Báo cáo Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao

topvpnvn 11 views 86 slides Nov 03, 2024
Slide 1
Slide 1 of 86
Slide 1
1
Slide 2
2
Slide 3
3
Slide 4
4
Slide 5
5
Slide 6
6
Slide 7
7
Slide 8
8
Slide 9
9
Slide 10
10
Slide 11
11
Slide 12
12
Slide 13
13
Slide 14
14
Slide 15
15
Slide 16
16
Slide 17
17
Slide 18
18
Slide 19
19
Slide 20
20
Slide 21
21
Slide 22
22
Slide 23
23
Slide 24
24
Slide 25
25
Slide 26
26
Slide 27
27
Slide 28
28
Slide 29
29
Slide 30
30
Slide 31
31
Slide 32
32
Slide 33
33
Slide 34
34
Slide 35
35
Slide 36
36
Slide 37
37
Slide 38
38
Slide 39
39
Slide 40
40
Slide 41
41
Slide 42
42
Slide 43
43
Slide 44
44
Slide 45
45
Slide 46
46
Slide 47
47
Slide 48
48
Slide 49
49
Slide 50
50
Slide 51
51
Slide 52
52
Slide 53
53
Slide 54
54
Slide 55
55
Slide 56
56
Slide 57
57
Slide 58
58
Slide 59
59
Slide 60
60
Slide 61
61
Slide 62
62
Slide 63
63
Slide 64
64
Slide 65
65
Slide 66
66
Slide 67
67
Slide 68
68
Slide 69
69
Slide 70
70
Slide 71
71
Slide 72
72
Slide 73
73
Slide 74
74
Slide 75
75
Slide 76
76
Slide 77
77
Slide 78
78
Slide 79
79
Slide 80
80
Slide 81
81
Slide 82
82
Slide 83
83
Slide 84
84
Slide 85
85
Slide 86
86

About This Presentation

Báo cáo Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
Báo cáo này được hoàn thành với sự hỗ trợ về mặt tài chính của Cơ quan Phát triển Quốc
tế Vương quốc Anh...


Slide Content

BÁO CÁO
Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu
ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng
và cải thiện sinh kế vùng cao
Tô Xuân Phúc & Trần Hữu Nghị
Tháng 6 - 2014https://topvpn.vn/

BÁO CÁO
Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu
ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng
và cải thiện sinh kế vùng cao
Tháng 6 - 2014
Tô Xuân Phúc & Trần Hữu Nghịhttps://topvpn.vn/

Xuất bản: Tropenbos International Viet Nam
Bản quyền: @2014 Tropenbos International Viet Nam
Trích dẫn: Tô Xuân Phúc và Trần Hữu Nghị. 2014. Báo cáo Giao đất giao rừng
trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và
cải thiện sinh kế vùng cao. Tropenbos International Viet Nam, Huế , Việt Nam.
Liên hệ: Trần Hữu Nghị (Giám đốc, Tropenbos International Viet Nam)
Email: [email protected];
Tô Xuân Phúc (Chuyên gia phân tích chính sách, Forest Trends);
Email: [email protected]
Nơi cung cấp: Tropenbos International Viet Nam
149 Trần Phú, Huế, Việt Nam
ĐT: +84-54-388-6211
Email: [email protected]
www.tropenbos.org
Các quan điểm trình bà y trong ấn phẩm nà y không nhất thiết phản ánh các quan điểm
của Tropenbos International Viet Nam hoặc của Forest Trends.https://topvpn.vn/

Báo cáo Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
Nội dung
Lời cảm ơn iv
Các từ viết tắt v
Tóm tắt 1
Giới thiệu 05
1. Tổng quan đất rừng Việt Nam 08
2. Một số thể chế lâm nghiệp cơ bản từ những năm 1950 đến nay 14
3. Giao đất giao rừng tại Việt Nam 23
4. Tiến trình thực hiện giao đất cho hộ: từ lý thuyết đến thực tiễn 40
5. Tác động của chính sách giao đất giao rừng 44
6. GĐGR và ý nghĩa đối với FLEGT và REDD+ 55
7. Một số tiềm năng thay đổi thông qua GĐGR 59
8. Kết luận 74
9. Tài liệu tham khảo 76
https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
iv
Báo cáo nà y được hoàn thành với sự hỗ trợ về mặt tài chính của Cơ quan Phát triển Quốc
tế Vương quốc Anh (DFID), Cơ quan Hợp tác Phát triển Vương quốc Na Uy (NORAD) thông
qua tổ chức Forest Trends, và hỗ trợ tài chính từ Chính phủ Hà Lan thông qua tổ chức
Tropenbos International Việt Nam. Nhóm tác giả xin cảm ơn các góp ý quan trọng nhằm nâng
cao chất lượng bản thảo của Báo cáo nà y từ GS.TSKH Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Bộ
Tài nguyên và Môi trường, GS.TSKH Nguyễn Ngọc Lung, Viện trưởng Viện Quản lý Rừng bền
vững và Chứng chỉ rừng, TS. Phạm Xuân Phương, Hiệp hội Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam,
TS. Võ Đình Tuyên, Chuyên viên cao cấp, Văn phòng Chính phủ và TS. Nguyễn Văn Tiến, Vụ
trưởng Vụ Nông nghiệp Nông thôn, Ban Kinh tế Trung ương. Nội dung cơ bản của Báo cáo
đã được trình bà y tại Hội thảo Vai trò của giao đất giao rừng trong tái cấu trúc ngành nông
nghiệp do Tổ chức Forest Trends, Tropenbos International Việt Nam và Viện Quản lý rừng Bền
vững và Chứng chỉ rừng tổ chức tại Hà Nội vào tháng 4 năm 2014. Xin cảm ơn các ý kiến đóng
góp từ các vị đại biểu tham gia Hội thảo, đặc biệt là các ý kiến từ đại diện các cơ quan quản lý
về đất lâm nghiệp và rừng từ các tỉnh Sơn La, Hòa Bình, Lào Cai, Yên Bái và Bắc Kạn. Các quan
điểm của tác giả thể hiện trong Báo cáo không nhất thiết phản ánh quan điểm của các tổ
chức tài trợ cho việc thực hiện Báo cáo cũng như các cơ quan nơi các tác giả đang công tác.
Lời cảm ơn https://topvpn.vn/

Báo cáo Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
v
Các từ viết tắt
BQL Ban Quản lý
BVPRT Bảo vệ và Phát triển Rừng
CTLN Công ty Lâm nghiệp
DFID Cơ quan Phát triển Quốc tế Vương quốc Anh
EU Cộng đồng Châu Âu
FLEGT Thực thi luật lâm nghiệp, quản trị rừng và thương mại lâm sản
GĐGR Giao đất giao rừng
LNCĐ Lâm nghiệp Cộng đồng
LTQD Lâm trường quốc doanh
NN&PTNT Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
NORAD Cơ quan Hợp tác Phát triển Vương quốc Na Uy
RĐD Rừng đặc dụng
REDD+ Giảm phát thải do mất rừng và suy thoái rừng
RPH Rừng Phòng hộ
RSX Rừng Sản xuất
TLAS Hệ thống đảm bảo tính hợp pháp của gỗ
TN&MT Tài Nguyên và Môi trường
UBND Ủy ban Nhân dân
VPA Hiệp định Đối tác Tự nguyệnhttps://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
1
Tóm tắt
Chính sách giao đất, giao rừng (GĐGR) là một trong những chính sách trọng tâm của Nhà
nước, được thực hiện từ những năm 90, theo đó đất lâm nghiệp được giao cho các nhóm đối
tượng sử dụng, là các nhóm thuộc Nhà nước (ví dụ như Lâm trường Quốc doanh/LTQD, nay
là các Công ty Lâm nghiệp/CTLN) và ngoài Nhà nước (hộ gia đình, cộng đồng), với mục đích
tất cả các mảnh đất đều phải có chủ. GĐGR được kỳ vọng góp phần nâng cao chất lượng
rừng, tăng độ che phủ rừng vàgóp phần xóa đói giảm nghèo vùng cao.
Báo cáo “Chính sách giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội
phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao”đánh giá các kết quả của chính sách GĐGR là
một báo cáo tổng hợp, được dựa trên các kết quả nghiên cứu trước đây về GĐGR. Báo cáo
được thực hiện trong bối cảnh Bộ Chính trị vừa có kết luận đánh giá Nghị Quyết số 28/NQ-
TW năm 2003 và Nghị Quyết số 30-NQ/TW ngà y 12 tháng 3 năm 2014 của Bộ Chính trị về
tiếp tục sắp xếp, đổi mới phát triển, nâng cao hiệu quả của hoạt động của công ty nông lâm
nghiệp và Đề án tái cơ cấu ngành lâm nghiệp năm 2013 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn (NN&PTNT). Bên cạnh đó, Báo cáo được thực hiện trong bối cảnh ngành Lâm
nghiệp đang hội nhập mạnh mẽ, với sự tham gia tích cực của Việt Nam vào các Sáng kiến
quốc tế về biến đổi khí hậu như và thương mại lâm sản bền vững.
Thuật ngữ GĐGR được sử dụng tương đối thường xuyên trong các văn bản của các cơ quan
quản lý, các cơ quan thông tin đại chúng và ngôn ngữ hàng ngà y, tuy nhiên thực tế GĐGR
được hiểu theo nhiều cách khác nhau, với đất đai được trao cho các nhóm sử dụng theo cơ
chế và chính sách khác nhau do Trung ương và địa phương quy định. Báo cáo nà y phân tích
3 vấn đề chính: (i) Giao đất-rừng cho các tổ chức của Nhà nước, chủ yếu làcác CTLN, (ii) giao
đất-rừngcho các hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng, và (iii) giao khoán đất-rừng cho các hộ
gia đình, cá nhân.
Có sự khác biệt cơ bản giữa 2 hình thức giao và giao khoán đất đối với hộ gia đình và cá nhân.
Cụ thể, giao đất –rừng là mối quan hệ giữa Nhà nước và dân, được điều chỉnh bằng pháp luật
hành chính, trong đó Nhà nước đóng vai trò đại diện chủ sở hữu đất đai. Giao khoán đất-rừng
là mối quan hệ giữa các CTLN với người dân, được điều chỉnh bằng pháp luật dân sự, trong
đó Nhà nước chỉ đóng vai trò tạo khung pháp lý, quy định và điều chỉnh mối quan hệ giữa
các CTLN được Nhà nước giao đất-rừng và người dân được các CTLN giao khoán đất-rừng.
Báo cáo chỉ ra rằngviệc Nhà nước giao đất lâm nghiệp cho các LTQD (sau nà y là các CTLN) https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
2
thông qua việc công nhận quyền sử dụng đất đã giao cho các LTQD trước đây có ảnh hưởng
rất lớn đến quỹ đất lâm nghiệp được giao cho hộ gia đình và cá nhân. Mặc dù Nhà nước đã
và đang cố gắng thực hiện việc phân quyền trong quản lý tài nguyên rừng, với đất được giao
cho các hộ gia đình, cá nhân nhằm cải thiện sinh kế cho hộ, nâng độ che phủ rừng. Tuy nhiên,
đến nay các chính sách đất đai vẫn còn duy trì nhiều ưu tiên cho lâm nghiệp Nhà nước. Điều
này thể hiện qua các con số: 148 CTLN được giao khoảng 2,2 triệu ha đất lâm nghiệp, với 82%
là đất rừng sản xuất; 1,2 triệu hộ được giao 4,46 triệu ha, với 70% là đất rừng sản xuất; các Ban
quản lý rừng được giao 4,5 triệu ha, trong đó đất rừng sản xuất 0,8 triệu ha, đất rừng phòng
hộ 2 triệu ha, và đất rừng đặc dụng 1,8 triệu ha.
Báo cáo cho thấy rằng đất được giao cho các hộ gia đình và cá nhân đã phát huy được hiệu
quả trong việc cải thiện sinh kế cho hộ, góp phần nâng cao độ che phủ rừng, thông qua việc
hộ mở rộng diện tích rừng trồng. Tuy nhiên đến nay theo đánh giá của Quốc hội, tình trạng
thiếu đất canh tác, với gần 300.000 hộ ở nhiều địa phương vẫn còn thiếu đất canh tác, là
nguyên nhân chính dẫn đến tỷ lệ đói nghèo cao ở vùng núi. Hình thức quản lý lâm nghiệp
Nhà nước hiện nay với nhiều ưu tiên dành cho CTLN, với việc duy trì quỹ đất rất lớn cho các
CTLN đã và đang thể hiện một số tồn tại như quản lý và sử dụng đất của một số CTLN không
hiệu quả, bao gồm cả việc ‘phát canh thu tô’ như Quốc hội đã đánh giá.Các CTLN được giao
sử dụng một diện tích đất lớn, tuy nhiên không hiệu quả trong bối cảnh người dân thiếu đất
canh táclàm phát sinh mâu thuẫn đất đai giữa người dân địa phương và các CTLN tồn tại ở
nhiều nơi, chất lượng rừng tự nhiên ở một số nơi, đặc biệt là vùng Tây Nguyên vẫn đang suy
giảm. Sự bất bình đẳng trong tiếp cận đối với đất đai giữa người dân và CTLN được tạo ra
bởi chính sách và một số hệ lụy đã được chỉ ra trong Báo cáo Tổng kết Nghị quyết 28 của Bộ
Chính trị, và trong Nghị Quyết 30/NQ-TW của Bộ Chính trị.
Đến nay đất được giao cho hộ đã và đang phát huy được tính hiệu quả trong khi đất giao
cho các CTLN chưa thể hiện được điều nà y. Tình trạng ‘phát canh thu tô’ và mâu thuẫn đất đai
giữa CTLN và người dân địa phương do người thiếu đất đặt những câu hỏi quan trọng đối
với các nhà hoạch định chính sách: (i) tại sao cần phải duy trì hình thức lâm nghiệp Nhà nước
với hiệu quả sử dụng đất và bảo vệ rừng hạn chế? (ii) hình thức lâm nghiệp Nhà nước tạo cơ
hội cho ‘phát canh thu tô’, thông thường được các CTLN tạo ra thông qua cơ chế ‘giao khoán’
cho người dân với hiệu quả sử dụng đất thấp, vậy tại sao Nhà nước không thực hiện việc
giao đất trực tiếp cho các hộ gia đình, thay vì giao đất cho CTLN từ đó tạo cơ hội cho Công ty
thực hiện việc giao khoán với các hộ? Giao đất trực tiếp cho hộ thay vì khoán đất cho hộ giúp
làm giảm chi phí giao dịch và tạo động lực cho hộ sử dụng đất hiệu quả bởi hộ đạt được lợi
ích kinh tế cao hơn. Cơ chế giao khoán cho hộ có thể phát huy hiệu quả nếu Công ty có thể
mạnh về vốn, công nghệ, đầu tư hạ tầng kết hợp với hộ có thế mạnh về lao động. Tuy nhiên, https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
3
hiện các CTLN đều thiếu các thế mạnh nà y.
Đề án Tái cơ cấu ngành Lâm nghiệp của Bộ NN&PTNT và Nghị quyết 30 của Bộ Chính trị đã
mở ra những cơ hội mới, bao gồm ‘đổi mới’, ‘tái cơ cấu’, ‘nâng cao hiệu quả hoạt động’ nhằm
giải quyết các tồn tại hiện nay của nền lâm nghiệp Nhà nước. Các nội dung cơ bản của Đề án
và Nghị quyết bao gồm việc cổ phần hóa một số CTLN đang quản lý chủ yếu diện tích rừng
sản xuất là rừng trồng; chuyển đổi một số CTLN quản lý rừng tự nhiên sang Ban quản lý rừng,
hoạt động theo hình thức công ích; giải thể một số CTLN hoạt động thua lỗ trong nhiều năm.
Các hướng đi mới nà y, và đặc biệt trong bối cảnh nền lâm nghiệp hội nhập, ‘đổi mới’, ‘tái cơ
cấu’ và ‘nâng cao hiệu quả hoạt động’ nên được thực hiện theo cách tạo ra sự dịch chuyển
trong phương thức quản lý, chuyển đổi từ hình thức quản lý lâm nghiệp Nhà nước với trọng
tâm là các CTLN sang hình thức quản lý lấy hộ gia đình và cộng đồng làm trung tâm. Để thực
hiện điều nà y đòi hỏi cần có những bước đột phá trong cải cách thể chế lâm nghiệp và đất
đai, nhằm dịch chuyển đất đai từ các CTLN, đất do xã đang quản lý sang các hộ và cộng đồng.
Bên cạnh đó cần phải có những cam kết chính trị mạnh mẽ cả ở Trung ương và địa phương
và phân bổ nguồn lực cần thiết để đảm bảo những chính sách mới được thực thi hiệu quả
và đồng bộ ở các cấp.https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
4https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
5
Giới thiệu
Việt Nam có gần15,4 triệu héc ta (ha) đất lâm nghiệp, trong đó có trên 13 triệu ha là đất có
rừng. Hiến pháp Việt Nam quy định đất và tài nguyên thiên nhiên, bao gồm cả tài nguyên
rừng, là sở hữu toàn dân, do Nhà nước là đại diện làm chủ quản lý.
Hiện nay quản lý và sử dụng đất rừng và tài nguyên rừng nói chung được điều chỉnh bởi Luật
Đất đai và Luật Bảo vệ và Phát triển Rừng (BVPRT) hiện đang có hiệu lực, trong đó Luật Đất
đai quy định việc giao đất Rừng đặc dụng (RĐD), Rừng Phòng hộ (RPH) và Rừng Sản xuất
(RSX) cho các chủ sử dụng, bao gồm cả các chủ thuộc Nhà nước như các Ban Quản lý (BQL) và
CTLN và các chủ không thuộc Nhà nước như các hộ gia đình, cá nhân. Luật Đất đai cũng quy
định việc giao rừng phải gắn với giao đất, với rừng được coi là tài sản ở trên đất. Luật BVPTR
quy định giao rừng, trong đó nhấn mạnh việc giao rừng phải gắn với giao đất lâm nghiệp.
Chính sách giao đất, giao rừng (GĐGR) là một trong những chính sách trọng tâm của Nhà
nước, được thực hiện từ những năm 90, theo đó đất lâm nghiệp được giao cho các nhóm đối
tượng sử dụng, là các nhóm thuộc Nhà nước (ví dụ như Lâm trường Quốc doanh/LTQD, nay
là các Công ty Lâm nghiệp/CTLN) và ngoài Nhà nước (hộ gia đình, cộng đồng), với mục đích
làm cho đất có chủ. GĐGR được kỳ vọng góp phần nâng cao chất lượng rừng, tăng độ che
phủ rừng và góp phần xóa đói giảm nghèo vùng cao.
Có sự khác biệt cơ bản giữa giao và giao khoán đối với hộ gia đình và cá nhân. Cụ thể, giao
đất là mối quan hệ giữa Nhà nước và dân, được điều chỉnh bằng pháp luật hành chính, trong
đó Nhà nước đóng vai trò đại diện chủ sở hữu đất đai. Giao khoán đất là mối quan hệ giữa
các CTLN với người dân, được điều chỉnh bằng pháp luật dân sự, trong đó Nhà nước chỉ đóng
vai trò tạo khung pháp lý, quy định và điều chỉnh mối quan hệ giữa các CTLN được Nhà nước
giao đất-rừng và người dân được các CTLN giao khoán đất-rừng. Báo cáo nà y phân tích 3 vấn
đề chính có liên quan đến giao đất, bao gồm: (i) Giao đất-rừng cho các tổ chức của Nhà nước,
chủ yếu là các CTLN với Nhà nước đóng vai trò chủ sở hữu đất đai giao quyền sử dụng đất
cho các CTLN, (ii) giao đất-rừng cho các hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng, theo đó Nhà nước
giao đất cho các hộ gia đình, cá nhân và (iii) giao khoán đất-rừng cho các hộ giao đình, cá
nhân theo đó các CTLN hoặc các BQL được Nhà nước giao đất tiến hành giao khoán lại một
phần diện tích của mình cho các hộ gia đình, cá nhân.
Báo cáo chỉ ra rằng trong khi việc giao đất cho hộ gia đình và cá nhân đã và đang phát huy
được tính hiệu quả trong sử dụng đất, việc duy trì lâm nghiệp Nhà nước, với ưu tiên dành
cho các CLTN làm giảm hiệu quả sử dụng đất, thể hiện thông qua việc các CTLN bao chiếm https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
6
đất đai, sử dụng đất không hiệu quả, phát canh thu tô, người dân thiếu đất canh tác, mâu
thuẫn đất đai. Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất giao cho các LTQD (nay là CTLN) có
ảnh hưởng rất lớn đến quỹ đất rừng được giao cho hộ gia đình và cá nhân. Duy trì lâm nghiệp
Nhà nước hoạt động không hiệu quả kìm hãm hiệu quả của những nỗ lực cải thiện sinh kế
vùng cao, xóa đói giảm nghèo, tăng độ che phủ và chất lượng rừng.
Đến nay Chính sách GĐGR đã được thực hiện trên một thập kỷ, tuy nhiên hiện vẫn chưa
có một đánh giá nào mang tính chất hệ thống về kết quả của Chính sách đối với nguồn tài
nguyên rừng và sinh kế của các hộ và cộng đồng sống phụ thuộc vào rừng. Với lý do như vậy,
Báo cáo “Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển
rừng và cải thiện sinh kế vùng cao”do tổ chức Tropenbos International Viet Nam và Forest
Trends thực hiện trong bối cảnh ngành lâm nghiệp Việt Nam đang thực hiện những thay đổi
về thể chế lâm nghiệp và đất đai, cũng như trong bối cảnh Việt Nam tham gia vào các sáng
kiến toàn cầu có liên quan đến thương mại gỗ bền vững như Thực thi luật lâm nghiệp, quản
trị rừng và thương mại lâm sản (FLEGT) và Giảm phát thải do mất rừng và suy thoái rừng
(REDD+). Cụ thể, các thể chế quan trọng bao gồm Nghị quyết 30-NQ/TW của Bộ Chính trị
ngày 12 tháng 3 năm 2014 quy định về tiếp tục sắp xếp, đổi mới phát triển, nâng cao hiệu
quả của hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp. Bên cạnh đó, theo Quyết định số 1565/
QĐ-BNN-TCLN của Bộ NN&PTNT ngà y 8 tháng 7 năm 2013 ngành lâm nghiệp cũng đang
thực hiện việc tái cơ cấu theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh của
ngành. Việc tái cấu trúc các CTLN là một trong những nội dung cơ bản của việc tái cơ cấu
ngành, đổi mới các CTLN.
Giao đất có tiềm năng quan trọng, góp phần vào tiến trình thực hiện việc tái cơ cấu ngành
theo mục tiêu đã đề ra. Tuy nhiên, để biến tiềm năng nà y thành thực tế thực đòi hỏi phải có
những đánh giá về bản thân chính sách, cách thức thực hiện chính sách tại các địa phương
cũng như các điều kiện khách quan và chủ quan tác động đến kết quả của chính sách. Báo
cáo nà y dựa trên các kết quả nghiên cứu liên quan đến GĐGR đã được thực hiện từ trước đến
nay. Dựa trên các kết quả đó, Báo cáo thảo luận về các tiềm năng của giao đất trong việc thực
hiện các mục tiêu đã đề ra trong bối cảnh tái cơ cấu ngành.
Báo cáo được chia ra làm 8 phần chính. Phần I mô tả một số nét tổng quan về thực trạng
quản lý và sử dụng đất rừng và rừng hiện nay. Phần II tóm tắt một số chính sách lâm nghiệp
cơ bản được thực hiện từ khi thành lập nước, bao gồm chính sách GĐGR và những thay đổi
căn bản của chính sách đến nay. Phần III tập trung vào chính sách GĐGR giao rừng, cụ thể
mô tả nội dung của Chính sách, tập trung vào phân biệt sự khác nhau giữa chính sách giao
và khoán. Phần IV trình bà y về tiến trình thực hiện chính sách tại các địa phương, từ đó chỉ ra
sự khác nhau về lý thuyết và thực tiễn có liên quan đến tiến trình thực hiện. Phần V đi sâu vào https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
7
phân tích tác động, trong đó tập trung vào các khía cạnh chủ yếu như tác động của chính
sách tới sinh kế hộ, độ che phủ và chất lượng rừng. Dựa trên các kết quả nà y, Phần VI thảo
luận về ý nghĩa của GĐGR đối với việc thực hiện Sáng kiến FLEGT và REDD+. Tiềm năng của
GĐGR trong việc thực hiện tái cơ cấu ngành lâm nghiệp được trình bà y trong phần VII, trong
đó đi sâu vào các khía cạnh như tái cơ cấu ngành, đổi mới và phát triển các CTLN, tiềm năng
của rừng cộng đồng và hiệu quả trong quản lý và sử dụng trên 2 triệu ha đất hiện do Ủy ban
Nhân dân (UBND) xã quản lý. Trong phần kết luận (phần VIII), báo cáo tóm tắt lại các nội dung
chính của Báo cáo và đưa ra một số kiến nghị về chính sách nhằm góp phần vào thực hiện
thành công các mục tiêu mà ngành lâm nghiệp đã đề ra.https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
8
Tổng quan đất rừng tại Việt Nam1
1.1. Hiện trạng đất lâm nghiệp
Theo Quyết định 1482/QĐ-BTNMT của Bộ Tài Nguyên và Môi trường
1
(TN&MT) ban hành
ngày 10 tháng 9 năm 2012, tính đến hết ngà y 1 tháng 1 năm 2012 cả nước có gần 15,4 triệu
héc ta (ha) đất lâm nghiệp, được chia làm 3 loại phân theo các chức năng khác nhau, bao
gồm đất RSX, đất RPH và đất RĐD
2
. Chi tiết về diện tích của 3 loại đất nà y được thể hiện trong
Bảng 1. Theo Quyết định nà y, gần 79% (12,1 triệu ha) diện tích đất lâm nghiệp của cả nước đã
được giao cho các đối tượng để sử dụng; phần còn lại (21%, tương đương với trên 3,2 triệu
ha) hiện chưa được giao mà đang được quản lý bởi cộng đồng và Uỷ ban Nhân dân (UBND)
xã.
Phần diện tích 12,1 triệu ha được giao cho 8 nhóm đối tượng sử dụng khác nhau, bao gồm:
• Các hộ gia đình và cá nhân
• UBND xã
• Các tổ chức kinh tế
• Các cơ quan nhà nước
• Các tổ chức khác
• Liên doanh
• Các tổ chức 100% vốn nước ngoài
• Cộng đồng
1
Bộ Tài nguyên và Môi trường. Quyết định 1482/QĐ-BTNMT ngà y 10 tháng 9 năm 2012 Phê duyệt và công bố kết quả
thống kê diện tích đất đai năm 2011.
2
Theo Thông tư 34 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) ngà y 10 tháng 6 năm 2009 về Quy định tiêu
chí xác định và phân loại rừng quy định: (i) Rừng phòng hộ là rừng được sử dụng chủ yếu để bảo vệ nguồn nước, bảo
vệ đất, chống xói mòn, chống sa mạc hóa, hạn chế thiên tai, điều hòa khí hậu và bảo vệ môi trường; (ii) Rừng đặc dụng
là rừng được sử dụng chủ yếu để bảo tồn thiên nhiên, mẫu chuẩn hệ sinh thái của quốc gia, nguồn gen sinh vật rừng,
nghiên cứu khoa học, bảo vệ di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh, phục vụ nghỉ ngơi, du lịch, kết hợp bảo vệ
môi trường; (iii) Rừng sản xuất: là rừng được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh gỗ, các lâm sản ngoài gỗ và kết
hợp phòng hộ, bảo vệ môi trường. Bên cạnh việc phân loại rừng theo trữ lượng, Thông tư 34 cũng quy định việc phân
loại rừng theo nguồn gốc hình thành rừng (rừng tự nhiên, rừng trồng), phân loại rừng theo điều kiện lập địa (rừng núi
đất, rừng núi đá, rừng ngập nước và rừng trên đất cát), phân loại rừng theo loài cây (rừng gỗ, rừng tre nứa, rừng cau dừa,
rừng hỗn giao gỗ và tre nứa), phân loại rừng theo trữ lượng. Thông tư cũng quy định về đất chưa có rừng, bao gồm đất
có rừng trồng chưa hình thành rừng, đất trống có và không có cây gỗ tái sinh, đất núi đá không cây.https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
9
Cơ quan nhà nước
37%
Hộ gia đình, cá nhân
37%
Tổ chức kinh tế
19%
UBND xã 1%
Tổ chức khác 4% Cộng đồng 2%
Hình 1. Tỷ lệ diện tích đất lâm nghiệp được giao cho các nhóm sử dụng
Trong phần diện tích đã được giao, hộ gia đình, cá nhân, các cơ quan nhà nước và các tổ chức
kinh tế nắm phần lớn diện tích; các tổ chức liên doanh, tổ chức 100% vốn nước ngoài và cộng
đồng được giao diện tích nhỏ. Hình 1 (xem thêm Bảng 1) thể hiện tỷ lệ phần diện tích được
giao cho các nhóm sử dụng.
Trong diện tích đất lâm nghiệp được giao cho các nhóm đối tượng sử dụng (12,1 triệu ha),
diện tích đất hiện đang được hộ gia đình và cá nhân chiếm tỉ lệ cao nhất (37% trong tổng
số, tương đương với gần 4,5 triệu ha). Khoảng 70% diện tích đất lâm nghiệp mà hộ gia đình
và cá nhân được giao sử dụng là đất RSX, còn lại (gần 30%) là đất RPH; diện tích đất RĐD là
không đáng kể.
Các tổ chức thuộc nhà nước, chủ yếu là các Ban quản lý (BQL) RPH và RĐD hiện đang được
giao khoảng 4,5 triệu ha, chiếm 37% trong tổng diện tích đất lâm nghiệp đã được giao (Bảng
1). Tuy nhiên, khác với phần diện tích đất được giao cho hộ gia đình và cá nhân, diện tích
đất được giao cho các BQL chủ yếu là đất RPH (44%) và đất RĐD (39%); diện tích đất RSX chỉ
chiếm 17%. Nói cách khác, hầu hết các diện tích đất RPH và RĐD hiện đang được giao cho
các tổ chức thuộc Nhà nước.
Đến nay, các tổ chức kinh tế mà chủ yếu là các CTLN mà tiền thân là các LTQD được giao
khoảng 2,2 triệu ha đất lâm nghiệp, tương đương với 19% tổng số diện tích đất lâm nghiệp
cả nước. Khoảng 81% trong 2,2 triệu halà đất RSX; hầu hết phần diện tích còn lại (19%) là đất
RPH nằm xen kẽ trong phần diện tích đất RSX.
Nguồn: Quyết định 1482 của Bộ TN&MT, 2012https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
10
Bảng 1. Hiện trạng sử dụng đất lâm nghiệp cả nước tính đến ngày 1 tháng 1 năm 2012 (ha)3
Trong Bảng 1, diện tích đất theo đối tượng sử dụng là diện tích đất thực tế đã được giao; diện tích đất theo đối tượng được giao quản lý là diện tích đất hiện vẫn chưa được giao thực
mà chỉ được giao tạm thời cho cộng đồng và UBND xã quản lý.
Nguồn: Quyết định 1482 Bộ TN&MT, 2012
STT
cá nhân
UBND xã UBND xã
khác
Liên doanh
100%
1
1.1
1.2
1.3
1537306312134259446321414244922345774536056457645 1923828100232388045247132714091
1252301
1326126
135663
186580
327048
11085
1438882
1653174
146748
57708
223294
0
18592
645
0
51
32
0
20
84912
189209
183523
779930
1981469
1774657
1813968
399447
21162
92157
48588
1704
3120377
1331487
11377
5967676
4174140
1992443
7406558
5827314
2139191https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
11
Bảng 2. Hiện trạng tài nguyên rừng của Việt Nam (ha)
Trong tổng số 10,4 triệu ha rừng tự nhiên, RPH và RĐD chiếm 56,7%, còn lại (43,3%) là RSX.
Về đặc điểm thảm thực vật, rừng gỗ tre nứa chiếm 81,6% trong tổng diện tích, còn lại là các
loại rừng khác (rừng tre nứa, rừng hỗn giao, rừng ngập mặn).Đến nay, cả nước có khoảng 3,4
triệu ha rừng trồng, trong đó diện tích rừng trồng là rừng sản xuất khoảng 2,5 triệu ha (73,5%
trong tổng diện tích rừng trồng); phần còn lại (26,5%) là diện tích rừng trồng là RPH và RĐD.
Trong những năm gần đây, diện tích rừng trồng tăng tương đối nhanh, với tốc độ khoảng
150.000 – 200.000 ha (FSSP 2014). Điều nà y là cơ sở để tạo ra lượng cung gỗ nguyên liệu từ
rừng trồng cho ngành công nghiệp chế biến gỗ trong tương lai
. 4
Diện tích rừng trong cả nước được giao cho 7 nhóm đối tượng sử dụng, với các nhóm chủ
rừng chính bao gồmBQL RPH và RĐD (hiện đang nắm giữ 4,6 triệu ha rừng, tương đương với
Nguồn: QĐ 1739 Bộ NN&PTNT, 2013
Hiện còn 3,2 triệu ha đất lâm nghiệp vẫn chưa được giao và đang được quản lý tạm thời bởi
UBND xã (2,7 triệu ha) và cộng đồng (0,5 triệu ha). Khoảng 51% trong số diện tích đất chưa
giao (1,25 triệu ha) là đất RPH, còn lại là đất RSX (44%) và RĐD (5%).
Bộ TN&MT là cơ quan quản lý nhà nước về đất đai trong phạm vi cả nước; Bộ NN&PTNT là cơ
quan quản lý nhà nước về lâm nghiệp. Đến nay, dữ liệu thống kê về tài nguyên rừng và đất
rừng của 2 cơ quan nà y không đồng nhất, nguyên nhân chính bởi các cơ quan nà y sử dụng
các tiêu chí phân loại đất và rừng khác nhau(Forest Sector Support Partnership 2010).
1.2.Hiện trạng tài nguyên rừng
Quyết định 1739 của Bộ NN&PTNT ngà y 31 tháng 7 năm 2013 công bố hiện trạng rừng toàn
quốc cho thấy tính đến hết năm 2012 Việt Nam có khoảng 13,8 triệu ha rừng. Theo nguồn
gốc, phần diện tích nà y được chia thành 2 loại là rừng tự nhiên (10,4 triệu ha) và rừng trồng
(3,4 triệu ha). Theo chức năng, rừng Việt Nam được phân làm 3 loại: RĐD (2 triệu ha), RPH
(4,68 triệu ha) và RSX (6,96 triệu ha).Bảng 2 mô tả diện tích các loại rừng của Việt Nam.
15373063
10423844
3438200
1940309
81686
4023040
652364
4415855
2548561
44641
155589
2021995 4675404 6964415 200230 https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
12
Hình 2. Cơ cấu các chủ rừng theo diện tích đang quản lý
Hộ gia đình
25%
Ban Quản lý rừng
33%
UBND
16%
Doanh nghiệp
nhà nước
14%
Tổ chức khác
5%
Cộng đồng
4%
Tổ chức KT khác
1%
Đơn vị vũ trang
2%
Theo Quyết định 1739 hàng năm có khoảng trên 30.000 ha rừng tự nhiên bị chuyển đổi sang
các mục đích nông nghiệp và phi nông nghiệp. Diện tích rừng trồng được khai thác hàng
năm khoảng gần 57.000 ha.Phần dưới đâytìm hiểu về thể chế lâm nghiệp và những thay đổi
có liên quan kể từ những ngà y thành lập nước.
33% trong tổng diện tích), hộ gia đình (3,4 triệu ha, 25%), doanh nghiệp Nhà nước mà chủ
yếu là các CTLN (14%). Đến nay, hộ gia đình đang quản lý 3,4 triệu ha rừng, tương đương 25%
trong tổng diện tích rừng của cả nước; diện tích rừng được giao cho cộng đồng gần 600.000
ha. Tuy Luật BVPTR năm 2004 không quy định UBND xã là một đơn vị chủ rừng, diện tích rừng
được giao cho UBND xã quản lý rất lớn, khoảng 2,19 triệu ha, với khoảng 81,7% trong số đó
là rừng tự nhiên,phần còn (18,3%) lại là rừng trồng. Hình 2 mô tả diện tích rừng tính đến hết
2012 được phân theo các nhóm chủ rừng.
Nguồn: Quyết định 1739 Bộ NN&PTNT, 2013https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
13https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
14
Một số thể chế lâm nghiệp cơ bản
từ những năm 1950 đến nay
5
2
4
Theo QĐ 1739 của Bộ NN&PTNT đến nay diện tích rừng trồng có trữ lượng mới chỉ chiếm khoảng 52%, còn lại là rừng
chưa cho trữ lượng.
5
Tư liệu trong phần nà y chủ yếu được trích dẫn từ ấn phẩm Lâm nghiệp Việt Nam 1945-2000 do Nguyễn Văn Đẳng chủ
biên, được Nhà xuất bản Nông nghiệp phát hành năm 2001. Khi sử dụng nguồn tư liệu khác, Báo cáo trích dẫn nguồn
cụ thể.
Kể từ khi đất nước giành độc lập, ngành Lâm nghiệp đã trải qua những thay đổi căn bản,
trong đó bao gồm những thay đổi về cơ chế quản lý tài nguyên rừng. Ngay sau khi giành độc
lập, Chính phủ đã thực hiện quốc hữu hóa tài nguyên rừng trong toàn quốc. Nghị định 596/
TTg của Chính phủ ngà y 3 tháng 10 năm 1955 nêu rõ “rừng là tài sản quốc gia rất lớn... khai
thác phải đi đôi với bảo vệ... trừng trị thích đáng những người phá hoặc làm thiệt hại đến
tài sản quốc gia.” Chỉ thị số 15 ngà y 3 tháng 10 năm 1961 của Chính phủ nhấn mạnh “rừng
là tài sản của toàn dân, phải do nhà nước thống nhất quản lý”. Tháng 8 năm 1957 Chính phủ
ban hành nghị định về hạn chế nương rẫy mới. Nghị quyết số 38/CP ngà y 12 tháng 3 năm
1968 của Chính phủ vận động việc định canh định cư và thúc đẩy việc thành lập hợp tác xã
(HTX). Trong giai đoạn 1955-1975 (kháng chiến chống Mỹ), hình thức quản lý lâm nghiệp
tại miền Bắc là Nhà nước tập trung. Để quản lý 9 triệu ha rừng của toàn miền Bắc, Chính
phủ đã thành lập Bộ Nông lâm và thiết lập Ty Canh nông tại 10 tỉnh. Đến năm 1961, cả nước
đã thành lập được 23 Ty Canh nông. Trong 2 thập kỷ (1955-1975) nhiệm vụ trọng tâm của
ngành lâm nghiệp là khai thác gỗ nhằm tạo nguồn nguyên liệu phục vụ tái thiết đất nước và
phục vụ chiến tranh. Nhà nước hình thành hệ thống các LTQD nhằm khai thác gỗ. Tại các địa
phương nơi không có LTQD thì Hạt Lâm nghiệp được thành lập để thực hiện nhiệm vụ nà y.
Đến năm 1975, cả nước đã có khoảng 200 LTQD được thành lập. Hình thức doanh nghiệp
tư nhân tham gia vào chế biến gỗ được phép hoạt động trước 1955 đã bị xóa bỏ hoàn toàn.
Năm 1972 đánh dấu việc Nhà nước quan tâm đến bảo vệ rừng với sự ra đời của Pháp lệnh
Bảo vệ rừng, theo đó lực lượng Kiểm lâm nhân dân được thành lập theo Nghị định số 101/CP
ngày 21 tháng 5 năm 1973. Đến cuối 1974, hệ thống Kiểm lâm được thiết lập từ Trung ương
đến các huyện. Tuy nhiên, đây cũng là lúc quản lý lâm nghiệp bắt đầu phát sinh chồng chéo
giữa chức năng và nhiệm vụ của LTQD và cơ quan Kiểm lâm. Tại cấp xã, về lý thuyết là quản
lý lâm nghiệp trên địa bàn do cán bộ xã đảm nhiệm, tuy nhiên thực tế chính quyền xã không
đủ nguồn lực và chuyên môn thực hiện chức năng của mình.
Trong giai đoạn 1955-1975 sản xuất nông nghiệp trong cả nước được tổ chức và vận hành https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
15
theo hình thức tập thể theo hợp tác xã (HTX) (Kerkvliet 2005). Mặc dù HTX có vai trò chủ yếu
là tham gia vào sản xuất nông nghiệp, HTX có vai trò quan trọng trong khai thác gỗ ở miền
núi. Vào giai đoạn cao điểm của khai thác gỗ năm 1978-1979 đãcó khoảng 30.000 lao động
trong các HTX tham gia trực tiếp vào khâu khai thác gỗ cho các LTQD, đóng góp khoảng 80-
85% tổng lượng gỗ khai thác trong toàn quốc. Đến năm 1989 đã có 431 LTQD được thành lập
với 18% trong số đó được quản lý trực tiếp bởi Bộ Lâm nghiệp, 48% được quản lý bởi UBND
tỉnh, số còn lại (38%) được quản lý bởi UBND huyện. Trong giai đoạn 1981-1985 đã có khoảng
7 triệu mét khối (m3) gỗ được khai thác phục vụ tái thiết đất nước và xuất khẩu.
Điều tra lâm nghiệp bắt đầu được tiến hành kể từ những năm 1960, từ đó đã tạo ra nền tảng
cho hệ thống thống kê tài nguyên rừng, làm cơ sở cho việc thực hiện GĐGR ở giai đoạn sau.
Chính sách định canh định cư (ĐCĐC) của Chính phủ được thực hiện bắt đầu từ cuối những
năm 1960 với nhiệm vụ ổn định cuộc sống cho đồng bào, kết hợp với tiến trình HTX hóa và
chính sách di dân từ miền xuôi lên miền núi để xây dựng những vùng kinh tế mới. Những
chính sách nà y cùng với các hoạt động của các LTQD đã tạo ra những thay đổi căn bản trong
sử dụng và quản lý tài nguyên rừng trong cả nước. Từ1976 đến 1990 Nhà nước thực hiện
Chương trình xây dựng các vùng kinh tế mới ở miền núi, theo đó đã có hàng vạn người dân
miền xuôi được di cư lên vùng núi và 1,4 triệu ha đất rừng đã được chuyển đổi sang mục đích
phát triển nông nghiệp vùng cao.
Lâm nghiệp nhà nước chú trọng vào khai thác và coi nhẹ việc bảo vệ đã làm cho nguồn tài
nguyên rừng trở nên cạn kiệt (Sikor 1998, McElwee 2004). Đến đầu những năm 1980s, nhiều
lâm trường không còn gỗ để khai thác. Giai đoạn nà y đánh dấu sự khủng hoảng của ngành
lâm nghiệp (Sikor 1998). Nguồn ngân sách Quốc gia nói chung và ngân sách dành cho lâm
nghiệp nói riêng đã giảm rất nhiều so với trước, nguyên nhân chính là do nguồn thu từ gỗ
khai thác trong nước hạn chế và nguồn ngân sách hỗ trợ từ các nước Đông Âu cũ bị mất
hoàn toàn do sự sụp đổ của khối nà y.
Năm 1986 đánh dấu những thay đổi căn bản về hình thức quản lý kinh tế tại Việt Nam, với
‘đổi mới’ tạo ra bước chuyển đổi từ một nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế theo
định hướng thị trường nhằm khắc phục những bế tắc trong phát triển kinh tế (Gainsborough
2010). Tại vùng núi đổi mới bao gồm những thay đổi liên quan đến 3 khía cạnh cơ bản: Thứ
nhất, xóa bỏ hình thức HTX, giao đất cho người dân. Thứ 2, tăng đầu tư cho phát triển miền
núi thông qua các các chương trình ĐCĐC và trồng rừng trên những diện tích đất trống đồi
trọc. Thứ 3, thúc đẩy mở rộng thị trường tạo ra sự giao lưu hàng hóa giữa miền núi và đồng
bằng, khuyến khích đầu tư từ khu vực nhà nước và khối tư nhân lên vùng cao (Sowerwine
2004).
Những thay đổi về cơ chế chính sách trong lâm nghiệp đã tạo ra những động lực cho sự https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
16
phát triển ở vùng cao (Sikor và cộng sự 2011). Tại một số địa phương, chính quyền bắt đầu
quá trình điều tra đất và rừng trên thực địa, hình thành hệ thống bản đồ và phân chia thành
những mảnh nhỏ để giao hoặc khoán cho các hộ gia đình với mục đích phát triển vốn rừng,
góp phần ổn định sinh kế hộ. Kể từ nửa cuối của thập niên 1990s, giá trị của tài nguyên rừng
và đất rừng đã bắt đầu có những thay đổi căn bản so với trước đây, nguyên nhân chủ yếu
là do những có những ưu tiên về bảo tồn rừng. Với sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, Chính
phủ đã thành lập hệ thống các khu rừng đặc dụng và phòng hộ với mục tiêu bảo tồn những
giá trị của tài nguyên rừng bao gồm nguồn tài nguyên đa dạng sinh học còn sót lại (Zingerli
2005, Tô Xuân Phúc 2011). Đến nay, tổng diện tích RĐD trong cả nước lên tới trên 2 triệu ha
và diện tích RPH trên 4,6 triệu ha (xem Bảng 2).
Luật Đất đai năm 1993 và những văn bản hướng dẫn thực hiện Luật quy định việc giao đất
cho tổ chức trong và ngoài nhà nước, bao gồm hộ gia đình và cá nhân
6
. Luật nhấn mạnh việc
sở hữu toàn dân và Nhà nước là đại diện chủ sở hữu đối với đất đai bao gồm đất rừng. Luật
quy định là đại diện chủ sở hữu Nhà nước giao đất và các quyền sử dụng đi kèm với đất cho
các nhóm đối tượng khác nhau, bao gồm các hộ sống lệ thuộc vào rừng. Luật Bảo vệ và Phát
triển rừng năm 1991 đưa ra những quy định nhằm quản lý 3 loại rừng (RĐD, RPH và RSX)
7
.
Các quy định pháp lý nà y cho phép các tổ chức của Nhà nước được nắm giữ hầu hết các diện
tích RĐD và RPH, là phần diện tích có giá trị cao về đa dạng sinh học, và các LTQD (sau là
CTLN) quản lý hầu hết diện tích rừng tự nhiên là RSX còn trữ lượng. Diện tích rừng được giao
cho hộ gia đình thường là rừng nghèo hoặc đất trống. Theo Bộ TN&MT đến hết tháng 12 năm
2011 tổng số đã có trên 2,6 triệu giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được cấp cho các
nhóm đối tượng được nhận đất lâm nghiệp.
8
Số giấy chứng nhận nà y đã phủ một diện tích
trên 10,4 triệu ha, tương đương với 86,3% tổng diện tích đất lâm nghiệp cần được cấp giấy.
Bảng 3 thống kê số lượng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và diện tích đất đã được cấp
giấy theo các vùng khác nhau.
6
Luật đất đai lần đầu tiên được Quốc hội thông qua ngà y 14 tháng 7 năm 1993. Kể từ năm 1993 Luật đã trải qua một số
lần sửa đổi.
7
Luật Bảo vệ và Phát triển rừng lần đầu tiên được Quốc hội thông qua ngà y 12 tháng 8 năm 1991. Đến nay Luật đã trãi
qua một số lần sửa đổi.
8
Theo nguồn website chính thức của Tổng cục Quản lý đất đai tại http://www.gdla.gov.vn/index.php?option=com_
tailieu&task=detail&id=66.https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
17
Địa bàn Số giấy đã cấp Diện tích đã được cấp (ha)
Tỷ lệ diện tích đất đã
cấp/ diện tích cần cấp (%)
Cả nước
Miền núi phía Bắc
Đồng bằng Bắc bộ
Bắc Trung bộ
Nam Trung bộ
Tây Nguyên
Đông Nam bộ
Tây Nam bộ
2.688.668
1.068.558
10.912
267.552
323.433
810.323
153.898
53.992
10.465.481
4.312.110
25.923
1.829.507
1.207.999
2.066.411
720.056
303.476
86,3
79,3
23,0
75,9
82,1
71,6
87,3
82,3
Bảng 3. Kết quả cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp tính đến hết
tháng 12 năm 2011
Nguồn: Bộ TN&MT 2012 (http://www.gdla.gov.vn/index.php?option=com_tailieu&task=detail&id=66)
Trong 8 vùng nêu trên, Đồng bằng Bắc bộ, Tây Nguyên và Bắc Trung bộ là các vùng có tỉ lệ
cấp giấy chứng nhận đạt tỷ lệ thấp nhất. Mặc dù việc cấp giấy chứng nhận sử dụng đất đã
được xác định là một trong những ưu tiên của ngành tài nguyên và môi trường nhưng đến
nay tiến trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diễn ra còn chậm.
9

