủ Việt Nam ra sân không phải với số áo trên lưng mà
với tên sản phẩm của doanh nghiệp, hay quảng cáo thuốc chữa bệnh trên truyền
hình đúng vào giờ ăn tối của các gia đình. Không hiếm quảng cáo thay vì sử
dụng ngôn ngữ chuẩn mực lại sử dụng ngôn ngữ buông tuồng, hoặc nhân vật nổi
tiếng được thuê đóng vai quảng cáo thì nói năng chỏng lỏn, thiếu văn hóa. Có
doanh nghiệp sử dụng hình ảnh người mẫu ăn mặc h
ở hang, phản cảm để quảng
bá sản phẩm của mình. Rồi biển hiệu quảng cáo có chữ nước ngoài lớn hơn chữ
tiếng Việt, thậm chí hoàn toàn bằng tiếng nước ngoài. Không chỉ phản cảm về
nội dung, nhiều bảng quảng cáo cũng khiến nhiều người lo ngại vì bố trí không
hợp lý, dễ gây cháy nổ, như vụ hỏa hoạn kinh hoàng trên đường Trần Thái Tông
(Hà Nội); hoặc khi mưa to, bão lớn có nguy cơ gãy đổ, đe dọa tính mạng và tài
sản của người dân. Cùng với đó là các áp-phích, banner (ban-nơ) lắp đặt sai quy

38
đ
ịnh, cản trở tầm nhìn của người tham gia giao thông cũng là một nguyên nhân
dẫn đến nhiều vụ tai nạn giao thông thời gian qua.
Điều nguy hại là có sản phẩm dù nằm trong danh mục b
ị cấm quảng cáo
theo Luật Quảng cáo nhưng một số doanh nghiệp vẫn thực hiện, như: quảng cáo
thuốc lá, quảng cáo rượu. Theo thống kê của dự án “Vận động thực thi quy đ
ịnh
cấm quảng cáo và khuyến mại thuốc lá tại điểm bán lẻ thuốc lá” giai đoạn 2015 -
2016 được khảo sát tại 2.106 điểm bán lẻ thuốc lá thuộc 11 tỉnh, thành phố cho
thấy: 88,5% số điểm bán lẻ vi phạm các quy đ
ịnh về trưng bày thuốc lá; 74,3%
số điểm bán không treo biển cảnh báo cấm bán thuốc lá cho người dưới 18 tuổi;
74,1% số điểm trưng bày quá một bao hoặc một tút của một nhãn hiệu thuốc lá;
100% số điểm bán vi phạm ít nhất một tiêu chí về quảng cáo/khuyến mại thuốc
lá. Cá biệt, có doanh nghiệp vì muốn tiết kiệm thời gian và chi phí, cũng như để
công chúng nhớ đến thương hiệu của mình nên đã có nhiều mánh lới trong quảng
cáo, như xử lý tốc độ âm nhanh liến láu đến biến dạng kỳ quặc (như: “sữa mẹ tốt
nhất với trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ”, “sản phẩm này không phải thuốc chữa bệnh”!)
hoặc quảng cáo có nội dung kệch cỡm, dung tục... Những doanh nghiệp lớn đã
vậy, các đơn v
ị kinh doanh nhỏ lẻ và cá nhân có hoạt động buôn bán cũng “trăm
hoa đua n
ở” với đủ các kiểu loại quảng cáo in, dán la liệt khắp nơi từ cột điện,
thân cây, bờ tường, cửa ra vào,… đến tờ rơi phát tràn lan tại nơi đông người
[03].
Từ năm 2001, Pháp lệnh về quảng cáo được Ủy ban Thường vụ Quốc hội
thông qua (có hiệu lực từ 1-5-2002). Năm 2012, Luật Quảng cáo đã được Quốc
hội ban hành, trong đó tại Điều 8 quy đ
ịnh rõ về 16 hành vi cấm trong hoạt động
quảng cáo, đáng chú ý là các hành vi: Quảng cáo thiếu thẩm mỹ, trái với truyền
thống l
ịch sử, văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam; quảng cáo làm
ảnh hư
ởng đến mỹ quan đô thị, trật tự an toàn giao thông, an toàn xã hội; quảng
cáo không đúng hoặc gây nhầm lẫn về khả năng kinh doanh, khả năng cung cấp
sản phẩm, hàng hóa, d
ịch vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm, hàng
hóa, d
ịch
vụ; về số lượng, chất lượng, giá, công dụng, kiểu dáng, bao bì, nhãn

39
hiệu, xuất xứ, chủng loại, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành sản phẩm,
hàng hóa, d
ịch vụ đã đăng ký hoặc đã được công bố; quảng cáo bằng việc sử
dụng phương pháp so sánh trực tiếp về giá cả, chất lượng, hiệu quả sử dụng sản
phẩm, hàng hóa, d
ịch vụ của mình với giá cả, chất lượng, hiệu quả sử dụng sản
phẩm, hàng hóa, d
ịch vụ cùng loại của tổ chức, cá nhân khác; quảng cáo có sử
dụng các từ ngữ “nhất”, “duy nhất”, “tốt nhất”, “số một” hoặc từ ngữ có ý nghĩa
tương tự mà không có tài liệu hợp pháp chứng minh theo quy đ
ịnh của Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du l
ịch. Chiếu theo quy định nêu trên của pháp luật có thể thấy
rất nhiều quảng cáo lưu hành hiện nay đang vi phạm.
Hoạt động quảng cáo có l
ịch sử hàng trăm năm trên thế giới và xuất hiện
trên báo chí Việt Nam từ những năm 1930. Hiện nay cả nước có trên 700.647
doanh nghiệp vàtheo dự báo của một số nhà phát triển d
ịch vụ quảng cáo số, đến
năm 2025 doanh thu quảng cáo trực tuyến của Việt Nam có thể đạt con số hơn 3
tỷ USD. Dự báo này được đưa ra khi th
ị trường quảng cáo số Việt Nam đã có
những bước tăng trư
ởng phi mã trong mấy năm gần đây.
Năm 2016, doanh thu quảng cáo trực tuyến tại Việt Nam đạt 390 triệu
USD. Đến năm 2018, theo công bố trên statista.com, doanh thu quảng cáo số tại
Việt Nam ước đạt 663 triệu USD, đứng thứ 35 thế giới với th
ị phần chủ yếu qua
các công cụ quảng cáo qua mạng xã hội (khoảng 557 triệu USD). Quảng cáo trực
tuyến thu hút 43% người dùng Việt Nam tiếp cận sản phẩm thông qua quảng cáo
trực tuyến.
Tuy nhiên cũng phải nhìn nhận một thực tế rằng mặc dù th
ị trường quảng
cáo số đang tăng tốc rất mạnh nhưng miếng bánh mà các doanh nghiệp Việt
Nam đang chia nhau lại vô cùng nhỏ. Theo số liệu từ Công ty cổ phần Giải pháp
quảng cáo trực tuyến ANTS, năm 2018, hai “ông lớn” Google và Facebook đã
chiếm đến gần 60-70% th
ị phần quảng cáo số. Cụ thể, quảng cáo trên Facebook
chiếm đến 235 triệu USD, Google chiếm 152,1 triệu USD. Phần 30% còn lại
thuộc về hàng nghìn các doanh nghiệp mạng quảng cáo trực tuyến trong nước

40
như VCCorp/Admicro, VNExpress/Eclick, Zing/Adtima, các báo điện tử, truyền
hình... chỉ chiếm khoảng 150 triệu USD.
Cùng với sự gia tăng vè số lượng, thì vấn đề cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực này ngày càng tinh vi và phức tạp. Hành vi cạnh tranh không lành
mạnh trong lĩnh vực quảng cáo diễn ra rất phổ biến để lôi kéo, giành giật khách
hàng như: quảng cáo bắt chước một số sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm
lẫn cho khách hàng; quảng cáo so sánh trực tiếp hàng hóa d
ịch vụ của mình với
hàng hóa, d
ịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác…
Một ví dụ về hành vi quảng cáo bắt chướclà hành vi đã xuất hiện từ khá
lâu và ngày càng phổ biến với nhiều hình thức tinh vi hơn. Các doanh nghiệp lợi
dụng tên tuổi của những sản phẩm đã có thương hiện trên th
ị trường hoặc của
các doanh nghiệp uy tín để quảng bá cho sản phẩm, d
ịch vụ của mình. Hành vi
bắt chước được hiểu là cố ý làm giống, tương tự sản phẩm hoặc các yếu tố khác
khiến người tiêu dùng khó phân biệt được sản phẩm đó với sản phẩm b
ị bắt
chước. Doanh nghiệp sẽ đạt được mục đích kinh doanh nhưng doanh nghiệp b

bắt chước thì ch
ịu ảnh hưởng không hề nhẹ. Hành vi bắt chước có rất nhiều hình
thức khác nhau, có thể kể tới một số hình thức sau:
-Bắt chước các yếu tố liên quan đến doanh nghiệp: Để gây sự nhầm lẫn
cho khách hàng, các doanh nghiệp có thể đưa ra sản phẩm quảng cáo với tên
thương mại, nhãn hiệu, sologan của Công ty tương tự với đơn v
ị khác. Mặc dù
pháp luật có quy đ
ịnh và quản lý khá chặt chẽ về vấn đề tên gọi, nhãn hiệu,
slogan để tránh trùng hoặc gây nhầm lẫn với doanh nghiệp khác. Nhưng bằng
những chiêu thức tinh vi, các doanh nghiệp vẫn bắt chước được các doanh
nghiệp có uy tín mà không vi phạm pháp luật.
-Bắt chước tên gọi sản phẩm: Hành vi này có lẽ không còn xa lạ đối với
người tiêu dùng b
ởi lẽ rất nhiều người đã từng được biết hoặc sử dụng “hàng
nhái”. Ví dụ như bánh bông lan Solite của hãng bánh kẹo Kinh Đô có sản phẩm
tương tự là Salite; kem dưỡng da Olay thì b
ị nhái
thành Okay, chuỗi cửa hàng đồ
ăn nhanh KFC có “người anh em” là OFC, KLC, KFG….

41
-Bắt chước hình thức sản phẩm: Đây là hành vi rất phổ biến và được “ưa
chuộng”. Các doanh nghiệp đưa ra sản phẩm dễ gây nhầm lẫn với sản phẩm đã
có thương hiệu bao gồm việc bắt chước mầu sắc, hình dáng sản phẩm; bắt chước
mầu sắc, hình dáng bao bì và phương thức đóng gói…. Bột giặt Tide có sản
phẩm nhái là bột giặt Tids với bao bì có hình thức, mầu sắc, kiểu dáng không dễ
để phân biệt được; Nước khoáng Villa được đóng chai và dán mác giống hệt với
nước khoáng Lavie….Các hình thức trên thường được sử dụng kết hợp với nhau,
làm cho người tiêu dùng rất dễ b
ị nhầm lẫn. Trong bối cảnh thị trường cạnh
tranh gay gắt như hiện nay, việc tạo lập và xây dựng một thương hiệu mạnh, có
uy tín trong cộng đồng người tiêu dùng càng tr
ở nên khó khăn hơn. Các doanh
nghiệp có xu hướng lợi dụng tên tuổi của các sản phẩm nổi tiếng để gây nhầm
lẫn cho khách hàng, thúc đẩy việc tiêu thụ hàng hoá, sản phẩm của mình. Do
vậy, hành vi bắt chước một sản phẩm khác để gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng
có thể còn tiếp diễn với những cánh thức và thủ đoạn tinh vi hơn, đòi hỏi các cơ
quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực này phải phát hiện và xử lý nghiêm minh
các hành vi vi phạm
Một ví dụ thứ hai về quảng cáo so sánh là việc doanh nghiệpso sánh trực
tiếp hàng hoá, d
ịch vụ của mình với hàng hoá, dịch vụ cùng loại của doanh
nghiệp khác; Ví dụ về việc quảng cáo so sánh nói xấu đối thủ : Nệm Kim Đan.
Vài năm trước, có chuyện công ty Kim Đan - là nhà sản xuất nệm cao su tự
nhiên lớn nhất tại TP. HCM đã đăng quảng cáo trên 5 tờ báo lớn với nội dung
như sau: “Đối với nệm lò xo, do tính chất không ưu việt của nguyên liệu sản
xuất nên chất lượng nệm sẽ giảm dần theo thời gian. Nếu độ đàn hồi của lò xo
cao, lò xo dễ b
ị gãy, gây nguy hiểm cho người sử dụng. Đối với nệm nhựa tổng
hợp poly-urethane (nệm mút xốp nhẹ) tính dẻo ưu việt nên không có độ đàn hồi,
mau b
ị xẹp. Chính vì những lý
do đó mà Kim đan hoàn toàn không sản xuất nệm
lò xo cũng như nệm nhựa poly-urethane. Tất cả các sản phẩm của Kim đan đều
được làm từ 100% cao su thiên nhiên, có độ bền cao và không xẹp lún theo thời
gian...”. Ngay sau khi mẫu quảng cáo trên phát hành, 3 công ty sản xuất nệm lò

42
xo và nệm mút đã kh
ởi kiện Kim Đan ra toà với lý do quảng cáo của Kim Đan
không có căn cứ, gây thiệt hại đến uy tín sản phẩm của họ.
Trước thực trạng các hình thức, nội dung quảng cáo ngày càng diễn biến
phức tạp, đe dọa sự ổn đ
ịnh của một môi trường cạnh tranh lành mạnh ở Việt
Nam, pháp luật xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh
ở Việt Nam đã hoàn
thiện nhưng vẫn còn nhiều vấn đề khó khăn cần phải giải quyết và cũng đã có
những điều chỉnh k
ịp thời nhằm thiết lập một trật tự kinh doanh này.
2.1.2.Thực trạng các dạng hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh
vực quảng cáo ở Việt Nam.
Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo. Mặc
dù quảng cáo được xác đ
ịnh theo tiêu chí nào đi nữa thì hầu hết phápluật các
nước đều công nhận những hành vi quảng cáo sau đây là hành vi cạnh
tranhkhông lành mạnh:
-Quảng cáo so sánhđã xuất hiện
ở Mỹ và Tây âu từ lâu.
Theo tuyên bố
của Ủy ban Thương mại Liên bang Hoa Kỳ thì: “Quảng cáo so sánh được đ
ịnh
nghĩa như là quảng cáo mà so sánh những nhãn hiệu hàng hóa khác theo những
thuộc tính khách quan có thể kiểm chứng hoặc giá cả và là sự làm nhận ra nhãn
hiệu hàng hóa khác b
ởi tên, minh họa bằng hình ảnh hoặc thông tin riêng biệt
khác”. Theo Liên minh Châu âu thì: “Quảng cáo so sánh là mọi quảng cáo làm
nhận ra một cách trực tiếp hoặc gián tiếp một doanh nghiệp cạnh tranh hoặc các
sản phẩm hoặc các d
ịch vụ mà một doanh nghiệp cạnh tranh cung ứng”. Còn ở
Việt Nam, quảng cáo so sánh được đề cập đến trong Luật Thương mại 1997 tại
Đ192. Nhưng cả Luật Thương mại năm 1997 và Luật Thương mại năm 2005;
Luật Cạnh tranh 2004 hay Luật quảng cáo 2012…đều không đ
ịnh nghĩa quảng
cáo so sánh. Tuy nhiên, chúng ta có thể hiểu quảng cáo so sánh là“Quảng cáo so
sánh là quảng cáo làm nhận ra một hoặc một vài đối thủ cạnh tranh hoặc các sản
phẩm hay các d
ịch vụ cùng loại mà đối thủ cạnh tranh sản xuất, cung ứng hay
phân phối và đáp ứng được một số điều kiện khác do pháp luật quy đ
ịnh”.

