Giải pháp thu hút FDI vào dịch vụ môi trường tại Việt Nam

giaoandientunet 6 views 92 slides Nov 05, 2024
Slide 1
Slide 1 of 92
Slide 1
1
Slide 2
2
Slide 3
3
Slide 4
4
Slide 5
5
Slide 6
6
Slide 7
7
Slide 8
8
Slide 9
9
Slide 10
10
Slide 11
11
Slide 12
12
Slide 13
13
Slide 14
14
Slide 15
15
Slide 16
16
Slide 17
17
Slide 18
18
Slide 19
19
Slide 20
20
Slide 21
21
Slide 22
22
Slide 23
23
Slide 24
24
Slide 25
25
Slide 26
26
Slide 27
27
Slide 28
28
Slide 29
29
Slide 30
30
Slide 31
31
Slide 32
32
Slide 33
33
Slide 34
34
Slide 35
35
Slide 36
36
Slide 37
37
Slide 38
38
Slide 39
39
Slide 40
40
Slide 41
41
Slide 42
42
Slide 43
43
Slide 44
44
Slide 45
45
Slide 46
46
Slide 47
47
Slide 48
48
Slide 49
49
Slide 50
50
Slide 51
51
Slide 52
52
Slide 53
53
Slide 54
54
Slide 55
55
Slide 56
56
Slide 57
57
Slide 58
58
Slide 59
59
Slide 60
60
Slide 61
61
Slide 62
62
Slide 63
63
Slide 64
64
Slide 65
65
Slide 66
66
Slide 67
67
Slide 68
68
Slide 69
69
Slide 70
70
Slide 71
71
Slide 72
72
Slide 73
73
Slide 74
74
Slide 75
75
Slide 76
76
Slide 77
77
Slide 78
78
Slide 79
79
Slide 80
80
Slide 81
81
Slide 82
82
Slide 83
83
Slide 84
84
Slide 85
85
Slide 86
86
Slide 87
87
Slide 88
88
Slide 89
89
Slide 90
90
Slide 91
91
Slide 92
92

About This Presentation

Giải pháp thu hút FDI vào dịch vụ môi trường tại Việt Nam
Hiểu rõ lý luận chung về vốn đầu tư và thu hút vốn đầu tư FDI vào dịch vụ môi trường tại Việt Nam.
Vận dụng những lý thuyết nghiên cứu được để tìm hiểu về thực tr�...


Slide Content

i



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nghiên cứu trong luận văn là trung thực, các số liệu trong luận văn có nguồn gốc rõ
ràng.
Tác giả https://giaoandientu.net/

i



MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN .............................................................. Error! Bookmark not defined.
LỜI CAM ĐOAN ........................................................ Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .......................................................................... i
DANH MỤC BẢNG - BIỂU ĐỒ ............................................................................. ii
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN ........................................... iii
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VỐN ĐẦU TƯ VÀ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ
FDI VÀO CÁC DỊCH VỤ MÔI TRƯỜNG ............................................................6
1.1. Cơ sở lý luận về vốn đầu tư và thu hút vốn đầu tư FDI vào các dịch vụ môi
trường. ........................................................................................................................6
1.1.1. Các khái niệm cơ bản ........................................................................................6
1.1.2. Sự cần thiết khi thu hút vốn đầu tư FDI vào các dịch vụ môi trường .............10
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả thu hút vốn đầu tư FDI vào các dịch vụ
môi trường .................................................................................................................12
1.1.4. Tiêu chí đánh giá hiệu quả thu hút vốn đầu tư FDI vào các dịch vụ môi trường
...................................................................................................................................17
1.2. Cơ sở thực tiễn về thu hút vốn đầu tư nói chung và thu hút vốn đầu tư vào
dịch vụ môi trường nói riêng ..................................................................................23
1.2.1. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư tại một số nước trên thế giới .......................24
1.2.2. Bài học rút ra từ thành công của các nước ....................................................38
1.3. Bài học kinh nghiệm cho quá trình thu hút vốn đầu tư nói chung và thu hút
vốn đầu tư vào dịch vụ môi trường nói riêng tại Việt Nam ................................39
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ FDI VÀO CÁC DỊCH
VỤ MÔI TRƯỜNG TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2012-2016 ..........................45
2.1. Tổng quan về tình hình vốn đầu tư FDI vào các dịch vụ môi trường tại Việt
Nam trong những năm qua ....................................................................................45
2.1.1. Số lượng dự án đầu tư vào các dịch vụ môi trường tại Việt Nam trong những
năm qua .....................................................................................................................45
2.1.2. Quy mô của các dự án đầu tư vào các dịch vụ môi trường tại Việt Nam trong
những năm qua ..........................................................................................................47 https://giaoandientu.net/