Mặc dù hộ gia đình ngà y càng trở nên quan trọng trong việc tạo vốn rừng, góp phần xóa
đói giảm nghèo vùng cao, đến nay lâm nghiệp Nhà nước thông qua các BQL và CTLN vẫn
giữ vai trò chủ đạo. Tuy nhiên, Lâm nghiệp Nhà nước như hiện nay đã và đang bộc lộ một
số hạn chế như hiệu quả sử dụng đất đai kém, tài nguyên rừng tự nhiên đang bị suy giảm
(Bộ NN&PTNT và UNREDD 2010, Chính phủ 2011/R-PP, Tô Xuân Phúc và Cộng sự 2013). Nghị
quyết 28 của Bộ Chính trị năm 2003
10
nhấn mạnh “Hiệu quả sử dụng đất đai của các nông
lâm trường còn thấp, diện tích đất chưa sử dụng còn nhiều; quản lý đất đai, tài nguyên rừng
9
Xem chi tiết trong Chỉ thị số 05/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngà y 4 tháng 4 năm 2013 về tập trung chỉ đạo và tăng
cường biện pháp thực hiện để trong năm 2013 hoàn thành cơ bản việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
10
Nghị quyết 28-NQ/TW của Bộ Chính trị ngà y 16 tháng 6 năm 2003 về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm
trường Quốc doanh. https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
18
còn yếu kém; tình trạng lấn chiếm, tranh chấp đất đai giữa hộ dân và lâm trường còn xảy ra
ở nhiều nơi...” Để khắc phục tình trạng nà y, Nghị quyết 28 được ban hành với mục tiêu nâng
cao hiệu quả sử dụng bền vững tài nguyên đất đai và tài nguyên rừng, theo đó đất nông lâm
trường sử dụng không đúng mục đích, sai quy hoạch và kém hiệu quả thì UBND tỉnh thu hồi
để giao hoặc cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuê nhằm sử dụng theo quy định của
pháp luật về đất đai. Nghị định 200 năm 2004 hướng dẫn việc thực hiện Nghị quyết 28
11
,
trong đó nhấn mạnh Nhà nước chỉ trực tiếp đầu tư, quản lý RĐD, RPH rất xung yếu và xung
yếu, ở những vùng rừng xa dân không thể giao khoán cho dân, rừng tự nhiên có trữ lượng
lớn; những diện tích rừng còn lại giao cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân tự đầu tư kinh
doanh và hưởng lợi từ kết quả sản xuất kinh doanh, từ đó làm cơ sở để giao, cho thuê theo
các đối tượng, trong đó có các hộ người dân địa phương. Thực hiện tinh thần của Nghị định
200, các LTQD đã thực hiện việc rà soát đất đai và trả lại địa phương một số diện tích đất sử
dụng không hiệu quả.
Chiến lược Phát triển Lâm nghiệp Việt Nam 2006-2020 đưa ra các Chương trình trọng tâm:
12