43
Có thể nói đây là hình thức quảng cáo phổ biến vàngang nhiên nhất hiện
nay. Điều kiện tr

thành quảng cáo so sánh, không phải bất kỳ hành vi quảng cáo
nào có thông tin, có sự so sánh với một doanh nghiệp hay hàng hóa, d
ịch vụ
khác
cũng đều tr
ở thành quảng cáo so sánh. Sự so sánh này được biểu hiện ở khía
cạnh: Một là, sản phẩm được quảng cáo và sản phẩm b
ị so sánh phải
là sản phẩm
cùng loại. Lý luận về cạnh tranh đã chỉ rõ rằng các sản phẩm chỉ có thể được coi
là cạnh tranh với nhau khi chúng cùng loại và các thông tin trong quảng cáo khi
nói đến hai sản phẩm cùng loại của hai doanh nghiệp khác nhau thì mới là so
sánh. Hai là, sản phẩm b
ị so sánh phải là sản phẩm do doanh nghiệp khác sản
xuất hoặc kinh doanh.
Loại hình quảng cáo này thường được thể hiện dưới cácdạng sau:
+ Quảng cáo so sánh nhất với các cụm từ như sản phẩm này là ‘"tốt nhất”,
“siêu bền”, “chưa từng có”. Điển hình là pháp luật quảng cáo của Trung Quốc
cũngqui đ
ịnh cấm các nội dung quảng cáo so sánh nhất.
+ Quảng cáo so sánh sản phẩm này với sản phẩm khác. Đây là kiểu
quảngcáo được coi là lộ liễu nhất và cần b
ị lên án nhất. Loại quảng cáo này chủ
yếu chỉ có
ở những thị trường mới sơ khai, chưa có pháp luật điều chỉnh lĩnh vực
này hay còngọi là cách quảng cáo không lành mạnh còn rất “mông muội” . Các
sản phẩm quảngcáo được so sánh với nhau này thường là cùng một loại sản
phẩm, cùng tính năng,công dụng nhưng chỉ khác nhau về thương hiệu.
+ Quảng cáo so sánh có thể được thể hiện dưới dạng “khiêm nhường”
hơnnhư là so sánh sản phẩm quảng cáo với những sản phẩm chung chung khác,
mangtính chất ám chỉ mà không nói rõ cụ thể là được sánh với loại sản phẩm cụ
thể nào.
Ví dụ: Quảng cáo nước rửa chén A với các nước rửa chén “thường” ,...
+ Quảng cáo so sánh sản phẩm được quảng cáo với những yếu tố khó xác
đ
ịnh, kiểm chứng. Ví dụ như so sánh sản phẩm của doanh nghiệp mình với một
tiêu chí sự thực khó kiểm chứng như: làn da trắng m
ịn
như những cánh hoa

44
hồng. ..Pháp luật của Philippin, Anh, Mỹ đều có quy đ
ịnh cám những quảng cáo
so sánh chất lượng mà không kiểm chứng được như trên.
- Quảng cáo lừa dối: Là quảng cáo đưa ra những thông tin không trung
thực về sản phẩm. Loại quảng cáo này được thể hiện dưới những hình thức sau
đây:
+ Quảng cáo quá lời: Là việc quảng cáo về công dụng sản phẩm vượt quá
những giá tr
ị thực hoặc đúng công đụng nhưng về mặt thời gian và tính năng sử
dụng không được lâu bền như vậy. Ví dụ như quảng cáo của Olay: Năm 2009,
các nhà làm luật của Anh đã kêu gọi lệnh cấm quảng cáo kem bôi mắt Definity
của Olay. Trong quảng cáo là hình ảnh người mẫu Twiggy, khi đó 59 tuổi, với
khuôn mặt không tì vết đến mức khó tin, đặc biệt là vùng mắt. Olay thừa nhận đã
chỉnh sửa bức ảnh của Twiggy. Cơ quan Tiêu chuẩn Quảng cáo của Anh đã cấm
lưu hành quảng cáo này và cho rằng nó có thể khiến người tiêu dùng hiểu lầm
tác dụng của sản phẩm. Quảng cáo Electrolux là “ 80 nămvẫn chạy tốt”,hay
“mái tóc bạn thật sự suôn đẹp chỉ sau 7 lần gội” của sản phẩmlux, Ví dụ như sản
phẩm khẩu trang chi có tính chất chống bụi thì quảng cáo làchống được cả các vi
khuẩn d
ịch bệnh...
+ Quảng cáo khuyến mại: như là nội dung quảng cáo hứa thư
ởng, thì có
giải hay khuyến mại. Đây là những quảng cáo đánh vào tâm lý thích mua hàng rẻ,
trúng thư
ởng
,miễn phí... của người tiêu dùng. Những quảng cáo hứa thư
ởng
thường được thông báo nội dung mà quý khách sẽ được thư
ởng nếu mua sản
phẩm của người bánnhưng lại không có người nào trúng, hay khuyến mại nhưng
thực chất là nâng giábán rồi khuyến mại (giá cả của hàng hoá không đổi) để đánh
lừa người tiêu dùng.
+ Quảng cáo mồi chài: quảng cáo kiểu này là việc giành ra số ít hàng hoá
đểquảng cáo bán với giá thấp để lôi kéo khách hàng đến cửa hàng mua hàng.
Nhưng khi khách hàng đến nơi thì lại được thông báo là đã hết hàng giảm giá và
đề ngh
ị mua một loại mặt hàng khác. Kiểu quảng cáo này đánh vào tâm
lý khách

45
hàng là những người hiện có nhu cầu mua loại hàng hoá này nên sẵn sàng sẽ
mua một sản phẩm khác tương tự vì đã "trót" mất công đến cửa hàng.
-Quảng cáo dựa dẫm: Là hành vi sử dụng tên gọi thương mại, thương
phẩmcủa người khác, dựa vào uy tín của sản phẩm đó để quảng cáo cho sản
phẩm được quảng cáo của mình. Ví dụ như bột giặt ômô quảng cáo là rất thích
hợp với máy giặtelectrolux (một loại máy giặt có thương hiệu nổi tiếng đang
được ưa chuộng trên th
ịtrường)...
-Quảng cáo mang tính chất gây ấn tượng mạnh, kinh d
ị: Đây là những
kiểu quảng cáo được dàn dựng mang lính chất huyền bí, kinh d
ị nhằm gây ấn
tượng đối với người tiêu dùng. Quảng cáo Qu
ảng cáo “Về nhà đón Tết - Gia
đình trên hết” c
ủa Neptune: Tiếp tục thành công của chuỗi quảng cáo “Về nhà
đ
ón Tết – Gia đình trên hết”, năm 2017 này Neptune mang đến cho khán giả câu
chuyện về những người con ăn Tết xa quê: l
à chàng trai phải ở lại làm thêm để
c
ó tiền trang trải
h
ọc
ph
í,
l

ngư
ời
con xa quê nh
ớ da
di
ết
c
ái
T
ết
Viê
̣t
Nam, l


g
ái từng vùng vẫy khắp chốn nay nuối tiếc về những cái Tết không bên cạnh mẹ
cha, l
à câu chuyện của bác lái tàu hy sinh cái
T
ết của riêng mình cho sự sum
v
ầy
c
ủa bao người khác, hay những cảnh quay siêu thực như một chiếc ô tô bay qua
vực,bắn súng đuổi bắt... là những hình ảnh mà pháp luật
ở nhiều nước cấm vì nó
vi phạm truyền thống văn hoá (Malaixia, Việt Nam, Trung Quốc,..). Một trong
cácnguyên tắc điều chỉnh pháp luật cũng như các tiêu chí xác đ
ịnh cạnh tranh
lành mạnh của hầu hết các nước trên thế giới là những hành vi trái đạo đức,
phong tục tập quán, truyền thống vãn hoá đểu b
ị coi là cạnh tranh không lành
mạnh và b
ị pháp luật cấm.
-Quảng cáo những sản phẩm b
ị pháp luật cấm: Đó là việc quảng cáo các
sản phẩm như Thuốc lá; Rượu có nồng độ cồn từ 15 độ tr
ở lên; sản phẩm sữa
thay thế sữa mẹ dùng cho trẻ dưới 24 tháng tuổi, sản phẩm dinh dưỡng bổ sung
dùng cho trẻ dưới 06 tháng tuổi; bình bú và vú ngậm nhân tạo; Thuốc kê đơn;
thuốc không kê đơn nhưng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền khuyến cáo
hạn chế sử dụng hoặc sử dụng có sự giám sát của thầy thuốc; Các loại sản phẩm,

46
hàng hóa có tính chất kích dục; Súng săn và đạn súng săn, vũ khí thể thao và các
loại sản phẩm, hàng hóa có tính chất kích động bạo lực. các sản phẩm hạn chế
kinh doanh hoặc cấm kinhdoanh.Có thể nói, vì mục tiêu lợi nhuận, doanh nghiệp
không phải chỉ đổi mới côngnghệ, nàng cao năng suất lao động mà việc tìm tòi,
khai thác yếu tố bất ngờ, ấntượng trong việc quảng cáo cũng đóng vai trò hết sức
quan trọng. Chính vì vậy, hành vi quảng cáo thương mại ngày càng đa dạng.
Trên đây chỉ là những kiểu quảng cáomang tính chất điển hình nhất, vì không
phải lúc nào quảng cáo cũng đúng riêng rẽnhư một hành vi độc lập mà nó còn có
thể kết hợp với khuyến mãi, tặng cho sảnphẩm, tài trợ chương trình v.v để
nhằm tăng hiệu quả của quảng cáo.
Những hành vi quảng cáo không lành mạnh nói trên chi là những hành vi
điển hình nhất. Trong thực tế các hành vi này có thể "biến tướng" dưới rất nhiều
dạng và khó xác đ
ịnh.
Với sự phát triển ngày một đa dạng của hành vi quảng cáo
trong nền kinh tế, nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với những hành vi này là một
tất yếu để thực hiện chức năng quản lý xã hội của nhà nước.
2.2.Th
ực trạng quy định pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong
l
ĩnh vực quảng cáo
2.2.1.Quy định về chủ thể và hành vi vi phạm
Quảng cáo là quyền tự do của các chủ thể kinhdoanh để thúc đẩy hoạt
động thương mại cho mình. Theo Luật Thương mại,các tổ chức, cá nhân kinh
doanh có quyền tự mình hoặc thuê người khác cungứng d
ịch vụ quảng cáo cho
hoạt động kinh doanh của mình. Đây cũng chínhlà chủ thể của hành vi quảng cáo
nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Nhiều quốc gia (trong đó cóViệt Nam) chỉ
mới xem xét chủ thể thực hiện hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnh là người quảng cáo. Trong khi đó, có nhiều trường hợp, người quảngcáo
không thể thực hiện được hành vi quảng cáo nếu không có sự hỗ trợ củacác
doanh nghiệp cung ứng d
ịch vụ quảng cáo.
Một yếu tố quan trọng, không thể thiếu được khi xem xét cấu thành của
hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnhđó là chủ thể thực hiện

47
hành vi và chủ thể b
ị tác động phải là đối thủ cạnh tranh của nhau trên cùng một
th
ị trường liên quan. Nghĩa là, các doanh nghiệp này cùng kinh doanh một nhóm
hàng hóa,d
ịch vụ cùng loại, có khả năng thay thế cho nhau, trong một giới hạn
về th
ị trường địa lý. Do vậy, khi xác định hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh, cơ quan có thẩm quyền phải xác đ
ịnh được thị trường sản
phẩm liên quan và th
ị trường địa lý liên quan mà các chủ thể đang hoạt động
kinh doanh. Nếu có dấu hiệu này, có thể hành vi của doanh nghiệp cũng b

coi là
vi phạm pháp luật nhưng không thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật cạnh
tranh.
Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Theo quy đ
ịnh tại Điều 39
Luật Cạnh tranh 2004, Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh là một
trong những hành vi cạnh tranh không lành mạnh.Hành vi cạnh tranh không lành
mạnh được quy đ
ịnh tại Khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004: Hành vi cạnh
tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình
kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây
thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng.
Như vậy có thể hiểu, Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh là
hành vi doanh nghiệp tiến hành hoạt động quảng cáo sản phẩm, hàng hóa, d
ịch
vụ trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh nhằm mục đích
cạnh tranh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng.
Tại Điều 45 Luật Cạnh tranh 2004 quy đ
ịnh về Quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh, thì pháp luật cấm doanh nghiệp thực hiện các hoạt động quảng
cáo sau đây:
-So sánh trực tiếp hàng hoá, d
ịch
vụ của mình với hàng hoá, d
ịch vụ cùng
loại của doanh nghiệp khác;
-Bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho khách hàng;
-Đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về một trong

48
các nội dung sau đây: Giá, số lượng, chất lượng, công dụng, kiểu dáng, chủng

49
loại, bao bì, ngày sản xuất, thời hạn sử dụng, xuất xứ hàng hoá, người sản xuất,
nơi sản xuất, người gia công, nơi gia công; Cách thức sử dụng, phương thức
phục vụ, thời hạn bảo hành; Các thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn khác và
các hoạt động quảng cáo khác mà pháp luật có quy đ
ịnh cấm.
2.2.2.Quy định về biện pháp chế tài.
Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng
cáo là những hình thức trách nhiệm pháp lý được Nhà nước áp dụng đối với các
chủ thể kinh doanh, buộc các chủ thể đó phải gánh ch
ịu những hậu quả
bất lợi do
đã có hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây thiệt hại cho các chủ thể kinh
doanh và các chủ thể khác. Vai trò của các chế tài đối với hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo:
-Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp, chống lại hành
vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo của các doanh nghiệp
đối thủ.
-Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng (khách hàng).
-Là công cụ góp phần tạo lập môi trường kinh doanh và cạnh tranh lành
mạnh, bình đẳng, công bằng.
Các hình thức chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong
lĩnh vực quảng cáo:
Chế tài hành chính:
Theo quy đ
ịnh của Luật Cạnh tranh năm 2004 của Việt Nam, các hình
thức chế tài xử lý vi phạm về cạnh tranh không lành mạnh chủ yếu là các chế tài
hành chính, được quy đ
ịnh trong các quy phạm pháp luật mang tính xử phạt và
khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm gây ra (Điều 117). Các hình thức xử lý đó
đã được Ngh
ị định 71/2014/NĐ-CP ngày 21/7/2014 của Chính phủ quy định chi
tiết Luật Cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh thì
hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh b
ị xử lý, bao gồm:
-Hình thức xử phạt chính: Phạt tiền đến 140 triệu đồng.