ii



2.2. Thực trạng thu hút vốn đầu tư FDI vào các dịch vụ môi trường tại Việt Nam
giai đoạn 2012 – 2016 ..............................................................................................51
2.2.1. Thực trạng hoạch định kế hoạch, chiến lược thu hút vốn đầu tư FDI vào các
dịch vụ môi trường tại Việt Nam giai đoạn 2012 – 2016..........................................51
2.2.2. Thực trạng nguồn nhân lực thực hiện thu hút vốn đầu tư FDI vào các dịch vụ
môi trường tại Việt Nam giai đoạn 2012 – 2016 ......................................................54
2.2.3. Thực trạng đánh giá kết quả thực hiện quá trình thu hút vốn đầu tư FDI vào
các dịch vụ môi trường tại Việt Nam giai đoạn 2012 – 2016 ...................................57
2.3. Đánh giá chung về thực trạng thu hút vốn đầu tư FDI vào các dịch vụ môi
trường tại Việt Nam giai đoạn 2012 – 2016 ..........................................................58
2.3.1. Nguyên nhân thành công .................................................................................63
2.3.2. Nguyên nhân hạn chế. .....................................................................................65
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT VỐN
ĐẦU TƯ FDI VÀO CÁC DỊCH VỤ MÔI TRƯỜNG TẠI VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN TỚI (ĐẾN NĂM 2020) ...............................................................................69
3.1. Quan điểm, định hướng và mục tiêu phát triển ngành môi trường Việt Nam
đến năm 2020 ...........................................................................................................69
3.1.1. Quan điểm chỉ đạo ..........................................................................................69
3.1.2. Mục tiêu đến năm 2020 ...................................................................................70
3.1.3. Định hướng phát triển ngành công nghiệp môi trường đến năm 2020 ..........70
3.2. Giải pháp tăng cường thu vút vốn đầu tư FDI vào các dịch vụ môi trường
tại Việt Nam giai đoạn tới (đến năm 2020) ...........................................................71
3.2.1. Giải pháp chính ...............................................................................................71
3.2.2. Các giải pháp hỗ trợ .......................................................................................76
3.3. Một số kiến nghị ...............................................................................................78
3.3.1. Đối với nhà nước .............................................................................................78
3.3.2. Đối với các cơ quan hữu quan ........................................................................79
KẾT LUẬN ..............................................................................................................82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................83 https://giaoandientu.net/

i



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Stt Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
1 FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
2 WTO Tổ chức thương mại thế giới
3 UNCTAD Diễn đàn Thương mại và Phát triển của Liên hiệp quốc
4 OECD Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
5 NSNN Ngân sách nhà nước
6 ODA Hỗ trợ phát triển chính thức
7 CNMT Công nghệ môi trường
8 BVMT Bảo vệ môi trường
9 AFTA Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN
10 SX Sản xuất
11 KCN Khu công nghiệp
12 KKT Khu kinh tế
13 IESF Quỹ Hỗ trợ sáng kiến vì sự bền vững về môi trường
14 BOI Ủy ban xúc tiến luật đầu tư

https://giaoandientu.net/

ii



DANH MỤC BẢNG - BIỂU ĐỒ
BẢNG
Bảng 1.1: Tóm tắt các cam kết mở cửa thị trường dịch vụ môi trường củaThái Lan
đối với các nước thành viên WTO ............................................................................30
Bảng 1.2: phí và thời hạn của các loại thị thực của Thái Lan ...................................31
Bảng 2.1: Thực trạng số lượng dự án đầu tư nước ngoài ..........................................46
Bảng 2.2. Tỷ trọng vốn FDI của DVMT trong tổng vốn FDI của toàn xã hội .........59

BIỂU
Biểu đồ 2.1: Quy mô các dự án đầu tư vào dịch vụ môi trường tại Việt Nam 2012-
1016 ...........................................................................................................................49
Biểu đồ 2.2. Quy mô đầu tư theo đối tác ..................................................................50

https://giaoandientu.net/

iii



TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng được mở rộng thì việc mở cửa
thị trường ngành dịch vụ môi trường (DMVT) trở thành một trong những nội dung
quan trọng trong các đàm phán thương mại song phương và đa phương, cũng như các
khuôn khổ hợp tác quốc tế.
Hiện trạng DVMT của Việt Nam được nhận định còn rất sơ khai, chỉ mới định
hình rõ và phát triển ở lĩnh vực chất thải và nước thải với tham gia của các doanh
nghiệp Nhà nước. Về năng lực cung ứng dịch vụ: Hiện nay các doanh nghiệp DVMT
của Việt Nam hoạt động tập trung chủ yếu vào lĩnh vực nước thải và rác thải. Mặc dù
có sự gia tăng đáng kể về số lượng và quy mô các tổ chức DVMT nhưng về cơ bản
mới chỉ xử lý được một phần rất nhỏ chủ yếu là hoạt động thu gom và xử lý sơ bộ so
với nhu cầu của ngành, nhiều dịch vụ đòi hỏi công nghệ cao như xử lý khí thải… thì
các doanh nghiệp DVMT hầu như chưa đáp ứng được. Cho đến nay, năng lực ngành
DVMT mới đáp ứng được 2-3% nhu cầu xử lý nước thải đô thị, 15% nhu cầu xử lý
chất thải rắn, khoảng 14% nhu cầu xử lý chất thải nguy hại; nhiều lĩnh vực như tái
chế dầu thải, nhựa phế liệu, chất thải điện, điện tử chưa phát triển.
Trong quá trình phát triển, đặc biệt cần đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động bảo vệ
môi trường, bao gồm từ nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, chế tạo thiết bị đến cung
cấp các dịch vụ bảo vệ môi trường, quản lý và sử dụng tài nguyên. Đặc biệt cần
khuyến khích, hỗ trợ công tác nghiên cứu khoa học, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong
hoạt động nghiên cứu khoa học, công nghệ phục vụ bảo vệ môi trường. https://giaoandientu.net/