• Chương trình phát triển và quản lý rừng bền vững: Đến năm 2020 khoảng 30% diện tích
RSX sẽ đạt chứng chỉ, độ che phủ rừng vẫn tiếp tục tăng, và duy trì ổn định nguồn nguyên
liệu gỗ cho ngành chế biến;
• Chương trình bảo vệ rừng:Bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển dịch vụ môi trường,
tập trung vào tăng cường thực thi lâm luật, giữ ổn định diện tích RPH và RĐD, phát triển
thị trường dịch vụ hệ sinh thái rừng;
• Chương trình đổi mới thể chế chính sách ngành lâm nghiệp:Ưu tiên theo hướng phân
quyền, tạo cơ chế khuyến khích khối tư nhân tham gia đầu tư vào phát triển vốn rừng và
bảo vệ rừng, tăng cường quản trị rừng, và nâng cao hiệu quả sử dụng đất và bảo vệ rừng
của các LTQD.
Theo Chiến lược, khai thác các giá trị dịch vụ của hệ sinh thái do rừng cung cấp được coi như
là một trong những cơ chế quan trọng nhằm huy động nguồn ngân sách ngoài nhà nước
để thực hiện việc bảo vệ rừng. Cụ thể, Quyết định 380 của Chính phủ năm 2008
13
cho phép
việc thực hiện thí điểm chi trả dịch vụ môi trường rừng tại Sơn La và Lâm Đồng, nơi có diện
tích RPH đầu nguồn lớn nhất của cả nước, theo đó các tổ chức sử dụng dịch vụ môi trường
do rừng mang lại (ví dụ dịch vụ cung cấp nguồn nước, chống xói mòn đất, chống bồi lắng
11
Nghị định 200/2004/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ ngà y 3 tháng 12 năm 2004 về sắp xếp đổi mới và phát triển lâm
trường quốc doanh.
12
Quyết định số 18/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngà y 5 tháng 2 năm 2007 Phê duyệt Chiến lược Phát triển
Lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020.
13
Quyết định 380/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngà y 10 tháng 4 năm 2008 về Chính sách thí điểm chi trả dịch vụ
môi trường rừng.https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
19
lòng hồ) phải trả tiền cho người bảo vệ rừng. Nghị định 99 ban hành năm 2012 cho phép
việc nhân rộng Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng trong cả nước.
14
Tính đến hết
năm 2012, tổng nguồn thu từ chi trả dịch vụ môi trường rừng khoảng 1.782 tỉ đồng (Tổng
cục Lâm nghiệp 2013);
15
số tiền nà y được sử dụng để chi trả cho các chủ rừng, bao gồm các
tổ chức, hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng để bảo vệ khoảng 2,3 triệu ha (cùng nguồn trích
dẫn). Nguồn thuhàng năm từ dịch vụ môi trường rừng tương đương với nguồn ngân sách
Trung ương hàng năm dành cho bảo vệ và phát triển rừng trong cả nước (cùng nguồn).
Hấp thụ và lưu trữ các bon là một trong những loại hình dịch vụ do rừng cung cấp có tiềm
năng đem lại nguồn tài chính cho Việt Nam trong tương lai. Nhận biết được tiềm năng nà y,
Chính phủ đã ban hành Quyết định 799 năm 2012 phê duyệt Chương trình hành động Quốc
gia về giảm phát thải khí nhà kính thông qua nỗ lực hạn chế mất từng và suy thoái rừng,
quản lý bền vững tài nguyên rừng và nâng cao trữ lượng các bon rừng (REDD+) giai đoạn
2011-2020.
16
Theo Chương trình nà y trong giai đoạn 2011-2015 Chính phủ sẽ xây dựng và
vận hành thí điểm các cơ chế, chính sách và xây dựng năng lực cấp quốc gia đảm bảo thực
hiện việc thí điểm cơ chế REDD+ tại ít nhất 8 tỉnh. Thêm vào đó, giai đoạn 2016-2020 sẽ hoàn
thành xây dựng cơ chế, chính sách, hệ thống tổ chức và năng lực để đảm bảo việc quản lý,
điều phối và vận hành hiệu quả các chương trình và dự án REDD+ trên phạm vi cả nước. Đến
nay đã có khoảng 35 dự án có các hoạt động liên quan đến REDD+ đang được vận hành tại
Việt Nam.
17
Ngành lâm nghiệp cũng đang hội nhập với thị trường quốc tế, bao gồm cả thị trường tiêu
thụ các sản phẩm gỗ. Trong khuôn khổ của Chương trình thực thi lâm luật, quản trị rừng và
thương mại lâm sản (FLEGT) do Cộng đồng Châu Âu (EU) khởi xướng, Chính phủ Việt Nam
hiện đang đàm phán với EU về Hiệp định đối tác tự nguyện (VPA) với mục tiêu loại bỏ các
sản phẩm gỗ bất hợp pháp có nguồn gốc từ Việt Nam ra khỏi thị trường EU. Ký kết Hiệp định
trong tương lai sẽ có thể làm thay đổi một số cơ chế chính sách liên quan đến quản lý và sử
dụng tài nguyên rừng hiện nay theo hướng tăng cường quản trị rừng và thúc đẩy quản lý
rừng bền vững ở Việt Nam.
14
Nghị định 99/2010/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ ngà y 24 tháng 9 năm 2010 về Chính sách chi trả dịch vụ môi
trường rừng.
15
Đại diện lãnh đạo tổng cục Lâm nghiệp. Bài phát biểu khai mạc Hội thảo chi trả dịch vụ môi trường rừng ở Việt Nam –
Thực tiễn và giải pháp. Hà Nội ngà y 20 tháng 8 năm 2013.
16
Quyết định 799/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngà y 27 tháng 6 năm 2012 Phê duyệt Chương trình hành động
Quốc gia về “Giảm phát thải khí nhà kính thông qua nỗ lực hạn chế mất rừng và suy thoái rừng, quản lý bền vững tài
nguyên rừng, bảo tồn và nâng cao trữ lượng các bon rừng” gian đoạn 2011-2020.
17
Số liệu được tổng hợp từ điều tra của Forest Trends thực hiện trong năm 2013.https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
20
Ngành lâm nghiệp cũng đang trải qua việc tái cơ cấu với mục đích làm gia tăng hiệu quả sử
dụng đất và bảo vệ rừng. Trong tương lai, đất rừng sẽ còn có những biến động, đặc biệt là
đối với những diện tích đất hiện do các CTLN sử dụng và quản lý. Nghị quyết 30 của Bộ Chính
trị ban hành tháng 3 năm 2014 nhấn mạnh việc tiếp tục đổi mới để nâng cao hiệu quả hoạt
động của các CTLN. Nghị quyết đưa ra một số mục tiêu cơ bản sau:
• Đất đai và tài nguyên rừng phải được giao cho các chủ thể quản lý, sử dụng có hiệu quả;
gắn quyền lợi với trách nhiệm trong quản lý, sử dụng đất đai, bảo vệ, phát triển rừng.
• Giải quyết cơ bản các tồn tại, vướng mắc về đất đai, nhất là đất ở, đất sản xuất của đồng
bào dân tộc, bảo đảm ổn định xã hội và thực hiện tốt việc đổi mới quản lý và sử dụng đất
đai, bảo vệ và phát triển rừng theo quy định của pháp luật.
Để thực hiện các mục tiêu nà y, Nghị quyết đưa ra một số phương hướng chính như sau:
• Duy trì CTLN công ích 100% vốn nhà nước hoặc chuyển sang BQL: Các CTLN quản lý chủ
yếu RTN là RSX chưa được phê duyệt phương án quản lý rừng bền vững... được Nhà nước
giao để thực hiện nhiệm vụ công ích...
• Cổ phần hóa các CTLN sản xuất giống cây lâm nghiệp; công ty lâm nghiệp quản lý chủ
yếu là rừng trồng: Các CTLN chuyển sang công ty cổ phần thực hiện thuê đất theo quy
định, kinh doanh phù hợp với quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch phát triển kinh tế - xã
hội của địa phương, bảo đảm lợi ích của người đang nhận khoán bảo vệ, phát triển rừng.
• Thành lập CTLN trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên trở lên nhằm gắn kết phát triển vùng
nguyên liệu của công ty và của người dân trong vùng với phát triển công nghiệp chế biến
lâm sản và thị trường.
• Giải thể các CTLN kinh doanh thua lỗ kéo dài; các công ty thực hiện khoán trắng, giao
khoán đất nhưng không quản lý được đất đai và sản phẩm làm ra, các công ty có quy mô
nhỏ, không cần thiết phải giữ lại. Khi giải thể bàn giao đất đai về địa phương quản lý..., bảo
đảm quyền lợi của người đang nhận khoán, ổn định xã hội địa phương, xử lý nghiêm các
trường hợp sai phạm.
Tóm lại, kể từ những năm 1950 đến nay thể chế ngành lâm nghiệp đã có những thay đổi
quan trọng, thể hiện trong cả 3 khía cạnh cơ bản: (i) về hệ thống tổ chức quản lý Nhà nước
về lâm nghiệp, (ii) về hệ thống tổ chức sản xuất kinh doanh và dịch vụ lâm nghiệp, và (iii) cơ
chế chính sách đối với từng thời kỳ. Bảng 4 tóm tắt các thay đổi căn bản nà y.https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
21
Giai đoạn Hệ thống tổ chức quản lý
Hệ thống tổ chức sản xuất kinh
doanh và dịch vụ
Các cơ chế, chính sách
căn bản
1955-1975 • Thành lập Bộ Canh nông
cấp Trung ương
• Thành lập Ty Canh nông và
hệ thống các Lâm trường tại
cấp địa phương
• Thành lập Kiểm lâm Nhân
dân (1973)
• Quản lý lâm nghiệp cấp
địa phương, đặc biệt là cấp
xã rất lỏng lẻo
• Khai thác lâm sản (chủ yếu
là gỗ) phục vụ cho chiến
tranh và xây dựng đất nước
• Xóa bỏ hoàn toàn doanh
nghiệp tư nhân tham gia
vào chế biến gỗ
• HTX kết hợp với LTQD
tham gia vào khai thác gỗ
• Quốc hữu hóa tài nguyên
rừng
• Hạn chế canh tác nương
rẫy
• Thực hiện định canh định
cư, kết hợp với HTX hóa
• Cuối giai đoạn bắt đầu có
sự dịch chuyển từ khai thác
sang bảo vệ rừng
1976-1986
1986-nay
• Thành lập Bộ Lâm nghiệp
• Tăng cường lực lượng Kiểm
lâm
• Bộ và UBND tỉnh quản lý
các Lâm trường
• Có sự chồng chéo về quản
lý và hoạt động giữa Lâm
trường và Kiểm lâm
• Ngành lâm nghiệp bị
khủng hoảng; nhiều lâm
trường không hoạt động,
nguồn thu từ rừng và ngân
sách cho lâm nghiệp giảm
nghiêm trọng do không có
nguồn thu
• Bộ NN&PTNT thống nhất
quản lý Nhà nước về lâm
nghiệp
• Thành lập các BQL RPH,
RĐD quản lý các RĐD, RPH
• LTQD (CTLN) quản lý RSX
• Hộ gia đình, cá nhân, cộng
đồng tham gia quản lý sử
dụng đất RSX
• Khai thác gỗ vẫn tiếp tục
nhằm xuất khẩu và phục vụ
tái thiết đất nước
• Tài nguyên rừng (gỗ) cạn
kiệt do khai thác quá mức
• Đất lâm nghiệp bị chuyển
đổi sang mục đích nông
nghiệp, hình thành các
vùng kinh tế mới
• Nhấn mạnh vào giá trị dịch
vụ môi trường của rừng, giá
trị của tài nguyên đa dạng
sinh học
• Giá trị của rừng đã thay
đổi, từ giá trị về kinh tế đơn
thuần (ví dụ đất đai cho
phát triển sản xuất) sang
các giá trị dịch vụ
• Tiếp tục thực hiện Định
canh định cư
• Chính sách di cư từ miền
xuôi lên vùng núi, xây dựng
vùng kinh tế mới
• Tiếp tục có sự dịch chuyển
sang bảo vệ rừng
• Ưu tiên bảo vệ rừng, bảo
tồn đa dạng sinh học thông
qua các cơ chế chính sách
quản lý RPH, RĐD. Thực hiện
cơ chế thị trường nhằm khai
thác dịch vụ môi trường của
rừng (PES, REDD+).
• Đẩy mạnh việc phân
quyền, thông qua việc đẩy
mạnh tiếp cận đất đai cho
hộ gia đình, cá nhân, cộng
đồng (Luật Đất đai, Luật
BVPTR, Chiến lược phát
triển Lâm nghiệp, thực hiện
các Chương trình mục tiêu
Quốc gia về bảo vệ rừng
Bảng 4. Những thay đổi căn bản trong thể chế lâm nghiệp từ 1950 đến nay
Phần tiếp theo của Báo cáo sẽ tập trung vào 3 vấn đề cơ bản có liên quan đến 2 cơ chế giao
và khoán đất, bao gồm: (i) giao đất cho các tổ chức thuộc Nhà nước; (ii) giao đất cho hộ gia
đình và cá nhân, và (iii) khoán đất cho các hộ gia đình và cá nhân.https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
22https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
23
3.1. Các chính sách quy định việc giao và khoán đất
Pháp luật hiện hành quy định việc tiếp cận đất đai, bao gồm cả đất lâm nghiệp của các cá
nhân, tổ chức thuộc Nhà nước và bên ngoài Nhà nước như hộ gia đình và cá nhân được
thực hiện qua 2 cơ chế giao và giao khoán. Giao đất là việc Nhà nước với vai trò là chủ sở
hữu về đất đai tiến hành giao đất cho các tổ chức thuộc Nhà nước và bên ngoài Nhà nước
như hộ gia đình và cá nhân nhằm sử dụng đất theo kế hoạch đã được Nhà nước phê duyệt.
Trong cơ chế nà y, mối quan hệ giữa Nhà nước và các nhóm được giao đất, thông qua đất
đai, được điều chỉnh bằng pháp luật hành chính, với quyền lợi và trách nhiệm của người
giao và người nhận đất được quy định cụ thể theo luật đất đai. Giao khoán, hay còn gọi là
khoán, là việc các tổ chức của Nhà nước, được Nhà nước giao đất như các CTLN hoặc các
BQL tiến hành việc khoán đất RSX cho các hộ gia đình và cá nhân với mục đích sản xuất (ví
dụ trồng rừng kinh tế), hoặc khoán RPH cho các hộ gia đình, cá nhân với mục đích bảo vệ.
Cơ chế khoán đất và/hoặc rừng thể hiện mối quan hệ giữa CTLN (hoặc BQL) và người dân,
thông qua đất đai, rừng, được điều chỉnh bằng mối quan hệ dân sự, trong đó Nhà nước chỉ
đóng vai trò tạo khung pháp luật điều chỉnh mối quan hệ và hành vi giữa bên giao khoán
và bên nhận khoán.
Một số chính sách cơ bản quy định việc giao đất
GĐGR là một trong những chủ trương được Chính phủ thực hiện từ đầu những năm 1980.
Năm 1983, Ban Bí thư đã có Chỉ thị 29 ngà y 12 tháng 11 về việc đẩy mạnh GĐGR, trong đó
nhấn mạnh “làm cho mỗi khu đất, mỗi cánh rừng, mỗi quả đồi đều có người làm chủ.”Kể từ
đó, Chính phủ đã thực hiện các cơ chế chính sách nhằm hiện thực hóa các mục tiêu của Chỉ
thị. Như đã đề cập ở phần trên, pháp luật đất đai quy định việc giao đất bao gồm một số
chính sách cơ bản sau:
18
Nghị định 02 ngà y 15 tháng 1 năm 1994 của Chính phủ ban hành bản quy định về việc giao
đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm
nghiệp. Điều 3 trong Nghị định quy định Nhà nước giao đất lâm nghiệp có rừng tự nhiên,
Giao đất giao rừng tại Việt Nam
3
18
Chi tiết về các chính sách có liên quan đến GĐGR xem chi tiết tại Báo cáo Tổng quan về chính sách giao đất, giao rừng
tại Việt Nam, thực trạng và định hướng trong thời gian tới. Báo cáo được trình bà y tại Hội thảo Giao đất lâm nghiệp –
Chính sách và thực trạng, tổ chức bởi Tropenbos International Việt Nam và Viện Điều tra Quy hoạch rừng, ngà y 10 tháng
4 năm 2012 tại Hà Nội.https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
24
rừng trồng bằng vốn của Nhà nước giao cho các tổ chức thuộc Nhà nước (Lâm trường, các
BQL RPH, RĐD) để bảo vệ, phát triển và sử dụng ổn định lâu dài theo quy hoạch, kế hoạch
của Nhà nước. Cũng theo Điều 3, Nhà nước giao đất lâm nghiệp chưa có rừng và có chính
sách đầu tư, hỗ trợ hợp lý để tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài theo quy
hoạch. Điều 7 và Điều 8 quy định cụ thể việc giao đất RPH và RĐD cho các BQL rừng thuộc
Nhà nước để bảo vệ và quản lý các khu rừng đó. Nghị định cũng khuyến khích các tổ chức,
hộ gia đình, cá nhân nhận đất để trồng rừng, sản xuất nông lâm ở những nơi đất trống, đồi
núi trọc. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng đảm bảo các chính sách hỗ trợ trồng rừng, tổ chức sản
xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
• Nghị định 163 ngày 16 tháng 11 năm 1999 của Chính phủquy định về việc Nhà nước giao
đất lâm nghiệp cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài dưới hình
thức giao đất không thu tiền sử dụng đất và cho thuê đất lâm nghiệp, bao gồm đất có
rừng tự nhiên và đất đang có rừng trồng, và đất chưa có rừng được quy hoạch để sử dụng
vào mục đích lâm nghiệp như trồng rừng, khoanh nuôi, bảo vệ để phục hồi tự nhiên. Nhà
nước giao đất lâm nghiệp không thu tiền sử dụng đất đối với các hộ gia đình nhận đất mà
nguồn sống chủ yếu là thu nhập có được từ các hoạt động sản xuất trên đất. Tuy nhiên,
nếu hộ gia đình sử dụng đất lâm nghiệp vượt hạn mức quy định (30 ha) thì phải thực hiện
việc thuê đất, với thời hạn thuê không vượt quá 50 năm. Nhà nước tiến hành cho thuê đất
đối với các tổ chức trong nước thuộc mọi thành phần kinh tế, và các tổ chức cá nhân nước
ngoài.
• Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về thi hành Luật
Đất đai, thay thế cho Nghị định 163 về thi hành Luật Đất đai, trong đó có quy định cụ thể
về giao đất đối với các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân.
• Ngoài những chính sách nêu trên còn có những chính sách đặc thùcủa Trung ương và
địa phương có liên quan đến giao đất và một số dự án có mục tiêu tăng cường sự tiếp cận
đất đai, đặc biệt cho các hộ và cộng đồng. Một ví dụ là Nghị quyết số 30a ngà y 27 tháng
12 năm 2008 của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối
với 61 huyện nghèo. Nghị quyết quy định các chính sách hỗ trợ các hộ gia đình thuộc các
huyện nghèo thông qua khoán, chăm sóc, bảo vệ rừng, giao rừng vào giao đất để trồng
rừng sản xuất. Nghị quyết quy định đối với các hộ được giao RSX, không thuộc loại rừng
được khoán bảo vệ sẽ nhận được hỗ trợ để phát triển vốn RSX trên diện tích đất được giao,
bao gồm cây giống và tín dụng ưu đãi.https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
25
Một số chính sách cơ bản có liên quan đến khoán
• Nghị định 01 ngày 1 tháng 1 năm 1995 của Chính phủ ban hành bản quy định về việc giao
khoán đất sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản
trong các doanh nghiệp nhà nước. Cụ thể trong lĩnh vực lâm nghiệp, các LTQD, BQL RPH,
RĐD được Nhà nước giao đất sử dụng vào mục đích sản xuất lâm nghiệp (bên giao khoán)
thực hiện việc giao khoán đất lâm nghiệp (RPH, RĐD, RSX, đất trống được quy hoạch trồng
cây lâm nghiệp) cho bên nhận khoán, bao gồm các hộ gia đình, cá nhân là công nhân, viên
chức đang hoặc đã làm việc cho bên giao khoán, các hộ cư trú hợp pháp tại địa phương
và các hộ, tổ chức ở các địa phương khác có vốn đầu tư vào sản xuất. Nghị định cũng quy
định rõ các quyền lợi và trách nhiệm của bên giao khoán và bên nhận khoán, với thời hạn
giao khoán của đất rừng phòng hộ và đặc dụng là 50 năm, và đất rừng sản xuất là theo chu
kỳ kinh doanh của cây.
• Nghị định 135 ngày 8 tháng 11 năm 2005 của Chính phủ về việc giao khoán đất RSX-
trong các LTQD cho các hộ gia đình và cá nhân. Nghị định quy định các LTQD (bên giao
khoán) được quyền giao khoán rừng tự nhiên và rừng trồng, và đất trồng RSX cho bên
nhận khoán, bao gồm các hộ gia đình có nhu cầu nhận đất, trong đó ưu tiên các hộ đồng
bào dân tộc thiểu số tại chỗ có đời sống khó khăn. Theo Nghị định, tùy vào trình độ tổ chức
sản xuất của bên giao và nhận khoán, hợp đồng khoán có thể được tiến hành theo hình
thức khoán ổn định theo chu kỳ cây trồng hoặc chu kỳ kinh doanh, hoặc khoán theo công
đoạn, nhưng thời gian khoán tối đa không quá 50 năm. Bên giao khoán cũng có thể đầu
tư cho bên nhận khoán theo các hình thức khác nhau nhằm phát triển vốn rừng với lợi ích
được chia cho các bên theo tỷ lệ tương ứng với đóng góp của mỗi bên.
• Quyết định 304 ngày 23 tháng 11 năm 2005 của Chính phủ về việc thí điểm giao rừng,
khoán bảo vệ rừng cho các hộ gia đình và cộng đồng trong buôn, làng là đồng bào dân tộc
thiểu số tại chỗ ở các tỉnh Tây Nguyên. Quyết định nà y quy định việc giao rừng tự nhiên là
RSX, hoặc khoán rừng tự nhiên là RPH hoặc RĐD cho các hộ gia đình có đủ tiêu chuẩn (chủ
yếu là các hộ nghèo) tiếp cận được với các nguồn lực nhằm thực hiện việc bảo vệ rừng, cải
thiện sinh kế. Theo Quyết định, trong điều kiện quỹ đất cho phép, các hộ có đủ tiêu chuẩn
và có nguyện vọng có thể được giao dưới 30 ha rừng sản xuất và nhận khoán 15-20 ha đối
với RPH và RĐD. Ngoài ra, các hộ nhận đất và rừng cũng được nhận các hỗ trợ khác nhằm
phát triển và bảo vệ vốn rừng được giao một cách hiệu quả.
Như vậy cơ chế giao và khoán có những khác biệt rất cơ bản, thể hiện mối quan hệ thông
qua đất đai giữa một bên là bên giao đất và bên nhận (đối với cơ chế giao đất) và giữa bên
giao khoán và bên nhận khoán (đối với giao khoán). Mối quan hệ nà y được điều chỉnh bằng https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
26
các cơ chế luật pháp khác nhau. Trong cả 2 cơ chế, Nhà nước đóng vai trò là đại diện chủ sở
hữu, có vai trò cao nhất, thực hiện việc giao đất. Cụ thể, theo Luật Đất đai, Nhà nước:
• Có quyền định đoạt đối với đất đai, bao gồm việc quyết định mục đích sử dụng, quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất, hạn mức giao đất và thời hạn sử dụng đất, quyết định việc giao đất,
cho thuê đất, thu hồi và cấp phép cho người sử dụng;
• Trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất thông qua hình thức giao đất, cho thuê đất,
công nhận quyền sử dụng đất đối với người đang sử dụng đất ổn định; quy định quyền và
nghĩa vụ của người sử dụng đất.
• Thống nhất quản lý về đất đai, bao gồm việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật
về quản lý, sử dụng đất và tổ chức thực hiện các văn bản đó; xác định địa giới hành chính,
lập và quản lý hồ sơ địa giới và bản đồ hành chính; khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng
đất và lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất và quy hoạch; quản lý việc thực hiện kế hoạch,
quy hoạch, thực hiện việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi và chuyển mục đích sử dụng.
• Chịu trách nhiệm về thống kê và kiểm kê đất đai, quản lý và phát triển thị trường đất đai,
quản lý và giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, thanh tra,
kiểm tra giám sát việc chấp hành các quy định của phát luật về đất đai và xử lý vi phạm
pháp luật về đất đai.
• Có trách nhiệm giải quyết các tranh chấp về đất đai, giải quyết khiếu nại, tố cáo các vi
phạm trong việc quản lý và sử dụng đất.
Đối với đất RSX, Luật cho phép người nhận đất, bao gồm các hộ gia đình và cá nhân được
chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế và thế chấp. Các quyền nà y được duy trì đối
với người nhận đất với điều kiện người nhận đất phải tuân thủ các quy định của Nhà nước
trong quá trình sử dụng đất. Nhà nước có thể thu hồi đất và các quyền đi kèm với đất nếu
người nhận đất bị vi phạm quy định của Nhà nước trong sử dụng đất. Bảng 6 mô tả sự khác
biệt cơ bản giữa hình thức giao (theo Nghị định 02) và khoán (theo Nghị định 01). https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
27
Bảng 5. Sự khác nhau giữa cơ chế giao và khoán
Hình thức Giao Khoán
Nhà nước giao RPH, RĐD cho các tổ
chức của Nhà nước với mục đích bảo
vệ và quản lý. Nhà nước giao rừng tự
nhiên là RSX có trữ lượng cho LTQD/
CTLN sử dụng và quản lý, giao rừng
nghèo, đất trống được quy hoạch là
đất RSX cho các tổ chức thuộc Nhà
nước, hộ gia đình, cá nhân để sử dụng
Pháp luật hành chính với Nhà nước
đóng vai trò là đại diện chủ sở hữu và
bên nhận đất là đối tượng được Nhà
nước giao đất
Loại rừng áp dụng
Cơ chế pháp luật điều chỉnh
mối quan hệ
BQL RPH, RĐD khoán rừng cho các hộ
gia đình, cá nhân với mục đích bảo
vệ rừng.
LTQD/CTLN khoán đất được quy
hoạch là đất RSX cho các hộ gia đình,
cá nhân để trồng rừng, nhằm mục
đích phát triển kinh tế
Pháp luật dân sự, đơn thuần là giao
dịch giữa một bên giao khoán và một
bên nhận khoán. Nhà nước chỉ đóng
vai trò tạo khung pháp luật, quy định
mối quan hệ giữ bên giao và nhận
khoán
Nhà nước giao đất RPH và RĐD cho
các BQL với mục đích bảo vệ và quản
lý. Các quyền sử dụng đối với đất và
rừng rất hạn chế. Các quyền đối với
đất và rừng tự nhiên là RSX có trữ
lượng được giao cho các CTLN cũng
hạn chế. Nhà nước giao 5 quyền
(chuyển đổi, chuyển nhượng, cho
thuê, thừa kế, thế chấp) cho các hộ gia
đình, cá nhân được Nhà nước giao đất
là đất có rừng nghèo, hoặc không có
rừng được quy hoạch là đất RSX
Thông thường 50 năm đối với đất RSX
Phạm vi của các quyền được
trao cho người nhận đất
Thời hạn của các quyền
Các quyền được xác định trong hợp
đồng khoán bảo vệ được quy định
giữa bên giao khoán và bên nhận
khoán. Thông thường phạm vi của các
quyền rất hạn chế
Theo hợp đồng khoán
Nguồn: Luật Đất đai, luật Bảo vệ và Phát triển rừng, Nghị định 01, Nghị định 02
Như vậy cơ chế giao và khoán quy định các loại quyền và phạm vi các quyền rất khác nhau
đối với bên nhận đất và bên nhận khoán. Các quyền và phạm vi của các quyền đó còn phụ
thuộc và tính chất của các loại đất rừng. Bảng 6 chỉ ra phạm vi các quyền của hộ khi hộ đóng
vai trò là bên nhận đất từ Nhà nước (trong cơ chế giao), và bên nhận khoán từ CTLN/BQL (cơ
chế khoán) đối với 3 loại đất rừng khác nhau.https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
28
Bảng 6. Phạm vi các quyền của hộ đối với 3 loại rừng theo cơ chế giao và khoán
Các loại quyềnRừng phòng hộ Rừng đặc dụng
Rừng sản xuất là
rừng tự nhiên
Rừng sản xuất là
rừng trồng
Quyền khai thác các
sản phẩm trên đất
rừng vệ rừng
Quyền quản lý
Thu hái sản phẩm
phụ trong rừng
Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất
Thời hạn của các
quyền
Quyền chuyển
nhượng
Quyền trao đổi
Quyền cho thuê
Quyền thế chấp
Quyền đem tặng
Hạn chế (tỉa thưa,
khai thác lựa chọn,
tận thu)
Hạn chế, được BQL
nắm giữ
Hạn chế, nhưng dễ
dàng hơn so với RĐD
Không được cấp, chỉ
là hợp đồng khoán
với BQL
Theo hợp đồng
khoán
Hạn chế, chỉ chuyển
nhượng hợp đồng
khoán khi có sự đồng
ý của bên giao khoán
và chính quyền địa
phương
Hạn chế, chỉcho phép
giữa các hộ cùng
vùng cư trú
Không được phép
Không được phép
Không được phép
Không được phép
Hạn chế, được BQL
nắm giữ
Hạn chế, mức độ cao
hơn so với RPH
Không được cấp, chỉ
là hợp đồng khoán
với BQL
Theo hợp đồng
khoán
Hạn chế, chỉ chuyển
nhượng hợp đồng
khoán khi có sự đồng
ý của bên giao khoán
và chính quyền địa
phương
Hạn chế, chỉ cho
phép giữa các hộ
cùng vùng cư trú
Không được phép
Không được phép
Không được phép
Hạn chế, nhưng dễ
dàng hơn so với RPH
Hạn chế, được CTLN
nắm giữ
Được phép
Một số trường hợp
được cấp, nhưng các
quyền của hộ đối với
đất và rừng hạn chế
Được quy định cụ
thể trong giấy chứng
nhận sử dụng đất,
thông thường 20-50
năm
Hạn chế, chỉ chuyển
nhượng hợp đồng
khoán khi có sự đồng
ý của bên giao khoán
và chính quyền địa
phương
Hạn chế, chỉ cho
phép giữa các hộ
cùng vùng cư trú
Không được phép
Chỉ được phép đối
với lượng gỗ gia tăng
do hộ thực hiện bảo
vệ rừng
Không được phép
Được phép
Hạn chế, nếu rừng
được hình thành từ
ngân sách nhà nước.
Không hạn chế, nếu
rừng được hình thành
do vốn của chính hộ
Được phép
Được cấp giấy chứng
nhận, với 5 quyền đầy
đủ của hộ như Luật
đất đai quy định
50 năm
Được phép
Hạn chế, chỉ cho
phép giữa các hộ
cùng vùng cư trú
Được phép, giới hạn
trong 3 năm
Được phép
Giới hạn, chỉ được
tặng cho các tổ chức
Nhà nước và cộng
đồnghttps://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
29
Các loại quyềnRừng phòng hộ Rừng đặc dụng
Rừng sản xuất là
rừng tự nhiên
Rừng sản xuất là
rừng trồng
Quyền thừa kế
Đầu tư vào đất rừng
Hạn chế, chỉ được
phép khi bên giao
khoán và chính quyền
địa phương đồng ý
Không được phép
Hạn chế, chỉ được
phép khi bên giao
khoán và chính quyền
địa phương đồng ý
Không được phép
Được phép
Hạn chế, chỉ áp dụng
đối với phần trữ
lượng gỗ gia tăng do
đầu tư của hộ
Được phép
Được phép
Nguồn: Chỉnh sửa và bổ sung từ nguồn của Đặng Kim Phụng và cộng sự năm 2012
3.2. Giao đất cho các Công ty Lâm nghiệp và BQL
Như phần II đã đề cập, LTQD là đại diện cho lâm nghiệp Nhà nước đã được hình thành và
tồn tại từ ngay những ngà y đầu kể từ khi lập nước cho đến tận ngà y naydưới hình thức là
các CTLN. Lịch sử hình thành và phát triển LTQD được gắn kết chặt chẽ với khai thác gỗ từ
các diện tích đất lâm nghiệp được Nhà nước giao cho lâm trường. Khi nguồn tài nguyên gỗ
cạn kiệt, hoạt động khai thác gỗ của lâm trường bị xóa bỏ. Khi nguồn thu từ gỗ không còn,
để duy trì sự tồn tại Nhà nước giao cho các LTQD thực hiện các Chương trình bảo vệ và phát
triển rừng như Chương trình 327 và 661. Trong khuôn khổ các Chương trình nà y, các lâm
trường thực hiện các hoạt động trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng sử dụng nguồn kinh phí từ các
Chương trình đó. Một số lâm trường tiến hành khoán một phần diện tích của mình với người
dân địa phương nhằm bảo vệ và trồng rừng mới. Đến nay, hoạt động khai thác gỗ không
còn, một số lâm trường đang tham gia thực hiện kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng (2011-
2020). Các lâm trường có diện tích rừng được giao nằm trên lưu vực của các nhà máy thủy
điện đang có nguồn thu từ chi trả dịch vụ môi trường rừng.
19
Như trên đã đề cập, Nghị quyết 28/NQ-TW của Bộ Chính trị năm 2003 và Nghị định 200 của
Chính phủ năm 2004 quy định việc sắp xếp đổi mới các LTQD thành các CTLN. Thực hiện việc
sắp xếp, 256 LTQD đã được chuyển đổi thành 148 CTLN, 3 công ty cổ phần và 91 BQL rừng,
giải thể 14 LTQD hoạt động không hiệu quả. Trong số 148 LTQD hiện đang tồn tại, chỉ có 10
lâm trường trực thuộc Trung ương; 138 Lâm trường còn lại trực thuộc UBND tỉnh. Bảng 7 thể
hiện diễn biến sử dụng đất trong các LTQD.
19
Nghị định 99/2010/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngà y 24 tháng 9 năm 2010 về chính sách chi trả dịch vụ
môi trường, theo đó quy định các đơn vị sử dụng dịch vụ môi trường rừng (ví dụ dịch vụ cung cấp nguồn nước, dịch vụ
chống bồi lắng lòng hồ) phải trả tiền cho các đơn vị, cá nhân bảo vệ rừng để duy trì các dịch vụ nà y.https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
30
Chỉ tiêu Trước sắp xếp (2005) Năm 2011
3.828.000
1.685.000
2.111.000
32.000
Tổng diện tích đất lâm nghiệp, trong đó
Đất RPH
Đất trả lại địa phương (ha)
Đất RSX
Đất RĐD
1.904.700
362.221
585.167
1.529.262
13.217
Bảng 7. Thay đổi diện tích đất lâm nghiệp do các CTLN quản lý (ha)
Nguồn: Báo cáo 595 của Tổng cục Lâm nghiệp, 2012
20
Hiện 148 CTLN đang quản lý khoảng 1,9 triệu ha đất lâm nghiệp, trong đó chủ yếu là đất
rừng sản xuất, giảm từ con số 3,8 triệu ha trước khi thực hiện việc sắp xếp, đổi mới theo tinh
thần của Nghị quyết 28 của Bộ Chính trị và Nghị định 200 của Chính phủ. Tuy nhiên, các CTLN
vẫn nhận được sự ưu ái trong vấn đề tiếp cận với đất đai. Mặc dù đã có gần 600.000 ha đất
của các CTLN được trao trả về địa phương, theo đánh giá của một số chuyên gia nhiều phần
trong số diện tích nà y không có khả năng canh tác, bởi vị trí đất nằm xa khu dân cư, hoặc đất
đã bị bạc màu.
Báo cáo 595 của Tổng cục Lâm nghiệp cho thấy bình quân diện tích đất trung bình mà mỗi
CTLN được giao khoảng gần 14.000 ha, và nếu tính bình quân thì mỗi lao động của CTLN
được giao 80 ha rừng tự nhiên và 20 ha rừng trồng. Con số nà y là quá lớn, và do vậy các CTLN
không có khả năng tự sử dụng đất một cách hiệu quả. Đây là cơ hội để hình thành tình trạng
đất đai sử dụng chưa hiệu quả, tình trạng phát canh thu tô trong một số CTLN mà sẽ được
đề cập chi tiết trong phần khoán cho các hộ. Tình hình sử dụng đất của LTQD/CTLN được thể
hiện trong bảng 8.
20
Báo cáo