50
-Các hình thức xử phạt bổ sung gồm: T
ịch thu tang vật, phương tiện
được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm, bao gồm cả t
ịch thu toàn bộ khoản
lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm. Ngoài các hình thức xử
phạt đó, đối tượng vi phạm còn có thể b
ị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả:
Buộc cải chính công khai.
Luật cạnh tranh năm 2018 của Việt Nam có hiệu lực từ ngày 01/7/2019 đã
quy đ
ịnh cụ thể và chi tiết hơn. Đối với mỗi hành vi vi phạm pháp luật về cạnh
tranh, tổ chức, cá nhân vi phạm phải ch
ịu một trong các hình thức xử phạt chính
sau đây:
-Cảnh cáo;
-Phạt tiền tối đa lên đến 2 tỷ đồng
Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật
về cạnh tranh còn có thể b
ị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung
sau đây [18]:
-Thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc văn bản tương
đương, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề;
-T
ịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm pháp luật về
cạnh tranh;
-T
ịch
thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm.
Ngoài các hình thức xử phạt
ở trên, tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về
cạnh tranh còn có thể b
ị áp dụng một hoặc một số biện pháp khắc phục hậu quả
sau đây:
-Cơ cấu lại doanh nghiệp lạm dụng v
ị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng
v
ị trí độc quyền;
-Loại bỏ điều khoản vi phạm pháp luật ra khỏi hợp đồng, thỏa thuận hoặc
giao d
ịch kinh doanh;
-Chia, tách, bán lại một phần hoặc toàn bộ vốn góp, tài sản của doanh
nghiệp hình thành sau tập trung kinh tế;

51
-Ch
ịu sự kiểm soát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giá mua, giá
bán hàng hóa, d
ịch vụ hoặc các điều kiện giao dịch khác trong hợp đồng của
doanh nghiệp hình thành sau tập trung kinh tế;
-Cải chính công khai;
-Các biện pháp cần thiết khác để khắc phục tác động của hành vi vi phạm.
Chính phủ quy đ
ịnh chi tiết các hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục
hậu quả đối với từng hành vi vi phạm quy đ
ịnh của pháp luật về cạnh tranh.
Thêm một quy đ
ịnh mới và văn minh tại
Điều 112 Luật này quy đ
ịnh về chính
sách khoan hồng [18]
“1. Doanh nghiệp tự nguyện khai báo giúp Uỷ ban C
ạnh tranh
Quốc gia phát hiện, điều tra và xử lý hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh bị cấm quy định tại Điều 12 của Luật này được miễn hoặc giảm
mức xử phạt theo chính sách khoan hồng.
2.Chủ tịch Uỷ ban C
ạnh tranh Quốc gia quyết định việc miễn hoặc
giảm mức xử phạt theo chính sách khoan hồng.
3.Việc miễn hoặc giảm mức xử phạt quy định tại khoản 1 Điều này
được thực hiện trên cơ sở đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
a)Đã hoặc đang tham gia với vai trò là một bên của thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh quy định tại Điều 11 của Luật này;
b)Tự nguyện khai báo hành vi vi phạm trước khi cơ quan có thẩm
quyền ra quyết định điều tra;
c)Khai báo trung thực và cung cấp toàn bộ các thông tin, chứng cứ
có được về hành vi vi phạm, có giá trị đáng kể cho việc phát hiện,
điều tra và xử lý hành vi vi phạm;
d)Hợp tác đầy đủ với cơ quan có thẩm quyền trong suốt quá trình
điều tra và xử lý hành vi vi phạm.
4.Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với doanh nghiệp
có vai trò ép buộc hoặc tổ chức cho các doanh nghiệp khác tham gia
thỏa thuận.

52
5.Chính sách khoan hồng áp dụng cho không quá 03 doanh nghiệp
đầu tiên nộp đơn xin hưởng khoan hồng đến Uỷ ban C
ạnh tranh Quốc
gia đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại khoản 3 Điều này.
6.Căn cứ xác định doanh nghiệp được hưởng khoan hồng được quy
định như sau:
a)Thứ tự khai báo;
b)Thời điểm khai báo;
c)Mức độ trung thực và giá trị của các thông tin, chứng cứ đã cung cấp.
7.Việc miễn, giảm mức phạt tiền được thực hiện như sau:
a)Doanh nghiệp đầu tiên có đơn xin hưởng khoan hồng và đáp ứng
đủ điều kiện quy định tại khoản 3 Điều này được miễn 100% mức phạt
tiền;
b)Doanh nghiệp thứ hai và thứ ba có đơn xin hưởng khoan hồng và
đáp ứng đủ điều kiện quy định tại khoản 3 Điều này lần lượt được
giảm 60% và 40% mức phạt tiền” [18].
Chế tài hình sự:
Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh được quy đ
ịnh tại Chương XVIII "Các tội xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế" của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi năm 2017, cụ thể tại Điều 197.
Tội quảng cáo gian dối “1. Người nào quảng cáo gian dối về hàng hóa, dịch vụ,
đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này,
chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.2. Người phạm
tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm” [16]
Hình phạt áp dụng đối với tội danh trên là phạt tiền, cải tạo không giam
giữ đến 03 năm hoặc cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất đ
ịnh từ 01 năm
đến 05 năm, không có phạt tù có thời hạn như Luật Hình sự 1999 đã quy đ
ịnh.
Chế tài dân sự:

53
Bồi thường thiệt hại là một chế đ
ịnh quan trọng trong hệ thống chế tài áp
dụng đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Chức năng chủ yếu của bồi
thường thiệt hại là khôi phục, đền bù, nhằm bù đắp những tổn thất về vật chất và
tinh thần mà bên mang quyền phải gánh ch
ịu do hành vi vi phạm các quy tắc
trong kinh doanh của bên kia gây ra. Vì vậy, pháp luật cạnh tranh của nước nào
cũng quy đ
ịnh chế tài này. Theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam, khi áp dụng chế
tài bồi thường thiệt hại thì phải dẫn chiếu đến pháp luật dân sự. Vấn đề kh
ởi
kiện
đòi bồi thường thiệt hại đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ được áp
dụng theo các quy đ
ịnh về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, tại
Chương XX của Bộ luật Dân sự năm 2015 và pháp luật có liên quan. Yêu cầu
bồi thường thiệt hại là một quyền mặc đ
ịnh được pháp luật thừa nhận, nhằm bảo
vệ quyền lợi hợp pháp cho các chủ thể kinh doanh. Vì vậy, chế tài bồi thường
thiệt hại có thể áp dụng đồng thời với các chế tài khác.
2.2.3.Cơ chế xử lý hành vi vi phạm.
Bên cạnh quy đ
ịnh
các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnh pháp luật vềhành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh cũng
quy đ
ịnh về cơ chế xử lý đối với cáchành vi này, bao gồm các nội dung cụ thể:
Về thẩm quyền xử lý đối với hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnh và cơchế phối hợp giữa các cơ quan trong xử lý hành vi quảng cáo nhằm
cạnh tranh không lành mạnh:
Để pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh đi
vào cuộc sống, phát huyhiệu quả của nó, cần có một cơ chế và bộ máy thực hiện
quản lý nhà nước nóichung và xử lý đối với các hành vi quảng cáo nhằm cạnh
tranh không lành mạnh nói riêng. Cáccơ quan trong bộ máy này cần phải có sự
phối hợp với nhau trong quá trìnhthực hiện chức năng nhiệm vụ của mình.
Trong lĩnh vực hoạt động quảng cáo, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du l
ịchcó
là cơ quan có chức năng thực hiện quản lý nhà nước. Các Bộ, cơ quanngang bộ
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phốihợp với Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du l
ịch thực
hiện quản lý nhà nước về hoạtđộng quảng cáo.

54
Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về hoạtđộng quảng cáo
trong phạm vi đ
ịa phương theo thẩm quyền.
Trong quản lý nhà nước về cạnh tranh, cơ quan quản lý cạnh tranh
cónhiệm vụ xử lý, xử phạt các hành cạnh tranh không lành mạnh. Vì vậy, trong
quy đ
ịnh về thẩmquyền xử lý đối với hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không
lành mạnh và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan trong xử lý hành vi quảng cáo
nhằm cạnh tranh không lành mạnh cần phải có những nội dung sau: Quy đ
ịnh về
thẩm quyền của Cơ quan quản lý cạnhtranh trong việc xử lý các hành vi quảng
cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh; Quy đ
ịnh vềcơ chế phối hợp giữa Cơ
quan quản lý cạnh tranh, Bộ Văn hóa, Thể thao, Dul
ịch và Bộ, các cơ quan
ngang bộ khác trong việc xử lý, xử phạt các hành viquảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh; Quy đ
ịnh về cơ chế
phối hợp giữa Cơ quanquản lý cạnh tranh,
Bộ Văn hóa, Thể thao, Du l
ịch và Bộ, các cơ quan ngangbộ khác có liên quan
với cơ quan điều tra trong các vụ án hình sự liên quan đến hành vi quảng cáo
nhằm cạnh tranh không lành mạnh; Quy đ
ịnh về
sự tham gia của Cơquan quản lý
cạnh tranh và Bộ Văn hóa, Thể thao, Du l
ịch trong quá trình tốtụng yêu cầu bồi
thường thiệt hại đối với hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
tạiTòa án nhân dân. Các quy đ
ịnh về xử lý các hành vi quảng cáo nhằm cạnh
tranh không lành mạnh cần được xây dựng rõ ràng, tránh chồng chéo, đồng bộ,
thống nhất thì mới tăng cường được tính hiệu quả của việc áp dụng pháp luật
trong thực tế.
2.3Thực trạng xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực
quảng cáo ở Việt Nam
Để Luật Cạnh tranh đi vào cuộc sống, cần phải có các thiết chế tươngứng
đảm bảo sự thực thi. Các thiết chế này chính là những cơ quan nhà nướccó thẩm
quyền, tiến hành những thủ tục tố tụng trong các vụ việc cạnh tranh. Ở Việt Nam,
cơ quan có thẩm quyền quản lý cạnh tranh là Cục quản lý cạnh tranh và
Hộiđồng cạnh tranh. Theo Điều 49 Luật Cạnh tranh năm 2004, Cục quản lý cạnh
tranh có thẩm quyềnđiều tra, xử lý và xử phạt hành vi cạnh tranh không lành

55
mạnh. Hội đồng cạnh tranh chỉ có thẩmquyền giải quyết các vụ việc liên quan
đến hành vi hạn chế cạnh tranh. Nội dung xử lý hành vi cạnh tranh không lành
mạnh hiện nay được thực hiện theo Ngh
ị định số71/2014/NĐ-CP ngày 21 tháng
7 năm 2014 của Chính phủ quy đ
ịnh chi tiếtLuật Cạnh tranh về xử lý vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh (gọi tắtlà Ngh
ị định 71/2014/NĐ-CP). Khi
giải quyết vụ việc về hành vi cạnh tranh không lành mạnh,Cục quản lý cạnh
tranh phải thực hiện theo quy đ
ịnh của Luật Cạnh tranh và pháp luật vềxử lý vi
phạm hành chính.
Nghiên cứu quy đ
ịnh pháp luật về thẩm quyền và các biện pháp xử lývụ
việc cạnh tranh, tôi có quan điểm sau:
Thứ nhất, về bản chất, Cục quản lý cạnh tranh vừa mang bản chất “hành
chính”vừa mang bản chất “tài phán”.Đây là cơ quan thực thi quyền quản lý nhà
nước trong lĩnh vực cạnh tranh, Bên cạnh đó, vừa có quyền điều tra, xem xét để
ra quyết đ
ịnh như một cơ quan tài phán. Đây là mô hình có nhiều ưu điểm, giúp
giải quyết triệt để các vấn đề liên quan đến vụ việc cạnh tranh. Tuy nhiên, có ý
kiến cho rằng,Cục quản lý cạnh tranh được quy đ
ịnh “ôm đồm” quá nhiều chức
năng, từ điều tra xử lýcác hành vi cạnh tranh không lành mạnh, điều tra các hành
vi hạn chế cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng đến quản lý nhà nước về chống
bán phá giá, chống trợ cấp và ápdụng các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc
tế. Có một thực tế là không một cơ quan quản lý cạnh tranh nào trên thế giới
được quy đ
ịnh nhiều chức năng, đặc biệtlà bao gồm cả các chức năng thực thi
pháp luật về các biện pháp đảm bảocông bằng trong thương mại quốc tế như
Việt Nam. Điều này đã dẫn đến tìnhtrạng quá tải cho hoạt động của Cục quản lý
cạnh tranh trong thời gian qua. Việcđảm nhận nhiều chức năng mà đối tượng
điều chỉnh áp dụng khác nhau như vậy sẽ làm cho chức năng chính là quản lý
cạnh tranh b
ị giảm đi.
Thứ hai, pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnh chưa có quyđ
ịnh rõ ràng
về thẩm quyền và thủ tục xử lý hành vi quảng cáo
nhằm cạnh tranh không lành mạnh.