1



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đối với những nước đang phát triển và tích lũy vốn nội bộ trong nền kinh tế
còn thấp như Việt Nam thì cần phải thu hút vốn từ bên ngoài cho đầu tư phát triển,
trong đó việc thu hút vốn FDI là một tất yếu khách quan. Đây được coi là “cú huých”
nhằm giúp đất nước thoát khỏi “cái vòng luẩn quẩn” về kinh tế. Thực tế cho thấy,
thời gian vừa qua vốn FDI đã và đang là một kênh bổ sung vốn rất quan trọng cho
nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển và tăng trưởng kinh tế. Những thành
tựu đạt được trong việc thu hút nguồn vốn FDI thời gian qua đã tạo cho đất nước
nhiều ngành công nghiệp mới và tăng cường năng lực cho các ngành công nghiệp
như dầu khí, hóa chất, lắp ráp ô tô, công nghệ thông tin…Bên cạnh đó, nguồn vốn
FDI cũng góp phần hình thành và phát triển hệ thống các khu công nghiệp, khu chế
xuất và đặc biệt gần đây là khu công nghệ cao.
Thực hiện chính sách đổi mới và mở cửa, Việt Nam đã đạt được nhiều thành
tựu quan trọng trong phát triển kinh tế và an sinh xã hội. Đời sống của nhân dân liên
tục được cải thiện. Tuy nhiên, bên cạnh các thành công thì Việt Nam cũng đang đối
mặt với nhiều vấn đề bức xúc, đặc biệt là sự xuống cấp của chất lượng môi trường.
Ô nhiễm môi trường, suy thoái tài nguyên đang diễn ra gay gắt với mức độ phức tạp
ngày càng gia tăng, làm thiệt hại lớn về kinh tế và gây ra nhiều hệ quả nghiêm trọng
khác. Trong bối cảnh đó, nhu cầu về xử lý chất thải và cải thiện môi trường ngày
càng cao, đòi hỏi cần có những bước phát triển mới trong lĩnh vực dịch vụ môi
trường (DVMT). Thực tế cho thấy, năng lực cung ứng DVMT và chất lượng DVMT
còn thấp, khu vực tư nhân tham gia chưa nhiều, chỉ mới phát triển ở các thành phố
lớn. Trước đây, các hoạt động làm sạch, khôi phục môi trường và bảo vệ tài nguyên
được xem là những dịch vụ công, do các chính phủ cung cấp. Nhưng hiện nay, do
gánh nặng đối với ngân sách ngày càng lớn, cộng với một thực tế là các doanh nghiệp
nhà nước hoạt động không hiệu quả, các chính phủ đã tìm cách xã hội hoá lĩnh vực
dịch vụ môi trường và tạo ra các cơ chế khuyến khích tư nhân cũng như doanh
nghiệp nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực này.
Xuất phát từ thực tiễn quan trọng đó, đề tài “ Giải pháp thu hút FDI vào dịch
vụ môi trường tại Việt Nam” được thực hiện, giúp ta có một công trình nghiên cứu https://giaoandientu.net/

2



sâu và toàn diện về thực trạng thu hút và sử dụng FDI, cũng như hệ thống chính sách
FDI của Việt Nam đối với dịch vụ môi trường trong thời gian vừa qua. Đồng thời
xác định mức độ thu hút FDI phù hợp để tối ưu hóa lợi ích thu được từ nguồn vốn
này.
2. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài này là nhằm:
Hiểu rõ lý luận chung về vốn đầu tư và thu hút vốn đầu tư FDI vào dịch vụ môi
trường tại Việt Nam.
Vận dụng những lý thuyết nghiên cứu được để tìm hiểu về thực trạng thu hút
vốn đầu tư vào các dịch vụ môi trường tại Việt Nam.
Rút ra những hạn chế còn tồn tại trong công tác thu hút vốn đầu tư FDI vào
các dịch vụ môi trường của Việt Nam.
Trên cơ sở phân tích, đề xuất các giải pháp và kiến nghị để tăng cường thu hút
vốn đầu tư FDI vào các dịch vụ môi trường tại Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
- Thu hút FDI vào dịch vụ môi trường tại Việt Nam
* Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung: Giải pháp thu hút FDI vào các dịch vụ môi trường tại Việt Nam.
- Phạm vi không gian: Dịch vụ môi trường tại Việt Nam
- Phạm vi thời gian: Khoảng thời gian nghiên cứu từ năm 2012 đến năm 2016.
Dữ liệu được tập hợp từ Tổng Cục Thống Kê Việt Nam, Cục Đầu tư nước
ngoài (Bộ Kế hoạch và đầu tư), Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam, Bộ
Tài nguyên và Môi trường.
4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học của kinh tế chính trị Mác -
Lênin để nghiên cứu những dấu hiệu, thuộc tính đặc trưng của các hoạt động dịch
vụ môi trường để đi đến quan niệm khoa học về dịch vụ môi trường, đặc điểm và
phân ngành hoạt động dịch vụ môi trường. https://giaoandientu.net/