số 595/BC-TCLN-BCS ngà y 17 tháng 5 năm 2012 của Tổng cục Lâm nghiệp tổng kết việc thực hiện Nghị quyết 28-NQ/
TW của Bộ Chính trị về sắp xếp, đổi mới và phát triển Lâm trường quốc doanh.https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
31
Bảng 8. Diễn biến hình thức sử dụng đất trong các LTQD/CTLN
Bảng 9. Tình hình sử dụng đất của các BQL rừng phòng hộ trong cả nước
Chỉ tiêu Đơn vị
Trước sắp xếp
(2005)
STT
STT Vùng địa lý
Tổng cộng
Phòng hộ Đặc dụng Sản xuất
Số
lượng
bql
Năm 2011
Tăng (+),
giảm (-)
Tổng diện tích đất haI
1
2
3
4
5
6
Tự tổ chức sản xuất, quản lý
Giao, khoán
Liên doanh, liên kết
Cho thuê, mượn
Tranh chấp, lấn chiếm, xâm canh
Chưa rõ hình thức sử dụng
ha
ha
ha
ha
ha
ha
4.091.000
3.287.000
667.500
33.690
3.836
47.637
50.920
2.064.690
1.868.383
667.500
23.102
810
7.684
50.920
-2.026.310
-1.418.617
0
-10.588
-3.026
-39.953
0
Nguồn: Báo cáo 595 ngày của Tổng cục Lâm nghiệp, 2012.
Nguồn: Báo cáo tổng kết chuyên đề BQL RPH của Tổng cục Lâm nghiệp, 2012.
Nghị quyết 28 của Bộ Chính trị và Nghị định 200 của Chính phủ cũng đã tạo ra sự dịch chuyển
về hình thức quản lý rừng tự nhiên trong phạm vi các cơ quan quản lý rừng của Nhà nước,
theo đó 91 LTQD có diện tích RPH lớn đã được chuyển đổi sang thành các BQL. Bảng 9 mô tả
tình hình đất đai của các BQL RPH trong cả nước, được phân chia theo các vùng địa lý khác
nhau. Bảng 10 trình bà y thực trạng sử dụng đất trong 91 BQL RPH được chuyển đổi từ các
LTQD trước đó.
Diện tích đất lâm nghiệp (ha)
Chia ra
1
2
3
4
5
6
7
8
Tây Bắc
Đông Bắc
Sông Hồng
Bắc Trung Bộ
Duyên Hải
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
Tây Nam Bộ
30
41
9
47
59
53
14
23
276
511.317
585.875
22.435
917.618
892.933
951.192
142.708
148.452
4.229.544
409.692
542.311
16.297
798.125
636.439
601.219
97.105
111.119
3.249.600
4.964
2.672
1.530
628
31.588
1.869
28.873
5.167
77.291
96.611
40.892
4.608
118.865
224.906
348.104
16.730
32.166
902.652
TỔNG CỘNGhttps://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
32
Bảng 10. Tình hình sử dụng đất của các BQL RPH sau chuyển đổi
Nguồn: Báo cáo tổng kết chuyên đề BQL RPH của Tổng cục Lâm nghiệp, 2012.
STT Loại hình sử dụng đất
Trước chuyển đổi
(ha)
Ngay sau khi chuyển
đổi (ha)
Diện tích hết 2011
(ha)
A
1
2
3
4
5
6
A
B
C
D
Phân theo hình thức sử dụng đất
Diện tích đất tự tổ chức quản lý bảo vệ
Diện tích đất tự liên doanh liên kết
Diện tích đất giao khoán
Diện tích đất cho thuê, mượn
Diện tích đất tranh chấp, lấn chiếm
Diện tích đất chưa rõ mục đích sử dụng
Diện tích đất đã được cấp sổ đỏ
Diện tích đất đã thực hiện rà soát
Diện tích đất đã giao cho địa phương
Diện tích đất lâm nghiệp chưa được rà soát,
cấp sổ đỏ
222.552
892
0
484
23.107
34.440
95.686
82.591
14.865
269.136
3.546
6.885
42
3.427
29.717
231.616
300.992
43.878
1.521.522
257.565
2.380
1.198.400
50
23.886
39.240
414.503
319.144
13.095
720.522
3.3. Giao đất cho các hộ gia đình, cá nhân
Theo Nhà nước thực hiện giao đất cho hộ gia đình và cá nhân (sau đây được gọi chung là hộ)
sẽ giúp hộ tiếp cận tốt hơn đối với đất đai. Theo cách lập luận nà y, khi các hộ được nhận đất
và các quyền sử dụng đất lâu dài hộsẽ có động lực để đầu tư phát triển và bảo vệ rừng, tạo
cơ hội nâng cao sinh kế và ổn định cuộc sống, từ bỏ canh tác nương rẫy. Theo cách nghĩ nà y,
khi sinh kế các hộ được cải thiện hộ sẽ có điều kiện tiếp tục thực hiện đầu tư vào phát triển
và bảo vệ rừng, cải thiện môi trường sinh thái.Hình 3 thể hiện mục tiêu của giao đất cho hộ
gia đình.https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
33
Hình 3. Mục tiêu của chính sách giao đất giao rừng
Nguồn: Bổ sung từ nguồn của Castella và cộng sự năm 2006
Số liệu trong bảng 1, tính đến hết ngà y 1 tháng 1 năm 2012, tổng diện tích đất lâm nghiệp đã
giao cho các hộ gia đình và cá nhân là 4,46 triệu ha, trong đó đất RSX chiếm 69,5% (3,1 triệu
ha), đất RPH chiếm 29,8% (1,33 triệu ha), còn lại là đất RĐD (11.377 ha). Theo Quyết định 1739
của Bộ NN&PTNT về việc công bố hiện trạng rừng toàn quốc năm 2012, tổng số diện tích đất
đã có rừng được giao cho hộ là gần 3,4 triệu ha, trong đó 1,8 triệu ha là rừng tự nhiên, phần
còn lại là rừng trồng. Bảng 11 mô tả đặc điểm các loại rừng được giao cho hộ.
GÐGR
cho các hộ gia đình
Tăng cường tính trách
nhiệm của hộ với rừng
Tăng cường việc bảo vệ
tài nguyên rừng
Tăng cường phát triển
vốn rừng thông qua
Cải thiện sinh kế hộ
Áp dụng hình thức
định canh định cưhttps://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
34
Loại đất loại rừng Diện tích (ha)
Đất có rừng (A -rừng tự nhiên + B - rừng trồng)
Rừng tự nhiên (A) , bao gồm:
• Rừng gỗ
• Rừng tre nứa
• Rừng hỗn giao
• Rừng ngập mặn
• Rừng núi đá
Rừng trồng (B), bao gồm
• Rừng trồng có trữ lượng
• Rừng trồng chưa có trữ lượng
• Tre luồng
• Cây lâu năm, đặc sản
• Cây ngập mặn, ngập phèn
3.388.948
1.809.976
1.391.169
131.933
72.373
2.132
212.369
1.578.972
811.747
563.663
71.268
97.819
34.475
Bảng 11. Rừng giao cho hộ gia đình tính đến hết 2012
Nguồn: Quyết định 1739 của Bộ NN&PTNT, 2013
Diện tích rừng tự nhiên được giao cho hộ tương đối lớn, chiếm 53% trong tổng lượng đất có
rừng được giao cho hộ gia đình. Tuy nhiên cho đến nay, hầu hết các hộ đều chưa được hưởng
lợi từ diện tích rừng nà y. Nghiên cứu của Vũ Long và Đỗ Đình Sâm (2009) cho thấy rằng trên
70% diện tích rừng tự nhiên được giao cho hộ là rừng nghèo, do vậy hạn chế về tiềm năng
kinh tế mà rừng có thể đem lại cho hộ. Bên cạnh đó, quyền của hộ được giao đất là rừng tự
nhiên rất hạn chế: so sánh một cách tương đối, các quyền sử dụng rừng của hộ đối với rừng
tự nhiên chưa bằng một nửa so với các quyền được giao cho hộ đối với đất sản xuất nông
nghiệp và đất trồng rừng (cùng nguồn trích dẫn). Điều nà y có nghĩa rằng có 2 loại hình thể
chế được áp dụng đối với các hộ nhận đất rừng trên đó có rừng tự nhiên là RSX. Thứ nhất
là pháp luật đất đai, điều chỉnh mối quan hệ, bao gồm cả trách nhiệm và quyền lợi của bên
giao đất (Nhà nước) và bên nhận đất (hộ) thông qua đất đai, và Luật BVPTR điều chỉnh mối
quan hệ giữa 2 bên thông qua rừng tự nhiên là RSX. Luật Đất đai cho phép hộ nhận đất được
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, được cho thuê quyền sử dụng đất, có quyền thực hiện https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
35
thừa kế, tặng quyền sử dụng, được thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Tuy
nhiên, đối với rừng tự nhiên, được coi là tài sản ở trên đất, Luật BVPRT không cho phép việc
thực hiện các quyền chuyển nhượng, quyền cho thuê, quyền cho tặng đối với các quyền sử
dụng rừng được giao cho hộ gia đình. Bên cạnh đó, các quyền cho, tặng, thế chấp đối với
rừng nói chung và rừng tự nhiên nói riêng lại hết sức hạn chế. Bảng 12 so sách các quyền của
hộ gia đình đối với đất đai và RSX, bao gồm cả rừng tự nhiên và rừng trồng.
Bảng 12. Phạm vi các quyền của hộ đối với đất RSX, rừng tự nhiên và rừng trồng là RSX
21
Quyền sử dụng đất rsx Quyền sử dụng rừng tự nhiênQuyền sử dụng rừng trồng
Các quyền và nghĩa vụ chung quy
định tại điều 105, 107 của Luật Đất
đai
Chuyển đổi quyền sử dụng đất
trong cùng một xã, phường, thị trấn
đối với hộ gia đình, cá nhân khác
Quyền chuyển nhượng quyền sử
dụng đất
Quyền cho thuê quyền sử dụng
đất
Quyền thừa kế
Quyền tặng lại quyền sử dụng đất
Quyền thế chấp, bảo lãnh, góp vốn
bằng quyền sử dụng đất
Các quyền và nghĩa vụ chung quy
định tại điều 70 của Luật BVTPR
Chuyển đổi cho hộ gia đình, cá
nhân trong cùng địa phương
Không được chuyển nhượng quyền
sử dụng rừng
Không được cho thuê
Quyền thừa kế
Không được tặng
Được thế chấp bằng giá trị quyền
sử dụng rừng tăng thêm
Các quyền và nghĩa vụ chung quy
định tại điều 70 của Luật BVTPR
Chuyển đổi cho hộ gia đình, cá
nhân trong cùng địa phương
Không được chuyển nhượng
Được cho thuê
Quyền thừa kế
Được tặng cho Nhà nước và cộng
đồng
Được thế chấp
Nguồn: Vũ Long và Đỗ Đình Sâm, 2009
21
Các quyền của hộ đối với đất RSX được quy định trong Luật Đất đai 2003. Các quyền của hộ đối với RSX, bao gồm cả
rừng tự nhiên và rừng trồng được quy định trong Luật BVPTR và Điều 32, Chương IV trong Nghị định 23/2006/NĐ-CP
ngày 3 tháng 3 năm 2006 về thi hành Luật BVPTR.
Sự khác nhau trong các quy định pháp lý quy định quyền lợi của hộ đối với đất RSX và quyền
lợi của hộ đối với RSX là rừng tự nhiên làm hạn chế việc thực hiện các quyền của hộ. Điều nà y
chỉ ra tính phức tạp trong quản lý và sử dụng đất RSX là rừng tự nhiên ở Việt Nam.
Đến hết năm 2012 tổng diện tích rừng trồng trong cả nước là khoảng 3,4 triệu ha, trong đó https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
36
rừng trồng là RSX chiếm 2,5 triệu ha.
22
Theo bảng 11, tổng diện tích rừng trồng của hộ là gần
1,6 triệu ha, trong đó có 51% là rừng có trữ lượng; phần còn lại (49%) chưa có trữ lượng. Bảng
1 cho thấy tổng số đất RSX được giao cho hộ là 3,1 triệu ha. Hiện chưa có con số thống kê về
diện tích các loại đất rừng (đất RSX, RPH, RĐD) nằm trong phần diện tích đất rừng tự nhiên
và rừng trồng được giao cho hộ gia đình. Tuy nhiên, hạn chế về quyền trong việc hưởng lợi
của hộ đối với rừng tự nhiên (1,8 triệu ha, bảng 11) và diện tích rừng trồng hạn chế (1,5 triệu
ha tổng số), làm cho lợi ích thu được từ rừng của các hộ còn rất hạn chế. Điều quan trọng nữa
cần phải kể đến đó là các diện tích được giao cho trên 1triệu hộ gia đình. Như vậy, bình quân
mỗi hộ chỉ có khoảng 2-3 ha đất RSX. Điều nà y có nghĩa rằng tiếp cận đối với đất sản xuất
của các hộ là rất hạn chế. Nói cách khác, Nhà nước vẫn dành rất nhiều ưu tiên cho các tổ chức
của Nhà nước, trong đó bao gồm các CTLN và các BQL trong việc nắm giữ phần diện tích đất
rừng, đặc biệt là đất RSX và điều nà y làm hạn chế đất sản xuất của hộ, hạn chế khả năng phát
triển kinh tế hộ. Theo Ủy ban Dân tộc, người dân thiếu đất sản xuất do các CTLN bao chiếm là
nguyên nhân dẫn đến đói nghèo, đặc biệt là ở các vùng Tây Nguyên và Tây Bắc.
23
Mâu thuẫn
đất đai giữa CTLN, QBL và người dân diễn ra phổ biến ở nhiều địa phương, với quy mô ngà y
càng phức tạp (Tô Xuân Phúc và cộng sự, 2013). Con số 7.600 ha là diện tích đất tranh chấp
giữa CTLN và người dân địa phương được đưa ra trong Báo cáo 595 của Tổng cục Lâm nghiệp
chỉ phản ánh một phần rất nhỏ về thực trạng của tranh chấp đất lâm nghiệp. Thực trạng nà y
cũng được phản ánh sự bất bình đẳng trong việc tiếp cận đất sản xuất giữa một bên là các
hộ dân và bên kia là các CTLN và các BQL. Nắm giữ một phần diện tích đất và rừng rất lớn, và
với nguồn lực sẵn có các CTLN và BQL không có khả năng tự sử dụng đất, bảo vệ rừng hiệu
quả. Khoán một phần diện tích cho các hộ là một trong những cơ chế được áp dụng hiện nay
bởi các CTLN và BQL. Phần tiếp theo sẽ thảo luận về cơ chế nà y.
3.4. Khoán đất và rừng cho hộ gia đình
Theo Bảng 8, trong tổng số khoảng 2 triệu ha được Nhà nước giao sử dụng và quản lý, diện
tích đất mà các CTLN hiện đang tự tổ chức sản xuất, quản lý tính đến hết 2011 là 1,8 triệu
ha (93% trong tổng số); phần diện tích giao, khoán cho các hộ chiếm 667.500 ha. Tuy phần
diện tích mà các CTLN đang tự tổ chức sản xuất lên tới 1,8 triệu ha, nguồn lao động chủ yếu
được các CTLN huy động trong các hoạt động có liên quan đến sử dụng đất là lao động địa
phương, là những hộ dân sống gần rừng. Tùy theo tính chất công việc, người dân có thể
được thuê theo ngà y, với tiền công được tính theo từng ngà y làm việc, dựa trên các công
22
Quyết định 1739 của Bộ NN&PTNT, 2013
23
Báo cáo của Ủy ban Dân tộc với UB Dân tộc của Quốc Hội về Đất đai cho đồng bào dân tộc thiểu số ngà y 25 tháng 4 năm
2014. https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
37
việc cụ thể được CTLN xác định. Người dân cũng có thể được thuê theo mùa vụ, ví dụ như
lao động cho các hoạt động trồng, chăm sóc và bảo vệ cây. Ngoài tiền công theo ngà y hoặc
theo mùa vụ mà người lao động được nhận từ các CTLN, người lao động hoàn toàn không
có bất cứ quyền lợi nào khác.
Diện tích đất mà các CTLN khoán cho cá hộ gia đình tương đối lớn, lên tới gần 700.000 ha.
Hiện các CTLN sử dụng nhiều hình thức khoán khác nhau, phụ thuộc vào đối tượng nhận
khoán, diện tích đất mà các hộ nhận, và hình thức đầu tư của CTLN. Bảng 13 là ví dụ của 3
hình thức khoán hiện đang được CTLN Đông Bắc (Lạng Sơn) áp dụng đối với các hộ dân tại
thôn Cốt Cốt, huyện Hữu Lũng để trồng rừng.
Bảng 13. Ba hình thức khoán đất cho hộ gia đình của CTLN Đông Bắc
Hình thức Đầu tư của công ty
Sản lượng (m3 gỗ) mà hộ phải nộp cho
công ty khi thu hoạch sản phẩm
Khoán đất có chồi cây (sau khai
thác) cho các hộ
Khoán cho hộ đối với diện tích từ
1,5 ha trở xuống/hộ
Khoán cho hộ với diện tích lớn hơn
1,5 ha/hộ
Không
Phân bón, giống, chỉ đạo kỹ thuật
Phân bón, giống, chỉ đạo sản xuất
24 m3 gỗ khi khai thác, với chu kỳ
là 4 năm tính từ khi bắt đầu nhận
khoán
26 m3 gỗ khi thai thác, với chu kỳ
5 năm tính từ thời điểm hộ nhận
khoán
32 m3 gỗ khi khai thác, với chu kỳ 5
năm từ thời điểm hộ nhận khoán
Nguồn: Tô Xuân Phúc và cộng sự, 2013
Với các hình thức khoán như trên, có nhiều ý kiến cho rằng thực chất của việc khoán đất cho
hộ là hình thức ‘phát canh thu tô’ của các công ty, với CTLN không có khả năng để sử dụng
đất hiệu quả, mà phải đem đất đó cho các hộ dân thiếu đất thuê và thu lợi từ các hoạt động
này.
Tình trạng ‘phát canh thu tô’ được thực hiện thông qua hình thức khoán được một số CTLN
áp dụng đối với các hộ nhận khoán thể hiện sự bất bình đẳng nghiêm trọng trong tiếp cận
đất đai giữa một bên là hàng trăm nghìn hộ dân có cuộc sống khó khăn do thiếu đất canh
tác và một bên một số CTLN được giao nhiều đất nhưng không có khả năng tự sử dụng đất
hiệu quả. Sự bất bình đẳng trong tiếp cận đất đai cũng là một trong những nguyên nhân
chính dẫn đến mâu thuẫn đất đai giữa các CTLN và người dân địa phương. Mâu thuẫn diễn
ra ở hầu hết các địa bàn nơi có các CTLN bao chiếm đất (Tô Xuân Phúc và cộng sự 2013), với
quy mô lớn hơn rất nhiều so với quy mô được thống kê chính thức bởi các cơ quan quản lý.
Theo Báo cáo 595 của Tổng cục Lâm nghiệp, tổng diện tích đất tranh chấp giữa các CTLN và https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
38
người dân địa phương trong cả nước là khoảng 7.600 ha. Tuy nhiên, con số thực tế còn lớn
hơn rất nhiều. Chỉ tính riêng diện tích đất tranh chấp giữa người dân và CTLN Đông Bắc đã
lên tới 19.000 ha (Tô Xuân Phúc và cộng sự 2013).
Diện tích đất/rừng được các BQL RPH khoán cho các hộ dân là rất lớn. Theo Báo cáo tổng kết
chuyên đề BQL RPH của Tổng cục Lâm nghiệp (2012), chỉ tính riêng phần diện tích của các
BQL RPH được chuyển đổi từ các LTQD theo tinh thần của Nghị định 200, khoảng gần 1,2
triệu ha đất/rừng, tương đương 78,8% tổng diện tích đất được giao cho các BQL PRH nà y đã
được giao khoán cho 1.248 cộng đồng và 18.582 hộ gia đình quản lý. Ở nhiều nơi, tình trạng
người dân lấn chiếm đất RPH để canh tác vẫn diễn ra phổ biến. Điển hình là tại RPH Bù Đăng
- Bình Phước nơi diện tích bị lấn chiếm tới trên 90% diện tích đất BQL được giao quản lý.
Các phân tích ở trên chỉ ra rằng giao đất cho hộ đã phát huy được tính hiệu quả trong việc
sử dụng đất, cải thiện sinh kế hộ, góp phần xóa đói giảm nghèo, tăng độ che phủ rừng. Tuy
nhiên, giao đất cho các CTLN chưa phát huy được tính hiệu quả trong sử dụng đất. Thực chất,
việc Nhà nước giao phần diện tích đất rất lớn cho các CTLN sử dụng không hiệu quả làm mất
cơ hội của hộ trong việc tiếp cận với nguồn đất sản xuất, tạo cơ hội cho các CTLN thực hiện
‘phát canh thu tô’ và duy trì tình trạng sống bám vào Nhà nước thông qua việc kiểm soát đất
đai. Điều nà y đặt ra một số câu hỏi quan trọng cho các cơ quan quản lý: Tại sao Nhà nước
không giao đất, giao rừng trực tiếp cho các hộ mà lại giao cho CTLN, BQL rồi cho phép các
Công ty, BQL giao khoán lại cho các hộ gia đình và cá nhân? Theo cơ chế giao khoán, chắc
chắn các hộ bị thiệt thòi vì phải chia một phần lợi ích từ sử dụng đất cho các Công ty và BQL.
Hình thức giao khoán có thể phát huy được hiệu quả nếu các CTLN, BQL có các thế mạnh
về vốn, khoa học kỹ thuật, công nghệ hợp tác với hộ với thế mạnh về lao động nhằm thực
hiện các hoạt động đầu tư trên đất. Tuy nhiên, hiện tại các CTLN và BQL không có các thế
mạnh nà y. Do vậy, thực hiện cơ chế khoán dẫn đến thực trạng ‘phát canh thu tô’ trong một
số CTLN.
Phần tiếp theo của Báo cáo mô tả tiến trình giao đất, tập trung vào tiến trình giao đất cho
hộ gia đình. Việc thực hiện chính sách tại các địa phương phụ thuộc vào nguồn lực của địa
phương. Thực tế cho thấy hầu hết các địa phương không đủ nguồn lực để thực hiện giao
đất và thường bỏ qua một số bước khi thực hiện. Kết quả là chính sách được thực hiện theo
các cách rất khác nhau.
24
Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện giao đất, cơ quan quản lý
địa phương có thể điều chỉnh các bước và nội dung trong các bước. Sự điều chỉnh nà y phụ
thuộc vào điều kiện về con người và ngân sách của địa phương dành cho GĐGR, điều kiện
24
Thông tin về các bước thực hiện chính sách GĐGR tại một số địa bàn của Hòa Bình, Phú Thọ và Hà Tây (nay là Hà Nội)
có thể xem trong ấn phẩm của Tô Xuân Phúc (2007).https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
39
kỹ thuật, bao gồm cả hệ thống thông tin dữ liệu hỗ trợ giao đất, cam
kết của bộ máy lãnh đạo và năng lực của cán bộ kỹ thuật.. Ví dụ tại Bắc
Kạn, giao đất được chia làm 2 giai đoạn: (i) trước năm 2000, giao đất do
cơ quan Kiểm lâm thực hiện, trong đó bao gồm 2 giai đoạn nhỏ: giao
đất lâm nghiệp theo hình thức giao sổ lâm bạ (hay còn gọi là sổ trắng)
từ 1985-1989 và giao theo hình thức sổ xanh năm 1994-1998; (ii) sau
năm 2000, do cơ quan Tài nguyên và Môi trường phụ trách, bao gồm
việc giao đất theo Nghị định 163 của Chính phủ, với hộ nhận đất được
cấp sổ đỏ (Trung tâm Tài nguyên Môi trường Lâm nghiệp và Viện Điều
tra và Quy hoạch Rừng 2012). Những điều nà y chỉ ra rằng để hiểu được
tác động và hiệu quả của GĐGR đòi hỏi cần phải có những nghiên cứu
mang tính chất hệ thống về cả quy mô không gian (các vùng trong cả
nước) và thời gian (theo các giai đoạn khác nhau). Phần IV dưới đây mô
tả tiến trình thực hiện cho hộ tại một số địa phương, trong đó tập trung
vào các bước thực hiện.https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
40
Tiến trình thực hiện giao đất cho hộ:
từ lý thuyết đến thực tiễn4
Theo Nghị định 02, tiến trình giao đất bắt đầu bằng việc hộ gia đình viết đơn xin nhận đất,
trong đó ghi rõ diện tích đất mà hộ cần nhận, địa điểm đất trên thực địa, tình trạng thảm thực
vật trên đất (ví dụ đất trống đồi núi trọc hay đất có rừng, loại rừng cụ thể). Trước khi đơn được
gửi lên UBND huyện, đơn cần có sự xác nhận của Chủ tịch UBND xã.Cùng với đơn xin nhận
đất, hộ còn phải nộp bản kế hoạch sử dụng đất, trong đó chỉ ra kế hoạch sử dụng đất của
hộ trong khoảng thời gian 5 năm sau khi nhận đất. Cũng giống như đơn xin nhận đất, bản
kế hoạch sử dụng đất của hộ phải có xác nhận của trưởng thôn và Chủ tịch UBND xã. Trong
những trường hợp cần thiết, UBND xã có thể thành lập Hội đồng giao đất cấp xã, với sự tham
gia của đại diện các tổ chức như Hội Nông dân, Cựu Chiến binh cấp xã. Dựa trên đơn xin nhận
đất và kế hoạch sử dụng đất của hộ, Chủ tịch UBND huyện ban hành quyết định giao đất
cho hộ. Quyết định nà y xác định các quyền và nghĩa vụ của hộ đối với đất được giao. Sau khi
Quyết định được ban hành, UBND huyện ra quyết định thành lập tổ công tác về giao đất với
các thành viên của tổ là đại diện của các cơ quan chuyên môn cấp huyện như hạt kiểm lâm
huyện, phòng địa chính. Tổ công tác cũng có sự tham gia của UBND xã. Quá trình giao đất tại
thực địa có sự tham gia của đại diện thôn với vai trò quan sát viên. Trước khi thực hiện các tác
nghiệp tại thực địa, tổ công tác tiến hành các cuộc họp về giao đất tại xã và thôn nhằm phổ
biến các nội dung và kiến thức có liên quan đến giao đất cũng như tiến trình các bước sẽ tiến
hành tại địa phương.Quy trình đầy đủ của việc GĐGR bao gồm các bước chính sau (Trần Thị
Thu Hà 2012, Phạm Hồng Giang 2012):
• Bước 1. Chuẩn bị, bao gồm việc thành lập ban chỉ đạo, tổ công tác giao đất cấp huyện,
thành lập hội đồng giao đất cấp xã
• Bước 2.Đánh giá hiện trạng rừng và đất rừng
• Bước 3. Xây dựng kế hoạch sử dụng đất và phương án giao đất cấp xã
• Bước 4. Lập kế hoạch giao đất tại thực địa
• Bước 5. Giao đất tại thực địa
• Bước 6. Hoàn thiện hồ sơ địa chính
• Bước 7. Thẩm định, phê duyệt, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Cách thức tiến hành giao đất trên thực địa có vai trò quyết định đến hiệu quả của công tác
giao đất và sử dụng đất của hộ sau giao. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc thực hiện https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
41
chính sách tại một số địa phương khác xa so với tiến trình được quy định trong chính sách.
Thông thường, tổ công tác GĐGR bỏ qua một số bước trong quy định nhằm tiết kiệm thời
gian và kinh phí. Cụ thể, đôi khi các cuộc họp tại các thôn và xã thường không được tiến hành
theo yêu cầu mà bị cắt ngắn hoặc bỏ qua; tại nhiều nơi, các cuộc họp nà y không có sự tham
gia đầy đủ của các ban ngành có liên quan; giao đất thiếu bản đồ hoặc có bản đồ nhưng bản
đồ không cập nhật tình trạng rừng và đất tại thời điểm giao đất; giao đất bỏ qua một số hoạt
động ngoại nghiệp khi giao đất.
25
Tác giả Clement và Amezaga (2009) cho thấy việc thực
hiện giao đất và kết quả của giao đất phụ thuộc vào cách hiểu của chính quyền về bản thân
chính sách và các nguồn lực về con người và tài chính mà chính quyền địa phương dành cho
việc thực hiện. Các điều kiện kinh tế xã hội của địa phương đóng vai trò quyết định đối với
cách thức thực hiện chính sách và điều nà y tác động đến kết quả của thực hiện chính sách
(Tô Xuân Phúc 2007, 2009). Chính sách có nhiều tồn tại, bao gồm việc thiếu cơ sở dữ liệu cần
thiết về tài nguyên rừng, thiếu bản đồ cập nhật và điều nà y làm giảm tính chính xác trong
giao đất; kết quả là ranh giới đo vẽ trên bản đồ không giống với ranh giới trên thực địa, và cả
2 ranh giới nà y thường không rõ ràng (Đinh Hữu Hoàng và Đặng Kim Sơn). Đây cũng chính là
một trong những nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn đất đai giữa các bên liên quan sau giao
đất. Tác giả Scott (2000) quan sát thấy tại Thái Nguyên giao đất được thực hiện theo các cách
khác nhau giữa các xã và huyện trong địa bàn tỉnh. Theo tác giả, trong một số trường hợp đất
được giao cho từng hộ gia đình, tuy nhiên đối với một số trường hợp khác đất lại được giao
cho cả cộng đồng; ở một số nơi cộng đồng quyết định liệu có nên chia đất cho các hộ hay
không, và nếu chia thì cách thức chia ra sao. Nghiên cứu của Castella và cộng sự (2006:151)
cũng chỉ ra tình trạng tương tự; các tác giả nhấn mạnh: “Tiến trình giao đất giao rừng được
thực hiện áp đặt từ trên xuống… Không có khăn để có thể tìm thấy các bằng chứng về các
quy định quản lý ở một thôn nà y chỉ là những bản photocopy các quy định của thôn lân cận,
chỉ thay đổi về tên thôn và người đại diện.” Do Chính sách giao đất được thực hiện theo cách
rất khác nhau tại các địa phương, việc đánh giá hiệu quả do chính sách là một việc khó khăn.
Tuy nhiên thực tế đã cho thấy một số nhược điểm của chính sách giao đất cũng như cách
thức thực hiện chính sách như sau:
• Pháp luật không quy định rõ cơ quan quản lý việc giao đất, giao rừng. Cụ thể trước năm
1996 cơ quan phụ trách giao đất là Cục Kiểm lâm, cùng với việc cấp sổ Lâm bạ dựa trên
Luật BVPTR. Sau năm 1996, cơ quan phụ trách giao đất là Phòng Địa chính, cùng với việc
cấp “sổ đỏ” trên cơ sở Luật Đất đai. Hiện trạng nà y làm chậm tiến độ triển khai việc giao đất
25
Chi tiết về một số vấn đề liên quan đến tiến trình GĐGR có thể tham khảo trong ấn phẩm Forest property in the Viet-
namese Uplands: An ethnography of forest relations in three villages của Tô Xuân Phúc (2007).https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
42
ở một số địa phương
• Sự thiếu đồng bộ giữa pháp luật BVPTR và pháp luật đất đai làm cho nhiều địa phương có
những cách thực hiện và giải pháp khác nhau trong việc giao đất.
• Quá trình giao đất, giao rừng không được giám sát chặt chẽ nên luôn xuất hiện các nguy
cơ tham nhũng.
• Sự hỗ trợ công nghệ trong giao đất, giao rừng là rất thấp, vì vậy không tạo được ranh giới
sử dụng ổn định, gây nên các tranh chấp, xung đột sau nà y. Các kỹ thuật như ảnh vệ tinh,
máy bay, thiết bị định vị hầu như không được sử dụng.
• Thiếu sự đầu tư đồng bộ trong GĐGR, không đáp ứng được yêu cầu đặt ra nên gây lãng
phí lớn. Năm 2005 Chính phủ Việt Nam đầu tư toàn bộ kinh phí để vẽ bản đồ địa chính đất
rừng trên phạm vi cả nước. Dự án nà y do các công ty đo đạc thuộc Bộ TN&MT thực hiện.
Năm 2011, dự án nà y đã hoàn thành và bàn giao cho các địa phương nhưng các bản đồ
này hầu như không được sử dụng và đăng ký, cấp giấy chứng nhận đối với đất rừng (Trao
đổi với GS. Đặng Hùng Võ, ngà y 15 tháng 4 năm 2014).
Phần 5 dưới đây sẽ tổng hợp một số kết quả và tác động của chính sách giao đất, tập trung
vào các khía cạnh sinh kế của hộ, chất lượng và độ che phủ rừng, thị trường đất đai và quản
trị rừng. Các kết quả nà y được tổng hợp dựa trên nguồn số liệu thứ cấp như các bài báo của
các tạp chí chuyên ngành và các báo cáo chuyên đề. Các ấn phẩm nà y chủ yếu phân tích các
kết quả của giao đất dựa trên các nghiên cứu trường hợp, do vậy không mang tính chất đại
diện cho cả nước. https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
43https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
44
Tác động của chính sách GĐGR5
5.1.Giao đất và sinh kế hộ
Một trong những mục tiêu cơ bản của giao đất là cải thiện sinh kế hộ. Báo cáo phân tích 3
khía cạnh chính có liên quan đến sinh kế của hộ, bao gồm (i) thu nhập của hộ từ nguồn đất
rừng được giao cho hộ và tiếp cận của hộ đối với đất đaivà các quyền với đất và rừng; (ii)
công bằng trong thu nhập giữa các hộ trong cùng một cộng đồng và giữa các hộ khác nhau
về thành phần dân tộc (iii) thực thi các quyền đi kèm với đất được giao cho hộ và (iv) mâu
thuẫn đất đai do giao đất mang lại.
Thu nhập và tiếp cận với đất đai của hộ
Đề án Giao rừng, cho thuê rừng của Bộ NN&PTNT (2007:5) nhận định: “Giao đất giao rừng
làm cho rừng có chủ thực sự, gắn quyền lợi với trách nhiệm, tạo điều kiện để người dân bảo
vệ được rừng, yên tâm quản lý, đầu tư phát triển rừng trên diện tích rừng được giao”, từ đó
góp phần làm tăng thu nhập của hộ gia đình. Trong Báo cáo thẩm tra việc thực hiện các
Nghị quyết của Quốc hội về dự án trồng mới 5 triệu ha rừng, Ủy ban Khoa học, Công nghệ
và Môi trường của Quốc hội nhấn mạnh: “Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng (bao gồm cả hạng
mục giao đất giao rừng) đã tạo thêm việc làm, tăng thu nhập, góp phần xóa đói giảm nghèo
cho số lượng lớn người dân khu vực nông thôn miền núi. Đã có 470.874 hộ gia đình nhận
khoán bảo vệ 2.268.249 ha rừng trồng, trồng mới 1.321.999 ha. Bình quân mỗi hộ gia đình
thu được 5,55 triệu đồng/hộ/năm...” (2011:9). Báo cáo Tổng kết thực hiện Dự án “Trồng mới 5
triệu ha rừng” và Kế hoạch bảo vệ, phát triển rừng giai đoạn 2011-2020 của Chính phủ chỉ ra:
“Nhà nước hỗ trợ cây giống và một phần phân bón cho các hộ gia đình trồng rừng sản xuất
nguyên liệu... hỗ trợ trồng rừng sản xuất từ 1,5 đến 5 triệu đồng/ha tùy theo vùng; hỗ trợ
khuyến lâm 100.000 đồng/ha trồng rừng sản xuất; hỗ trợ lập hồ sơ giao đất gắn với giao rừng
là 200.000 đồng/ha...Thực hiện [Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP] Ngân hàng Nhà nước có thông
tư... hướng dẫn cho khách hàng là các hộ nghèo vay vốn để trồng rừng sản xuất trên địa bàn
62 xã nghèo được Ngân sách hỗ trợ 50% lãi suất.” (2011:7). Các hộ được giao đất và tiếp cận
được với nguồn vốn sẽ có cơ hội đầu tư vào phát triển rừng trồng sản xuất, có tiềm năng
trong việc nâng cao thu nhập và góp phần cải thiện sinh kế. Khi nghiên cứu về tác động của
GĐGR đến sinh kế của người dân tại 2 xã thuộc Thừa Thiên Huế và Quảng Trị, tác giả Hoàng
Liên Sơn (2012) đã thấy GĐGR đã giúp công nhận quyền hợp pháp của các hộ trên đất nương
rẫy cũ của các hộ. Việc công nhận quyền hợp pháp và lâu dài cho đất nương rẫy đã tạo tâm lý https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
45
ổn định cho hộ, tạo động lực cho hộ đặc biệt là các hộ kinh tế khá huy động nguồn lực thực
hiện đầu tư trồng cây công nghiệp và trồng rừng trên đất nương rẫy cũ của mình. Điều nà y
tạo cơ hội cho các hộ trong việc tạo nguồn thu mới từ cây công nghiệp và rừng trồng trong
tương lai. Tác giả Đinh Hữu Hoàng và Đặng Kim Sơn đồng ý với quan sát trên và cho rằng
GĐGR làm tăng tiếp cận của hộ gia đình đối với đất đai, từ đó làm tăng nguồn thu của hộ từ
rừng. Theo 2 tác giả nà y, các hộ gia đình được nhận đất có thu nhập từ rừng cao hơn gấp 6
lần so với các hộ không được nhận đất. Bên cạnh việc giúp tăng nguồn thu của hộ, GĐGR
cũng góp phần giảm tỉ lệ thất nghiệp ở vùng nông thôn (Sunderlin và Huỳnh Thu Ba 2005).
Tại Điện Biên, GĐGR đã tạo điều kiện cho các hộ gia đình, cộng đồng tham gia vào công tác
quản lý rừng và làm chủ các khu rừng, được hưởng lợi từ rừng, góp phần cải thiện sinh kế,
giúp cho người dân xóa đói giảm nghèo (Trần Xuân Đạo 2012). Tại một số địa bàn thuộc Tây
Nguyên, thực hiện GĐGR đã tạo được nguồn thu trực tiếp cho hộ gia đình thông qua nguồn
gỗ được khai thác từ rừng tự nhiên và đầu tư của các hộ vào đất rừng (Nguyễn Quang Tân
2006).Tác giả Meyfroidt và Lambin (2008) quan sát thấy sau GĐGR các hộ nằm gần đường
giao thông, thuận tiện cho việc lưu thông các sản phẩm thu hái trên đất rừng đã chuyển đổi
diện tích nương rẫy mà các hộ canh tác trước đó sang rừng trồng.
Công bằng trong giao đất
Tuy nhiên, một số nghiên cứu chỉ ra rằng lợi ích mà GĐGR không phải lúc nào cũng được chia
sẻ công bằng giữa các nhóm hộ khác nhau trong cùng một cộng đồng và giữa những cộng
đồng với nhau. Nghiên cứu của Tô Xuân Phúc tại một số thôn người Dao thuộc Hòa Bình và
Phú Thọ cho thấy kết quả GĐGR phụ thuộc rất nhiều vào cấu trúc quyền lực của cộng đồng
(Tô Xuân Phúc 2007). Cụ thể, các hộ cán bộ do nắm bắt được thông tin về GĐGR trươc khi
chính sách được thực hiện do vậy thường nhận được nhiều đất ở những vị trí thuận lợi so với
các hộ khác trong thôn. Đất được giao cho các hộ dựa trên nguyên tắc “khả năng sử dụng
đất của hộ”, được đo bằng số lao động chính của hộ tại thời điểm giao đất. Điều nà y có nghĩa
rằng những hộ gia đình có nhiều lao động được nhận nhiều đất hơn so với các hộ có ít lao
động. Nguyên tắc chia đất dựa trên số lượng lao động chính sẵn có của các hộ đã làm cho
các hộ mới tách, thường là hộ có điều kiện khó khăn ở vị thế bất lợi. Kết quả là các hộ nghèo
thường nhận được ít đất. Nghiên cứu của các tác giả Sunderlin và Huỳnh Thu Ba (2005),
Jorgensen (2006), và Hirakuri (2007), Nguyễn Quang Tân (2006), Clement và Amezaga (2009,
Trần Ngọc Thanh và Sikor 2006 cũng cho thấy kết quả tương tự.
GĐGR có xu hướng đem lại nhiều lợi cho người Kinh hơn là người dân tộc bản địa (Phạm Đức
Tuấn, trích trong ấn phẩm của Sunderlin và Huỳnh Thu Ba 2005, Nguyễn Quang Tân 2006,
Trần Ngọc Thanh và Sikor 2006). Nghiên cứu của Tô Xuân Phúc (2009) tại một địa bàn của Hà
Tây cũ (nay là Hà Nội) cũng chỉ ra rằng các cán bộ địa phương mà chủ yếu là người Kinh nhận https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
46
được hợp đồng khoán bảo vệ rừng với Vườn Quốc gia và hàng năm thu được một khoản thu
lớn từ các hợp đồng nà y mà thực tế họ không phải bỏ ra nhiều công sức để bảo vệ rừng. Mặc
dù vấp phải sự phản ứng của người dân trong thôn, các cán bộ nà y làm mọi cách để duy trì
hình thức hợp đồng của mình và ngăn cản các hộ khác nhận hợp đồng khoán.
Giao đất cũng tạo ra động lực về tích lũy kinh tế cho một số nhóm cán bộ địa phương và các
hộ khá giả có khả năng năng đầu tư thông qua việc tích lũy đất đai (Clement và Amezaga
2009). Sự không rõ ràng về chính sách và cũng như quá trình thực hiện đã tạo cơ hội cho
LTQD và một số cán bộ lâm trường và cán bộ địa phương thực hiện tích tụ đất đai, từ đó
gây ra nhiều bất lợi cho các hộ đặc biệt là các hộ nghèo. Báo cáo của Bộ NN&PTNT (trích từ
nguồn của Sunderlin và Huỳnh Thu Ba 2005) cũng thừa nhận điểm nà y, trong đó nhấn mạnh
“giao đất có thể có gây ra những bất lợi đối với những nhóm và cá nhân dễ bị tổn thương.”
Tại Bắc Kạn, tiến trình GĐGR được thực hiện rất vội vã và điều nà y dẫn đến kết quả là các hộ
có điều kiện kinh tế nhận được rất nhiều đất và các hộ khó khăn bị hạn chế tiếp cận đối với
đất đai(Trần Thị Thu Hà 2012).
Sự bất bình đẳng trong tiếp cận đối với đất đai do GĐGR đem lại không phải chỉ thể hiện giữa
các hộ trong cùng một cộng đồng mà còn thể hiện giữa các cộng đồng khác nhau. Nghiên
cứu của Sikor và Trần Ngọc Thanh (2007)và của Nguyễn Quang Tân (2006) thực hiện tại một
số địa bàn tỉnh Đắc Lắk cho thấy một số cộng đồng được nhận đất có rừng có trữ lượng gỗ
nhiều hơn so với cộng đồng lân cận, từ đó dẫn đến nguồn thu từ gỗ chênh lệch lớn giữa các
cộng đồng nà y.
Thực thi các quyền trên đất được giao
GĐGR kỳ vọng sẽ tạo ra sự chuyển biến tích cực về kinh tế, môi trường và xã hội của vùng
cao, đặc biệt là những vùng quê nghèo. Tuy nhiên ở nhiều nơi sau khi giao đất được thực
hiện, nhiều hộ gia đình được nhận đất nhưng lại không có điều kiện đầu tư vào đất đai do
vậy không được hưởng lợi từ giao đất giao rừng. Nói cách khác, các quyền được giao cho hộ
không chuyển được thành lợi ích kinh tế. Điều nà y có nghĩa rằng GĐGR đã không đạt mục
tiêu đề ra, ít nhất là tại một số địa phương. Quan sát tại một số cộng đồng tại Tây Nguyên,
Trần Ngọc Thanh và Sikor (2006: 403) thấy “3 năm sau khi thực hiện phân quyền [giao đất
giao rừng] những quyền cấp cho các hộ trên đất đai vẫn là những chủ đề được tranh luận
gay gắt nhất giữa các nhóm trong cộng đồng. Những tranh luận nà y diễn ra trong bối cảnh
cấu trúc quyền lực sẵn có của cộng đồng và kết quả của những tranh luận nà y bị ảnh hưởng
bởi các giá trị kinh tế được gắn liền với các quyền cụ thể, lịch sử của địa phương và những
quy định truyền thống mang tính chất văn hóa cộng đồng.” Tại một thôn người Dao của tỉnh
Phú Thọ, do hạn chế về nguồn lực để đầu tư vào đất những hộ gia đình nghèo đã chuyển https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
47
nhượng một phần hoặc toàn bộ diện tích đất được giao của mình cho các hộ khá giả trong
cùng cộng đồng hoặc cho những người bên ngoài cộng đồng. Điều nà y đã làm xuất hiện thị
trường đất đai (xem chi tiết ở phần phía dưới), tuy nhiên cũng làm cho các hộ nghèo không
còn đất canh tác (Tô Xuân Phúc 2007). Nghiên cứu tại một số địa bàn vùng Tây Nguyên
Nguyễn Quang Tân (2006) thấy rằng do thiếu nguồn lực nhiều hộ được giao đất cũng không
thể đầu tư vào đất.
GĐGR với mục đích tạo ra sự rõ ràng trong hưởng dụng đất đã phần nào làm ảnh hưởng tiêu
cực đến các quyền truyền thống của cộng đồng. Tô Xuân Phúc (2007) quan sát thấy tại một
số bản người Dao của tỉnh Hòa Bình và Phú Thọ thực hiện giao đất làm cho những mảnh
rừng trước kia được sử dụng theo cách truyền thống đã bị thay đổi hoàn toàn. Cụ thể, các
diện tích đất trước kia là nơi chăn thả của cộng đồng, đất nương rẫy, những khu rừng chung
được cộng đồng sử dụng lấy gỗ và lá cọ làm nhà đã được chia nhỏ cho các hộ và điều nà y
đã làm cho các hộ mới tách sau khi thực hiện giao đất mất hoàn toàn cơ hội tiếp cận với các
nguồn tài nguyên nà y. Giao đất kỳ vọng sẽ xóa bỏ canh tác nương rẫy, giúp hộ định canh
định cư.Tuy nhiên, khi nghiên cứu về tác động của GĐGR đối với sinh kế của người dân tại
bản Quế huyện Con Cuông, Nghệ An, Jakobsen và cộng sự (2007) đã thấy rằng thực hiện
GĐGR làm hạn chế sự tiếp cận của các hộ đối với diện tích đất mà các hộ canh tác trước đó và
điều nà y đã làm ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất lương thực và sinh kế của hộ gia đình.
Giao đất giao rừng và mâu thuẫn đất đai
Thực hiện GĐGR làm phát sinh một số hình thức mâu thuẫn đất đai tại một số địa phương.
Giao đất ưu tiên cho các đối tượng là các CTLN, BQL làm mất cơ hội cho các hộ tiếp cận với
nguồn đất sản xuất. Hộ thiếu đất sản xuất là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến
mâu thuẫn đất đai giữa người dân và CTLN, BQL tại nhiều địa phương (Tô Xuân Phúc và cộng
sự 2013). Bên cạnh đó, giao đất cũng làm phát sinh mâu thuẫn giữa các hộ. Nghiên cứu về
tác động của GĐGR tại Hòa Bình, Phú Thọvà Hà Tây cũ và Tô Xuân Phúc (2007) đã chỉ ra một
số mâu thuẫn phổ biến có liên quan đến ranh giới đường biên giữa các hộ, mâu thuẫn do
sự bất bình đẳng giữa các hộ trong giao đất, đặc biệt giữa các hộ cán bộ và các hộ dân khác.
Ở nhiều nơi, giao đất được thực hiện trên giấy tờ kết quả là các hộ khác nhau được nhận “sổ
đỏ”cho cùng một mảnh đất.
Đất nương rẫy của cả cộng đồng được chia nhỏ cho các hộ đã ảnh hưởng tiêu cực đến hình
thức sở hữu cộng đồng theo kiểu truyền thống, từ đó làm phát sinh mâu thuẫn giữa các hộ
trong cộng đồng (Clement và Amezaga 2009). Trước khi thực hiện GĐGR, đất nương rẫy được
sử dụng theo cách sau: trong phần diện tích đất được cộng đồng quy định làm nương rẫy các
hộ có thể phát nương ở nơi chưa được hộ nào sử dụng; trong giai đoạn bỏ hóa, đất nương https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
48
của các hộ trở thành nơi chăn thả cho cả cộng đồng; nương rẫy trong giai đoạn đất bỏ hóa
cũng chính là nơi các hộ trong cộng đồng tự do thu hái các sản phẩm phi gỗ như củi, rau
rừng, một số cây làm thuốc (xem thêm trong Tô Xuân Phúc 2013). Thực hiện GĐGR tại Bắc
Kạn cũng làm phát sinh những căng thẳng về mặt xã hội, làm tăng khoảng cách giàu nghèo
giữa các hộ và hình thành mâu thuẫn đất đai (Nguyễn Thị Thu Hà 2012). GĐGR cũng làm
gia tăng khoảng cách về quyền giữa các nhóm dân tộc khác nhau và đây cũng chính là một
trong những nguyên nhân gây ra một số mâu thuẫn tại vùng thuộc Tây Nguyên (Trần Ngọc
Thanh và Sikor 2006). Nghiên cứu về sử dụng đất tại Bắc Kạn, Castella và cộng sự (2006) thấy
thực hiện GĐGR tại địa phương thực chất là việc công nhận cách sử dụng đất truyền thống
của các hộ với các hộ vẫn canh tác trên mảnh đất cũ theo như trước khi thực hiện giao đất.
Do vậy, các hộ mới di cư đến địa bàn là các hộ không có các quyền truyền thống đối với đất
đai và tài nguyên rừng và kết quả là các hộ nà y không có quyền tiếp cận đối với đất đai và
tài nguyên rừng (xem thêm trong ấn phẩm của Trần Ngọc Thanh và Sikor 2006, Sikor và Trần
Ngọc Thanh 2007). Điều nà y chỉ ra rằng kết quả của GĐGR phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao
gồm cả cấu trúc quyền lực của cộng đồng và các luật tục địa phươngquy định việc quản lý
và sử dụng đất và tài nguyên rừng.
Những phân tích trên đây đã chỉ ra rằng GĐGR tác động đến sinh kế hộ theo cách khác nhau.
Tại một số địa phương, GĐGR đã góp phần cải thiện sinh kế cho hộ nhận đất. Ở một số nơi
khác, GĐGR gây ra những bất lợi cho các hộ nghèodo các hộ nà y hạn chế về lao động hoặc
do hạn chế tạo ra bởi thiết chế truyền thống của cộng đồng đối với những người mới nhập
cư. GĐGR được thực hiện trong điều kiện đặc thù về kinh tế, văn hóa xã hội và chính trị của
từng địa phương và các yếu tố đặc thù nà y góp phần không nhỏ trong việc hình thànhkết
quả của chính sách. Phần tiếp theo sẽ thảo luận về tác động của giao đất đối với độ che phủ
và chất lượng rừng.
5.2. Tác động của GĐGR đối với độ che phủ và chất lượng rừng
Giao đất giao rừng và độ che phủ của rừng
Theo Quyết định 1739/QĐ-BNN-TCLN năm 2013, tính đến hết tháng 12 năm 2012, độ che phủ
rừng của cả nước đạt 39,9%. Đây là những con số rất ấn tượng, bởi năm 1995 độ che phủ rừng
mới đạt 28,2% (Nguyễn Văn Đẳng 2001).Nhiều báo cáo của Chính phủ khẳng định GĐGR đã
góp phần quan trọng trong việc nâng cao độ che phủ rừng ở Việt Nam. (Bộ NN&PTNT, trích
từ nguồn của Sunderlin và Huỳnh Thu Ba năm 2005, Bộ NN&PTNT 2014, Chính phủ 2011).
Điều nà y cũng được một số tác giả như Jakobsen và cộng sự (2007), Hoàng Liên Sơn (2012)
và Trần Xuân Đào (2012).
26
Trong những năm gần đây, diện tích rừng trồng vẫn đang tiếp tục
tăng, với diện tích khoảng 100.000-200.000 ha/năm (Bộ NN&PTNT2014). Đến hết năm 2012 https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
49
tổng diện tích rừng trồng trong cả nước đạt 3,4 triệu ha, trong đó diện tích rừng trồng là RSX
chiếm 2,5 triệu ha, tương đương với 73,5% trong tổng diện tích rừng trồng. Nhiều ý kiến cho
rằng diện tích rừng trồng, đặc biệt là rừng trồng là RSX tăng rất nhanh trong những năm gần
đây là bởi GĐGR đã tạo ra động lực cho các hộ đầu tư vào trồng rừng, từ đó góp phần làm
gia tăng độ che phủ của rừng. Nghiên cứu Castella và cộng sự (2006) cũng chỉ ra rằng GĐGR
làm hạn chế canh tác nương rẫy của hộ, từ đó làm cho rừng tái sinh, góp phần tăng độ che
phủ của rừng.
Tuy nhiên, một số nghiên cứu lại cho rằng mối liên kết giữa GĐGR và độ che phủ rừng không
rõ ràng. Meyfroid và Lambin (2009) chỉ ra vấn đề khi khi ngộ GĐGR làm tăng độ che phủ rừng.
Hai tác giả nà y giải thích độ che phủ rừng ở Việt Nam tăng lên không phải là vì chính sách
bảo vệ và phát triển rừng mà do Việt Nam đã thành công trong việc “xuất khẩu” mất rừng đi
các nước lân cận thông qua việc nhập khẩu gỗ nguyên liệu từ các quốc gia nà y. Trong một
nghiên cứu khác (Meyfroid và Lambin 2008), các tác giả nà y đưa một bức tranh phức tạp về
diễn thế rừng của Việt Nam, trong đó chỉ ra sự khác nhau về diễn thế và động lực của các
diễn thế nà y đối với rừng trồng và rừng tự nhiên. Theo các tác giả: “Tăng trưởng rừng ở Việt
Nam không phải là kết quả của một tiến trình hoặc một chính sách mà là kết quả của sự kết
hợp các yếu tố về kinh tế, chính trị có liên quan đến tài nguyên rừng, mức độ khan hiếm về
đất đai, phát triển kinh tế và sự hòa nhập với thị trường ở quy mô quốc gia”(cùng nguồn
trích dẫn, trang 194). Phân tích của các tác giả nà y cho thấy ở một số địa phương có các điều
kiện không thuận lợi, hạn chế về diện tích đất canh tác, dân số tăng nhanh, đất đai bạc màu
và những quy định hạn chế canh tác nương rẫy dẫn đến sự suy giảm về diện tích đất canh
tác, bao gồm cả đất nương rẫy do các hộ sử dụng đất canh tác, bao gồm cả đất nương rẫy
sang trồng rừng. Thêm vào đó, việc phát triển thị trường hàng hóa nông sản và dịch vụ vật
tư nông nghiệp cũng trực tiếp góp phần vào phát triển rừng trồng nguồn thu từ các sản
phẩm nông nghiệp tăng, giúp hộ có nguồn lực đầu tư vào trồng rừng. Các tác giả quan sát
thấy từ giữa những năm 1990 độ che phủ rừng tại Việt Nam bắt đầu tăng do quá trình tái
sinh tự nhiên và diện tích rừng trồng tăng. Tuy nhiên không phải tất cả mọi địa bàn ở vùng
cao đều tuân theo xu hướng nà y. Theo các tác giả, rừng được tái sinh rừng bởi những thay
đổi về chính trị và kinh tế được tạo ra bởi quá trình phân quyền trong quản lý tài nguyên và
do thị trường phát triển hàng hóa nông sản phát triển. Tuy nhiên, quá trình tái sinh rừng tự
nhiên chỉ diễn ra ở vùng núi phía Bắc và ven biển miền Trung, đặc biệt ở các địa bàn nơi đất
có độ dốc lớn và do vậy không phù hợp cho phát triển nông nghiệp và xa trung tâm đô thị.
Ở những địa bàn gần với các khu đô thị và đồng bằng nơi có điều kiện thuận lợi cho phát
26
Xem chi tiết trong kỷ yếu Hội thảo Giao đất lâm nghiệp – Chính sách và thực trạng do tổ chức Tropenbos International
Việt Nam và Viện Điều tra Quy hoạch rừng tổ chức tại Hà Nội ngà y 10 tháng 4 năm 2012. https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
50
triển nông nghiệp và ở vùng Tây Nguyên thì quá trình tái sinh tự nhiên không diễn ra, thậm
chí một số nơi của các vùng nà y hiện vẫn xảy ra mất rừng và suy thoái rừng. Cũng theo các
tác giả, diện tích rừng trồng được phát triển mạnh nhất ở vùng ở các vùng trung du và ven
biển, nơi có hệ thống đường giao thông thuận tiện. Tuy nhiên, theo các tác giả trên bình diện
quốc gia diện tích rừng trồng tăng đã làm giảm diện tích rừng tự nhiên. Nói cách khác, việc
mở rộng rừng trồng tạo sức ép lên rừng tự nhiên bởi có sự cạnh tranh gay gắt về diện tích
đất dành cho 2 loại rừng nà y.
Khi tiến hành nghiên cứu tại một số địa bàn vùng núi phía Bắc, tác giả Sikor (2001)quan sát
thấy diện tích rừng tăng lên sau giao đất. Tuy nhiên theo tác giả diện tích rừng được mở rộng
không phải do thực hiện GĐGR mà bởi các hộ trong điều kiện thị trường hàng hóa nông sản
và dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp mở rộng đã tập trung nguồn lực, bao gồm cả lao động của
hộ vào canh tác các cây nông nghiệp, đặc biệt là cây ngô; điều nà y góp phần làm giảm sức
ép lên rừng. Kết quả là rừng được tái sinh và diện tích rừng được mở rộng. Trong một nghiên
cứu khác, Sikor và Trần Ngọc Thanh (2007) đã chỉ ra rằng GĐGR đã làm giảm độ che phủ
rừng ở một số địa phương tại địa bàn vùng Tây Nguyên, bởi cơ chế thực thi pháp luật cấp địa
phương tại các địa bàn nà y còn lỏng lẻo và người dân nắm bắt cơ hội đã tiến hành chuyển
đổi các diện tích đất có rừng được giao cho mình sang các diện tích trồng cây nông nghiệp.
Những kết quả đa dạng và đôi khi trái chiều về mối quan hệ giữa GĐGR và độ che phủ rừng
mà các nghiên cứu đã chỉ ra cho thấy GĐGR chỉ làm tăng độ che phủ rừng chỉ trong một số
trường hợp. Tuy nhiên, một điểm chung được các nghiên cứu đưa ra đó là GĐGR làm tăng
diện tích rừng trồng, đặc biệt là diện tích rừng trồng của hộ, và điều nà y góp phần nâng cao
độ che phủ rừng ở Việt Nam. Hình 4 mô tả diễn biến về độ che phủ rừng từ năm 1945 đến
2013. Số liệu công bố bởi Bộ NN&PTNT (2013) cho thấy các tỉnh có diện tích rừng trồng lớn
nhất là nơi có nhiều diện tích đất rừng được giao cho các hộ gia đình.
27