56
+ Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính:
Luật Cạnh tranh quy đ
ịnh, cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động
cạnh tranh là Cục Cạnh tranh, thuộc Bộ Thương mại (nay là Bộ CôngThương).
Để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình, Cục quản lý cạnh tranh cóthẩm
quyền “tổ chức điều tra xử lý đối với các vụ việc cạnh tranh liên quanđến hành
vi cạnh tranh không lành mạnh và các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh khác
theoquy đ
ịnh của pháp luật cạnh tranh” (điểm b, Khoản 4, điều 2 Nghị
đ
ịnh06/2006/NĐ-CP ngày 9 tháng 1 năm 2006 của Chính phủ quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục quản lý cạnh tranh). Là
một trong các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, hành vi quảng cáo nhằm
cạnh tranh không lành mạnh cũng thuộc thẩm quyền điều tra, xử lý của Cục quản
lý cạnh tranh. Tuy nhiên, bản thân các hành vi quảngcáo nhằm cạnh tranh không
lành mạnh được quy đ
ịnh tại điều 45 Luật Cạnh tranh cũng đồng thờilà những
hành vi quảng cáo b
ị cấm theo pháp luật quảng cáo. Theo Luật Quảng cáo, Bộ
Thể thao, Văn hóa và Du l
ịch, Ủy ban nhân dân các cấp lànhững cơ quan trực
tiếp thực hiện các nội dung quản lý nhà nước về hoạt động quảng cáo, có quyền
“thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong hoạt
động quảng cáo”.
+ Về thủ tục giải quyết vụ việc quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnh:Luật Cạnh tranh quy đ
ịnh “việc giải
quyết vụ việc cạnh tranh liên quanđến
hành vi cạnh tranh không lành mạnh thực hiện theo quy đ
ịnh của Luật này và
pháp luật về xửlý vi phạm hành chính”. Điều 43 Ngh
ị định 71/2014/NĐ-CP quy
đ
ịnh: “Việcxử lý hành vi vi phạm quy định về kiểm soát hành vi hạn chế cạnh
tranh và cạnh tranh không lành mạnh phải tuân theo trình tự, thủ tục trong tố
tụng cạnh tranh được quyđ
ịnh tại Chương V của Luật Cạnh tranh và các quy
đ
ịnh tại Chương III củaNghị định số 116/2005/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành
một số điều củaLuật Cạnh tranh”. Thế nhưng, nội dung của Chương 3 Ngh

đ
ịnh116/2005/NĐ-CP
ngày 15 tháng 9 năm 2005 của Chính phủ quy đ
ịnh
chi

57
tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh lại hướng dẫn thủ tục tố tụng đối
với hành vi hạn chế cạnh tranh.
Luật Xử lý vi phạm hành chính cũng như Ngh
ị định 158/2013/NĐ-CPcó
chứa đựng quy đ
ịnh về thủ tục và thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính nói
chung và trong hoạt động quảng cáo nói riêng với trình tự thủ tục đơn giản hơn,
về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành vi vi phạm pháp luật quảngcáo được trao
cho nhiều cơ quan khác nhau cùng có chức năng quản lý nhànước về hoạt động
quảng cáo.Với những quy đ
ịnh như vậy, dễ dẫn đến chồng chéo trong việc giải
quyết các vụ việc liên quan đến hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnh. Người b
ị vi phạm lúng túng trong việc tìm cơ quan có thẩm quyền; còn
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng dễ đùn đẩy cho nhau khi giải quyết
các trường hợp cụ thể. Trong quá trình xử lý các hành vi vi phạm, cần có sự phối
hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực quảng cáo với Cục quản lý
cạnh tranh trong việc xác đ
ịnh tính không lành mạnh của hành vi quảng cáo
nhằm cạnh tranh không lành mạnh lại chưađược quy đ
ịnh trong các văn bản
pháp luật hiện hành.
+ Về chế tài bồi thường thiệt hại:
Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn thi hành quy đ
ịnh rõ trách
nhiệm của chủ thể có hành vi vi phạm, gây thiệt hại cho người khác thì phải bồi
thường theo pháp luật dân sự, Nghiên cứu các quy đ
ịnh của pháp luật cạnh tranh
cũng như pháp luật về bồi thường thiệt hại cho thấy:
Pháp luật cạnh tranh chưa quy đ
ịnh
rõ ai là người có quyền yêu cầubồi
thường thiệt hại cũng như cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết yêu cầubồi
thường thiệt hại do hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh gây ra;
Điều 40 của Ngh
ị định 71/2014/NĐ-CP quy định về thẩm quyềnxử lý hành vi vi
phạm pháp luật cạnh tranh của cơ quan quản lý cạnh tranh, trong đókhông có
quy đ
ịnh về thẩm quyền giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại. Vì vậy, có thể

hiểu, thẩm quyền này được trao cho Tòa án theo quy đ
ịnh củapháp luật dân sự;

Pháp luật cạnh tranh và pháp luật dân sự không quy đ
ịnh
về mối quan hệ giữa

58
việc xử lý vi phạm hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh của
Cục quản lý cạnh tranh và giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại của Tòa án.
Theo đó, Tòa áncó thể giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại mà chưa cần có
quyết đ
ịnh xửphạt vi hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
Từ những phân tích này cho thấy, việc giải quyết các yêu cầu khácnhau
liên quan đến một hành vi vi phạm mà trao cho nhiều cơ quan sẽ dẫn đến sự
chồng chéo, mất thời gian của các cơ quan tiến hành tố tụng. Khi Tòa án giải
quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại được thực hiện trước, Cục quản lý xử phạt
hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh sau thì cả hai cơ quan đều
phải tiến hành để xác đ
ịnh tính không lành mạnh của hành vi quảng cáo. Pháp
luật ViệtNam hiện nay chưa quy đ
ịnh về cơ chế phối hợp giữa hai cơ quan trong
quá trình giải quyết yêu cầu liên quan đến một hành vi quảng cáo nhằm cạnh
tranh không lành mạnh.
Thứ ba, mức xử phạt của Luật Cạnh tranh đối với hành vi quảng cáonhằm
cạnh tranh không lành mạnh là chưa có tính răn đe, chưa thống nhất
ở các văn
bản phápluật và chưa phù hợp với thực tế.
Một là, để phù hợp với thực tiễn đời sống kinh tế cũng như Luật Xử phạt
vi phạm hành chính năm 2012, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2013, Chính
phủ ban hành Ngh
ị định 71/2014/NĐ-CP thay thế Nghị định 120/2005/NĐ-CP,
đã nâng mức xử phạt đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh lên tối đa
là100 triệu đối với cá nhân và 200 triệu đối với tổ chức. Trong đó, tổ chức có
hành vi quảng cáo so sánh và quảng cáo bắt chước có mức phạt từ 60 triệu đến
80 triệu; hành vi quảng cáo gian dối có mức phạt từ 80 triệu đến 140triệu. Nếu
cá nhân có cùng hành vi vi phạm thì b
ị áp dụng mức phạt bằng một phần hai
mức phạt đối với tổ chức. Trong khi đó, số tiền mà doanh nghiệpphải trả để có
thể quảng cáo 30 giây trên Kênh truyền hình VTV1 vào khunggiờ từ 20h đến
21h30 là 80 triệu – 90 triệu. Mức phạt này cũng chỉ bằng 1hoặc 2 lần phát sóng
quảng cáo trên truyền hình vào các khung giờ vàng.

59
Do vậy, có thể nói, mức phạt này là chưa phù hợp, chưa có tính răn đe,
trừng tr
ị các doanh nghiệp có hành vi vi phạm. Nhiều doanh nghiệp chấp nhận
nộp phạt để có thể thực hiện hành vi giúp họ đưa được thông tin cần thiết đến
với đông đảo người tiêu dùng.
Hai là, chưa có sự thống nhất mức xử phạt đối với hành vi quảng cáogian
dối, gây nhầm lẫn của Ngh
ị định 71/2014/NĐ-CP và Nghị định158/2013/NĐ-CP
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thểthao, du l
ịch và quảng
cáo (Ngh
ị định 158/2013/NĐ-CP). Theo Nghị định158/2013/NĐ-CP, đối với
hành vi quảng cáo thuốc không đúng nội dungđăng ký với cơ quan nhà nước có
thẩm quyền thì b
ị phạt từ 10 triệu đến 20triệu đồng; hành vi quảng cáo thực
phẩm chức năng và các sản phẩm khôngphải là thuốc với nội dung không rõ ràng,
gây hiểu nhầm sản phẩm đó làthuốc b
ị thì phạt từ 30 triệu đồng đến 40 triệu
đồng (Điều 68). Tôi chorằng, đây cũng là hành vi quảng cáo gian dối và hành vi
quảng cáo gây nhầmlẫn thuộc trường hợp quy đ
ịnh tại khoản 3 điều 45 Luật
Cạnh tranh. Nhưngmức xử phạt mà Ngh
ị định 71/2014/NĐ-CP đưa ra mức phạt
là 40 triệu đến70 triệu đối với cá nhân.Có ý kiến cho rằng, hình thức phạt tiền
chưa đủ ngăn ngừa hành vi viphạm, các hình phạt bổ sung và biện pháp khắc
phục hậu quả được trông đợisẽ góp phần khắc phục được vấn đề này. Hình thức
xử phạt bổsung và biện pháp khắc phục được quy đ
ịnh tại khoản 3 điều 33, dẫn
chiếu khoản 4 điều 28 của Ngh
ị định 71/2014/NĐ-CP: “(a) Tịch thu tang
vật,phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm bao gồm cả t
ịch thu
khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm; (b) Buộc cảichính
công khai”. Theo chúng tôi, quy đ
ịnh này có một số bất cập như: (i) Đốivới hành
vi quảng cáo, đặc biệt là quảng cáo trên báo chí (bao gồm báo nói,báo hình và
báo giấy), việc t
ịch thu tang vật và phương tiện để thực hiện hànhvi vi phạm là
không phù hợp với thực tiễn [30].

60
Tiểu kết chương
Cạnh tranh là một trong những quy luật kinh tế cơ bản của nền kinh tế th

trường. Đảm bảo cạnh tranh tự do và công bằng thường được coi là giải pháp
quan trọng nhằm đảm bảo môi trường đầu tư kinh doanh lành mạnh, phục vụ sự
nghiệp phát triển kinh tế chung của đất nước. Tuy nhiên, cạnh tranh bao giờ
cũng là thứ áp lực rất lớn đối với mỗi doanh nghiệp trên th
ị trường. Để chống lại
đối thủ cạnh tranh, duy trì sự tồn tại, m
ở rộng thị trường, thu nhiều lợi nhuận,
không phải lúc nào doanh nghiệp cũng sử dụng phương pháp cạnh tranh công
bằng, lành mạnh. Thay vào đó, nhiều trường hợp, doanh nghiệp sẵn sàng sử
dụng cả các thủ đoạn cạnh tranh b
ị coi là “xấu”, là “không đẹp” hay nói cách
khác là “không lành mạnh”. Thậm chí tình trạng làm hàng giả cũng diễn ra một
cách hết sức phức tạp.
Kể từ khi chuyển sang kinh tế th
ị trường, nhất là khi áp lực cạnh tranh
trên th
ị trường ngày một lớn, nền kinh tế Việt Nam cũng chứng kiến sự tồn tại
của nhiều loại hành vi cạnh tranh được coi là không lành mạnh.
Tuy nhiên, hiện tại việc xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh kể trên
nói chung còn hết sức khiêm tốn. Điều này có nguyên nhân cả từ trong sự chưa
hoàn thiện của hệ thống pháp luật cũng như sự thiếu kinh nghiệm trong công tác
đấu tranh chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

61
Chương 3
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
V

NÂNG CAO HIÊ
̣U
QU

TH
ỰC
THI PH
ÁP
LUÂ
̣T
V
Ề
X
Ử
L

H
ÀNH
VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC
QUẢNG CÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1.Phương hướng hoàn thiện pháp luật x
ử lý hành vi cạnh tranh không
lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam hiện nay
Chiếu theo quy đ
ịnh nêu trên của pháp luật có thể thấy rất nhiều quảng
cáo lưu hành hiện nay đang vi phạm.
Chấn chỉnh hoạt động quảng cáo đòi hỏi sự vào cuộc đồng bộ của các cấp,
ngành và ý thức tuân thủ pháp luật của mọi tổ chức, cá nhân. Hiện nay trong lĩnh
vực này đang tồn tại một số vấn đề cần được giải quyết.
Thứ nhất, cần thấy rằng từ lâu quảng cáo đã không còn chỉ là d
ịch vụ của
nền kinh tế thương mại mà tự thân đã chuyển hóa thành một mặt hàng thương
mại và ngang hàng với sản phẩm khác. Quảng cáo góp phần kích thích tăng
trư
ởng thị trường, tạo môi trường cạnh tranh cho các doanh nghiệp, truyền bá
các giá tr
ị văn hóa,... Vì vậy, chấn chỉnh hoạt động quảng cáo cần gắn với thực
tế và với lợi ích chung của xã hội. Các chính sách phải được nghiên cứu kỹ
lưỡng, không ảnh hư
ởng tới các lợi ích mà quảng cáo mang lại. Các cơ quan ban
hành chính sách cần nắm rõ thực tế, triển khai tìm hiểu, khảo sát trên quy mô cả
nước, giải quyết hài hòa giữa lợi ích người dân và đơn v
ị kinh doanh để quảng
cáo hoạt động đúng quy đ
ịnh của pháp luật; tạo điều kiện cho quảng cáo phát
triển lành mạnh, thông qua các sản phẩm thương hiệu Việt góp phần quảng bá
văn hóa, nâng cao hiểu biết của thế giới về Việt Nam.
Thứ hai, sự khác biệt về đặc thù đ
ịa phương, đặc thù từng loại hình quảng
cáo có thể gây khó khăn trong công tác quản lý và sự đồng nhất về chính sách, vì
vậy các cơ quan chức năng có nhiệm vụ ban hành chính sách cần nghiên cứu để

62
đưa ra quy đ
ịnh cụ thể, phù hợp từng địa phương, từng loại hình quảng cáo để
tránh hiện tượng máy móc, khuôn mẫu, phụ thuộc vào ý chí người quản lý.
Thứ ba, cần tham khảo kinh nghiệm xây dựng hệ thống pháp luật về
quảng cáo
ở các quốc gia tiên tiến, từ đó hoàn thiện các chế tài và có hình thức
xử lý nghiêm minh những sai phạm, tiêu cực.
Thêm nữa, cần lưu ý, việc quản lý, chấn chỉnh hoạt động quảng cáo cần
có sự phối hợp giữa nhiều ngành và đ
ịa phương; cho nên có thể làm nảy sinh
mâu thuẫn về quyền hạn và trách nhiệm mỗi bên, vì thế, nếu các ngành và đ
ịa
phương không được phân công nhiệm vụ rõ ràng, cụ thể sẽ dễ xảy ra tình trạng
“cha chung không ai khóc”.
3.2.Giải pháp hoàn thiện pháp luật x
ử lý hành vi cạnh tranh không lành
mạnh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam hiện nay
3.2.1.Hoàn thiện nội dung pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vựcquảng cáo
Trên cơ s
ở tổng kết quá trình thực hiện pháp luật về cạnh tranh tronglĩnh
vực quảng cáo

nước ta thời gian qua và rà soát toàn diện các quy đ
ịnhpháp luật
hiện hành điều chỉnh các hành vi, quan hệ cạnh tranh trong lĩnh vựcquảng cáo;
việc hoàn thiện nội dung pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vựcquảng cáo cần
chú trọng bổ sung và hoàn thiện các vấn đề sau đây:
Thứ nhất, pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo cần xácđ
ịnh
bản chất “thương mại” của hoạt động quảng cáo để từ đó xác đ
ịnh cáchành vi
quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh quảng cáo trong hoạt động kinh
doanh về cơ bản là một hình thức tiếpth
ị và được sử dụng để khích lệ hoặc
thuyết phục người tiêu dùng chấp thuậnmột lời đề ngh
ị thương mại. Thông điệp
quảng cáo thường được thể hiện trênphương tiện truyền thông khác nhau, bao
gồm phương tiện truyền thông đạichúng như báo chí, quảng cáo truyền hình, tạp
chí, đài phát thanh quảng cáo,quảng cáo ngoài trời, hoặc cách thức mới như
blog, web hoặc tin nhắn. Mụctiêu của quảng cáo thường là quảng bá thương hiệu
và uy tín của doanhnghiệp hoặc để bán sản phẩm, b
ởi vậy, các phương thức của