3



Sử dụng phương pháp thu thập thông tin, tài liệu liên quan về hoạt động đầu
tư vào dịch vụ môi trường của các doanh nghiệp.
Sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh trên cơ sở thông
tin đã có để đánh giá thực trạng đầu tư vào dịch vụ môi trường tại Việt Nam.
Sử dụng các phương pháp kết hợp lôgíc và lịch sử, phân tích, để xác định quan
điểm, giải pháp phát thu hút đầu tư vào hoạt động dịch vụ môi trường thời gian tới.
5. Tổng quan các công trình nghiên cứu
Để bảo vệ môi trường, ngày nay quan điểm phát triển kinh tế môi trường,
trong đó có dịch vụ môi trường với vai trò của một ngành kinh tế trong nền kinh tế
quốc dân được các quốc gia nhìn nhận, đánh giá một cách đúng đắn hơn. Từ thực
tiễn đó đã có nhiều công trình nghiên cứu về dịch vụ môi trường.
Dự án:“Điều tra đánh giá thực trạng phát triển dịch vụ môi trường ở Việt
Nam. Đề xuất chính sách phát triển dịch vụ môi trường phù hợp với các cam kết
quốc tế trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế” của Viện nghiên cứu Thương mại,
Bộ Công thương . Dự án đã hệ thống các quan niệm và cách phân loại khác nhau về
dịch vụ môi trường trên thế giới; nghiên cứu kinh nghiệm phát triển dịch vụ môi
trường và thực hiện các cam kết mở cửa thị trường dịch vụ môi trường của một số
nước trên thế giới (Liên minh châu Âu, Trung Quốc, Thái Lan) và rút ra bài học đối
với Việt Nam; khảo sát, đánh giá thực trạng hoạt động dịch vụ môi trường của Việt
Nam và mức độ đáp ứng yêu cầu thực hiện các cam kết quốc tế và đề xuất các giải
pháp phát triển hoạt động dịch vụ môi trường.
Công trình nghiên cứu: Ngành hàng hóa và dịch vụ môi trường toàn cầu.
Công trình đề cập thực trạng, giải pháp phát triển ngành hành hóa và dịch vụ môi
trường trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế.
Cuốn sách: Chính sách quản lý tài nguyên và môi trường. Trong cuốn sách
này, tác giả đã đề cập nhiều nội dung liên quan đến đề tài luận án, như: Sự cần thiết
của công cụ chính sách trong quản lý tài nguyên và môi trường; một số hình thức
dịch vụ bảo vệ hệ sinh thái môi trường; nghiên cứu quy định về tiêu chuẩn môi
trường, giảm ô nhiễm; cấp phép phát thải ô nhiễm; thuế, lệ phí, quỹ và trợ cấp cho https://giaoandientu.net/

4



môi trường; hiệp ước quốc tế về môi trường; chính sách quốc gia và hoạch định
chính sách quốc gia về môi trường v.v..
Đề án: “Dự án xây dựng chiến lược phát triển dịch vụ môi trường đến năm
2030”, của Bộ Tài nguyên và Môi trường . Đề án đã xác định quan điểm, mục tiêu,
nhiệm vụ và giải pháp phát triển các hoạt động dịch vụ môi trường.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn đã phân tích
quan niệm, phân ngành và vai trò dịch vụ môi trường.
Về quan niệm dịch vụ môi trường: Qua các công trình nghiên cứu cho thấy hiện
nay trên thế giới chưa có một định nghĩa thống nhất. Các khái niệm về dịch vụ môi
trường được hình thành từ thực tiễn hoạt động kinh doanh cũng như bảo vệ môi trường
của các tổ chức và mỗi quốc gia. Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) định
nghĩa về dịch vụ môi trường như sau: “Dịch vụ môi trường là những dịch vụ được cung
cấp nhằm quản lý, phòng ngừa, hạn chế, giảm thiểu hoặc khắc phục những thiệt hại về
môi trường nước, không khí, đất, cũng như giải quyết những vấn đề liên quan đến chất
thải, tiếng ồn và hệ sinh thái”.
Về phân ngành dịch vụ môi trường: Qua các công trình nghiên cứu cho thấy, do
còn tồn tại những quan niệm khác nhau về dịch vụ môi trường nên hiện nay trên thế
giới cũng tồn tại những cách phân ngành khác nhau về dịch vụ môi trường, trong đó
nổi lên là cách phân ngành của WTO (GATS), OECD và EU.
- Phân ngành của WTO (GATS): phân loại dịch vụ môi trường bao gồm 4 phân
ngành
Mặc dù liên quan đến đề tài của luận văn đã có nhiều công trình nghiên cứu;
nhiều kết quả nghiên cứu của các công trình này sẽ được kế thừa trong thực hiện đề
tài luận văn, song đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện, hệ thống về
giải pháp thu hút vốn đầu tư FDI vào các dịch vụ môi trường tại Việt Nam.
6.Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kết cấu của luận văn được bố cục làm 3 chương.
Chương 1. Tổng quan về vốn đâu tư và thu hút vốn đầu tư FDI vào các dịch vụ môi
trường tại Việt Nam. https://giaoandientu.net/

5



Chương 2. Thực trạng thu hút vốn đầu tư FDI vào các dịch vụ môi trường tại Việt
Nam từ năm 2012 đến năm 2016.
Chương 3. Định hướng và giải pháp thu hút vốn đầu tư FDI vào các dịch vụ môi
trường tại Việt Nam giai đoạn tới (tính đến năm 2020). https://giaoandientu.net/