27
Chi tiết về diện tích rừng trồng của các tỉnh có thể tham khảo trên website của Cục Kiểm lâm: http://www.kiemlam.
org.vn/Desktop.aspx/List/So-lieu-dien-bien-rung-hang-nam/NAM_2012/
1945 1976 1980 1985 1990 1995 1999 2005 2010 2012
50
40
30
20
10
0
Hình 4. Diễn biến độ che phủ rừng ở Việt Nam (%)
Nguồn: Quyết định số 1739 của Bộ NN& PTNT năm 2013và kiemlam.org.vnhttps://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
51
Độ che phủ rừng tăng không đều ở các vùng sinh thái khác nhau (Bộ NN&PTNT 2011). Cụ
thể, độ che phủ của rừng tăng ở các vùng Đông Bắc và Bắc Trung Bộ với tốc độ khoảng 1,4%/
năm. Diện tích rừng trồng tăng chủ yếu do các hộ đầu tư vào trồng rừng trên diện tích đất
được giao. Tuy nhiên, một số địa phương đặc biệt tại vùng Tây Nguyên xu hướng mất rừng
vẫn đang diễn ra, với tốc độ khoảng 0,2%/năm. Tại đây, rừng không phải chỉ suy giảm về diện
tích mà cả về chất lượng.Trong giai đoạn từ năm 1998 đến 2011 đã có khoảng 297.000 ha
rừng tự nhiên bị mất (Bộ NN&PTNT 2011).Một trong những nguyên nhân gây mất rừng tại
địa bàn Tây Nguyên là bởi hình thức quản lý rừng như hiện nay với các CTLN và các BQL làm
chủ đạo đã không tạo được động lực khuyến khích người dân tham gia vào bảo vệ rừng (Tô
Xuân Phúc và Trần Hữu Nghị 2013, Tô Xuân Phúc và Sikor 2013). Các tỉnh như Lào Cai, Sơn
La và Lai Châu vẫn còn có những diện tích đất trống mặc dù giao đất đã thực hiện tại đây ở
những địa bàn nà y từ những năm 1990; nguyên nhân chính là bởi nhiều hộ gia đình không
có nguồn lực đầu tư vào trồng rừng; ngoài ra đây cùng là vùng có địa hình hiểm trở, điều nà y
hạn chế việc lưu thông hàng hóa, bao gồm cả gỗ rừng trồng của hộ.
Giao đất giao rừng và chất lượng rừng
Như đã đề cập ở phần trên,Nhà nước không giao những phần đất trên đó còn có rừng còn
trữ lượng cho hộ gia đình mà hầu hết các diện tích đó được giao cho các CTLN và BQL. Nói
cách khác, người dân hầu như không có tiếp cận đối với nguồn rừng tự nhiên còn trữ lượng
trừ khi các hộ có hợp đồng khoán bảo vệ từ các đơn vị nà y. Điều nà y làm phát sinh quan
niệm “rừng của nhà nước”, không phải của dân (xem thêm tại ấn phẩm của Hoàng Cầm 2012,
McElwee 2004, Sikor và Phúc 2011). Thực tế, quan niệm nà y cũng được quy định tương đối rõ
ràng trong các văn bản luật (xem bảng 7).Điều nà y tác động trực tiếp đến kết quả của công
tác bảo vệ rừng ở nhiều địa phương, trong đó có vấn nạn khai thác gỗ bất hợp pháp.Điều nà y
phần nào lý giải tại sao rừng tự nhiên của Việt Nam vẫn đang bị suy thoái. Theo Bộ NN&PTNT,
khoảng 75% diện tích rừng tự nhiên hiện còn của Việt Nam là rừng có chất lượng nghèo, chủ
yếu là rừng tái sinh và rừng hỗn giao; phần còn lại (25%) là rừng có chất lượng trung bình và
giàu (Bộ NN&PTNT 2011).
Nghiên cứu của Meyfroid và Lambin (2008, 2009) có chỉ ra rằng mặc dù tỷ lệ che phủ rừng ở
Việt Nam có tăng nhưng chất lượng rừng tự nhiên lại giảm. Nguyên nhân do nạn khai thác
gỗ lậu và chuyển đổi rừng tự nhiên sang mục đích nông nghiệp và các mục đích khác (Bộ
NN&PTNT 2011, UNREDD và Bộ NN&PTNT 2010, Tô Xuân Phúc và Trần Hữu Nghị 2013). Nói
cách khác, ở một số nơi thực hiện giao đất không làm tăng chất lượng rừng. Giao đất tạo
động lực cho mở rộng diện tích rừng trồng nhưng mở rộng rừng trồng tác động trực tiếp và
tiêu cực đến diện tích rừng tự nhiên (Meyfroidt and Lambin 2009).Nói cách khác, đến nay vẫn
chưa có cơ sở khoa học chắc chắn để khẳng định rằng giao đất đã góp phần làm tăng chất https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
52
lượng và mở rộng diện tích rừng tự nhiên. Ngược lại,một số nghiên cứu cho rằng ở những địa
phương nơi rừng tự nhiên còn trữ lượng, hạn chế về quyền và lợi ích từ rừng đã không tạo
được động lực cho hộ và cộng đồng sống gần rừng tham gia bảo vệ rừng và đây cũng là một
trong những nguyên nhân chính làm suy giảm chất lượng rừng tự nhiên tại các địa bàn nà y.
Giao đất giao rừng và sự xuất hiện của thị trường đất đai
Tổng diện tích đất lâm nghiệp đã giao cho hộ gia đình tính đến hết năm 2012 là gần 3,4 triệu
ha, trong đó có tới gần 1,6 triệu ha là rừng trồng (Bộ NN&PTNT 2013). Bình quân mỗi hộ được
giao dưới 3 ha đất lâm nghiệp, với 2-3 mảnh/hộ. Đất đai manh mún và phân tán làm tăng
chi phí giao dịch và hạn chế khả năng hình thành những diện tích đất tập trung. Trong bối
cảnh ngành công nghiệp chế biến gỗ ngà y càng mở rộng và yêu cầu nguồn nguyên liệu đầu
vào ngà y càng cao (Nguyễn Tôn Quyền và Trần Hữu Nghị 2011)đất đai phân tán làm hạn chế
đối với sự phát triển của ngành gỗ. Đã có nhiều thảo luận về việc làm thế nào để tập trung
đất đai nhằm tạo ra những diện tích đất lâm nghiệp đủ lớn để phát triển rừng trồng, nhằm
giảm chi phí giao dịch, tạo nguồn nguyên liệu cần thiết cho ngành gỗ. Một trong những
định hướng là tạo ra thị trường đất lâm nghiệp, trong đó các nhà đầu tư, bao gồm các doanh
nghiệp chế biến gỗ sử dụng nguồn lực tài chính mua lại đất của những hộ dân được giao đất
nhưng không có vốn đầu tư trồng rừng. Pháp luật đất đai hiện hành cho phép các hộ có đất
được chuyển đổi, chuyển nhượng và cho thuê đất. Điều nà y có nghĩa rằng những hộ gia đình
không có điều kiện (hoặc không muốn) đầu tư vào đất có thể nhượng lại một phần hoặc
toàn bộ diện tích đất của mình cho những tổ chức hoặc cá nhân có tiềm lực và mong muốn
đầu tư phát triển vốn rừng, tạo nguồn nguyên liệu gỗ. Bên cạnh đó, thị trường cũng có thể
được tạo ra bằng hình thức liên doanh, với một bên là các hộ không có vốn nhưng có đất có
thể góp vốn bằng đất, và tổ chức và cá nhân có vốn và kỹ thuật canh tác nhưng không có đất
tham gia cùng với hộ hình thành liên doanh, phát triển rừng trồng. Hình thức liên doanh nà y
có tiềm năng trong tương lai bởi thực tế diện tích đất mà người dân chưa đưa vào sản xuất
vẫn còn nhiều và nguồn vốn đầu tư trồng rừng không đòi hỏi lớn.
28