63
quảng cáo nhằmvào đối tượng người tiêu dùng hoặc các nhà đại diện và phân
phối. Có thểxuất hiện các loại quảng cáo với các mục tiêu cụ thể như:
*Quảng cáo tiên phong phát triển các nhu cầu cơ bản, đó là nhu cầuvề
một loại sản phẩm chứ không phải là một thương hiệu cụ thể. Quảng cáonày
được áp dụng trong giai đoạn đầu giới thiệu sản phẩm với khách hàngtiềm năng.
*Quảng cáo cạnh tranh để phát triển nhu cầu lựa chọn, đó thường lànhu
cầu sản phẩm của một nhà sản xuất cụ thể hơn là một loại sản phẩmchung
chung. Một doanh nghiệp đổi mới thường được dựa vào quảng cáocạnh tranh
theo như vòng đời sản phẩm. Sau quá trình tiên phong, hầu hếtcác nhà sản xuất
đang cung cấp các sản phẩm cạnh tranh, các doanh nghiệpphải sáng tạo những
ưu điểm vượt trội cho sản phẩm của mình để vượt quacác đối thủ cạnh tranh.
Điều này thường là tình hình trong một th
ị trườngđang chín muồi.
*Quảng cáo nhắc nh
ở để giữ vững tên tuổi sản phẩm trước côngchúng.
Loại hình quảng cáo này rất hữu ích khi các sản phẩm đã đạt được sựthống tr
ị thị
trường. Ở đây, các nhà quảng cáo có thể chọn cách quảng cáohiển th
ị tên như
một lời nhắc nh
ở. Quảng cáo nhắc nhở có thể được coi nhưmột cách để duy trì
một sản phẩm với v
ị trí dẫn đầu trên thị trường.
Như vậy, các doanh nghiệp khi thực hiện quảng cáo trên th
ị trườngthường
là nhằm mục tiêu để bán sản phẩm. Điều này mới thể hiện rõ bản chấtcủa cạnh
tranh trong hoạt động kinh doanh. Quảng cáo nhằm cạnh tranh là đểphát triển,
kích thích nhu cầu lựa chọn của người tiêu dùng đối với sản phẩmđược đưa ra
quảng cáo. B
ởi vậy, chỉ có quảng cáo mang tính thương mại vớicó tính cạnh
tranh sâu sắc, còn các quảng cáo phi thương mại nếu xuất hiệndấu hiệu bôi nhọ,
nói xấu, kích động đối thủ thì dường như không phải đốitượng điều chỉnh của
pháp luật cạnh tranh, mà có thể là đối tượng điều chỉnh của các lĩnh vực pháp
luật khác.
Nói đến cạnh tranh không lành mạnh, chỉ có thể là cạnh tranh trongkinh
doanh, thương mại. B
ởi vậy, cần xác địch rõ bản chất thương mại vàmục đích
cạnh tranh của các hành vi quảng cáo. Từ đó, việc nhận diện cáchành vi cạnh

64
tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo sẽ cụ thể và rõràng hơn. Trên
thực tế, pháp luật thương mại và pháp luật cạnh tranh khôngđiều chỉnh hoạt động
quảng cáo phi thương mại. Điều này sẽ giúp cho hoạtđộng quảng cáo mang tính
thương mại được thông suốt, thuận lợi hơn về mặtquản lý nhà nước. Cho nên,
việc điều chỉnh hoạt động quảng cáo nhằm mụcđích cạnh tranh chỉ tập trung
trong một hoặc hai văn bản nhất đ
ịnh, như LuậtCạnh tranh và một văn bản
hướng dẫn thi hành Luật này có liên quan đếnhoạt động quảng cáo. Các văn bản
luật khác như: Luật Thương mại, LuậtQuảng cáo chỉ nên quy đ
ịnh cấm các hành
vi quảng cáo nhằm cạnh tranhkhông lành mạnh theo quy đ
ịnh của
pháp luật cạnh
tranh. Điều này sẽ giúpcho các quy đ
ịnh
liên quan đến quảng cáo nhằm mục đích
cạnh tranh đượcthống nhất và nâng cao vai trò và tầm quan trọng thích đáng của
pháp luậtcạnh tranh trong xử lý các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh.
Thứ hai, pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo cần bổsung các
quy đ
ịnh để làm rõ tiêu chí nhận diện hành vi cạnh tranh khônglành mạnh trong
lĩnh vực quảng cáo.
Như trên đã phân tích, để thực hiện được mục đích cạnh tranh trongkinh
doanh các hành vi quảng cáo phải là quảng cáo thương mại nhằm quảngcáo sản
phẩm hàng hóa, d
ịch vụ đến người tiêu dùng, nhưng trong quá trìnhcạnh tranh,
các chủ thể hành vi quảng cáo đã thực hiện những thủ đoạnkhông lành mạnh để
giành giật khách hàng về phía mình hoặc để thu lợinhuận tối đa một cách không
chính đáng, làm phương hại đến lợi ích của cácđối thủ cạnh tranh, của người tiêu
dùng và xã hội. Vì vậy cần xác đ
ịnh rõ cáctiêu chí để
nhận diện các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh trong lĩnh vựcquảng cáo, cụ thể:
Về khái niệm chung, có thể đưa ra định nghĩa:
“Hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh là hành viquảng
cáo thương mại nhằm mục đích cạnh tranh, được tiến hành b
ởi cácdoanh nghiệp
Việt Nam, hợp tác xã, doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tạiViệt Nam, hiệp hội
ngành, nghề kinh doanh trên th
ị trường, đã vi phạm cácquy định của pháp luật
cạnh tranh và trái với các chuẩn mực thông thườngvề đạo đức kinh doanh, gây

65
thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi íchcủa Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của doanh nghiệp khác hoặcngười tiêu dùng”.
Đặc điểm nhận diện chung các hành vi cạnh tranh không lành mạnhtrong
lĩnh vực quảng cáo:
-Là hành vi quảng cáo thương mại nhằm mục đích cạnh tranh;
-Do các doanh nghiệp Việt Nam, hợp tác xã, doanh nghiệp nướcngoài
hoạt động tại Việt Nam, hiệp hội ngành, nghề kinh doanh trên th
ịtrường
thực
hiện;
-Hành vi này đã vi phạm các quy đ
ịnh của pháp luật cạnh tranh và tráivới
các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh;
-Gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước,quyền
và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng…
Tuy nhiên, với khái niệm và đặc điểm nhận diện
ở trên, pháp luật
cạnhtranh cũng cần quy đ
ịnh và làm rõ thế nào là “các chuẩn mực thông thường
vềđạo đức kinh doanh”.
Thứ ba, pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo cần bổ sungcác
quy đ
ịnh và chế tài phù hợp để đảm bảo các chủ thể phải tuân thủ chuẩnmực
thông thường về đạo đức kinh doanh khi thực hiện cạnh tranh trong lĩnhvực
quảng cáo.
Trong hoạt động kinh doanh, thương nhân sử dụng nhiều công cụ
khácnhau để nâng cao năng lực cạnh tranh và v
ị thế của mình trên thị
trường.Quảng cáo cũng là một trong số đó. Để nâng cao hiệu quả của hoạt
độngquảng cáo, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích của người tiêu dùng, đối
thủcạnh tranh và nhà nước, doanh nghiệp phải vừa tuân thủ pháp luật và nângcao
ý thức về đạo đức kinh doanh.Nhắc tới khái niệm “đạo đức kinh doanh”, người
ta thường cho rằng đólà một yếu tố rất trừu tượng hoặc không cụ thể. Nhưng
thực tế lại cho thấy,mức độ phát triển bền vững của doanh nghiệp gắn liền với
đạo đức kinhdoanh, sự tăng trư
ởng về lợi nhuận gắn liền với việc nghiêm túc
tuân thủ đạođức kinh doanh. Đạo đức kinh doanh là một bộ phận cấu thành và

66
không táchrời của đạo đức x. hội nói chung. Có nhiều đ
ịnh
nghĩa về đạo đức

67
kinhdoanh, theo Ferrels và John Fraedrich “Đạo đức kinh doanh bao gồm những
nguyên tắc cơ bản và tiêu chuẩn điều chỉnh hành vi trong thế giới kinh doanh.
Tuy nhiên, việc đánh giá một hành vi cụ thể là đúng hay sai, phù hợp với
đạo đức hay không sẽ được quyết đ
ịnh bởi nhà đầu tư, nhân viên, khách hàng,
các nhóm có quyền lợi liên quan, hệ thống pháp lý cũng như cộng đồng”.Còn
theo ông Phillip V. Lewis, Giảng viên Đại học Abilene Christian, HoaKỳ thì:
“Đạo đức kinh doanh là tất cả những quy tắc, tiêu chuẩn, chuẩn mựcđạo đức
hoặc luật lệ để chỉ dẫn hành vi ứng xử chuẩn mực và sự trung thực(của một tổ
chức) trong những trường hợp nhất đ
ịnh”…
Tuy nhiên, qua nghiên cứu, tổng hợp các . kiến tại các cuộc hội thảo,trên
báo chí và trong x. hội, có thể đ
ịnh nghĩa khái quát như sau: “Đạo đứckinh
doanh là một tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đứchoặc luật lệ
có tác dụng chỉ dẫn, điều chỉnh và kiểm soát hành vi nhằm bảođảm chuẩn mực
và sự trung thực trong hoạt động của chủ thể kinh doanh”.Với tư cách là một
dạng đạo đức nghề nghiệp mang tính đặc thù cao gắn liền với các lợi các kinh tế,
đạo đức kinh doanh chính là phạm trù đạo đứcđược vận dụng vào hoạt động kinh
doanh, nhưng nó không tách rời nền tảngcủa nó là đạo đức xã hội chung và phải
ch
ịu sự chi phối bởi một hệ giá trị vàchuẩn mực đạo đức xã hội. Đạo đức kinh
doanh bao gồm các nguyên tắc vàchuẩn mực . Có 2 yếu tố quan trọng nhất, đó là
tính trung thực và sự tôntrọng con người. Tính trung thực đ.i hỏi chủ thể kinh
doanh không dùng cácthủ đoạn gian xảo hoặc phi pháp để kiếm lời và cạnh tranh
không lành mạnh.Đối với đối tác, khách hàng và người tiêu dùng, chủ thể kinh
doanh phải giữchữ tín trong kinh doanh, theo đó doanh nghiệp, doanh nhân phải
giữ chữ tíntrong quan hệ, bảo đảm thực hiện đúng nghĩa vụ và cam kết; không
sản xuấtkinh doanh hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng, hàng độc hại cho
sứckhỏe con người, quảng cáo sai sự thật, vi phạm quyền s

hữu trí tuệ. Đối
vớiNhà nước, chủ thể kinh doanh phải chấp hành nghiêm luật pháp của
Nhànước, theo đó doanh nghiệp, doanh nhân không trốn thuế, lậu thuế, sản
xuấtkinh doanh những mặt hàng quốc cấm. Đối với x. hội, chủ thể kinh

68
doanhkhông kinh doanh những hàng

69
hóa hay d
ịch
vụ có hại cho thuần phong mỹtục, ảnh hư
ởng
đến giáo dục con
người, thực hiện các trách nhiệm xã hội.
Hoạt động quảng cáo là một quá trình từ thiết kế, xây dựng, sản xuấtsản
phẩm quảng cáo và thông qua phương tiện quảng cáo để truyền tải thôngtin
quảng cáo đến với người tiêu dùng. Thông tin trong quảng cáo là mộtchiều, độc
thoại, không chỉ dừng
ở việc thông báo đến người tiêu dùng sự tồntại của hàng
hoá, d
ịch vụ mà họ cần. Nó còn có còn có nhiệm vụ giúp ngườimua có sự lựa
chọn và quyết đ
ịnh mua một loại hàng hoá giữa rất nhiều loạihàng hoá, dịch vụ
có tính năng, công dụng tương tự nhau trên th
ị trường. Vìvậy, quảng cáo phải
trung thực, thông tin trong quảng cáo phải chính xác.Người quảng cáo phải cung
cấp thông tin đầy đủ, thông tin trong quảng cáokhông được thổi phồng, phóng
đại quá sự thật vốn có. Bên cạnh đó, pháp luậtcũng cần đảm bảo yêu cầu lành
mạnh trong hoạt động quảng cáo, các chủ thểkinh doanh cần tôn trọng đối thủ
cạnh tranh. B
ởi lẽ, trong kinh doanh, vì mụctiêu lợi nhuận, thương nhân luôn
mong muốn vượt qua các đối thủ của mìnhb
ởi sự thành công của đối thủ có thể
dẫn đến sự thất bại của chính thươngnhân. Do vậy, sự cạnh tranh là tất yếu trong
kinh tế th

trường. Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng phải có sự tôn trọng đối với đối
thủ. Sự tôn trọng được thể hiện b
ởi những hành vi cạnh tranh lành mạnh, bằng
chính khả năng, nội lực của doanh nghiệp. Trong hoạt động quảng cáo, không
được coi là sự tôn trọng của đối thủ nếu như việc doanh nghiệp sử dụng nhãn
hiệu, tên thương mại của doanh nghiệp khác mà không được phép; thông qua các
sản phẩm quảng cáo để dèm pha, công kích, nói xấu, hạ uy tín doanh nghiệp
khác. Luật S
ở hữu trí tuệcoi hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu nếu sử
dụng dấu hiệu trùng vớinhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hoá trùng với d
ịch vụ
hàng hoá d
ịch vụ thuộcdanh
mục đăng ký bảo hộ. Luật quy đ
ịnh
cấm các hành vi
sử dụng chỉ dẫnthương mại trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên thương mại của
người khác đã được sử dụng trước cho loại sản phẩm, d
ịch vụ gây nhầm lẫn.
Mặc dù người quảng cáo không gắn nhãn hiệu, tên thương mại của doanh nghiệp
khác vào sản phẩm của mình, nhưng họ sử dụng để so sánh, hạ thấp uy tín của