6


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ VỐN ĐẦU TƯ VÀ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ FDI VÀO
CÁC DỊCH VỤ MÔI TRƯỜNG
1.1. Cơ sở lý luận về vốn đầu tư và thu hút vốn đầu tư FDI vào các dịch vụ
môi trường.
1.1.1. Các khái niệm cơ bản
a)Đầu tư
Đầu tư là một trong những nhân tố chủ yếu quyết định đến sự phát triển của nền
kinh tế quốc dân. Đầu tư là việc sử dụng các nguồn lực hiện tại nhằm biến các lợi ích
dự kiến thành hiện thực trong tương lai. Tuy nhiên, trong phạm vi xem xét khác nhau,
khái niệm về đầu tư cũng có những điểm khác nhau.
Theo Luật đầu tư năm 2005 của Việt Nam thì “đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn
bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt
động đầu tư theo quy định của luật đầu tư và các quy định khác của pháp luật có liên
quan”. Theo khái niệm này, đã là đầu tư thì phải bỏ vốn, chính là các tài sản hữu hình
và vô hình để tiến hành các hoạt động đầu tư được pháp luật cho phép, như vậy tất cả
các nhà đầu tư đều được tham gia đầu tư vào tất các lĩnh vực trong nền kinh tế mà
không vi phạm các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, quan niệm này lại chưa phản
ánh được mục tiêu của các nhà đầu tư là phải sinh lợi.
Cũng có quan điểm cho rằng đầu tư là “việc sử dụng các nguồn lực hiện tại
nhằm biến các lợi ích dự kiến thành hiện thực trong tương lai", với quan niệm này
đã nhấn mạnh đến mục đích của đầu tư là thu được lợi ích trong tương lai nhưng lại
chưa phản ánh chủ thể mong muốn thu được lợi ích trong tương lai. Xét trên góc độ
kinh tế, đầu tư là hy sinh tiêu dùng hiện tại để hy vọng có được thu nhập cao hơn
trong tương lai. Đối với từng chủ thể trong nền kinh tế, đó là tạo ra hoặc tăng thêm
lợi ích, những giá trị riêng biệt cho các chủ thể. Đối với toàn bộ nền kinh tế, chính là
tạo ra hoặc gia tăng giá trị tổng thể cho toàn xã hội. Đầu tư là phải ứng ra một lượng
vốn nhất định và được sử dụng trong tương lai, do đó đầu tư luôn gắn với rủi ro.
Với phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả xin đưa ra quan điểm về đầu tư
như như sau: Đầu tư là quá trình ứng ra một lượng vốn nhất định (bằng tiền mặt, tài https://giaoandientu.net/

7


sản) ở hiện tại với mục đích là làm tăng thêm giá trị trong tương lai cho chủ thể bỏ
vốn.
b).Vốn đầu tư
Vốn đầu tư là giá trị bằng tiền của các nguồn lực được huy động và sử dụng vào
thực hiện đầu tư qua đó hình thành vốn sản xuất của nền kinh tế. Hay nói cách khác
vốn đầu tư là toàn bộ các chi phí bỏ ra để thực hiện mục đích đầu tư.
c).Dịch vụ môi trường
Trong xu thế phát triển chung của nền kinh tế thế giới, các hoạt động sản xuất
kinh doanh, sinh hoạt của con người ngày càng sử dụng nhiều nguồn tài nguyên thiên
nhiên và thải ra môi trường các chất thải với khối lượng ngày càng lớn đã làm gia
tăng nhu cầu xử lý ô nhiễm môi trường, nên dịch vụ môi trường đã trở thành một
phân ngành trong khu vực kinh tế dịch vụ ở nhiều nhiều quốc gia. Đồng thời, thuật
ngữ "dịch vụ môi trường" (environmental service) cũng đã xuất hiện trong hệ thống
phân ngành kinh tế của nhiều tổ chức quốc tế, như Liên Hợp quốc, Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO) v.v..
Mặc dù dịch vụ môi trường đã trở thành một ngành kinh tế ở nhiều quốc gia và
trong thương mại dịch vụ quốc tế, song hiện nay trên thế giới chưa có một định nghĩa
thống nhất về dịch vụ môi trường. Các khái niệm về dịch vụ môi trường được hình
thành từ thực tiễn hoạt động dịch vụ môi trường của các tổ chức và mỗi quốc gia.
Trong phần nghiên cứu tổng quan của luận văn đã đề cập một số quan niệm về
dịch vụ môi trường trên thế giới. Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) định
nghĩa về dịch vụ môi trường như sau: Dịch vụ môi trường là những dịch vụ được
cung cấp nhằm quản lý, phòng ngừa, hạn chế, giảm thiểu hoặc khắc phục những thiệt
hại về môi trường nước, không khí, đất, cũng như giải quyết những vấn đề liên quan
đến chất thải, tiếng ồn và hệ sinh thái. [9, tr.32.]
Diễn đàn Thương mại và Phát triển của Liên hợp quốc (UNCTAD) quan niệm
dịch vụ môi trường bao hàm 4 nhóm chính: Dịch vụ hạ tầng môi trường (cốt lõi), gồm
quản lý nước và quản lý chất thải; các dịch vụ như thiết kế, xây dựng, lắp đặt, vận
hành; Phục hồi gồm làm sạch địa điểm, phản ứng khẩn cấp đối với các sự cố, phục https://giaoandientu.net/