Một số giao dịch có liên quan đến đất lâm nghiệp đã được quan sát thấy ở một số địa phương
(Đinh Hữu Hoàng và Đặng Kim Sơn, Sunderlin và Huỳnh Thu Ba 2005). Tại một số địa bàn tỉnh
Phú Thọ các hộ dân không có nguồn lực đầu tư vào đất đã quyết định nhượng lại phần đất
có mình cho các hộ khác trong cộng đồng và những hộ bên ngoài có điều kiện kinh tế đầu
tư vào trồng rừng (Tô Xuân Phúc 2007). Tại một số địa bàn thuận lợi về mặt giao thông thuộc
tỉnh Quảng Ninh, Phú Thọ, Yên Bái, Lạng Sơn, Quảng Bình có hàng nghìn ha đất đã được các
công ty tư nhân mua lại để đầu tư trồng rừng. Nghiên cứu tại 16 xã thuộc 5 tỉnh (Phú Thọ,
Tuyên Quang, Yên Bái, Nghệ An và Bình Định) của Lê Trọng Hùng (2008) cho thấy hiện đang
hình thành các xu hướng trao đổi đất đai giữa các hộ trong cùng cộng đồng và các hộ bên https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
53
ngoài. Cụ thể, trong 804 hộ điều tra tại 16 xã tác giả đã thấy 42 hộ tiến hành thuê thêm 189
ha đất và có 89 hộ mua thêm 718 ha đất. Đối tượng mua và thuê chủ yếu là các hộ khá và
trung bình. Ngoài ra, còn có 127 hộ tham gia liên doanh với các CTLN. Trong số các hộ điều
tra, tác giả quan sát thấy rằng không phải chỉ các hộ nghèo mà cả các hộ khá giả cũng bán
đất.Tuy nhiên động cơ bán đất của 2 nhóm hộ khác nhau: nhóm hộ nghèo bán đất để lấy
tiền duy trì sinh kế trong khi nhóm hộ khá bán đất do không có lao động làm nghề rừng mà
muốn tập trung lao động vào thâm canh cây chè.
Trong một nghiên cứu gần đây, Tô Xuân Phúc và Trần Hữu Nghị (2013) chỉ ra rằng trong vài
năm gần đây đã có trên 18.000 hộ gia đình trong đó chủ yếu là các hộ nghèo người dân tộc
thiểu số sống tại Điện Biên, Lai Châu, và Sơn La đã góp đất cùng với các công ty Cao su để
hình thành mô hình liên doanh trồng cao su. Giao đất đã tạo cơ hội cho các hộ được tham
gia vào mô hình liên doanh liên kết nà y. Nói cách khác, thị trường đất đai và các hình thức
liên doanh liên kết đã được tạo ra bởi những quyền liên quan tới đất được cấp cho các hộ.
Tuy nhiên cho đến nay các giao dịch có liên quan đến đất lâm nghiệp thường được giữ kín;
thông tin liên quan đến các giao dịch thường chỉ giới hạn giữa người mua và người bán. Một
số giao dịch được thực hiện thông qua thỏa thuận miệng giữa 2 bên hoặc bằng giấy viết
tay. Điều nà y làm cho các thông tin về quy mô của thị trường hầu như không có. Trong một
thập kỷ trở lại đây, những giao dịch có liên quan đến đất rừng diễn ra rất sôi động ở những
địa bàn ven đô Hà Nội. Nghiên cứu của Tô Xuân Phúc (2012, 2013) chỉ ra rằng giao đất cho
các hộ tạo tiền đề cho việc hình thành thị trường đất đai ở những địa bàn nà y. Phần VI sau
đây sẽ thảo luận về ý nghĩa của GĐGR đối với việc thực hiện các sáng kiến FLEGT và REDD+
tại Việt Nam.
28
Một số đánh giá cho rằng diện tích đất rừng được giao cho hộ chỉ sử dụng hiệu quả khoảng 20-30% (Triệu Văn Lực,
2012. Tổng quan về chính sách giao đất, giao rừng tại Việt Nam -Thực trạng và định hướng trong thời gian tới. Vũ Long,
2012. Một số ý kiến về giao đất giao rừng cho hộ gia đình – chính sách và thực tiễn: các bài trình bà y tại Hội thảo Giao
đất lâm nghiệp – Chính sách và thực tiễn do tổ chức Tropenbos International Việt Nam và Viện Điều tra Quy hoạch rừng
tổ chức tại Hà Nội ngà y 10 tháng 4 năm 2012. Con số 20-30% diện tích đất giao cho các hộ được sử dụng hiệu quả cũng
thấy ở trong các Báo cáo Tổng quan về giao đất lâm nghiệp và giao rừng ở Việt Nam của tác giả Trần Mạnh Long và trong
Báo cáo Giao đất giao rừng, thực trạng – tác động – bài học của tác giả Tô Đình Mai; Báo cáo Một số vấn đề về chính sách
liên quan đến giao đất gắn với giao rừng ở Việt Nam của tác giả Võ Đình Tuyên. 3 báo cáo sau được các tác giả trình bà y
tại Hội thảo Giao đất giao rừng ở Việt Nam: Chính sách và thực tiễn được tổ chức bởi Trung tâm Phát triển Nông thôn
miền Trung tại thành phố Huế ngà y 7-8 tháng 6 năm 2013.https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
54https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
55
GĐGR và ý nghĩa đối với FLEGT và REDD+6
Việt Nam là một trong những nước đi tiên phong trong việc tham gia vào sáng kiến FLEGT và
REDD+.GĐGR có liên quan trực tiếp tới việc thực hiện các sáng kiến nà y.
6.1. Giao đất giao rừng và FLEGT
Sáng kiến FLEGT có mục tiêu quan trọng là loại bỏ các sản phẩm gỗ bất hợp pháp, trong đó
có các sản phẩm có nguồn gốc từ Việt Nam ra khỏi thị trường EU. Nhằm thực hiện mục tiêu
này, EU hiện đang đàm phán với Chính phủ Việt Nam về Hiệp định đối tác tự nguyện (VPA) về
một số vấn đề quan trọng nhằm đảm bảo tính hợp pháp của sản phẩm gỗ được xuất khẩu
vào thị trường EU. Trong những vấn đề quan trọng đang nằm trong tiến trình đàm phán
giữa 2 bên là Định nghĩa gỗ hợp pháp và thiết lập Hệ thống đảm bảo tính hợp pháp của gỗ
(TLAS).
Về nguyên tắc, sản phẩm gỗ được coi là hợp pháp là sản phẩm tuân thủ toàn bộ những quy
định của Việt Nam, bao gồm các quy định liên quan đến tính pháp lý của đất rừng nơi gỗ
được khai thác, liên quan đến khai thác, vận chuyển, chế biến và thương mại, việc tuân thủ
các quy định về môi trường và xã hội trong toàn bộ chuỗi cung. Bên cạnh đó, Chính phủ Việt
Nam đồng ý với quan điểm sẽ thiết lập hệ thống đảm bảo tính hợp pháp của gỗ sao cho yêu
cầu về tính hợp pháp đối với các sản phẩm gỗ xuất khẩu giống như các yêu cầu sẽ được áp
dụng cho các sản phẩm gỗ được tiêu thụ tại thị trường nội địa.
GĐGR có liên quan như thế nào đến nguồn gỗ khai thác trong nước? Tại Việt Nam, gỗ được
khai thác từ rừng tự nhiên do các tổ chức của nhà nước quản lý và rừng trồng của hộ gia đình,
cá nhân.
29
Đến nay nguồn gỗ khai thác từ rừng tự nhiên theo cơ chế hiện hành chủ yếu được
thực hiện bởi các CTLN. Đến nay, tình trạng tranh chấp đất đai giữa CTLN và người dân địa
phương vẫn đang diễn ra tương đối phổ biến ở một số địa phương (Tô Xuân Phúc và cộng
sự 2013)với rất nhiều lí do khác nhau, trong đó phổ biến là lí do chồng lấn về quyền truyền
thống đối với đất đai của người dân được thiết lập trước khi thực hiện giao đất và quyền
pháp lý đối với đất đai được hình thành do giao đất. Gỗ được khai thác từ diện tích rừng có
tranh chấp có nguồn gốc pháp lý không rõ ràng sẽ không đáp ứng được các yêu cầu của
FLEGT/VPA. Tương tự như vậy, khi hệ thống TLAS được thiết lập và vận hành, hệ thống nà y
29
Hiện Chính phủ đã có chủ trương đóng cửa rừng tự nhiên trong toàn quốc. Trừ những đơn vị đã đạt chứng chỉ quản
lý rừng bền vững được phép khai thác theo kế hoạch được phê duyệt, toàn bộ các đơn vị khác sẽ không được phép khai
thác gỗ từ các diện tích rừng do mình quản lý. https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
56
cũng không chấp nhận các sản phẩm gỗ khai thác từ diện tích rừng có tranh chấp được tiêu
thụ tại thị trường nội địa. Điều nà y có nghĩa rằng để gỗ được khai thác từ rừng tự nhiên đáp
ứng được các yêu cầu về tính hợp pháp khi VPA được kí kết, Chính phủ cần có cơ chế giải
quyết mâu thuẫn đất đai tồn tại hiện nay.
Về lý thuyết, việc đóng cửa rừng tự nhiên sẽ giảm khai thác gỗ bất hợp pháp từ nguồn rừng
này. Tuy nhiên, trong điều kiện thực thi luật và các chính sách vẫn còn yếu, đặc biệt tại cấp địa
phương (bằng chứng là khai thác gỗ lậu vẫn tồn tại ở nhiều nơi)việc đóng của rừng tự nhiên
chưa chắc đã đạt được mục tiêu kiểm soát được tình trạng khai thác gỗ bất hợp pháp như
hiện nay. Nói cách khác, gỗ lậu có thể vẫn sẽ tồn tại trong chuỗi cung mặc dù Chính phủ áp
dụng chính sách đóng cửa rừng.Trong điều kiện thực thi luật được tăng cường có hiệu quả tại
cấp địa phương, đóng cửa rừng có thể tạo ra thiếu hụt lượng cung gỗ. Trong bối cảnh ngành
chế biến gỗ vẫn đang mở rộng, đòi hỏi lượng nguyên liệu đầu vào ngà y càng tăng, đóng cửa
rừng có thể tạo ra tác động ngược, làm đẩy giá gỗ lên cao và khuyến khích việc khai thác gỗ
lậu hoặc nhập khẩu gỗ lậu (xem thêm McElwee 2004, Sikor và Tô Xuân Phúc 2011).
Đối với nguồn gỗ khai thác từ rừng trồng, đến nay nhiều ý kiến cho rằng tính hợp pháp của
gỗ rừng trồng là tương đối rõ ràng vì thực hiện GĐGR đã tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng và
rõ ràng về quyền trên đất. Nhận xét nà y đúng, tuy nhiên đã bỏ qua một số vấn đề quan trọng.
Thứ nhất, trong khuôn khổ của FLEGT/VPA, gỗ được coi là hợp pháp đòi hỏi cần phải có bằng
chứng hợp pháp rõ ràng.Đối với nguồn gỗ rừng trồng, một trong những bằng chứng nhằm
xác định tính hợp pháp của gỗ là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ nhận đất. Tuy
nhiên cho đến nay vẫn còn 13,7% số diện tích đất lâm nghiệp đã được giao nhưng chưa
được cấp giấy (xem Bảng 4). Điều nà y có thể sẽ làm cho gỗ rừng trồng của các hộ trồng trên
đất chưa được cấp giấy chứng nhận gặp phải khó khăn trong việc chứng minh nguồn gốc
hợp pháp gỗ khai thác. Thứ hai, như đã chỉ ra trong phần đầu của Báo cáo nà y, khi thực hiện
GĐGR một số địa phương đã bỏ qua một số bước quan trọng của quá trình giao đất, điều nà y
làm phát sinh một số vấn đề như chồng lấn về ranh giới trên thực địa giữa các hộ. Bên cạnh
đó, nhiều mảnh đất được khoanh vẽ trong sổ đỏ của hộ lại không trùng với diện tích trên
thực tế. Điều nà y làm cho việc xác định tính hợp pháp của gỗ rừng trồng trên đất được giao
cho hộ gặp nhiều khó khăn. Tóm lại, thực hiện việc giao đất với mục tiêu tạo ra các quyền rõ
ràng đối với đất đai được giao cho các hộ nhưng cách thức thực hiện Chính sách cũng như
một số yếu tố lịch sử, văn hóa xã hội và thiết chế của cộng đồng có liên quan đến sử dụng
và quản lý tài nguyên đã làm cho việc xác định tính pháp lý của các mảnh đất được giao (và https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
57
của các sản phẩm trên đất, bao gồm cả nguồn gỗ rừng trồng) trở lên khó khăn. Điều nà y có
những ý nghĩa quan trọng cho việc đàm phán và thực thi FLEGT VPA trong tương lai.
6.2.GĐGR và ý nghĩa đối với REDD+
Bản chất của REDD+ là thực hiện việc chi trả dựa vào kết quả.Điều nà y có nghĩa rằng chi trả
chỉ cho các hoạt động REDD+ được thực hiện khi có các bằng chứng tin cậy chứng minh rằng
thực hiện các hoạt động can thiệp đã góp phần làm giảm phát thải. GĐGR với mục tiêu tạo
ra sự rõ ràng về ranh giới về đất và rừng, bao gồm cả các quyền trên đất và rừng được giao
cho hộ nhận đấtcó vai trò đặc biệt quan trọng trong việc chi trả. Nói cách khác, GĐGR tạo ra
sự rõ ràng về hưởng dụng đất và rừng sẽ giúp cho việc xác định chi trả cho ai, bao nhiêu và
cho các diện tích rừng ở địa điểm nào.
GĐGR theo cách thức từ trước đến nay sẽ không tạo ra cơ hội cho các hộ gia đình được tiếp
cận lâu dài đối với lợi ích tiềm năng mà REDD+ mang lại trong tương lai. Thứ nhất, diện tích
rừng hiện cấp cho các hộ (3,4 triệu ha/1,2 triệu hộ) nhỏ, chiếm chưa tới 30% trong tổng diện
tích đất lâm nghiệp của cả nước. Do vậy, nếu REDD+ được thực hiện cho quy mô cả nước, lợi
ích tiềm năng từ REDD+ mà mỗi hộ được hưởng sẽkhông nhiều và khó có thể tạo được động
lực đủ mạnh để các hộ tham gia vào bảo vệ rừng.
Nhìn vào bản chất rừng hiện các hộ đang được giao sử dụng bao gồm 2 loại, rừng tự nhiên
và rừng trồng sản xuất, với tỉ lệ gần tương đương nhau.Đến nay, trong khuôn khổ của REDD+
rừng trồng chưa được coi là phần diện tích được tham gia hưởng lợi từ REDD+. Đối với rừng
sản xuất là rừng tự nhiên được giao cho hộ gia đình, theo các chính sách hiện hành các
quyền mà hộ được hưởng hiện rất hạn chế. Điều nà y sẽ làm hạn chế cơ hội của hộ trong việc
tiếp cận với nguồn thu tiềm năng mà REDD+ có thể mang lại trong tương lai.
Hộ cũng có thể được hưởng lợi từ REDD+ thông qua các hợp đồng khoán bảo vệ diện tích
rừng do các CTLN và BQL hiện đang quản lý. Tuy nhiên, các hợp đồng khoán bảo vệ như hiện
nay thường là ngắn hạn (1 năm), không đảm bảo rằng hộ sẽ tiếp cận được đối với nguồn lợi
lâu dài từ REDD+. Bên cạnh đó nếu không có cơ chế kiểm soát việc vận hành cơ chế khoán
bảo vệ tốt tại cấp địa phương, rủi ro có thể xảy ra đối với các hộ khi các CTLN, các BQL thay
vì trao các hợp đồng khoán bảo vệ cho các hộ thì lại trao cho những nhóm đem lại nhiều lợi
ích cho các tổ chức nà y hơn.
30
Tuy nhiên, nếu thực hiện theo cách hợp lý, GĐGR có tiềm năng
trong việc đem lại những lợi ích từ REDD+ cho hộ gia đình (xem chi tiết tại phần VII).
Hưởng dụng đất đai như hiện tại là sản phẩm của quá trình GĐGR được thực hiện từ trước
30
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra điều nà y trong bối cảnh Nhà nước thực hiện các chương trình trồng, khoán bảo vệ rừng
như Chương trình 661, 327 (xem trong Tô Xuân Phúc 2007, UNREDD và Bộ NN&PTNT 2010).https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
58
đây. Hưởng dụng đất hiện tại đã và đang tồn tại những khó khăn trong việc thực hiện việc
chi trả REDD+ trong tương lai. Điều nà y đã được minh chứng trong quá trình thực hiện chi
trả tiền Dịch vụ môi trường rừng ở Việt Nam (Phạm Thu Thủy và cộng sự 2013, Tô Xuân Phúc
và cộng sự 2012).
Trong giai đoạn hội nhập, với thị trường hàng hóa, bao gồm cả thị trường những sản phẩm
tạo ra từ đất rừng (gỗ, cây lương thực) ngà y càng được mở rộng, ngành Lâm nghiệp Việt
Nam hiện đang đứng trước những thay đổi to lớn. Điều nà y vừa là cơ hội vừa là thách thức
cho ngành. Phần VII thảo luận một số cơ hội nà y, bao gồm một số thay đổi có liên quan đến
GĐGR.https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
59
Một số tiềm năng thay đổi thông qua GĐGR7
7.1. Tái cơ cấu ngành lâm nghiệp
Tháng 7 năm 2013 Bộ NN&PTNT đã chính thức quyết định phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành
Lâm nghiệp.
31
Mục tiêu chung của Đề án nhằm “phát triển bền vững cả về kinh tế, xã hội và
môi trường; từng bước chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng,
hiệu quả, năng lực cạnh tranh.” Ba mục tiêu cụ thể của Đề án bao gồm:
• Nâng cao giá trị gia tăng sản phẩm và dịch vụ môi trường; gia tăng giá trị sản xuất bình
quân hàng năm 4-4,5%.
• Từng bước đáp ứng nhu cầu gỗ, lâm sản cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
• Góp phần tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo, cải thiện sinh kế, bảo vệ môi trường sinh thái
để phát triển bền vững.
Để giải quyết các mục tiêu nà y, Quyết định đưa ra các định hướng, bao gồm việc cơ cấu lại
các loại rừng, nâng cao giá trị cạnh tranh của ngành, điều chỉnh các thành phần kinh tế trong
lâm nghiệp, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính và phát triển theo vùng
kinh tế - sinh thái lâm nghiệp. Quyết định cũng đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm cụ thể hóa
các định hướng. Bảng 14 dưới đây mô tả các định hướng đề ra trong Đề án, các tiêu chí cụ
thể của các định hướng. Bảng 8 cũng chỉ ra tiềm năng của GĐGR trong việc góp phần hiện
thực hóa các định hướng được đề ra trong đề án tái cơ cấu ngành.
31
Quyết định số 1565/QĐ-BNN-TCLN của Bộ NN&PTNT ngà y 8 tháng 7 năm 2013 Phê duyệt “Đề án tái cơ cấu ngành Lâm
nghiệp”https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
60
Bảng 14. Tiềm năng của GĐGR trong việc thực hiện các định hướng của Đề án tái cơ cấu ngành
lâm nghiệp
Định hướng của
đề án
Các tiêu chí cụ thể (chỉ
tiêu trong tương lai so với
hiện tại)
Tiềm năng của gđgr trong việc thực hiện các định hướng
Cơ cấu các loại
rừng
Nâng cao giá trị
của ngành
• Diện tích đất lâm nghiệp
đến 2020 khoảng 16,2-16,5
triệu ha (từ 15,4 triệu ha hiện
tại), tăng 5-7% so với diện
tích hiện nay
• RPH: 5,8 triệu ha (4,7 triệu
ha hiện tại), tăng 23% so với
hiện tại
• RĐD: 2,14 triệu ha (2 triệu
ha hiện tại)
• RSX: 8,13 triệu ha (6,96 triệu
ha hiện tại), tăng 7,1%
• Nâng cao trữ lượng rừng tự
nhiên là RSX lên 25% so với
hiện nay, thông qua việc bảo
vệ, nuôi dưỡng, khoanh nuôi,
xúc tiến tái sinh, làm giàu và
cải tạo rừng nghèo kiệt
• Đến 2015 diện tích rừng
tự nhiên là RSX đủ điều
kiện đưa vào khai thác chọn
khoảng 50.000 ha, đến 2020
khoảng 117.000 ha, đến
2030 khoảng 215.000 ha
• Rừng trồng: Nâng cao năng
suất rừng trồng bình quân
15 m3/ha/năm đến 2020.
Diện tích rừng trồng là RSX
đạt 3,84 triệu ha (từ 2,5 triệu
ha hiện nay)
• GĐGR có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chỉ tiêu đã
đề ra. Cụ thể, thực hiện GĐGR cho hộ và cộng đồng có tiềm năng
lớn trong việc mở rộng diện tích RSX, thông qua đầu tư của hộ
và cộng đồng vào diện tích đất được giao. Bên cạnh đó, nếu hộ
và cộng đồng được hưởng lợi một cách công bằng và hợp lý, hộ
và cộng đồng có tiềm năng to lớn trong việc bảo vệ và làm giàu
RPH và RĐD.
• Mặc dù tỉ lệ che phủ rừng của cả nước đang tăng, chất lượng
rừng tự nhiên hiện vẫn giảm do việc khai thác gỗ bất hợp pháp
phục vụ nhu cầu gỗ gia dụng và tạo nguồn thu cho hộ. Các quy
định hiện nay hạn chế người dân được hưởng lợi công bằng và
hợp lý từ rừng tự nhiên. Nếu làm cho người dân được hưởng lợi
từ rừng tự nhiên, GĐGR sẽ khuyến khích được người dân tham
gia vào công tác bảo vệ rừng, góp phần làm tăng chất lượng rừng
tự nhiên.
• Tháng 12 năm 2013 Thủ tướng đã quyết định dừng khai thác
chính gỗ rừng tự nhiên trong cả nước, trừ hai khu vực đã được phê
duyệt phương án quản lý rừng bền vững.
32
Lý do cơ bản của việc
đóng cửa rừng là do việc khai thác gỗ lậu. GĐGR thực hiện theo
hướng đảm bảo lợi ích công bằng cho người dân có tiềm năng
trong việc giảm khai thác gỗ lậu, giảm mâu thuẫn đất đai giữa
người dân và CTLN, góp phần vào quản lý rừng bền vững.
• GĐGR cho hộ có tiềm năng to lớn trong việc làm tăng diện tích
rừng trồng. Tuy nhiên để hộ có thể sử dụng đất hiệu quả đòi hỏi
phải có những cơ chế chính sách phù hợp, đặc biệt là các chính
sách tiếp cận nguồn vốn ưu đãi cho hộ, tiếp cận cây giống và khoa
học kỹ thuật. Bên cạnh đó, cơ chế chính sách cũng cần thay đổi,
nhằm thiết lập liên kết giữa hộ được giao đất nhưng thiếu vốn và
khối tư nhân có vốn và mong muốn đầu tư vào rừng trồng nhưng
thiếu đất.
32
Văn phòng Chính phủ. Thông báo số 456/TB-VPCP ngà y 25 tháng 12 năm 2013 về Kết luận của Thủ thướng Chính phủ
Nguyễn Tấn Dũng tại cuộc họp Thường trực Chính phủ về Đề án tăng cường quản lý khai thác gỗ rừng tự nhiên giai
đoạn 2013-2020. https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
61
Các thành phần
kinh tế trong lâm
nghiệp
Phát triển theo
vùng kinh tế sinh
thái lâm nghiệp
(một số vùng lựa
chọn)
• Điều chỉnh cơ cấu các loại
hình tổ chức quản lý rừng
theo hướng các tổ chức nhà
nước trực tiếp quản lý 50%
tổng diện tích rừng toàn
quốc (trong đó 100% diện
tích RĐD, 65% diện tích RPH,
và 30% RSX)
• Xây dựng mô hình hợp tác
(HTX)trong lâm nghiệp, đến
2020 tăng số HTX lên 200%
so với 2011
• Hỗ trợ thể chế nhằm thúc
đẩy hộ có đất tham gia liên
doanh liên kết trồng rừng,
tạo nguồn nguyên liệu đầu
vào cho ngành công nghiệp
chế biến gỗ
• Vùng Tây Bắc: Củng cố hệ
thống RPH đầu nguồn, đảm
bảo nguồn thu từ Chi trả dịch
vụ môi trường rừng (PES)
• Vùng Đông Bắc: Hình thành
vùng nguyên liệu gỗ rừng
trồng
• Vùng Bắc Trung Bộ: Xây
dựng nguồn nguyên liệu cho
ngành công nghiệp gỗ
• Vùng Tây Nguyên: Củng cố
rừng phòng hộ đầu nguồn,
duy trì độ che phủ rừng tự
nhiên
• Đến nay vẫn chưa có cơ chế đảm bảo hộ có thể tiếp cận với lợi
ích từ RĐD và RPH một cách lâu dài. GĐGR nếu đem lại lợi ích cho
người dân có tiềm năng trong việc nâng cao hiệu quả bảo vệ
RĐD, RPH khi lợi ích người dân được đảm bảo. Diện tích RSX hiện
đang được các CTLN quản lý cũng có thể giao cho cộng đồng và
hộ gia đình quản lý. Cơ chế hưởng lợi phù hợp sẽ tạo động lực
cho hộ và cộng đồng tham gia bảo vệ.
• HTX và liên doanh liên kết, trong đó hộ gia đình góp đất tham
gia liên doanh có tiềm năng trong việc đem lại hiệu quả kinh tế
cho hộ, góp phần tăng độ che phủ rừng. Chính sách cần thay đổi,
đặc biệt là các chính sách có liên quan đến nguồn tín dụng và
hạn chế rủi ro trong liên doanh liên kết, nhằm tạo được sự kết nối
giữa người dân và nhà đầu tư.
• Tây Bắc là địa phương với hầu hết diện tích rừng đã được giao
cho hộ gia đình và cộng đồng. Điều nà y giúp cho các hộ tiếp cận
với các nguồn thu, đặc biệt là từ nguồn PES. Tuy nhiên, quá trình
thực hiện GĐGR tại địa phương còn nhiều tồn tại, trong đó bao
gồm nguồn dữ liệu giao rừng không chính xác (ví dụ diện tích
trên bản đồ không khớp với diện tích đất được giao trên thực địa,
nhiều thay đổi về hưởng dụng đất do các công trình xây dựng cơ
sở hạ tầng trong những năm vừa quachưa được cập nhật). Bên
cạnh đó, một số diện tích đất vẫn chưa được giao, và hiện đang
được UBND xã quản lý. Kết quả của GĐGR tại vùng Tây Bắc cần
được rà soát lại để đảm bảo độ chính xác. Bên cạnh đó, diện tích
đất đang được UBND xã quản lý nên được giao cho hộ hoặc cộng
đồng quản lý.
• Vùng Đông Bắc: Đây là vùng có diện tích rừng trồng rất lớn trong
cả nước (1,3 triệu ha) trong đó nhiều diện tích được phát triển bởi
hộ gia đình. GĐGR tạo động lực cho các hộ phát triển diện tích
rừng trồng trên phần diện tích đất được giao. Mở rộng diện tích
rừng trồng của hộ cần có những cơ chế chính sách phù hợp, đặc
biệt là chính sánh tín dụng ưu đãi cho hộ và các biện pháp khoa
học, nhằm giúp hộ tiếp cận với nguồn lực. Bên cạnh đó cũng cần
có chính sách nhằm khuyến khích các hộ có đất nhưng không có
tiềm lực đầu tư trồng rừng tham gia vào liên doanh liên kết
• Vùng Bắc Trung Bộ: Đây là vùng có diện tích rừng tự nhiên và
rừng trồng lớn (1,77 triệu ha rừng tự nhiên và 712.000 ha rừng
trồng). Đến nay hầu hết diện tích rừng tự nhiên đều do các CTLN
và các BQL nắm giữ. Hộ và cộng đồng hầu như chưa được hưởng
lợi từ nguồn nà y. Trong tương lai, GĐGR nên được thực hiện theo
cách để các hộ và cộng đồng được hưởng lợi lâu dài, tạo động
lực cho họ tham gia bảo vệ rừng. Bên cạnh đó, cần có chính sách
khuyến khích người dân phát triển rừng trồng trên diện tích đất
đã giao cho hộ
• Vùng Tây Nguyên: Đây là vùng có diện tích rừng tự nhiên rất https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
62
lớn (2,6 triệu ha) và hầu hết diện tích nà y đều do các CLTN và
BQL nắm giữ. Đây cũng chính là nơi mất rừng vẫn đang diễn ra
và chất lượng lượng rừng tự nhiên đang suy giảm. Khai thác gỗ
lậu là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến mất rừng.
Nguyên nhân sâu xa bởi người dân không được hưởng lợi, và coi
rừng là “của nhà nước”. GĐGR có tiềm năng giảm mất rừng nếu
hộ và cộng đồng sống lệ thuộc vào rừng được hưởng lợi lâu dài
và công bằng từ nguồn rừng nà y.
Chính phủ có đề ra các giải pháp nhằm thực hiện việc tái cơ cấu ngành, trong đó bao gồm
một số giải pháp căn bản có liên quan trực tiếp đến GĐGR như sau:
• Đến 2015 hoàn thành rà soát và đánh giá lại quy hoạch rừng, xác định để duy trì hợp lý
diện tích rừng đầu nguồn, RĐD (lâm phận ổn định quốc gia), chuyển số diện tích rừng còn
lại sang phát triển vùng rừng nguyên liệu tập trung.
• Tổ chức rà soát, xác định thực trạng sử dụng rừng và đất lâm nghiệp thuộc các chủ quản
lý, điều chỉnh và thu hồi đất của các tổ chức, cá nhân đã được giao nhưng sử dụng không
hiệu quả, sử dụng không đúng mục đích.
• Tổ chức rà soát sắp xếp lại các tổ chức quản lý rừng trên cơ sở kết quả rà soát đánh giá
lại quy hoạch rừng, phân định rõ lâm phận ổn định quốc gia và diện tích phát triển vùng
nguyên liệu.
• Đổi mới cơ chế và tổ chức quản lý rừng theo hướng nâng cao quyền tự chủ cho các hộ gia
đình, ban quản lý rừng và và doanh nghiệp.
• Tổ chức rà soát đất đai, cắm mốc và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hoàn thành
vào năm 2015, kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp.
• Rà soát, chuyển giao đất về cho địa phương, hoàn thành vào năm 2014.
• Tiếp tục thực hiện chính sách giao khoán, thí điểm đồng quản lý rừng.
Ngoài ra, Đề án cũng đề cập đến các cơ chế chính sách cụ thể nhằm đạt được các mục tiêu
mà Đề án đề ra. Một số chính sách căn bản bao gồm:
• Triển khai thực hiện “Định hướng thu hút, quản lý và sử dụng nguồn Hỗ trợ phát triển chính
thức, vay ưu đãi và hỗ trợ quốc tế khác cho ngành lâm nghiệp giai đoạn 2013-2020”.
• Xây dựng chính sách hỗ trợ đầu tư ban đầu, cho vay tín dụng ưu đãi để trồng rừng phù
hợp với từng loại cây trồng, thời gian hoàn trả vốn vay khi có sản phẩm khai thác chính.
• Thử nghiệm mô hình hợp tác công tư trong bảo vệ rừng.
• Xây dựng chính sách liên kết giữa người sản xuất gỗ, các công ty lâm nghiệp với các cơ https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
63
sở, công ty chế biến gỗ, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào lâm nghiệp theo mô hình
khép kín từ sản xuất, chế biến, tiêu thụ, người dân góp vốn với doanh nghiệp bằng quyền
sử dụng đất và họ như các cổ đông của doanh nghiệp, được chia sẻ lợi ích.
Như vậy GĐGR có tiềm năng trong việc thực hiện các mục tiêu mà Đề án tái cơ cấu ngành
lâm nghiệp đã đề ra. Thực hiện GĐGR tạo nền tảng cho việc thực hiện các mục tiêu, như tạo
ra nguồn nguyên liệu đầu vào chế biến gỗ, góp phần tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, cải
thiện sinh kế và bảo vệ môi trường sinh thái. GĐGR sẽ có điều kiện phát huy hiệu quả trong
điều kiện các chính sách hỗ trợ như tín dụng, kỹ thuật cây con giống, trồng chăm sóc, thị
trường đầu ra sản phẩm được thực hiện đồng bộ, tạo điều kiện cho các hộ, đặc biệt là các
hộ nghèo thiếu nguồn lực đầu tư trồng rừngbiến các quyền trên đất của mình thành lợi ích
kinh tế thực sự cho hộ.Khi đảm bảo được lợi ích lâu dài và công bằng cho người dân, GĐGR
sẽ tạo động lực cho các hộ tham gia bảo vệ rừng, góp phần làm giảm tác động tiêu cực tới
rừng tự nhiên.
7.2.Sắp xếp đổi mới và phát triển các CTLN
Trong thập niên vừa qua, ngành Lâm nghiệp liên tục có những chính sách được đưa ra với
mục tiêu đổi mới ngành. Một trong những chính sách cơ bản là Nghị quyết số 28/NQ của Bộ
Chính trị ban hành năm 2003 và Nghị định 200 của Chính phủ năm 2004 về đổi mới nông
lâm trường quốc doanh.
Như đã đề cập ở các phần trên, hiện cả nước còn 148 CTLN đang được giao khoảng 1,9 triệu
ha đất lâm nghiệp, trong đó có tới 1,5 triệu ha là đất RSX. Nói cách khác, hầu hết diện tích
đất lâm nghiệp hiện được giao cho các CTLN sử dụng với mục đích kinh tế, để trồng rừng
hoặc khai thác gỗ. Khoảng 90% (tương đương 1,8 triệu ha) diện tích đất lâm nghiệp của các
CTLNhiện đang được các CTLN tự tổ chức sản xuất quản lý. Phần còn lại (10%, tương đương
667.500 ha) được sử dụng và quản lý theo các hình thức như giao khoán cho các hộ và thông
qua các hình thức liên doanh liên kết, cho thuê, mượn.
Con số thống kê của Tổng cục Lâm nghiệp cho thấy diện tích đất tranh chấp, lấn chiếm, xâm
canh mà các CTLN đang quản lý khoảng 7.600 ha. Tuy nhiên, một số nghiên cứu đã chỉ ra
rằng con số nà y chưa phản ánh thực trạng, và diện tích đất tranh chấp thực tế còn lớn hơn
rất nhiều (Tô Xuân Phúc và cộng sự 2013).
Theo kết quả được công bố trong Báo cáo 595 ngà y 17 tháng 5 năm 2012 của Tổng cục Lâm
nghiệp về đánh giá kết quả của việc thực hiện Nghị quyết 28, các LTQD đã thực hiện việc rà
soát tài nguyên đất và rừng, trong đó các lâm trường quản lý diện tích chủ yếu là RPH và RĐD
thì đổi sang thành BQL. Đến hết 2011 đã có 91 LTQD được chuyển đổi sang BQL rừng, quản
lý diện tích 1,3 triệu ha; các lâm trường thua lỗ kéo dài thì bị giải thể (14 lâm trường); các lâm https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
64
trường còn lại chuyển đổi thành CTLN (148 công ty); phần còn lại chuyển về cho địa phương
quản lý (585.167 ha).
33
Về lao động, trước khi sắp xếp (năm 2005) tổng số lao động trong các
LTQD là 68.578, sau khi sắp xếp, lao động trong các CLTN giảm xuống còn 16.651, trong đó
chủ yếu là lao động hợp đồng không xác định thời hạn và hợp đồng ngắn hạn (13.564). Tính
bình quân, diện tích rừng tự nhiên trên mỗi lao động của CTLN là 80,2 ha/lao động.
Tuy nhiên, thực hiện sắp xếp theo tinh thần của Nghị quyết 28 vẫn còn một số tồn tại, cụ
thể: “... đất đai và tài sản rừng trên đất hầu hết chưa được rà soát, đo đạc, cắm mốc trên thực
địa và lập bản đồ địa chính, chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trình trạng
tranh chấp, lấn chiếm, cho thuê mướn đất đai trái pháp luật, xâm hại rừng diễn ra khá phổ
biến tại một số nơi nhưng chưa được giải quyết triệt để. Nguyên nhân chính là do việc giao
đất cho các LTQD/CTLN trước kia không cụ thể, chủ yếu giao trên giấy tờ, có nhiều nơi giao
trùm lên diện tích của các hộ gia đình, cá nhân, tổ chức khác đang sử dụng. Quyền sử dụng
đất đai không rõ ràng dẫn đến quyền và nghĩa vụ của các LTQD/CTLN đối với đất đai thuộc
phạm vi quản lý không rõ ràng, không tạo động lực phát triển. Việc rà soát và xác định rõ diện
tích, ranh giới, trạng thái các loại rừng trên bản đồ và thực địa; xác định các giá trị quyền sử
dụng đối với rừng sản xuất tự nhiên và giá trị quyền sở hữu rừng trồng để làm cơ sở xây dựng
phương án sắp xếp, đổi mới và phát triển chưa được thực hiện dẫn đến lúng túng, vướng
mắc. Diện tích đất quy hoạch giao cho các LTQD/CTLN thường xuyên bị áp lực thu hồi vì các
lý do như trồng cao su, cây công nghiệp, định canh định cư và các nhu cầu dân sinh-kinh tế-
xã hội khác của địa phương, để dân lấn chiếm đất đai và rừng ở nhiều nơi rất nghiêm trọng,
nhất là tại các LTQD/CTLN ở các tỉnh Tây Nguyên.” (Báo cáo số 595, trang 12)
Ngày 12 tháng 3Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 30-NQ/TW về tiếp tục đổi mới và phát
triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp. Nghị quyết đánh giá các
tồn tại cơ bản của ngành lâm nghiệp nói chung và CTLN nói riêng bao gồm: “Chưa hoàn
thành việc xác định ranh giới, cắm mốc thực địa, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và
chuyển sang thuê đất. Diện tích đất chưa sử dụng hoặc hoang hóa còn nhiều. Xử lý chậm và
thiếu kiên quyết đối với các trường hợp sử dụng đất trái quy định...ở một số công ty có tình
trạng buông lỏng quản lý đất đai, giao khoán, sử dụng sai mục đích, chuyển nhượng đất
rừng bất hợp pháp... các công ty lâm nghiệp quản lý chủ yếu là rừng tự nhiên là rừng sản xuất
còn lúng túng... hiệu quả sử dụng đất thấp... việc làm của người lao động và người dân trong
vùng chậm được cải thiện...” Nghị quyết 30 cũng chỉ ra một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến
các tồn tại của các CTLN, bao gồm: “Chưa thấy hết được... sự cần thiết phải sắp xếp, đổi mới
33
Tuy nhiên trong Báo cáo Phát triển ngành lâm nghiệp năm 2013 của Đối tác hỗ trợ ngành lâm nghiệp (2014), phần
diện tích trả về cho địa phương là 415.125 ha. https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
65
nông, lâm trường quốc doanh. Một bộ phận lãnh đạo lâm trường chậm đổi mới nhận thức,
không chủ động tháo gỡ khó khăn, tổ chức lại sản xuất kinh doanh theo cơ chế mới.”
Để giải quyết các tồn tại của hình thức quản lý lâm nghiệp Nhà nước, cụ thể là yếu kém của
các CTLN, Nghị quyết 30 đã đưa ra một số mục tiêu, phương hướng và các nhiệm vụ cụ thể
bao gồm:
• Duy trì CTLN công ích 100% vốn nhà nước hoặc chuyển sang BQL rừng
• Cổ phần các CTLN sản xuất cây giống, CTLN quản lý chủ yếu là rừng trồng
• Giải thể các CTLN kinh doanh thua lỗ kéo dài
Nhằm thực hiện các phương hướng cơ bản nà y, Nghị quyết 30 đưa ra các nhiệm vụ, giải pháp
trọng tâm sau:
• Rà soát, điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất phù hợp với nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh
của các CTLN... Đến 2015 hoàn thành việc chuyển giao đất và hồ sơ đất không có nhu cầu
sử dụng, hiệu quả sử dụng thấp, hoang hóa, các trường hợp vi phạm đất đai về địa phương
quản lý, sử dụng. Kiên quyết thu hồi đất giao lại cho địa phương khi lâm trường không có
nhu cầu sử dụng, hoặc sử dụng không đúng mục đích.
• Đến 2015 hoàn thành việc đo đạc, lập bản đồ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất và thuê đất hoặc giao đất theo quy định của pháp luật.
• Cho thuê đất đối với đất giao cho các CTLN sử dụng vào mục đích kinh doanh...diện tích
hộ gia đình, cá nhân khác đang sử dụng không đúng đối tượng thuộc diện chuyển giao
đất về địa phương quản lý.
• Các địa phương sau khi tiếp nhận đất phải tiến hành rà soát lại đối tượng sử dụng đất,
diện tích của từng đối tượng đang sử dụng để thực hiện giao hoặc cho thuê theo hướng
ưu tiên cho đồng bào dân tộc thiểu số ở địa phương không có đất hoặc có đất sản xuất...
hộ gia đình, cá nhân được tiếp tục sử dụng đất theo hình thức giao đất không thu tiền...
• Tiếp tục xử lý các trường hợp đất cho thuê, cho mượn, đất bị lấn chiếm, tranh chấp, đất
liên doanh, liên kết, hợp tác đầu tư, đất giao khoán...
• Đối với đất công ty đang cho tổ chức, cá nhân thuê, mượn... nhưng sử dụng sai mục đích...
thì công ty phải làm thủ tục chuyển giao về địa phương...
Trong thời gian tới, Chính phủ sẽ ban hành nghị định cụ thể, hướng dẫn việc thực hiện Nghị
quyết 30 của Bộ Chính trị.
Trong bối cảnh của nền lâm nghiệp hiện đang đứng trước những cơ hội đổi mới và hội nhập,
GĐGR có tiềm năng quan trọng cho việc nâng cao hiệu quả của sử dụng đất, bảo vệ rừng,
góp phần cải thiện sinh kế người dân. Các nghiên cứu cứu đã chỉ ra rằng cách thức thực https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
66
hiện GĐGR trong bối cảnh lâm nghiệp Nhà nước vẫn đóng vai trò chủ đạo, với các hạn chế
nguồn lực về con người, tài chính, điều kiện kỹ thuật hỗ trợ (ví dụ bản đồ cập nhật, hồ sơ địa
chính) là một trong những nguyên nhân cơ bản tạo ra những tồn tại của ngành lâm nghiệp
mà tới nay vẫn chưa có hướng giải quyết hiệu quả. Ví dụ việc chồng chéo giữa các hình thức
sử dụng đất và rừng truyền thống của người dân với các quyền trên đất được giao cho các
CTLN, tranh chấp đất đai giữa các bên liên quan.
34
Lâm nghiệp Nhà nước, với ưu tiên dành
cho các CTLN như hiện tại sẽ khó khả năng tạo ra được những đột phá trong quản trị lâm
nghiệp nói chung và giải quyết được những tồn tại có liên quan đến cácCTLN nói riêng. Tuy
nhiên, nếu Chính phủ điều chỉnh nội dung và cách thức thực hiện thì GĐGR có tiềm năng
quan trọng, góp phần giải quyết các tồn tại như hiện nay, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả
của quản trị rừng. Bảng 9 tập trung phân tích 3 điểm chính được đề ra trong Đề án Tái cơ cấu
ngành Lâm nghiệp của Bộ NN&PTNT cũng như trong Nghị quyết 30 của Bộ Chính trị. Cụ thể,
phân tích trong Bảng 14 chỉ ra một số hạn chế trong việc duy trì lâm nghiệp Nhà nước với
CTLN đóng vai trò chủ đạo. Bên cạnh đó, Bảng 14 cũng chỉ ra lợi ích tiềm năng mà GĐGR có
thể mang lại đối với bảo vệ rừng, cải thiện sinh kế cho người dân.
34
Một số báo cáo chỉ ra những tồn tại nà y như Báo cáo 595 năm 2012 của Tổng cục Lâm nghiệp, Đề án Tái cơ cấu các lâm
trường quốc doanh của Bộ NN&PTNT năm 2013, Báo cáo của Tô Xuân Phúc và Cộng sự (2013), Báo cáo phát triển ngành
lâm nghiệp Việt Nam năm 2013 của Chương trình đối tác Hỗ trợ ngành Lâm nghiệp.https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
67
Bảng 15. Định hướng đổi mới CTLN và vai trò tiềm năng của GĐGR
Định hướng
(theo đề án tái cơ
cấu ngành, nghị
quyết 30 của bộ
chính trị
Những tồn tại thực tế Tiềm năng của GĐGR
Cổ phần hóa và
Nhà nước giữ cổ
phần chi phối
Các nghiên cứu đã chỉ ra những tồn tại
hiện nay của CTLN bao gồm sử dụng đất
không hiệu quả, tranh chấp đất đai giữa
CTLN và người dân đang diễn ra ở nhiều
nơi, do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ
yếu là người dân thiếu đất sản xuất, các
CTLN bao chiếm đất đai, do việc mở rộng
thị trường hàng hóa nông sản (ví dụ đối
với gỗ rừng trồng, sắn, cao su), từ làm cho
đất đai trở thành phương tiện quan trọng
để tạo nguồn thu. Thực hiện cổ phần hóa
với Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối
có tiềm năng tạo ra một số thay đổi, đặc
biệt là trong việc giảm tính độc quyền về
đất đai của các CTLN. Tuy nhiên, thực hiện
cổ phần hóa với Nhà nước giữ cổ phần
chi phối không giải quyết được tận gốc
các tồn tại có liên quan đến Lâm nghiệp
Nhà nước,bao gồm tình trạng tranh chấp
đất đai giữa người dân và CTLN bởi (i) cổ
phần hóa sẽ không tạo cơ hội cho người
dân tham gia. Hiện nhiều hộ dân, đặc biệt
là các hộ có liên quan đến tranh chấp đất
đai là các hộ dân nghèo, không có nguồn
lực tham gia vào liên doanh liên kết; (ii)
Lâm nghiệp Nhà nước đã, đang và sẽ tiếp
tục bộc lộ các yếu điểm trong tổ chức
quản lý và sử dụng đất. Việc Nhà nước
nắm giữ cổ phần chi phối sẽ không tạo
ra những thay đổi căn bản về hình thức
quản lý lâm nghiệp như hiện nay.
Tranh chấp đất đai giữa CTLN và người dân địa
phương hiện đang diễn ra ở nhiều nơi. Con số
gần 7.000 ha là tổng diện tích đất tranh chấp mà
cơ quan quản lý nhà nước công bố chưa phản ánh
được quy mô thực tế.
35
Theo định hướng của Nghị
quyết 30 và Đề án tái cơ cấu ngành, đổi mới cần
tiến hành theo hướng nâng cao quyền tự chủ cho
các hộ gia đình, tiến hành rà soát đất đai, cắm mốc
và cấp giấy chứng nhận sử dụng đất. Bên cạnh đó,
chính sách tín dụng cũng sẽ được ban hành, tạo cơ
hội cho người có đất tiếp cận được nguồn vốn vay
ưu đãi nhằm phát triển vốn rừng. Do vậy GĐGR có
tiềm năng lớn, có thể tạo ra đột phá trong việc thay
đổi hình thức quản lý lâm nghiệp Nhà nước như
hiện nay. Cụ thể, Nhà nước cần tiến hành rà soát,
đánh giá nhu cầu sử dụng đất tối thiểu của các hộ
gia đình. Dựa trên năng lực cụ thể của từng CTLN,
Nhà nước cần thực hiện đánh giá hiệu quả sử dụng
đất hiện tại của từng công ty cũng như nhu cầu sử
dụng đất thực tế của mỗi công ty. Đối với các diện
tích đất hiện do các công ty quản lý nhưng không
phù hợp với năng lực hiện có (ví dụ đốivới những
diện tích đất cho thuê, khoán, bỏ không) Nhà nước
tiến hành thu hồi. Một phần diện tích đất nà y sẽ
được giao về cho Chính quyền địa phương, làm cơ
sở để giao lại cho hộ, nhằm đáp ứng các nhu cầu
đất canh tác tối thiểu của hộ. Phần còn lại (nếu còn)
sẽ tiến hành đấu thầu quyền sử dụng đất, với các
bên tham gia đấu thầu (trong và ngoài nhà nước)
có vai trò tương đương nhau. Điều nà y góp phần
tạo sự bình đẳng trong tiếp cận đất đai cho các bên
tham gia.
35
Kết luận nà y đã được đưa ra trong nhiều báo cáo. Thông tin chi tiết xem tại báo cáo của Tô Xuân Phúc và Cộng sự (2003),
Tài liệu Hội thảo Thực trạng và giải pháp về quản lý sử dụng đất rừng giữa lâm trường quốc doanh và người dân địa phương
do tổ chức CIRUM, CODE, CRD, và PDPR tổ chức tại Hà Nội ngà y 15 tháng 5 năm 2012; tài liệu hội thảo Thực trạng quản lý sử
dụng đất lâm nghiệp sau thực hiện Nghị quyết 28/NQ-TW của Bộ chính trị tại Quảng Bình và Hà Tĩnh do Tổng cục Lâm nghiệp,
VUSTA, UBND tỉnh Quảng Bình, Oxfam, CIDR và PDPR tổ chức tại Quảng Bình ngà y 23 tháng 12 năm 2013; tài liệu Hội thảo Giao
đất giao rừng trên địa bàn Kon Tum do Sở NN&TPTN và CODE tổ chức tại Kon Tum ngà y 5 tháng 12 năm 2013. https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
68
Đến 2011, Nhà nước đã tiến hành thành
lập 91 BQL rừng. Hình thức hoạt động
của các BQL hiện nay là hoàn toàn phụ
thuộc vào nguồn ngân sách nhà nước.
Việc tiếp tục chuyển đổi các CTLN, đặc
biệt là các công ty hiện đang quản lý
rừng tự nhiên là RSX còn trữ lượng gỗ
(chủ yếu là ở Tây Nguyên) sẽ giúp duy
trì sự tồn tại của các công ty nà y. Tuy
nhiên, hiện nay tình trạng mất rừng vẫn
đang diễn ra tại Tây Nguyên, bởi nạn
khai thác gỗ lậu và một phần vì mục
đích duy trì sinh kế của hộ, cũng như
sự tồn tại quan niệm “rừng là của Nhà
nước”. Việc chuyển đổi các CTLN sang
BQL nếu không tạo ra được những thay
đổi trong mối quan hệ giữa các CTLN/
BQL và người dân sống gần rừng sẽ khó
có thể tạo ra sự thay đổi về sinh kế của
những người dân sống phụ thuộc vào
rừng cũng như quan niệm “rừng là của
Nhà nước.”Hiện nay, nhiều diện tích
rừng được giao cho các BQL được khoán
cho các hộ gia đình, cá nhân để bảo vệ.
Điều nà y làm tăng chi phí giao dịch so
với hình thức giao khoán thẳng cho các
hộ gia đình và cộng đồng để quản lý.
Chuyển đổi CTLN sang các BQL và cho
phép các BQL khoán bảo vệ với các hộ
và cá nhân làm hạn chế tính hiệu quả
trong bảo vệ rừng. Thay đổi mối quan hệ giữa BQL và người dân sống lệ
thuộc vào rừng sẽ có tiềm năng trong việc cải thiện
sinh kế của các hộ, góp phần bảo vệ phần diện tích
rừng tự nhiên còn lại. Một trong những điểm cốt lõi
nhất trong quan hệ giữa 2 bên là quan hệ bình đẳng
và tạo lợi ích lâu dài từ tài nguyên rừng cho hộ gia
đình. Khoán bảo vệ lâu dài với hộ, quản lý rừng dựa
vào cộng đồng trong đó đảm bảo cơ chế hưởng lợi
công bằng cho cộng đồng, đồng quản lý với vai trò
bình đẳng của cộng đồng tham gia là các cơ chế tiềm
năng trong việc thay đổi mối quan hệ giữa BQL và
người dân. Nguồn ngân sách dự kiến dành cho BQL,
bao gồm cả nguồn thu từ PES và REDD+ nên được
phân bổ công bằng cho cộng đồng.GĐGR thực hiện
theo hướng như vậy sẽ góp phần giảm nạn khai thác
gỗ lậu, thay đổi quan niệm “rừng là của Nhà nước”
trong dân.
Giải thể hoặc
chuyển đổi các
CTLN sang hình
thức khác
Trong giai đoạn 2005-2011, Nhà nước
giải thể 14 CTLN, chiếm khoảng 10%
trong tổng số CTLN hiện đang tồn tại.
Trong bối cảnh nhiều CTLN hiện đang
hoạt động không hiệu quả, việc giải
thể hoặc chuyên đổi sang các hình thức
khác đối với các đơn vị nà y là cần thiết.
Giải thể hoặc chuyển đổi đối với các CTLN hoạt
động không hiệu quả nên được thực hiện với ưu
tiên lấy hộ và cộng đồng làm trung tâm. Giải thể/
chuyển đổi nên tiến hành theo hướng: (i) đáp ứng
đủ nhu cầu đất sản xuất cho người dân; (ii) ưu tiên
cho người dân (so với các nhóm đối tượng khác như
tư nhân, các tổ chức kinh tế) trong việc nhận đất
vì điều nà y góp phần trực tiếp vào duy trì ổn định
an ninh xã hội địa phương, góp phần xóa đói giảm
nghèo. Nhà nước cũng cần có những chính sách hỗ
trợ (ví dụ tín dụng ưu đãi, kỹ thuật canh tác) nhằm
đảm bảo cho người dân nhận đất có thể sử dụng
hiệu quả nguồn đất được giao.https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
69
Như vậy, giao đất giao rừng có tiềm năng tạo ra những đột phá nhằm thay đổi lại hình thức
quản trị rừng như hiện nay, góp phần xã hội hóa công tác nghề rừng, thực hiện theo định
hướng quan trọng mà Đảng và Chính phủ đã đề ra. Thay đổi về chính sách và cách thức thực
hiện, đặc biệt đối với việc sắp xếp đổi mới các CTLN có thể tạo ra thay đổi căn bản về mối
quan hệgiữa CTLN và người dân, xóa bỏ quan niệm “nơi đâu có lâm trường, nơi đó có nhiều
người nghèo”
36
tạo cơ hội cho người dân được hưởng lợi công bằng và lâu dài từ rừng, góp
phần thay đổi quan niệm “rừng là của Nhà nước”. Hiệu quả sử dụng đất thấp, chất lượng rừng
tiếp tục suy giảm, mâu thuẫn đất đai phổ biến là những tồn tại hiện hữu của hình thức quản
lý lâm nghiệp Nhà nước. Trong bối cảnh hội nhập, lâm nghiệp Nhà nước đang đứng trước cơ
hội thay đổi theo hướng nâng cao vị thế của ngành, góp phần cải thiện sinh kế cho những
người dân nghèo vùng cao, giúp ổn định an sinh xã hội. Tuy nhiên, để biến những cơ hội nà y
thành thực tế ngành lâm nghiệp cần có những thay đổi căn bản trên cả phương diện nhận
thức và hành động cụ thể. Trong bối cảnh nà y, GĐGR với 2 cơ chế chủ đạo là giao và khoán
đất và rừng có tiềm năng lớn trong việc kiến tạo những thay đổi cho ngành thông qua việc
đổi mới các CTLN và tăng cường sự tiếp cận của người dân đối với đất và rừng. Bên cạnh đó,
phát huy những ưu điểm của hình thức quản lý rừng dựa vào cộng đồng cũng có tiềm năng
tạo ra những thay đổi quan trọng trong quản trị rừng hiện tại. Phần VII.3 dưới đây sẽ thảo
luận về vai trò tiềm năng của cộng đồng.
7.3. Vai trò của cộng đồng trong quản trị rừng
Luật BVPTR năm 2004 quy định việc giao rừng cho cộng đồng dân cư thôn cũng như các
quyền, nghĩa vụ của cộng đồng dân cư thôn được giao rừng (Mục 3, Chương II), trong đó quy
định điều kiện giao rừng cho cộng đồng dân cư bao gồm:
• Cộng đồng dân cư thôn có cùng phong tục, tập quán, có truyền thống gắn bó cộng đồng
với rừng về sản xuất, đời sống, văn hoá, tín ngưỡng; có khả năng quản lý rừng; có nhu cầu
và đơn xin giao rừng
• Việc giao rừng cho cộng đồng dân cư thôn phải phù hợp với quy hoạch, kế hoạch bảo vệ
và phát triển rừng đã được phê duyệt; phù hợp với khả năng quỹ rừng của địa phương.
Cộng đồng dân cư thôn được giao những khu rừng sau đây:
• Khu rừng hiện cộng đồng dân cư thôn đang quản lý, sử dụng có hiệu quả;
• Khu rừng giữ nguồn nước phục vụ trực tiếp cho cộng đồng, phục vụ lợi ích chung khác
của cộng đồng mà không thể giao cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân;
36
Nhận xét của một Phó Chủ tịch xã phụ trách vấn đề đất đai thuộc huyện Hữu Lũng, Lạng Sơn trong một cuộc họp với
Tô Xuân Phúc năm 2012. https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
70
• Khu rừng giáp ranh giữa các thôn, xã, huyện không thể giao cho tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân mà cần giao cho cộng đồng dân cư thôn để phục vụ lợi ích của cộng đồng.
Điều 30 Mục 3 quy định cộng đồng dân cư thôn được giao rừng có các quyền:
• Được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận quyền sử dụng rừng ổn định, lâu dài
phù hợp với thời hạn giao rừng.
• Được khai thác, sử dụng lâm sản và các lợi ích khác của rừng vào mục đích công cộng và
gia dụng cho thành viên trong cộng đồng; được sản xuất lâm nghiệp - nông nghiệp - ngư
nghiệp kết hợp theo quy định của Luật nà y và quy chế quản lý rừng.
• Được hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên diện tích rừng được giao.
• Được hướng dẫn về kỹ thuật, hỗ trợ về vốn theo chính sách của Nhà nước để bảo vệ và
phát triển rừng và được hưởng lợi ích do các công trình công cộng bảo vệ, cải tạo rừng
mang lại.
• Được bồi thường thành quả lao động, kết quả đầu tư để bảo vệ và phát triển rừng theo
quy định của Luật nà y và các quy định khác của pháp luật có liên quan khi Nhà nước có
quyết định thu hồi rừng.
Cũng theo Mục 3, cộng đồng dân cư thôn được giao rừng có các nghĩa vụ sau đây:
• Xây dựng quy ước bảo vệ và phát triển rừng phù hợp với quy định của Luật này và các quy
định khác của pháp luật có liên quan, trình Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh phê duyệt và tổ chức thực hiện;
• Tổ chức bảo vệ và phát triển rừng, định kỳ báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền về
diễn biến tài nguyên rừng và các hoạt động liên quan đến khu rừng theo hướng dẫn của
Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn;
• Thực hiện nghĩa vụ tài chính và các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật;
• Giao lại rừng khi Nhà nước có quyết định thu hồi rừng hoặc khi hết thời hạn giao rừng;
• Không được phân chia rừng cho các thành viên trong cộng đồng dân cư thôn; không
được chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn kinh
doanh bằng giá trị quyền sử dụng rừng được giao.
Tính đến hết năm 2012 tổng diện tích rừng mà cộng đồng đang quản lý là 588.253 ha, với
99% trong đó là rừng tự nhiên (Quyết định 1739 của Bộ NN&PTNT 2013). Tuy nhiên, theo Bộ
TN&MT, tính đến hết ngà y 1 tháng 1 năm 2012 tổng diện tích đất lâm nghiệp được giao cho
cộng đồng sử dụng là 281.002 ha, tổng diện tích đất được giao cho cộng đồng để quản lý là
524.713, trong đó chủ yếu là diện tích đất rừng phòng hộ (Quyết định 1482 của Bộ TN&MT
ngày 10 tháng 9 năm 2012). Đối với phần diện tích RSX được giao cho các cộng đồng hiện https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
71
Hộp 1. Cộng đồng “ôm”rừng chờ hưởng lợi
Tại xã Hiếu 808 ha rừng đã được giao cho cộng đồng thôn ViChring với gần 40 hộ MNâm (Xơ Đăng),
nơi có tỉ lệ hộ nghèo trên 50%. Mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng nà y có tiềm năng to lớn trong
việc đem lại lợi ích thực sự cho các hộ thôn. Năm 2008, với sự hỗ trợ của tổ chức JICA trong khuôn khổ
của dự án thành lập mô hình rừng cộng đồng, thôn ViChring đã được UBND Huyện giao sổ đỏ, thời
hạn 50 năm. UBND Huyện cũng đã phê duyệt kế hoạch quản lý khai thác rừng bền vững cho phần
diện tích được giao cho thôn. Theo kế hoạch được phê duyệt, hàng năm cộng đồng được phép khai
thác khoảng 5m3 gỗ/ha, trên phần diện tích 300 ha có trữ lượng (trong tổng số 808 ha). Cũng theo kế
hoạch, khoảng 70% lợi ích thu được từ bán gỗ sẽ được dùng để tạo nguồn thu cho cộng đồng. 20%
phần còn lại sẽ được dùng để chi trả thuế tài nguyên; 10% còn lại tạo nguồn thu cho ngân sách xã
(10%). Nếu gỗ được khai thác theo kế hoạch, với mức giá gỗ năm 2008 (năm kế hoạch được phê duyệt),
bình quân mỗi hộ trong thôn sẽ thu được 2,3 triệu đồng/tháng. Mức thu nhập nà y sẽ đủ để giúp các hộ
tại Vi Chring thoát nghèo và sẽ tạo được động lực để các hộ tham gia bảo vệ rừng hiệu quả. Tuy nhiên
cho đến nay, cộng đồng vẫn chưa được phép khai thác gỗ. Nguồn tin từ một số cơ quan quản lý của
tỉnh cho biết nguyên nhân chính là các cơ quan quản lý cấp tỉnh chưa thống nhất được phương án
cho phép cộng đồng khai thác; thêm vào đó là Trung ương chưa giao chỉ tiêu khai thác gỗ cho tỉnh, do
chính sách hạn chế khai thác gỗ từ rừng tự nhiên/đóng cửa rừng… Niềm tin của người dân đang dần
suy giảm và điều nà y đã và đang tạo ra những tác động tiêu cực trực tiếp đến rừng. Cụ thể, một số hộ
trong thôn bắt đầu chuyển đổi một phần diện tích rừng nằm gần đường giao thông sang trồng sắn
nhằm tạo nguồn thu cho hộ. Tổng diện tích chuyển đổi trong năm 2011-2012 khoảng 6 ha. Rừng cộng
đồng đang nhường chỗ cho các nương sắn nhằm tạo nguồn thu cho hộ.
Nguồn: Tô Xuân Phúc, điều tra thực địa tháng 12 năm 2013
đang quản lý, Luật BVPTR cho phép việc khai thác, sử dụng lâm sản và các lợi ích khác của
rừng vào mục đích công cộng và gia dụng trong cho các thành viên thuộc cộng đồng. Luật
cũng cho phép việc hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên diện tích được giao.
Đối với các diện tích RPH mà cộng đồng hiện đang quản lý, Luật BVPTR hạn chế việc khai
thác lâm sản trong diện tích các khu rừng nà y, cụ thể: (i) được phép khai thác các cây đã chết,
cây sâu bệnh, cây đứng ở nơi mật độ lớn hơn mật độ quy định theo quy chế quản lý rừng, trừ
các loài nguy cấp quý hiếm (đối với rừng tự nhiên), và (ii) được phép khai thác cây phụ trợ,
chặt tỉa thưa khi trồng rừng có mật độ lớn hơn mật độ quy định (đối với rừng trồng).
Tuy nhiên cho đến nay, trừ một số dự án rừng cộng đồng đang trong quá trình thí điểm,
37