70
doanh nghiệp khác, làm nổi bật sản phẩm của mình cũng là hành vi không phù
hợp với đạo đức kinh doanh.Để nhận diện một hành vi cạnh tranh không lành
mạnh trong lĩnh vựcquảng cáo là trái với các chuẩn mực thông thường về đạo
đức kinh doanh cầnquy đ
ịnh rõ ràng hơn về các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức
kinh doanh trongLuật Cạnh tranh, làm rõ giới hạn vi phạm và việc xử lý đối với
các vi phạmnguyên tắc và chuẩn mực đạo đức kinh doanh của hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo.
Thứ tư, pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo cần làm rõcấu
thành pháp lý của các loại hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh khônglành
mạnhCác quy đ
ịnh hiện hành trong Luật Cạnh tranh quy định về hành vicạnh
tranh không lành mạnh còn nhiều điểm hạn chế về cách sử dụng từ ngữpháp lý
trong việc xác đ
ịnh cấu thành pháp lý của hành vi, đồng thời, cầnnghiên cứu lại
tính phù hợp của một số hành vi b
ị kết luận là cạnh tranhkhông lành mạnh và
cần xem xét về tính chất vi phạm của một số hành vi cụthể trong các nhóm các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vựcquảng cáo:
*Đối với các hành vi quảng cáo so sánh: Cần xây dựng các quy đ
ịnhnội
dung cụ thể về hành vi quảng cáo so sánh. Có thể đưa ra mộtđ
ịnh nghĩa quảng
cáo so sánh là “quảng cáo làm nhận ra một hoặc một vài đốithủ cạnh tranh hoặc
các sản phẩm hay các d
ịch vụ cùng loại mà đối thủ cạnhtranh sản xuất, cung ứng
hay phân phối và đáp ứng được một số điều kiệnkhác do pháp luật quy
đ
ịnh..Trường hợp ngoại lệ của quảng cáo so sánh là pháp luật cạnh tranh cóthể
cho phép các chủ thể kinh doanh có thể thực hiện so sánh hàng hóa củamình với
hàng giả, hàng vi phạm quyền s
ở hữu trí tuệ trong sản phẩm quảngcáo thương
mại sau khi có xác nhận của cơ quan quản lý nhà nước có thẩmquyền… Tính
chất cạnh tranh không lành mạnh của hành vi quảng cáo sosánh được đánh giá
theo hai hướng:
-Lợi dụng tên tuổi, uy tín, lợi thế cạnh tranh của người khác hoặccông
kích, hạ thấp uy tín đối thủ cạnh tranh. Khi thông tin quảng cáo chính xác những
lợi thế có thật của người này so với đối thủ cạnh tranh thì sẽ làm giảm chi phí,

71
thời gian và công sức tìm hiểu thông tin của người tiêu dùng, góp phần minh
bạch hóa th
ị trường;
-Mặt khác khi doanh nghiệp có những lợi thế cạnh tranh chính đángso
với đối thủ, sẽ không hợp lý khi ngăn cản người đó công bố chúng, nếungăn cản
có thể gây ảnh hư
ởng
tiêu cực với cạnh tranh.Pháp luật cạnh tranh cũng cần phân
biệt với các quy đ
ịnh của Luật Quảng cáo về các trường hợp quảng cáo so sánh
trực tiếp về giá cả, chấtlượng, hiệu quả sử dụng sản phẩm, hàng hóa, d
ịch vụ của
mình với giá cả,chất lượng, hiệu quả sử dụng sản phẩm, hàng hóa, d
ịch vụ cùng
loại của tổ chức, cá nhân khác nhưng chỉ nhằm mục đích tư lợi mà không nhằm
mục đíchcạnh tranh. Trên thực tế, trong mối quan hệ đối lập về lợi ích giữa các
doanh nghiệp tham gia th
ị trường, quảng cáo so sánh luôn có nguy cơ lệch
hướng tr

thành cạnh tranh không lành mạnh, ảnh hư
ởng
tới người tiêu dùng,làm
mất uy tín doanh nghiệp. Nên pháp luật cạnh tranh không lành mạnh cầnđặt hành
vi này trong sự giám sát chặt chẽ chống lại việc lạm dụng.
*Đối với hành vi quảng cáo bắt chước một sản phẩm quảng cáo khácđể
gây nhầm lẫn cho khách hàng: Cần xác đ
ịnh rõ tính trung thực được đánhgiá
theo tác động đến đối tượng của hành vi quảng cáo trực tiếp là khách hàngvà
người tiêu dùng. Bên cạnh đó, cần chỉ rõ những tác động của quảng cáogây
nhầm lẫn đến đối thủ cạnh tranh khi khách hàng mua sản phẩm dựa trênnhững
trên những thông tin sai lệch và ch
ịu thiệt hại nhất định về kinh tế thìđồng nghĩa
với việc các đối thủ cạnh tranh mất khách hàng này.Cần làm rõ cấu thành pháp
lý của hành vi bắt chước một sản phẩmquảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho
khách hàng. Trong trường hợp này, cóhai vấn đề cần được làm rõ khi xây dựng
các quy đ
ịnh của pháp luật là xácđịnh rõ tính không lành mạnh của hành vi; (ii)
xây dựng cấu thành pháp lýcủa hành vi. Nếu dựa vào quy đ
ịnh hiện tại theo
Khoản 2 Điều 45 Luật Cạnhtranh, tính không lành mạnh của hành vi chủ yếu
được xác đ
ịnh từ mục đíchgây nhầm lẫn cho khách hàng. Song các quy định của
Luật Cạnh tranh khônglàm rõ được đối tượng b
ị nhầm lẫn là nhầm lẫn giữa các
sản phẩm quảng cáocó liên quan hay là nhầm lẫn giữa các sản phẩm được quảng

72
cáo có trong các sản phẩm quảng cáo liên quan. Một khi chưa làm rõ được điều
này thì chắcchắn quy đ
ịnh của pháp luật còn mơ hồ, không rõ ràng và không thể
áp dụng được trên thực tế.Bổ sung khoản 2 Điều 45 để làm rõ nội dung nhầm lẫn
của hành vi.Điều luật mới chỉ quy đ
ịnh một cách đơn giản là bắt chước một sản
phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho khách hàng. Tuy nhiên, đối với hành
vi này, tính không lành mạnh của hành vi nên xác đ
ịnh từ việc bắt chước sản
phẩm quảng cáo khác, cho nên, vụ việc mà hành vi có mục đích gây nhầm lẫn
cho khách hàng và vụ việc có ảnh hư
ởng gây nhầm lẫn, thì chúng ta khôngnên
đặt nặng mục đích gây nhầm lẫn và coi chúng như một yếu tố không thểthiếu
trong cấu thành pháp lý của hành vi vi phạm. Với cách tiếp cận này, vấnđề cần
giải quyết trong quy đ
ịnh pháp luật
là cấm vụ việc bắt chước sản phẩmquảng cáo
gây nhầm lẫn cho khách hàng mà không cần phải chứng minh mụcđích gây
nhầm lẫn của hành vi.
*Đối với hành vi đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách
hàng về giá, số lượng, chất lượng, công dụng, kiểu dáng, chủng loại, bao bì,ngày
sản xuất, thời hạn sử dụng, xuất xứ hàng hoá, người sản xuất, nơi sảnxuất, người
gia công, nơi gia công; cách thức sử dụng, phương thức phục vụ,thời hạn bảo
hành: Cần bổ sung các tiêu chí xác đ
ịnh tính chất gian dối vàkhả năng gây nhầm
lẫn để nhằm mục đích cạnh tranh không lành mạnh, baogồm:
Thông tin không trung thực, sai lệch so với thực tế;
Thông tinkhông đầy đủ, tạo ấn tượng cho người xem quảng cáo nhận thức
sai lệch so với thực tế;
Quảng cáo tạo nhận thức sai lệch cho những khách hàng tiềmnăng trong
điều kiện tiếp nhận quảng cáo bình thường; quảng cáo gây nhầmlẫn có tức động
thực tế đến quyết đ
ịnh mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ củangười xem… Tuy
nhiên pháp luật cạnh tranh cũng cần phân biệt các quảngcáo dạng này chỉ nhằm
mục đích tư lợi mà không nhằm mục đích cạnh tranhtheo Luật Quảng cáo như:
Quảng cáo không đúng hoặc gây nhầm lẫn về khảnăng kinh doanh, khả năng
cung cấp sản phẩm, hàng hóa, d
ịch vụ của
tổchức, cá nhân kinh doanh sản phẩm,

73
hàng hóa, d
ịch vụ; về số lượng, chấtlượng, giá, công dụng, kiểu dáng, bao bì,
nhãn hiệu, xuất xứ, chủng loại, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành của sản
phẩm, hàng hoá, d
ịch vụ đã đăng ký hoặc đã được công bố.
Thứ năm, pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo cần hướng dẫn
cụ thể việc áp dụng chế tài dân sự đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực quảng cáoĐiều 117 Luật Cạnh tranh quy đ
ịnh: “Tổ chức, cá nhân
có hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác thì phải bồi thường
thiệt hại theo quy đ
ịnh của pháp luật” [18]. Và Điều 6 Nghị định số
71/2014/NĐ-CP ngày21/07/2014 quy đ
ịnh về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực cạnh tranh cóquy đ
ịnh: “Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về
cạnh tranh gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
tổ chức, cá nhân khác thì phải bồi thường… [6] Việc bồi thường thiệt hại… được
thực hiện theo các quy đ
ịnh của
pháp luật về dân sự”. Như vậy, việc áp dụng chế
tài dân sự đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo
được áp dụng theo các quy đ
ịnh của Bộ luật Dân sự. Tuy nhiên, để việc ápdụng
chế tài dân sự liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực
quảng cáo (cũng như nhiều lĩnh vực khác) được triển khai hiệu quả trên thực tế,
ngoài hai quy đ
ịnh được dẫn ra ở trên, còn rất nhiều vấn đềpháp lý cần phải có
sự hướng dẫn, giải thích từ các cơ quan có thẩm quyền, cụ thể:
-Các quy đ
ịnh về điều kiện để xác định tư cách chủ thể có quyền khởi
kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnhtrong
lĩnh vực quảng cáo gây ra? Việc xác đ
ịnh hành vi vi phạm
và quyết đ
ịnh xử lý vi
phạm hành chính của Cục Quản lý cạnh tranh có thể là căn cứ để người b
ị hại
kh
ởi kiện chủ thể có hành vi vi phạm hay không? Theo thông lệ pháp luật cạnh
tranh của các nước, chủ thể kh
ởi kiện dânsự đối với chủ thể có hành vi cạnh
tranh không lành mạnh thường là các doanh nghiệp đối thủ cạnh tranh, cũng có
thể là người tiêu dùng theo quy chếkh
ởi kiện tập thể. Vì vậy, pháp luật cạnh
tranh của Việt Nam cần có các quy đ
ịnh hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.

74
-Những loại chế tài dân sự nào có thể áp dụng cho chủ thể có hànhvi cạnh
tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo.Theo quy đ
ịnh của Bộ luật Dân
sự, khi quyền dân sự của một chủ thể b
ịxâm phạm, chủ thể có quyền yêu cầu cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền (trong đó có Tòa án nhân dân) áp dụng một trong
các hình thức sau: (a) Công nhận quyền dân sự; (b) Buộc chấm dứt hành vi vi
phạm; (c) Buộc xin lỗi, cải chínhcông khai; (d) Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự;
(e) Buộc bồi thường thiệt hại.Theo thông lệ pháp luật cạnh tranh của các nước,
chế tài đối với cáchành vi cạnh tranh không lành mạnh bao giờ cũng gắn liền yêu
cầu buộc chấm dứt hành vi vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại. B
ởi vậy, pháp
luật cạnh tranh của Việt Nam cần có các quy đ
ịnh xác định rõ những loại chế tài
nào sẽ được áp dụng cho các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, đó là, buộc
chấm dứt hành vi vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại.
-Về mức bồi thường thiệt hại và xác đ
ịnh
mức bồi thường thiệt hại.Vấn
đề xác đ
ịnh
mức bồi thường thiệt hại thực tế do hành vi cạnh tranh không lành
mạnh gây ra luôn là vấn đề phức tạp. Để đơn giản hóa, pháp luật cạnh tranh một
số quốc gia đã đưa ra quy tắc, lợi nhuận thu được của chủ thểcó hành vi cạnh tranh
không lành mạnh sẽ đương nhiên thuộc về chủ thể b
ịcạnh tranh không lành mạnh
hoặc là mức suy giảm doanh thu của danh nghiệp b

xâm phạm. Đây cũng là kinh
nghiệm tốt mà Việt Nam nên thamkhảo và có chính sách rõ ràng về vấn đề này.
-Về cơ chế phối hợp giữa Cục Quản lý cạnh tranh và Tòa án nhân dân.
Cơ chế phối hợp cần được đặt ra giữa cơ quan quản lý nhà nước về cạnh tranh
(cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính) và Tòa án (cơ quan áp dụng
các chế tài dân sự). Quyết đ
ịnh xử lý vi phạm hành chính sẽ là căn cứ để Tòa án
thụ lý và điều tra khi chủ thể b
ị xâm phạm tiến hành khởi kiện vềmặt dân sự.
Bên cạnh đó, thực tế
ở Việt Nam, Tòa án chưa có nhiều kinhnghiệm trong việc
xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh, chính vì thế,việc phối kết hợp giữa
Tòa án với cơ quan quản lý nhà nước về cạnh tranhtrong quá trình xử lý các vụ
kiện đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi cạnh tranh không lành
mạnh trong lĩnh vực quảng cáo gây ra là rất cần thiết.