8


hồi, đánh giá; dịch vụ hỗ trợ môi trường gồm phân tích, luật pháp, tham vấn, kiểm
toán, nghiên cứu và phát triển.
Cách định nghĩa và phân loại DVMT theo Hiệp định chung về thương mại
và dịch vụ ( GATS).
DVMT trong WTO và đàm phán gia nhập của Việt Nam: Nhiều khái niệm khác
nhau về DVMT, tuy nhiên, xuất phát từ quan điểm tự do hóa thương mại thì khái
niệm của WTO được coi là đơn giản hơn cả, theo đó, DVMT gồm các loại hình dịch
vụ có thể mang lại lợi ích môi trường. Một điều đặc biệt là do chưa có một định nghĩa
thống nhất về DVMT nên khi đàm phán WTO không bắt buộc tuân theo một danh
mục nào. Các nước có thể tự do sử dụng hoặc xây dựng cho mình một danh mục riêng
để phục vụ cho mục đích đàm phán và cam kết thương mại. Quá trình đàm phán vẫn
đang tiếp diễn kể từ sau Hội nghị Bộ trưởng WTO tại Doha năm 2001. DVMT, hiện
nay được phân loại theo 2 quan điểm:
Phân loại của WTO (GATS): Dựa trên quan điểm tự do hóa thương mại, các
DVMT trong GATS, bao gồm 4 phân ngành:
- Các dịch vụ về nước thải (CPC 9401);
- Các dịch vụ về rác thải (CPC 9402) hay còn được gọi là dịch vụ chất thải rắn.
- Dịch vụ vệ sinh và các dịch vụ tương tự (CPC 9403).
- Các DVMT khác (CPC 9404), gồm: làm sạch không khí bị ô nhiễm, hạn chế
tiếng ồn, bảo vệ thiên nhiên và cảnh quan môi trường.
Cách phân loại này hạn chế, tập trung nhiều hơn vào những dịch vụ liên quan
tới việc xử lý các hậu quả về môi trường (cách tiếp cận cuối đường ống); chỉ bao gồm
các loại hình dịch vụ được cung cấp trong quá trình hoạt động của các trang thiết bị,
máy móc, nhà xưởng và cũng chỉ quan tâm dịch vụ cung cấp cho cộng đồng. Cách
phân loại của OECD và EU: Dựa trên quan điểm lợi ích môi trường, đàm phán về
DVMT sẽ dựa trên danh mục mới gồm 7 phân ngành: nước sinh hoạt và quản lý nước
thải; quản lý chất thải rắn và chất thải nguy hại; bảo vệ khí quyển và khí hậu; khôi
phục và làm sạch đất, nước; giảm độ rung và tiếng ồn; bảo vệ đa dạng sinh học và
cảnh quan môi trường; các dịch vụ hỗ trợ và DVMT khác. https://giaoandientu.net/

9


Với cách phân loại này, trước hết, DVMT được đặt trong ngành công nghiệp
môi trường có tính linh hoạt và gắn kết cao (các hoạt động liên quan tới quản lý ô
nhiễm, xây dựng và lắp đặt trang thiết bị nhằm phục vụ cho mục đích trên bao gồm
cả việc vận hành các công nghệ và sản phẩm sạch hơn); Hai là, các công nghệ và sản
phẩm nhằm làm giảm rủi ro và giảm thiểu sự ô nhiễm lãng phí các nguồn lực; Ba là,
DVMT được xác định là những dịch vụ được cung cấp để xác định, ngăn chặn, hạn
chế, giảm thiểu hoặc khắc phục những thiệt hại môi trường xảy ra đối với đất, nước,
không khí, cũng như những vấn đề liên quan tới chất thải, tiếng ồn và hệ sinh thái...
BVMT và phát triển bền vững đã trở thành quan điểm của Đảng, đường lối
chính sách của Nhà nước và được khẳng định: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền
vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và BVMT”
(Nghị quyết ĐH Đảng toàn quốc lần thứ IX). Phát triển kinh tế, xã hội gắn chặt với
bảo vệ, cải thiện môi trường, đảm bảo sự hài hòa giữa môi trường nhân tạo với môi
trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học, với nguyên tắc “kết hợp chặt chẽ giữa
phát triển kinh tế, phát triển xã hội và BVMT với bảo đảm quốc phòng, an ninh và
trật tự an toàn xã hội” (Chương trình nghị sự 21), thể hiện rõ môi trường là một trong
3 trụ cột chính (Kinh tế - Xã hội - Môi trường) của phát triển bền vững và có mối
quan hệ hữu cơ.
Cam kết của Việt Nam liên quan đến tài nguyên và môi trường trong WTO:
Theo các nguyên tắc của Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS), cam kết
liên quan đến tài nguyên và môi trường của Việt Nam, bao gồm: Một cam kết đa
phương “tất cả các văn bản, nếu được chỉnh sửa hoặc bổ sung, phải tuân theo các quy
định của WTO”, hành động thực hiện của ta là“Phát triển kinh tế thị trường - thị
trường đất đai và bất động sản” (một trong 10 chủ trương, chính sách lớn của Chương
trình hành động của Chính phủ); và cam kết mở cửa thị trường dịch vụ, gồm 11 ngành,
trong đó, DVMT gồm 5 nhóm (xử lý rác thải, xử lý nước thải, làm sạch khí thải, xử
lý tiếng ồn và đánh giá tác động môi trường), cụ thể:
Phạm vi mở cửa thị trường, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được cung cấp
các dịch vụ: xử lý nước thải - CPC 9401 (thu gom, xử lý, tẩy rửa cống rãnh, các ống
nước thải, bể phốt...); xử lý rác thải - CPC 9402 (thu gom và xử lý chất thải, dịch vụ https://giaoandientu.net/