hầu hết những cộng đồng được giao rừng, kể cả RSX và RPH đều chưa được hưởng lợi. Điều
này làm hạn chế cộng đồng tham gia bảo vệ rừng. Hộp 1 mô tả hạn chế của cộng đồng tiếp
cận với lợi ích từ rừng tại thôn ViChring, xã Hiếu, huyện Konplong tỉnh Kon Tum.
37
Các mô hình rừng cộng đồng với cộng đồng được hưởng lợi đã và đang được thực hiện tại một số địa phương bao
gồm mô hình do Chương trình Việt Đức tài trợ thực hiện tại một số tỉnh vùng Tây Nguyên, các mô hình do Ngân hàng
Thế giới và Ngân hàng Tái thiết Đức tài trợ thực hiện tại các tỉnh duyên hải miền trung. https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
72
Các thông tin trong Hộp 1 và các quy định pháp lý liên quan đến hưởng lợi của cộng đồng
từ các mô hình rừng cộng đồngchỉ ra những rào cản rất lớn cả về quy định và việc thực thi
các quy định tại cấp địa phương. Điều nà y hạn chế sự tham gia thực sự của cộng đồng trong
việc bảo vệ rừng.Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra tiềm năng to lớn của hình thức quản lý rừng
dựa vào cộng đồng trong bảo vệ rừng (UNREDD và Bộ NN&PTNT 2010, Sikor và Tô Xuân Phúc
2014). Theo Bộ NN&PTNT (2014, trang 16) “Quản lý rừng cộng đồng đang trở thành một
trong những phương thức quản lý rừng quan trọng và hiệu quả ở Việt Nam.” Bộ NN&PTNT
cũng nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của GĐGR trong việc đem lại lợi ích từ rừng cho
cộng đồng, cụ thể: “Giao đất giao rừng là điều kiện tiên quyết quan trọng và cần thiết để
cộng đồng địa phương quản lý rừng bền vững, thu được lợi ích từ rừng và tham gia vào quá
trình ra quyết định một cách chủ động. Tuy nhiên, chỉ có quyền vẫn chưa đủ. Việc chuyển
giao quyền hưởng dụng sẽ chỉ đem lại những tác động... mong muốn với điều kiện cộng
đồng... có thể thực hiện các quyền của họ như pháp luật quy định... Sự tham gia [của cộng
đồng] vào công tác quản lý các khu bảo tồn và quá trình ra quyết định về quản trị rừng là các
vấn đề quan trọng.” (Bộ NN&PTNT 2014, trang 17).
Trong khuôn khổ của Dự án Lâm nghiệp Cộng đồng (LNCĐ) do quỹ Trust Fund for Forest tài
trợ, các mô hình thí điểm về LNCĐ đã được tiến hành ở 10 tỉnh, bao gồm 64 cộng đồng trực
tiếp tham gia vào các hoạt động của Dự án. Hiện tại, Dự án đang trong giai đoạn hoàn thành
Dự thảo khung Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách quản lý và sử
dụng rừng cộng đồng. Nội dung chính của Dự thảo bao gồm:
• Ưu tiên giao cho cộng đồng 2 triệu ha RPH và RSX hiện do UBND xã quản lý.
• Cho phép cộng đồng được khai thác gỗ trên cơ sở quản lý rừng bền vững cho nhu cầu
của cộng đồng.
• Xây dựng năng lực cho cộng đồng thông qua các chương trình đào tạo cho nông dân
của Chính phủ.
• Ưu tiên vốn từ các hoạt động chi trả dịch vụ môi trường rừng... các chương trình, dự án
REDD+ và các chương trình, dự án... có liên quan đến rừng cho cộng đồng.
Dự thảo nếu được phê duyệt sẽ có thể tạo ra được những chuyển biến, đem lại lợi ích từ rừng
cho cộng đồng. Giao rừng cho cộng đồng, đặc biệt là những diện tích rừng nằm trong lưu
vực, nơi có các nhà máy thủy điện, nhà máy cấp nước, hoặc những diện tích rừng có tiềm
năng trong việc tiếp cận với nguồn thu từ dịch vụ hấp thụ các bon, các chương trình và dự
án có liên quan đến hỗ trợ cộng đồng sẽ tạo cơ hội hưởng lợi cho cộng đồng từ các nguồn
này. Tuy nhiên, các cơ chế đề ra trong Dự thảo vẫn chưa giải quyết triệt để những khó khăn
hiện cộng đồng đang đối mặt. Cụ thể, mặc dù có thể tiếp cận đối với đất đai của cộng đồng https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
73
tăng lên (ví dụ thông qua việc nhận 2 triệu ha đất rừng hiện UBND xã quản lý), mở rộng tiếp
cận đối với đất đai cho cộng đồng không đồng nghĩa với việc làm gia tăng lợi ích, bởi không
phải toàn bộ 2 triệu ha đều có tiềm năng trong việc tạo ra lợi ích. Bên cạnh đó, các cơ chế
chính sách hiện nay chưa cho phép các cộng đồng được hưởng lợi từ nguồn RPH. Nếu Dự
thảo được Chính phủ phê duyệt, theo đó cộng đồng được phép khai thác gỗ cho nhu cầu sử
dụng của cộng đồng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy quy định nà y hoàn toàn không mới bởi ở
nhiều nơi các hộ đã và đang khai thác gỗ phục vụ cho nhu cầu sử dụng của hộ (ví dụ làm nhà,
làm chuồng trại) mà không gặp phải sự khó khăn nào từ các cơ quan quản lý địa phương.
Nói cách khác, giao đất-rừng cho cộng đồng nếu không có những thay đổi đột phá nhằm
tạo được lợi ích thực tế cho cộng đồng thì cơ chế giao đơn thuần sẽ chỉ là giao trách nhiệm
bảo vệ rừng cho cộng đồng và điều nà y sẽ khó có thể đạt được mục tiêu bảo vệ rừng và cải
thiện sinh kế cho cộng đồng.
GĐGR là tiến trình hiện vẫn đang diễn ra. Thay đổi về bản thân chính sách cũng như cách
thức thực hiện tại cấp địa phương, với ưu tiên dành cho các hộ và cộng đồng lệ thuộc vào
rừng có tiềm năng tạo ra những thay đổi lớn về hình thức quản lý lâm nghiệp hiện tại theo
hướng hiệu quả hơn trong sử dụng đất và bảo vệ rừng, góp phần tạo ra những dịch chuyển
từ lâm nghiệp Nhà nước sang hình thức lâm nghiệp hộ gia đình và cộng đồng.
Phần VIII đưa ra một số kết luận của Báo cáo.https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
74
Kết luận8
Chính sách giao đất giao rừng là một trong những chính sách trọng tâm của ngành lâm
nghiệp trong những thập niên gần đây. Chính sách được thực hiện theo đó các CTLN được
Nhà nước giao đất cùng với các quyền sử dụng đất lâu dài được kỳ vọng sẽ tạo ra sự chủ
động trong sản xuất kinh doanh cho các CTLN, từ đó khuyến khích các công ty nâng cao hiệu
quả sử dụng đất và bảo vệ rừng. Giao đất cho hộ cùng với việc trao cho hộ các quyền sử dụng
đất lâu dài có tiềm năng trong việc khuyến khích các hộ thực hiện đầu tư vào các hoạt động
trên đất nhằm nâng cao lợi ích từ đất, từ đó góp phần cải thiện sinh kế cho hộ, góp phần xóa
đói giảm nghèo.
Thực tế cho thấy rằng chính sách giao đất-rừng lâu dài cho hộ đã phát huy được tính hiệu
quả trong sử dụng đất vào bảo vệ rừng. Nhiều hộ gia đình đã phát huy tính chủ động sau khi
nhận đất, tiến hành thực hiện các hoạt động đầu tư trồng rừng, từ đó góp phần nâng cao
thu nhập cho hộ, góp phần trực tiếp làm tăng độ che phủ rừng. Tuy nhiên, diện tích đất được
giao cho các hộ hiện vẫn còn hạn chế, với trung bình khoảng 2-3 ha/hộ. Bên cạnh đó, nhiều
hộ giao đình vẫn đang ở trong tình trạng thiếu đất sản xuất. Con số gần 300.000 hộ vẫn đang
thiếu đất sản xuất do Ủy ban Dân tộc công bố gần đây được coi là nguyên nhân cơ bản dẫn
đến tỷ lệ đói nghèo ở nhiều địa phương thuộc miền núi.
Tuy nhiên, giao đất-rừng cho các tổ chức của Nhà nước như hiện nay lại chưa phát huy được
hiệu quả trong sử dụng đất vào bảo vệ rừng. Giao đất với diện tích lớn cho các BQL và đặc
biệt cho các CTLN đã dẫn đến tình trạng bao chiếm đất đai. Tình trạng bao chiếm đất đai của
các CTLN là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến quỹ đất hạn chế dành cho các hộ. Điều nà y được
phản ánh rõ trong phiên họp của Ủy ban Dân tộc của Quốc hội tháng 4 năm 2014. Nói cách
khác, việc bao chiếm đất của các CTLN làm mất đi cơ hội tiếp cận với đất đai của hộ, đặc biệt
là các hộ nghèo. Nắm giữ phần diện tích đất lớn nhưng không có khả năng và nguồn lực để
sử dụng đất hiệu quả trong bối cảnh Nhà nước cho phép thực hiện cơ chế khoán, và với việc
phát triển thị trường hàng hóa nông sản, bao gồm thị trường gỗ rừng trồng đã tạo cơ hội cho
một số công ty thực hiện việc ‘phát canh thu tô’ đối với người dân. Câu hỏi quan trọng được
đạt ra ở đây là trong khi việc giao đất cho hộ phát huy được tính hiệu quả trong sử dụng đất,
bảo vệ rừng tại sao Nhà nước không trực tiếp giao đất hiện đang được các CTLN quản lý cho
người dân, thay vì việc cho phép các CTLN thực hiện việc giao khoán cho dân? Cơ chế giao
khoán cho hộ làm tăng chi phí giao dịch, giảm lợi ích sinh ra từ sử dụng đất bởi các hộ phải
chia sẻ một phần lợi ích thu được từ các hoạt động sử dụng đất với các CTLN. Bất bình đẳng https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
75
trong tiếp cận đất đai tạo ra bởi cả cơ chế giao và khoán dẫn đến mâu thuẫn đất đai giữa
CTLN và người dân phổ biến ở một số địa phương.
Trong giai đoạn hội nhập hiện nay, ngành lâm nghiệp đang đứng trước những cơ hội thay
đổi to lớn. Hội nhập có tiềm năng giúp cho ngành lâm nghiệp nâng cao vị thế trên trường
Quốc tế, thông qua sự mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu sản phẩm gỗ và
phi gỗ, từ đó thúc đẩy nghề rừng trong nước. Hội nhập cũng tạo cơ hội cho ngành tham gia
các sáng kiến mới như REDD+, FLEGT từ đó có tiềm năng tạo ra nguồn ngân sách bền vững
phục vụ bảo vệ và phát triển rừng. Tuy nhiên hội nhập cũng đã và đang tạo ra những thách
thức to lớn, đòi hỏi ngành lâm nghiệp cần phải có những thay đổi căn bản về hình thức quản
lý lâm nghiệp hiện nay nói riêng và quản trị rừng nói chung. Đảng và Chính phủ đã và đang
đưa ra những chủ trương lớn nhằm thực hiện đổi mới, tái cơ cấu và nâng cao hiệu quả hoạt
độngcủa ngành, nhằm thay đổi hình thức quản lý lâm nghiệp Nhà nước theo hướng hiệu
quả hơn. “Đổi mới”, “tái cơ cấu” và “nâng cao hiệu quả hoạt động” nên được thực hiện theo
cách tạo ra sự dịch chuyển trong phương thức quản lý, chuyển đổi từ hình thức quản lý lâm
Nhà nước, với ưu tiên dành cho các CTLN, BQL rừng sang hình thức quản lý lấy hộ gia đình và
cộng đồng làm trung tâm.Để thực hiện điều nà y đòi hỏi cần phải có những tư duy và bước đi
mới, đặc biệt trong việc tiếp tục đẩy mạnh phân quyền trong sử dụng và quản lý tài nguyên
rừng cho hộ và cộng đồng, nâng cao tiếp cận đất đai và tài nguyên rừng cho hộ và cộng
đồng. Phân quyền không chỉ dừng ở mức độ ban hành chính sách mà cũng cần phải có các
cơ chế hiệu quả để đảm bảo các chính sách nà y được thực thi một cách hiệu quả và đồng
bộ tại các địa phương. Kèm với đó là các nguồn lực cần thiết như tiếp cận nguồn vốn đầu tư,
hướng dẫn khoa học kỹ thuật, mở rộng tiếp cận thị trường nhằm giúp hộ và cộng đồng sử
dụng đất một cách hiệu quả, tạo động lực quan trọng cho hộ và cộng đồng phát triển và bảo
vệ nguồn tài nguyên rừng. https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
76
Tài liệu tham khảo9
Bộ NN&PTNT. 2007. Đề án giao rừng, cho thuê rừng. 1.
Bộ NN&PTNT và UNREDD. 2010. Design of a REDD compliant benefit distribution system 2.
for Vietnam. Hanoi: A report.
Bộ NN&PTNT. 2014. Báo cáo phát triển Ngành lâm nghiệp năm 2013 trình bà y tại Hội 3.
nghị thường niên Đối tác hỗ trợ ngành lâm nghiệp ngà y 21 tháng 1 năm 2014.
Castella, S. Boissau, Nguyen H. T., P. Novosad. 2006. Impact of forestland allocation on 4.
land use in a mountainous province of Vietnam. Land Use Policy, 26: 147-160.
Clement, F.; J. Amezaga. Afforestation and forestry land allocation in northern Vietnam: 5.
Analysing the gap between policy intentions and outcomes. Land Use Policy 26(2009)
458-470.
T.K.D. Dang, E. Turnhout, and B. Arts. 2012. Changing Forestry Discourses in Vietnam in 6.
the past 20 years. Forest Policy and Economics, 25: 31-41.
Đinh Hữu Hoàng và Đặng Kim Sơn. Giao đất giao rừng ở Việt Nam – Chính sách và thực 7.
tiễn. Hanoi: A Report (không có ngà y xuất bản).
Đối tác hỗ trợ ngành lâm nghiệp. 2014. Báo cáo phát triển ngành lâm nghiệp năm 2013. 8.
Hà Nội: Báo cáo phục vụ Hội nghị thường niên FSSP ngà y 21 tháng 1 năm 2014.
Forest Sector Support Partnership. 2010. Vietnam Forestry Development Strategy: Prog-9.
ress Report 2006-2010. Hanoi: A report.
Gainsborough, M. 2010. Vietnam: Rethinking the State. Zed Books, London and New 10.
York, Silkworm Books, Chiang Mai, Thailand.
Government of Vietnam. 2010. Hanoi: Readiness preparation proposal (R-PP).11.
Hirakuri R. 2007. Vietnam mission on forest law enforcement. Unpublished report.12.
Jorgensen, D. 2006. Development and “the other within”: the culturalism of political 13.
economy of poverty in the northern uplands of Vietnam. Goteborg University. Sweden.
Jakobsen, J, K. Rasmusen, S. Leiz, R. Folving, Nguyen Q.V. 2007. The effects of land tenure 14.
policy on rural livelihoods and food sufficiency in the upland village of Que, North Cen-
tral Vietnam.Agricultural System, 94, 309-319.
Hoang Cam. 2011. Forest Hijackers in Vietnam in Vietnam Upland Transformation, Sikor, 15. https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
77
T., Nghiem P.T., J. Sowerwine và Romm, J. 2011. (eds.) Singapore: NUS Press.
Hoàng Liên Sơn. Đánh giá tác động giao đất lâm nghiệp ở Bắc Trung Bộ. Bài trình bà y 16.
trong hội thảo Giao đất lâm nghiệp – chính sách và thực trạng do Tropenbos Interna-
tional Vietnam và Viện Điều tra Quy hoạch rừng tổ chức tại Hà Nội ngà y 10 tháng 4 năm
2012.
Kerkvliet, B. 2005. The Power of Everyday Politics: How Vietnamese Peasants Transformed 17.
National Policy. Ithaca and London: Cornell University Press.
Lê Trọng Hùng. 2008. Nghiên cứu sự vận động của đất rừng sản xuất sau khi giao tại một 18.
số tỉnh. Bài trích trong Kỷ yếu Diễn đàn Quốc gia về giao đất giao rừng tại Việt Nam, trang
58-66. Tropenbos International Vietnam và Cục Kiểm lâm.
Mayfriodt, P; E. Lambin. 2008. The cause of the reforestation in Vietnam. Land Use Policy 19.
25:182-197.
Meyfroid, P. and E. Lambin. 2008. Forest transition in Vietnam and its environmental im-20.
pacts. Global Change Biology, 14(6) 1319-1336
Meyfroidt, P. and E. Lambin. 2009. Forest transition in Vietnam and displacement of de-21.
forestation abroad. Proceedings of National Academy of Sciences of the United State of
America.www.pnas.org/cgi/doi/10.1073/pnas.0904942106.McElwee, P. 2008. Become a
Socialist or becoming a Kinh in Civilizing the Margins, C. Duncan (ed.). Singapore: NUS
Press, 182-213.
Nguyễn Quang Tân. 2006. Forest devolution in Vietnam: Differentiation in benefits from 22.
forest among local households. Forest Policy and Economics 8: 409-420.
Nguyen Ton Quyen, Tran Huu Nghi. 2011. How Vietnam is prepared to meet legal require-23.
ments of timber export markets. Tropenbos International Vietnam and Vietnam Timber
and Forest Products Association. A report.
Nguyễn Văn Đẳng. 2001. Lâm nghiệp Việt Nam 1945 – 2000: Quá trình phát triển và 24.
những bài học kinh nghiệm. Hà Nội: Nhà Xuất bản Nông nghiệp.
Phạm Hồng Giang. Một số ý kiến trao đổi về công tác giao rừng gắn với đất lâm nghiệp 25.
tại huyện Hàm Yên – tỉnh Tuyên Quang. Bài trình bà y trong hội thảo Giao đất lâm nghiệp
– Chính sách và thực trạng do Tropenbos International Vietnam và Viện Điều tra Quy
hoạch rừng tổ chức tại Hà Nội ngà y 10 tháng 4 năm 2012.
Phạm Thu Thủy, Karen Bennett, Vũ Tấn Phương, Jake Brunner, Lê Ngọc Dũng, Nguyễn 26.
Đình Tiến. 2013. Chi trả dịch vụ môi trường rừng tại Việt Nam: Từ chính sách đến thực https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
78
tiễn. Bogor: CIFOR.
Scott, S. 2000. Changing rules of the game: Local responses to decollectivisation in Thai 27.
Nguyen, Vietnam. Asia Pacific Viewpoint 41: 69-84.
Sikor, T. 1998. Forest policy reforms: from state to household forestry in Stewardship of 28.
the Vietnamese Uplands, M. Pofenberger (eds.). Bekerley and Manila: Asia Pacific Net-
work, 18-37.
Sikor, T. 2001. The allocation of forestry land in Vietnam: Did it cause the expansion of 29.
forests in the northwest? Forest Policy and Economics 2 (2001) 1-11.
Sowerwine, J. 2004. Territorialisation and the politics of highland landscapes in Vietnam: 30.
Negotiating property relations in policy, meaning and practice. Conservation & Society,
2(1): 97-136.
To Xuan Phuc. 2011. Why did the forest conversation policy fail in the Vietnamese up-31.
lands? Forest conflicts in Ba Vi national park in northern region. International Journal of
Environmental Studies, 66(1): 59-68.
Tô Xuân Phúc. 2007. Forest property in the Vietnamese Uplands: An ethnography of for-32.
est relations in three villages. Berlin: LIT Verlag.
Tô Xuân Phúc. 2009. Why did the forest conservation policy fail in the Vietnamese up-33.
lands? Forest conflicts in Ba Vi national park in northern region. International Journal of
Environmental Studies 66: 59-68.
34. To Xuan Phuc. 2013. Legal rights to resources veus forest access in the Vietnamese up-
lands. In State, Society and the Market in Comtemporary Vietnam, Ho Tai H.T, M. Sidel
(eds.) London and New York: Routledge.
To Xuan Phuc. 2011. When the Dai Gia (urban rich) go to the countryside: Impacts of 35.
the urban fuelled rural land markets in the uplands. In The reinvention of distinction:
modernity and the middle class in urban Vietnam Nguyen-Marshall. V., L. Drummond, D.
Belanger (eds). Springer.
To Xuan Phuc, W. Dressler, S. Mahanty, Pham, T.T., C. Zingerli. 2012. The Prospects for Pay-36.
ment for Ecosystem Services (PES) in Vietnam: A Look at Three Payment Schemes. Hu-
man Ecology, 40(2): 237-249
Tô Xuân Phúc, Phan Đình Nhã, Phạm Quang Tú và Đỗ Duy Khôi. 2013. Mâu thuẫn đất đai 37.
giữa công ty lâm nghiệp và người dân địa phương. Hà Nội: Forest Trends và CODE.
Tô Xuân Phúc và Trần Hữu Nghị. 2013. Phát triển cây cao su và bảo vệ rừng ở Việt Nam. 38. https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
79
Báo cáo: Tropenbos International Vietnam và Forest Trends.
Tổng cục Lâm nghiệp. 2013. Bài phát biểu khai mạc Hội thảo chi trả dịch vụ môi trường 39.
rừng ở Việt Nam – Thực tiễn và giải pháp. Hà Nội ngà y 20 tháng 8 năm 2013.
Trần Ngọc Thanh and Sikor, T. 2006. From legal acts to actual powers: Devolution and 40.
property rights in the Central Highlands of Vietnam. Forest Policy and Economics,
8(4):397-408.
Trần Thị Thu Hà. 2012. Giao đất lâm nghiệp có sự tham gia của người dân tại Bắc Kạn – Sự 41.
thành công của dự án 3 PAD. Hội thảo Giao đất lâm nghiệp – Chính sách và thực trạng
do Tropenbos International Viet Nam và Viện Điều tra Quy hoạch rừng tổ chức tại Hà Nội
ngày 10 tháng 4 năm 2012.
Trần Xuân Đạo. 2012. Đánh giá tình hình thực hiện chính sách giao, cho thuê rừng và giao 42.
đất lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh Điện Biên. Assessment report on the implementation of
FLA in Dien Bien. Bài trình bà y trong hội thảo Giao đất lâm nghiệp – Chính sách và thực
trạng do Tropenbos International Viet Nam và Viện Điều tra Quy hoạch rừng tổ chức tại
Hà Nội ngà y 10 tháng 4 năm 2012.
Trung tâm tài nguyên môi trường lâm nghiệp và Viện điều tra quy hoạch rừng. 2012.43.
Một số kết quả giao đất lâm nghiệp tỉnh Bắc Kạn. Bài trình bà y tại Hội thảo Giao đất lâm
nghiệp – Chính sách và thực trạng, do tổ chức Tropenbos International Vietnam và Viện
Điều tra Quy hoạch rừng tổ chức ngà y 10 tháng 4 năm 2012 tại Hà Nội.
UNREDD and MARD. 2010. Design of a REDD-Compliant Benefit Distribution System for 44.
Vietnam. Hà Nội: Báo cáo.
Vũ Long và Đỗ Đình Sâm. 2009. Phân tích những bất cập của các chính sách quản lý rừng 45.
tự nhiên giao cho hộ gia đình, cá nhân vùng miền núi Bắc Bộ. Hà Nội: Báo cáo.
Zingerli, C. 2005. Colliding understandings of biodiversity conservation in Vietnam: glob-46.
al claims, national interests, and local struggles. Society & Natural Resources, 18(8): 733-
747.
Một số văn bản pháp quy tham khảo
Thông báo số 456/TB-VPCP của Văn phòng Chính phủ ngà y 25 tháng 12 năm 2013 về Kết 47.
luận của Thủ thướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng tại cuộc họp Thường trực Chính phủ
về Đề án tăng cường quản lý khai thác gỗ rừng tự nhiên giai đoạn 2013-2020.
Nghị quyết 28-NQ/TW của Bộ Chính trị ngà y 16 tháng 6 năm 2003 về tiếp tục sắp xếp, đổi 48.
mới và phát triển nông, lâm trường Quốc doanh. https://topvpn.vn/