75
Thứ sáu, pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo cần bổsung các
quy đ
ịnh để đảm bảo tính độc lập của cơ quan quản lý nhà nước về cạnh tranh.
Theo Ngh
ị định số 06/2006/NĐ-CP ngày 9/1/2006 của Chính phủ, CụcQuản lý
cạnh tranh Bộ Công thương được giao thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về
cạnh tranh, trong đó có nhiệm vụ tổ chức điều tra và xử lý đối với các vụ việc
cạnh tranh liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh và các hành vi vi
phạm pháp luật cạnh tranh khác theo quy đ
ịnh của pháp luật.Tuy nhiên, với mô
hình Cục Quản lý cạnh tranh trực thuộc Bộ Công Thương hiện nay sẽ rất khó
đảm bảo tính độc lập và sự chuyên nghiệp của cơ quancạnh tranh trong quá trình
điều tra và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh nói chung và hành vi
cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo nói riêng.
Theo pháp luật cạnh tranh các nước quy đ
ịnh, nguyên tắc tối cao là các cơ
quan cạnh tranh hoàn toàn độc lập trong các hoạt động của mình mà khôngb
ị chi
phối hay can thiệp của bất kỳ cơ quan thứ ba nào. Các cơ quan cạnh tranh được
thành lập theo Luật và thực hiện các quyền năng được Luật này trao cho. Họ
cũng có thể sử dụng những quyền hạn này để yêu cầu sự phối hợp, hỗ trợ của các
cơ quan khác. Để tạo lập sự độc lập về mặt tổ chức và tài chính, một số nước
như Italia, Hoa Kỳ đã thành lập cơ quan cạnh tranh của mình trực thuộc Quốc
hội, độc lập với tư pháp và Chính phủ. Một số cơ quan cạnh tranh khác lại được
tổ chức như một Bộ hay ngang Bộ, độc lập với cácbộ ngành khác (như Nhật
Bản, Hàn Quốc, Úc). Một số trường hợp khác mặc dù đặt trong một bộ ngành
nào đó, nhưng vẫn duy trì một chế độ độc lập rấtcao trong hoạt động (Pháp). Các
cơ quan này chỉ b
ị phụ thuộc cơ quan chủ quản về mặt hành chính. Bên cạnh vị
trí của cơ quan cạnh tranh, tính độc lập còn được thể hiện thông qua việc bổ
nhiệm những nhân sự của các cơ quancạnh tranh này. Các thành viên thường
được bổ nhiệm b
ởi những người đứng đầu Chính phủ hoặc Quốc hội. Điều này
đã làm tăng tính chất quan trọngcũng như tính độc lập của cơ quan cạnh tranh
trong quá trình hoạt động. Tiêu chuẩn để được bổ nhiệm là thành viên của cơ
quan cạnh tranh cũng là điểm cần được nhắc đến. Các thành viên này thường

76
được yêu cầu đạt được một trình độ chuyên môn nhất đ
ịnh, có học vấn cao, có
kinh nghiệm và kiến thứcthuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Vì vậy, ở
nước ta cũng
nên nghiên cứu để sớm thành lập một cơ quan cạnh tranh độc lập thuộc Chính
phủ, tạo điều kiệncho việc huy động nguồn thu ngân sách thông qua hoạt động
một cách độc lập, tăng thêm tính tự chủ của cơ quan cạnh tranh, đồng thời, giúp
bảo đảm và thúc đẩy việc tập trung chuyên môn, tính công chính, minh bạch và
khả năngch
ịu trách nhiệm và giải trình của cơ quan này. Tự chủ về quá trình
tuyểnchọn, bổ nhiệm cũng như đào tạo nhân sự, cũng như tự chủ về mặt ngân
sáchhoạt động đảm bảo cho cơ quan cạnh tranh có thực quyền cao hơn. Đây
cũng là kinh nghiệm của nhiều quốc gia phát triển trên thế giới như Hoa
Kỳ,Vương quốc Anh, Canada, Úc... nơi cơ quan quản lý cạnh tranh đều có v
ị trí
độc lập và quyền tự chủ, hoạt động hết sức hiệu quả. Đấu tranh với các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh là nhiệm vụ khámới mẻ đối với Việt Nam nhưng lại
là lĩnh vực mà nhiều quốc gia trên thế giới rất có kinh nghiệm. Trong bối cảnh
ấy, việc tham khảo, học tập kinh nghiệm nước ngoài trong việc xử lý các vấn đề
về cạnh tranh trong đó có cạnh tranh không lành mạnh là rất cần thiết. Trong
thời gian tới, Việt Nam cần cócác chương trình hợp tác nghiên cứu, học tập trao
đổi kinh nghiệm với các nước có kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực pháp luật
cạnh tranh nói chungvà trong việc đấu tranh chống hành vi cạnh tranh không
lành mạnh nói riêng để tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan quản lý cạnh tranh
của Việt Nam và các cán bộ của cơ quan ấy có thêm kiến thức, năng lực và trình
độ để xử lýcác vấn đề mà thực tiễn Việt Nam đặt ra.
-Đổi mới quy trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về cạnhtranh trong
lĩnh vực quảng cáo. Việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện Luật Cạnh tranh đã
được đưa vàoChương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2017. Tuy nhiên để
Luật này đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, cần phải có sự đổi mới quy trình xây
dựng và hoàn thiện. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 đã có
những quy đ
ịnh mới nhằm đổi mới cơ bản quy trình xây dựng, ban hành vănbản
theo hướng tách bạch quy trình xây dựng chính sách với quy trình soạn thảo

77
luật…, trong đó quy đ
ịnh về quy trình xây dựng chính sách theo hướngchính
sách được thông qua, phê duyệt trước khi bắt đầu soạn thảo văn bảnluật; sửa đổi
một số quy đ
ịnh trong quy trình soạn thảo, thẩm định, thẩm tra,xem xét, thông
qua văn bản pháp luật. B
ởi
vậy, việc hoàn thiện pháp luật vềcạnh tranh trong lĩnh
vực quảng cáo cũng cần đổi mới quy trình theo hướngnày. Trước hết, cần xây
dựng chính sách cạnh tranh cho toàn diện các lĩnhvực của nền kinh tế, trong đó
có lĩnh vực quảng cáo. Chính sách cạnh tranh được hiểu là tập hợp những biện
pháp của Nhà nước nhằm điều tiết hoạt động cạnh tranh và độc quyền trong nền
kinh tế, phù hợp mục đích của Nhà nước trong việc bảo đảm môi trường cạnh
tranh lành mạnh; chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh; chống các
hành vi hạn chế cạnh tranh; chống việc lạm dụng v
ị thế độc quyền hoặc khống
chế th
ị trường của một (hoặc một nhóm) doanh nghiệp có vị thế độc quyền; tạo
điều kiện thuận lợi cho việc gia nhập và rút lui khỏi th
ị trường của các chủ thể
kinh doanh
ở mọi lĩnh vực của nền kinh tế... Chính sách cạnh tranh trong lĩnh
vực quảng cáo cần phù hợp với chính sách quảng cáo và điều này cần có sự phối
hợp trong hoạch đ
ịnh chính sách giữa các cơ quan quản lý nhà nước về cạnh
tranh và cơ quan quản lý nhà nước về quảng cáo. Đối với quy trình xây dựng và
hoàn thiện văn bản pháp luật, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm
2015 cũng đã yêu cầu các cơ quan chủ trì soạn thảo phải tăng cường tính công
khai, minh bạch trong hoạt động xâydựng và ban hành văn bản quy phạm pháp
luật; quy đ
ịnh việc tham gia góp ýkiến xây dựng văn bản quy phạm pháp luật
của các cơ quan, ban ngành cóliên quan và đặc biệt là các chủ thể là đối tượng áp
dụng và các đối tượng ảnh hư
ởng; quy định bắt buộc cơ quan chủ trì soạn thảo
phải giải trình tiếp thu ý kiến; việc đăng Công báo văn bản quy phạm pháp luật
và việc đăng tải và đưatin văn bản quy phạm pháp luật…Đối với việc soạn thảo
các ngh
ị định hướng dẫn thi hành Luật Cạnhtranh trong lĩnh vực quảng cáo, các
cơ quan có trách nhiệm cần tổng kết việcthi hành pháp luật, đánh giá các văn bản
quy phạm pháp luật hiện hành có liên quan; tổ chức nghiên cứu thông tin, tư
liệu, điều ước quốc tế mà Việt Nam làthành viên; xây dựng nội dung của ngh

78
đ
ịnh và đánh giá tác động của
ngh
ịđịnh đối
với đời sống xã hội. Các cơ quan chủ
trì soạn thảo, Ban soạn thảophải ch
ịu trách nhiệm về chất lượng, tính hợp hiến,
hợp pháp, tính khả thi đốivới các nội dung trong dự thảo văn bản pháp luật và
tiến độ xây dựng dự thảo văn bản pháp luật.
Xây dựng pháp luật là một quy trình phức tạp và phải bảo đảm tuân thủ
các yêu cầu chặt chẽ khác nhau tùy thuộc vào thể chế và quan điểm của mỗi
quốc gia, mỗi giai đoạn phát triển của l
ịch sử và những điều kiện kinh tế - xã hội
thực tại. Tuy nhiên, dù quy trình nào hay thể chế nào thì các nguyên tắcnguyên
nghĩa của pháp luật cũng phải được tôn trọng và nhằm thực hiện mục tiêu vì con
người, hướng tới xây dựng một xã hội, một quốc gia phồn vinh vàvăn minh.
Chính vì vậy, trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế thế giới sâu rộng và
xu hướng dân chủ hóa, minh bạch trong quản lý nhà nước hiệnnay đã và đang
đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi các nhà lập pháp, các nhà hoạch đ
ịnh chính
sách phải đổi mới nhiều hơn nữa không chỉ về nội dung củapháp luật, hệ thống
pháp luật mà còn cả quy trình lập pháp để bảo đảm sự tham gia nhiều hơn của
các chủ thể trong xã hội, huy động tối đa sáng kiến, trítuệ của mọi công dân, tổ
chức trong xã hội.
-Tăng cường tính công khai, minh bạch và sự tham gia đóng góp ý kiến
của nhân dân, của đối tượng điều chỉnh, đối tượng ch
ịu sự tácđộng của văn bản
quy phạm pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vựcquảng cáo. Trong những năm
gần đây, mặc dù quy trình xây dựng pháp luật không còn khép kín, hoạt động
triển khai lấy ý kiến của người dân, doanh nghiệp đãđược thực hiện rộng rãi,
công khai, tuy nhiên vẫn chưa đi vào thực chất.Doanh nghiệp tham gia vào hoạt
động xây dựng chính sách và pháp luật cònrất hạn chế, xuất phát từ nhiều
nguyên nhân như: Việc lấy ý kiến đối với dựthảo nhiều khi mang tính hình thức;
không giải trình công khai minh bạch vềcác ý kiến nhận được; lấy ý kiến một lần
và không lấy ý kiến khi có thay đổiquan trọng liên quan đến nghĩa vụ doanh
nghiệp…Ngh
ị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về
Chiếnlược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, đ
ịnh
hướng

79
đến năm 2020 thể hiện rõ quan điểm: “… Bảo đảm để nhân dân tích cực tham
gia vào các hoạt động xây dựng pháp luật” và một trong các giải pháp quan trọng
được nhấn mạnh vai trò của các đơn v
ị nghiên cứu, khuyến khích cơ chế thu hút
“các hiệp hội, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, cácchuyên gia giỏi”
tham gia hoạch đ
ịnh chính sách, pháp luật ở tất cả các quá trình lập pháp cũng
như xác đ
ịnh cơ chế phản biện xã hội và tiếp thu ý kiến. Hiến pháp năm 2013
cũng đã quy đ
ịnh khá cụ thể nguyên tắc về quyền thamgia quản lý nhà nước và
xã hội của công dân. Để cơ chế tham vấn hiệu quả hơn, trong quá trình xây dựng
văn bảnquy phạm pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo phải có sự
tham gia của các chủ thể liên quan đến văn bản đó, cụ thể là các doanh nghiệp
kinh doanh trong lĩnh vực quảng cáo. Từ các ý kiến tham vấn của doanh nghiệp,
Chính phủ sẽ xem xét những văn bản chưa có tính khả thi đối với doanh nghiệp
trong lĩnh vực này để tránh tình trạng phải sửa đổi khi văn bản đã đi vào cuộc
sống. Về nguyên tắc, dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật sẽ được xin ý kiến
góp ý, phản biện của tất cả các đối tượng ch
ịu tác động củavăn bản đó. Từng cá
nhân, pháp nhân đều có thể tự mình nêu các ý kiến góp ý, phản biện hoặc thông
qua tổ chức đại diện của mình.
Chúng ta cần đổi mới cách thức và phương pháp huy động sự tham giacủa
doanh nghiệp vào quá trình xây dựng chính sách pháp luật, trong đó tập trung
vào việc tăng cường năng lực đóng góp ý kiến, phản biện chính sáchcủa doanh
nghiệp thông qua các buổi tập huấn chuyên sâu; m
ở rộng đối tác lấy ý kiến;
thường xuyên tổ chức các cuộc đối thoại trực tiếp giữa cơ quannhà nước với
doanh nghiệp để truyền tải trực tiếp ý kiến của các doanhnghiệp, chuyên gia, nhà
hoạt động thực tiễn về các vấn đề chính sách hoặc dựthảo văn bản quy phạm
pháp luật; phát huy vai trò của báo chí trong xây dựngchính sách, pháp luật về
cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo…
Quyền tham gia xây dựng pháp luật là biểu hiện cụ thể của quyền thamgia
quản lý nhà nước và xã hội. Trong điều kiện m
ở rộng dân chủ và xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân thì sự

80
tham gia của tổ chức xã hội vào quá trình xây dựng pháp luật là một trong những
điều kiện cần thiết để đảm bảo cho pháp luật phản ánhđược ý chí, nguyện vọng
của nhân dân. Sự tham gia của công dân, tổ chức xã hội vào quá trình xây dựng
pháp luật cũng chính là cơ hội để tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật,
hay nói khác đi đó cũng là quá trình để cácbên hiểu nhau và vận động sự ủng hộ
lẫn nhau trong việc thiết lập một cơ chế, khuôn khổ mang tính pháp lý chung đối
với xã hội. Bên cạnh đó, với chứcnăng vốn có của các tổ chức xã hội, cũng như
theo kinh nghiệm của nhiềunước, việc tham gia của tổ chức xã hội trong quá
trình xây dựng pháp luật rõ ràng là một sự giám sát khách quan, hữu hiệu đối với
các quá trình trong quytrình lập pháp và các bên tham gia lập pháp điều này
cũng thể hiện xu hướng tất yếu của xã hội dân chủ hiện đại dù
ở bất kỳ thể chế
nào.
3.3.Gi
ải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật xử lý hành vi cạnh
tranh không l
ành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam
1.Muốn tạo dựng được môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng,
công bằng, đảm bảo phát huy được mọi tiềm năng kinh tế của đất nước và hội
nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, cần chú trọng công tác lập pháp. Việt
Nam cần có một hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất và hoàn thiện; có cơ chế
đảm bảo cho các doanh nghiệp trong nước phát huy nội lực, tăng sức cạnh tranh
trên thương trường. Thông qua việc ban hành mới và sửa đổi, bổ sung những
quy đ
ịnh pháp luật hiện hành để điều chỉnh các quan hệ kinh tế theo sự tác động
của các quy luật kinh tế khách quan. Trong hệ thống các văn bản pháp luật quản
lý kinh tế cần phải hoàn thiện đó, có Luật Cạnh tranh. Đặc biệt, để ngăn chặn
mặt trái của cạnh tranh, pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh cần phải
được hoàn thiện như một nhu cầu mang tính tất yếu. Quá trình hoàn thiện pháp
luật chống cạnh tranh không lành mạnh cần phải chú trọng đến việc điều chỉnh,
bổ sung và hoàn thiện hệ thống chế tài đối với các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh theo hướng sau: - Bổ sung những hành vi cạnh tranh không lành mạnh