10


chuyên chở và xử lý chất thải...); Làm sạch khí thải - CPC 94040 (quan trắc, kiểm
soát việc thải các chất bẩn và giảm thiểu các chất gây ô nhiễm không khí); xử lý tiếng
ồn - CPC 94050 (quan trắc, kiểm tra và làm giảm tiếng ồn); đánh giá tác động của
môi trường - CPC 94090 (các hoạt động thu thập dữ liệu, phân tích, dự báo các tác
động môi trường của một dự án cụ thể). Ta cho phép bên nước ngoài thành lập liên
doanh với các đối tác Việt Nam được cấp phép trong các lĩnh vực dịch vụ nước thải,
xử lý rác thải, xử lý tiếng ồn, làm sạch khí thải và đánh giá tác động của môi trường…
kể từ khi gia nhập với phần vốn góp tối đa là 49% hoặc 50%, và doanh nghiệp 100%
vốn nước ngoài và chỉ được phép thành lập trong khoảng 4, 5 năm sau khi gia nhập.
Mặc dù trên thế giới chưa thống nhất trong quan niệm về dịch vụ môi trường,
song có thể thấy những điểm chung của các quan niệm là: Dịch vụ môi trường thuộc
khu vực kinh tế dịch vụ, nên có đầy đủ đặc điểm của ngành kinh tế dịch vụ; ngoài ra,
dịch vụ môi trường có những đặc điểm riêng, gắn liền với việc bảo vệ, tái tạo, bảo
đảm môi trường cho phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.2. Sự cần thiết khi thu hút vốn đầu tư FDI vào các dịch vụ môi trường
Hiện nay dịch vụ môi trường ngày càng đóng vai trò quan trọng trong lĩnh vực
kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường hướng tới xu thế chung là phát triển bền
vững của các quốc gia. Dịch vụ môi trường góp phần ngăn ngừa và giảm thiểu ô
nhiễm môi trường, tạo ra môi trường xanh, sạch cho xã hội, nâng cao chất lượng cuộc
sống của con người.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng được mở rộng thì việc mở cửa thị
trường ngành dịch vụ môi trường (DMVT) trở thành một trong những nội dung quan
trọng trong các đàm phán thương mại song phương và đa phương, cũng như các
khuôn khổ hợp tác quốc tế. Đây được xem là một ngành kinh tế mới không chỉ đóng
góp cho tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm, mà quan trọng hơn là đóng góp vào cung
cấp hàng hóa và dịch vụ giải quyết các vấn đề ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu
và suy giảm tài nguyên. Trong khi các doanh nghiệp đang gặp phải những thách thức
trong việc đáp ứng các yêu cầu về môi trường trong xuất khẩu sang các thị trường https://giaoandientu.net/

11


của các nước phát triển thì việc mở cửa thị trường DVMT sẽ tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp thực hiện các yêu cầu này với chi phí thấp hơn.
Đối với Việt Nam, dịch vụ môi trường đang ngày càng trở thành một nhu cầu
hết sức bức thiết. Bởi lẽ, nước ta đang phải đối mặt với nguy cơ ô nhiễm môi trường
do quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Đồng thời, thu nhập của người dân ngày
càng được nâng cao, do đó, nhu cầu về chất lượng cuộc sống thân thiện với môi
trường cũng ngày càng cao. Mặt khác, nhu cầu bảo đảm dịch vụ môi trường cho các
doanh nghiệp cũng ngày càng tăng do yêu cầu về hàng hoá và dịch vụ thân thiện với
môi trường. Bên cạnh đó, Việt Nam đang phải cam kết thực hiện ngày càng nhiều
hơn các hiệp định quốc tế về môi trường, đặc biệt là các cam kết về dịch vụ môi
trường sau khi nước ta chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO). Ngoài ra, với quá trình tự do hoá thương mại và sự phát triển nhanh của
các hoạt động công nghiệp, mức chi ngân sách cho các dịch vụ công về bảo vệ môi
trường ngày càng tăng, tạo ra gánh nặng lớn cho ngân sách nhà nước. Do đó, cần phải
đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ môi trường. Nhận thức sâu sắc vấn đề này, Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 249/QĐ-TTg, ngày 10/2/2011 về việc
phê duyệt "Đề án phát triển dịch vụ môi trường đến năm 2020", với mục tiêu phát
triển dịch vụ môi trường nhằm cung ứng dịch vụ bảo vệ môi trường cho các ngành,
lĩnh vực, địa phương; tăng tỷ trọng đóng góp của khu vực dịch vụ trong nền kinh tế,
tạo thêm việc làm và hướng tới mục tiêu phát triển bền vững đất nước.
Để đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ môi trường, huy động tối đa sự tham gia
của xã hội vào công tác bảo vệ môi trường, Nghị quyết 41-NQ/TW, ngày 15/11/2004
của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa IX) đề ra chủ trương đẩy
mạnh xã hội hóa, khuyến khích cá nhân, tổ chức và mọi thành phần kinh tế tham gia
các hoạt động dịch vụ thu gom, vận chuyển, tái chế, xử lý chất thải và các dịch vụ
khác về bảo vệ môi trường. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng xác định một trong
những nội dung trọng tâm trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 - 2020 là:
"Đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường, phát triển các dịch vụ môi trường,
xử lý chất thải" . Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7,
khóa XI, về "Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên https://giaoandientu.net/