Báo cáo: Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao
80
Nghị định 200/2004/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ ngà y 3 tháng 12 năm 2004 về sắp 49.
xếp đổi mới và phát triển lâm trường quốc doanh.
Báo cáo số 595/BC-TCLN-BCS ngà y 17 tháng 5 năm 2012 của Tổng cục Lâm nghiệp tổng 50.
kết việc thực hiện Nghị quyết 28-NQ/TW của Bộ Chính trị về sắp xếp, đổi mới và phát
triển Lâm trường quốc doanh.
Quyết định 1739 của Bộ NN&PTNT năm 2013.51.
Quyết định số 18/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngà y 5 tháng 2 năm 2007 Phê 52.
duyệt Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020.
Quyết định 380/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngà y 10 tháng 4 năm 2008 về Chính 53.
sách thí điểm chi trả dịch vụ môi trường rừng.
Nghị định 99/2010/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ ngà y 24 tháng 9 năm 2010 về Chính 54.
sách chi trả dịch vụ môi trường rừng.
Quyết định 799/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngà y 27 tháng 6 năm 2012 Phê duyệt 55.
Chương trình hành động Quốc gia về “Giảm phát thải khí nhà kính thông qua nỗ lực hạn
chế mất rừng và suy thoái rừng, quản lý bền vững tài nguyên rừng, bảo tồn và nâng cao
trữ lượng các bon rừng” giai đoạn 2011-2020.
Nghị quyết 30-NQ/TW của Bộ Chính trị ngà y 12 tháng 3 năm 2014 về tiếp tục sắp xếp, đổi 56.
mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp.
Ủy ban Khoa học, Công nghiệp và Môi trường của Quốc hội. Báo cáo 74/BC-UBKHCN-57.
MT13 ngà y 24 tháng 10 năm 2011 thẩm tra việc thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội
về dự án trồng mới 5 triệu ha rừng.
Chính phủ. Báo cáo số 243/BC-CP ngà y 26 tháng 10 năm 2011 về Tổng kết thực hiện Dự 58.
án “Trồng mới 5 triệu ha rừng” và Kế hoạch bảo vệ, phát triển rừng giai đoạn 2011-2020.
Báo cáo số 243/BC-CP của chính phủ ngà y 26 tháng 10 năm 2011 Tổng kết thực hiện Dự 59.
án “Trồng mới 5 triệu ha rừng” và Kế hoạch bảo vệ, phát triển rừng giai đoạn 2011-2020; https://topvpn.vn/