81
trong một số lĩnh vực cụ thể, thoả mãn tiêu chí được quy đ
ịnh tại Khoản 4 Điều
3 của Luật Cạnh tranh, theo đó bổ sung các chế tài tương ứng.
-Khi đặt ra các chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, phải
cân nhắc nguyên tắc tỷ lệ; chế tài phải đủ mạnh, đủ nghiêm khắc để răn đe và
ngăn chặn vi phạm.
-Phân đ
ịnh rõ cơ chế áp dụng chế tài đối với hành vi cạnh tranh không
lành mạnh được quy đ
ịnh trong Luật Cạnh tranh với cơ chế áp dụng chế tài do
các văn bản pháp luật khác quy đ
ịnh; hoàn thiện các chế tài dân sự và hình sự. 2.
Để công tác đấu tranh phòng, chống cạnh tranh không lành mạnh phát huy hiệu
quả trong thực tế, cần nâng cao năng lực thực thi pháp luật của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền nói chung và hiệu lực thực thi nhiệm vụ của cơ quan quản
lý cạnh tranh nói riêng.
-Nâng cao nhận thức cho cộng đồng doanh nghiệp và quầnchúng nhân
dân về pháp luật về cạnh tranh nói chung và pháp luật vềcạnh tranh trong lĩnh
vực quảng cáo nói riêngMặc dù đã trải qua 30 năm phát triển nền kinh tế th

trường đ
ịnh hướngxã hội chủ nghĩa và hơn 10 năm Luật Cạnh tranh năm 2004 đi
vào cuộc sống,song nhận thức của quần chúng xã hội nói chung và cộng đồng
doanh nghiệpViệt Nam nói riêng về vấn đề cạnh tranh, pháp luật cạnh tranh vẫn
còn rất hạn chế. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cạnh tranh chưa được chú
trọng nhiều. Một số cơ s
ở đào tạo về pháp luật và kinh tế có đưa vào nội dung
chương trình đào tạo pháp luật cạnh tranh, song mới chỉ dừng lại
ở những vấn đề
mang tính khái quát. Thực tế hiện nay, Việt Nam đang thiếu những chương trình
phổ biến, giáo dục pháp luật về cạnh tranh mang tính tổng thể, cơ bản.Cũng b
ởi
vậy, khái niệm cạnh tranh trong kinh doanh vẫn chỉ là khái niệm truyền miệng
nhưng rất ít người hiểu nó một cách tường tận, kể cả cộng đồngcác doanh
nghiệp, cho dù nó được coi như là một phần rất quan trọng của chiến lược kinh
doanh. Theo một khảo sát do Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Công thương thực hiện
mới đây cho thấy, về tổng thể, nhận biết mới dừng lại
ở mức độ “biết Luật Cạnh
tranh đã được ban hành”. Các đối tượng được hỏi cũng biết được sơ bộ các khái

82
niệm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh,hành vi hạn chế cạnh tranh. Tuy
nhiên số doanh nghiệp hiểu chi tiết về Luật Cạnh tranh như biết về các hành vi b

ngăn cấm, mức phạt, thủ tục khiếu nại và giải quyết vụ việc cạnh tranh còn khá
khiêm tốn. Khi nhận thức về Luậtcòn chưa cao, nhận thức về cơ quan quản lý
cạnh tranh cũng còn thấp. Các cơ quan chứcnăng cần có nhiều biện pháp đa dạng
để tuyên truyền pháp luật cạnh tranhrộng rãi đến các chủ thể trong xã hội, đặc
biệt là các doanh nghiệp và các chủthể kinh doanh.
Đối tượng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về cạnh tranhkhông
lành mạnh chủ yếu nên hướng tới là cộng đồng doanh nghiệp. Nội Dung tuyên
truyền cần giúp các doanh nghiệp nhận diện rõ những hành vi b
ịcoi
là cạnh tranh
không lành mạnh và quyền khiếu nại, kh
ởi
kiện của doanhnghiệp b
ị xâm
hại, các
hình thức chế tài có thể được áp dụng đối với doanhnghiệp có hành vi vi phạm.
Các nội dung khác như trình tự, thủ tục khiếu nại Kh
ởi kiện đối với hành vi cạnh
tranh không lành mạnh, phạm vi chứng minh,kinh nghiệm xử lý hành vi cạnh
tranh không lành mạnh cũng cần được tuyêntruyền, phổ biến.
Để Luật Cạnh tranh đi vào cuộc sống, phát huy được vai trò của nótrong
mọi mặt hoạt động của nền kinh tế, đặc biệt là trong bối cảnh nước tađang hội
nhập mạnh mẽ vào kinh tế quốc tế, trước hết phải tăng cường tuyêntruyền, phổ
biến Luật Cạnh tranh. Bên cạnh đó, các nhà làm luật cũng cần liêntục rà soát
nhằm sửa đổi những điểm bất cập, bổ sung và hoàn thiện pháp luật;các thủ tục
khi doanh nghiệp muốn khiếu nại cũng cần phải đơn giản, tạo điềukiện cho
doanh nghiệp tiếp cận với các cơ quan có thẩm quyền trong việc giảiquyết các
vụ việc liên quan đến cạnh tranh.
Theo quy đ
ịnh của Luật Cạnh tranh hiện hành, có thể thấy vai trò của cơ
quan quản lý cạnh tranh là trung tâm, quan trọng nhất, quyết đ
ịnh hiệu quả của
công tác đấu tranh phòng, chống cạnh tranh không lành mạnh. Cơ quan quản lý
cạnh tranh không chỉ có nhiệm vụ điều tra mà còn xử lý và áp dụng các chế tài
đối với các chủ thể có hành vi vi phạm. Do đó, chất lượng hoạt động của cơ quan
này có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Bên cạnh chất lượng của các quy phạm pháp

83
luật điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh và phương thức tổ chức
thực hiện thì yếu tố con người đóng vai trò quyết đ
ịnh. Nâng cao hiệu quả của
công tác đấu tranh phòng, chống cạnh tranh không lành mạnhcần thiết phải nâng
cao hoạt động của cơ quan quản lý cạnh tranh, trong đó chú trọng chất lượng đội
ngũ. 3. Chú trọng công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật chống
cạnh tranh không lành mạnh trong cộng đồng dân cư để nâng cao khả năng tự
bảo vệ của các đối tượng có liên quan; đảm bảo cho pháp luật về chế tài đối với
hành vi cạnh tranh không lành mạnh có hiệu lực thực tế. Hiểu biết pháp luật là
nhu cầu của các đối tượng tham gia vào các quan hệ xã hội có sự điều chỉnh của
pháp luật. Việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là nhiệm vụ thường
xuyên, cấp bách của các cơ quan nhà nước, vì đó là cầu nối giữa pháp luật với
đời sống xã hội. Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh cần thiết phải
đến được với các chủ thể kinh doanh và người tiêu dùng. B
ởi lẽ, nếu các chủ thể
đó có những kiến thức pháp luật cơ bản thì họ sẽ có khả năng tự bảo vệ, hình
thành thói quen, xây dựng đạo đức kinh doanh. Qua đó, các vụ vi phạm sẽ giảm
bớt và sớm được xử lý, pháp luật sẽ phát huy được hiệu lực, tạo điều kiện xây
dựng môi trường kinh doanh lành mạnh, công bằng và bình đẳng.

84
Tiểu kết chương
Từ các nghiên cứu lý luận và thực tiễn, cho phép đưa ra những quanđiểm
và giải pháp để hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảngcáo.
Trong chương này, luận án đã luận giải 4 quan điểm hoàn thiện pháp luậtvề cạnh
tranh trong lĩnh vực quảng cáo, bao gồm: Hoàn thiện pháp luật cạnhtranh trong
lĩnh vực quảng cáo cần phải phù hợp với quan điểm hoàn thiện thểchế kinh tế th

trường đ
ịnh hướng xã hội chủ nghĩa và bối cảnh hội nhập kinhtế quốc tế; hoàn
thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo phảiđáp ứng các tiêu chí
hoàn thiện pháp luật nhằm bảo đảm cạnh tranh côngbằng, lành mạnh giữa các
chủ thể kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế;hoàn thiện pháp luật về cạnh
tranh trong lĩnh vực quảng cáo cần quan tâm coitrọng công tác tổng kết thực tiễn
thực hiện pháp luật và công tác rà soát, hệt hống hóa pháp luật; và hoàn thiện
pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực quảngcáo cần đảm bảo nguyên tắc độc lập
trong tổ chức và hoạt động của cơ quan quản lý cạnh tranh…
Từ các quan điểm hoàn thiện
ở trên đã đề xuất các nhóm giảipháp hoàn thiện
pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo, bao gồm:
Hoàn thiện nội dung pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo; đổi mới
quy trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng
cáo; tăng cường tính công khai, minh bạch và sự tham gia đóng góp ý kiến của
nhân dân, của đối tượng điều chỉnh, đối tượng ch
ịu sự tác động củavăn bản quy
phạm pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo; nâng caonhận thức cho
cộng đồng doanh nghiệp và quần chúng nhân dân về pháp luậtvề cạnh tranh nói
chung và pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo nói riêng.

85
KẾT LUẬN
Quảng cáo là có vai trò to lớn đối với các doanh nghiệp và đóng góp đáng
kể vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Quảng cáo không chỉ đơn giản
là giới thiệu , quảng bá sản phẩm cho người tiêu dùng biết mà là một công cụ
hiệu quả để hỗ trợ bán hàng và giảm chi phí phân phối cho doanh nghiệp. Cũng
như hỗ trợ cho chiến lược sản phẩm, giá cả và phân phối. Vai trò của quảng cáo
đã góp phần tạo ra một môi trường cạnh tranh, nâng cao chất lượng, cải thiện
thiết kế và d
ịch vụ.
Nền kinh tế th

trường ngày càng phát triển mạnh thì cùng theo đó sự cạnh
tranh càng cao. Theo đó, cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo ngày càng diễn ra
mạnh và ảnh hư
ởng rất lớn đền môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp. Vì
vậy, cùng theo đó Nhà nước cũng phải quản lý các hoạt động quảng cáo kinh
doanh thương mại của các doanh nghiệp thông qua pháp lý. Đây cũng được coi
là công cụ đắc lực nhất mà nhà nước nào cũng phải sử dụng. Các quy đ
ịnh pháp
luật được xây dựng dựa trên những nguyên tắc hoạt động kinh doanh trong thực
tiến để đảm bảo tự do kinh doanh và sự phát triển nền kinh tế bền vững của một
đất nước. Liên quan đến hoạt động quảng cáo thì các nhà làm luật khi xây dựng,
điều chỉnh, hoàn thiện pháp luật có sự liên kết chặt chẽ với nhau để không b

chồng chéo luật khi xử lý vi phạm Vì vậy các nhà làm luật phải có sự nghiên cứu
nghiêm túc.
Luận văn đã nghiên cứu và phân tích một cách khát quát và có hệ thống
dưới góc độ lý luận kinh tế cụ thể là cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực
quảng cáo thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện nay. Bản thân người
nghiên cứu vấn đề này cũng đã đề xuất một số ý kiến để hoàn thiện hệ thống
pháp luật. Do còn hạn chế về kinh nghiệm nghiên cứu và thực tế nghiên cứu đề
tài nên không thế tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được các bạn đọc đóng
góp thêm ý kiến để đề tài này được hoàn thiện hơn.

86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Cẩm An (2014), Quảng cáo gây nhầm lẫn: Sunhouse là của nước nào?,
www.thoibaokinhdoanh.vn, (ngày 05/9/2004).
2.Gia Bảo (2014), Công ty Bảo Khang tiêu hủy quảng cáo gây hiểu nhầm,
www.hanoimoi.com.vn, (ngày 05/8/2014).
3.Ban chấp hành trung ương (2005), Ngh
ị quyết số 48-NQ/TW ngày
24/5/2005 của Bộ Chính tr
ị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, đ
ịnh hướng đến năm 2020
4.Như Bình (2011), Cuộc chiến mỳ gói, www.tuoitre.vn, (ngày 28/6/2011).
5.Bộ Công Thương (2013), Quyết đ
ịnh số 848/QĐ-BCT ngày 05/02/2013
quy đ
ịnh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục
Quản lý cạnh tranh, Hà Nội.
6.Bộ Thương mại (2003), Luật thương mại lành mạnh của Đài Loan, (Tài
liệu d
ịch tham khảo), Hà Nội.
7.C M Ănghen, Toàn lập (1994), Nxb. Chính tr

Quốc gia
8.Chính phủ (2005), Nghị định số 116/2005/NĐ-CP quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Cạnh tranh
9.Chính phủ (2006), Nghị định 06/2006/NĐ-CP ngày 9 tháng 1 năm 2006
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cục quản
lý cạnh tranh
10.Chính phủ (2013), Nghị định 158/2013/NĐ-CPquy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo
11.Chính phủ (2014), Nghị định 71/2014/NĐ-CP ngày 21/7/2014 quy định
chi tiết luật cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh
tranh
12.Công ước Paris 1883 về bảo hộ quyền s

hữu công nghiệp. (Tài liệu d
ịch).
13.Quốc hội (1997), Luật Thương mại năm 1997
14.Quốc hội (2004), Luật cạnh tranh năm 2004
15.Quốc hội (2005), Luật Thương mại năm 2005
16.Quốc hội (2012), Luật quảng cáo năm 2012
17.Quốc hội (2012), Luật Xử phạt vi phạm hành chính năm 2012

87
18.Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013
19.Quốc hội (2014), Luật Đầu tư 2014
20.Quốc hội (2014), Luật Doanh nghiệp năm 2014
21.Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi năm 2017
22.Quốc hội (2015), Luật Dân sự năm 2015
23.Quốc hội (2018), Luật cạnh tranh năm 2018
24.Từ điển kinh doanh của Anh (xuất bản năm 1992)
25.Bá Tú (2013), Loạn quảng cáo thổi phồng, www.dddn.com.vn, (ngày
28/8/2013).
26.Lê Anh Tuấn (2002), “Thực trạng cạnh tranh không lành mạnh và điều
chỉnh pháp luật đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh

Việt Nam”,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (4), tr. 38-45.
27.Trung tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam (1995) Từ điển Bách
khoa Việt Nam (1995), Hà Nội.
28.Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (2001), Cạnh tranh và xây dựng
pháp luật cạnh tranh
ở Việt Nam hiện nay, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội.
29.Vụ Pháp chế - Bộ Công thương (2011), Cạnh tranh không lành mạnh và
kinh nghiệm quốc tế, Nxb Công thương, Hà Nội.
30.Vụ Pháp chế - Bộ Công thương (2011), Nghiên cứu, đành giá và tổng kết
5 năm thi hành Luật Cạnh tranh, Nxb Công thương, Hà Nội.