1. Nhiễm sắc thể ở tế bào prokaryote được tìm thấy trong vùng nhân sơ của tế bào và có dạng vòng . T ế bào prokaryote không có nhân có màng bao bọc. Mỗi nhiễm sắc thể là một phân tử DNA vòng, chiếm một vùng không gian trong tế bào gọi là vùng nhân, có kích thước lớn nhất so với các DNA vòng còn lại (là các plasmid).
Mỗi tế bào nhân sơ chỉ có một nhiễm sắc thể, trong khi một tế bào nhân thực thường có nhiều nhiễm sắc thể. Do đó, tế bào nhân sơ là tế bào đơn bội (n), không có cặp alen trong bộ nhiễm sắc thể. Nhiễm sắc thể nhân sơ là phân tử DNA không có kết hợp với histon, nên ở trạng thái gọi là " DNA trần ".
Plasmid Vì đây là một phân tử DNA không có đặc điểm như nhiễm sắc thể của nhân thực, nhưng lại mang hầu hết các thông tin di truyền trong bộ gen của tế bào, nên còn gọi là DNA nhiễm sắc thể
Plasmid Plasmid là những phân tử DNA nhỏ, tròn chứa các gen không cần thiết của tế bào. Mặc dù plasmid có thể có nhiều kích cỡ khác nhau (dao động từ khoảng một nghìn cặp bazơ đến hàng trăm nghìn), nhưng chúng thường chỉ có một số lượng nhỏ gen. Kháng kháng sinh là một đặc điểm thường được quy cho các gen trên plasmid.
2. Mỗi nhiễm sắc thể chứa một phân tử DNA được xoắn siêu xoắn và nén chặt bởi các protein liên kết với nhân (NAP). Giống như DNA nhân chuẩn, DNA nhân sơ trải qua quá trình siêu xoắn, nhưng trước tiên nó không được quấn quanh các cụm histone. Siêu xoắn sử dụng ứng dụng của lực căng để xoắn một phân tử DNA, do đó nó quấn quanh chính nó, tạo thành các vòng lặp. Việc gấp DNA ở tế bào sinh vật nhân sơ được tạo điều kiện thuận lợi bởi các protein liên kết với nucleoid (NAP) thay vì histon. NAP là các protein trong nucleoid có thể liên kết với phân tử DNA, tạo ra các nếp gấp và uốn cong, và chúng tham gia vào các quá trình như sao chép và phiên mã DNA.
Do ở dạng vòng, không có hai đầu mút, nên nhiễm sắc thể nhân sơ không có telomere, cũng không có trình tự khởi đầu nhân đôi như ở tế bào nhân thực. Bởi vậy, quá trình nhân đôi của nhiễm sắc thể này phải bắt đầu từ một điểm gọi là "Ori" https://www.slideshare.net/slideshow/chromosome-54646725/54646725
- Để vừa với tế bào vi khuẩn, DNA nhiễm sắc thể phải được nén chặt khoảng 1000 lần. Điều này liên quan đến sự hình thành các vòng. Số lượng vòng thay đổi tùy theo kích thước của nhiễm sắc thể vi khuẩn và loài. - Siêu xoắn DNA là cách quan trọng thứ hai để nén chặt nhiễm sắc thể của vi khuẩn. Siêu xoắn trong các vòng lặp tạo ra DNA nhỏ gọn hơn.