12


và bảo vệ môi trường" (số 24-NQ/TW) cũng xác định: "Phát triển ngành kinh tế môi
trường trên cơ sở ngành công nghiệp môi trường, dịch vụ bảo vệ môi trường và tái
chế chất thải".
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả thu hút vốn đầu tư FDI vào các
dịch vụ môi trường
a).Sự ổn định của môi trường chính trị
Ổn định môi trường kinh tế vĩ mô như ổn định về kinh tế, chính trị, xã hội là
điều kiện hết sức quan trọng để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư
nước ngoài sẽ rất hạn chế khi tham gia đầu tư vào những nước có môi trường kinh tế
vĩ mô kém ổn định vì khi đầu tư vào những nơi này sẽ tạo ra những rủi ro kinh doanh
mà các nhà đầu tư không thể lường trước được.
Khi có sự bất ổn về môi trường kinh tế vĩ mô, rủi ro tăng cao thì các dòng vốn
FDI trên thế giới sẽ chững lại và vốn đầu tư sẽ di chuyển đến những nơi an toàn và
có mức sinh lời cao hơn, ngay cả khi đã đầu tư rồi mà có sự bất ổn nhất là bất ổn về
chính trị thì các nhà đầu tư nước ngoài sẽ tìm mọi cách để rút lui vốn.
Vì vậy, môi trường kinh tế vĩ mô có tác động trực tiếp tạo điều kiện hoặc cản
trở việc thu hút vốn của các nhà đầu tư nước ngoài và muốn thu hút được vốn từ các
nhà đầu tư nước ngoài thì các nước phải ổn định được môi trường kinh tế vĩ mô trước.
b).Hệ thống pháp luật và các chính sách kinh tế liên quan đến dịch vụ môi trường
Hệ thống pháp luật của nước sở tại bao gồm các luật liên quan đến hoạt động
đầu tư như Luật đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Bảo vệ môi trường… và các văn
bản hướng dẫn luật, các quy định về hoạt động đầu tư đối với người nước ngoài, các
văn bản về quản lý Nhà nước trong hoạt động đầu tư…Đây chính là hành lang pháp
lý đảm bảo sự an tâm cho các nhà đầu tư nước ngoài. Hệ thống pháp luật được xây
dựng theo hướng thông thoáng, đầy đủ chặt chẽ là cơ sở tạo môi trường đầu tư thuận
lợi. Hoạt động FDI liên quan đến nhiều chủ thể tham gia và có yếu tố nước ngoài vì
vậy các văn bản ngoài yếu tố đồng bộ, chặt chẽ, tránh chồng chéo gây khó hiểu, còn
phải phù hợp với thông lệ quốc tế. Các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào một
nước nào đó thì họ sẽ quan tâm đến cá nhân họ khi đầu tư được bảo vệ như thế nào, https://giaoandientu.net/

13


tài sản của họ có được đảm bảo không, các quy định chuyển phần lợi nhuận về nước
họ ra làm sao…đây cũng chính là nhân tố ảnh hưởng đến các quyết định đầu tư của
nhà đầu tư nước ngoài. Mặt khác, hệ thống pháp luật không chỉ tạo điều kiện thuận
lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài mà còn có chức năng ngăn cản những tác động
tiêu cực mà các nhà đầu tư cố tình vi phạm ảnh hưởng đến lợi ích cộng đồng, an ninh
quốc gia và tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng giữa các nhà đầu tư. đồng thời với việc
xây dựng hệ thống pháp luật, phải xây hệ thống chính sách kinh tế liên quan đến đầu
tư nước ngoài thực sự mềm dẻo, hấp dẫn cũng là điều kiện quan trọng để thu hút vốn
FDI như:
Chính sách khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài: Đây cũng là một trong
những chính sách mà các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm khi xem xét quyết định
đầu tư vào một địa điểm nào đó, một chính sách khuyến khích phù hợp sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho nhà đầu tư, ngược lại một chính sách khuyến khích đầu tư bất hợp
lý sẽ tạo rào cản lớn, tạo ra một môi trường đầu tư không thuận lợi đối với các chủ
đầu tư.
Chính sách quản lý ngoại tệ: Chính sách này tác động trực tiếp đến tâm lý của
nhà đầu tư nước ngoài, một quốc gia quản lý ngoại hối theo nguyên tắc thả nổi theo
thị trường sẽ dẫn đến sự thay đổi liên tục trong tỷ giá hối đoái theo nhu cầu thị trường,
do đó các nhà đầu tư có tâm lý rụt rè, lo sợ trong đầu tư trực tiếp nước ngoài tại quốc
gia đó. Một quốc gia quản lý theo nguyên tắc thả nổi có điều tiết hoặc cố định sẽ tạo
tâm lý yên tâm hơn cho các nhà đầu tư.
Chính sách thương mại: Chính sách này liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu
của các dự án FDI, hạn ngạch xuất nhập khẩu thấp và các rào cản thương mại khác
sẽ gây khó khăn cho các dự án đó bởi vì các dự án FDI khi đi vào hoạt động đều liên
quan tới hoạt động xuất nhập khẩu: nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, sản
phẩm…chính sách thương mại bất hợp lý sẽ là rào cản đối với hoạt động của FDI.
Các chính sách ưu đãi về tài chính: Muốn các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào
quốc gia, vào địa phương, vào ngành, lĩnh vực ưu tiên thì phải dành cho nhà đầu tư
nước ngoài những ưu đãi, hỗ trợ nhất định về tài chính nhằm tạo điều kiện tốt nhất để
các nhà đầu tư tìm kiếm được lợi nhuận. https://giaoandientu.net/

14


Chính sách ưu đãi về thuế: Để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, các quốc gia
phải có chính sách miễn giảm thuế nhất định, thông thường trong những năm đầu
triển khai dự án các nhà đầu tư được giảm thuế, thậm chí miễn thuế và tăng dần ở
những năm sau nó khi các nhà đầu tư nước ngoài có lợi nhuận. Để đảm bảo lợi ích
cho cả nước nhận đầu tư và cả nhà đầu tư nước ngoài, mức thuế được ưu đãi phụ
thuộc vào chính sách ưu tiên về ngành, lĩnh vực, vùng kinh tế mà quốc gia khuyến
khích đầu tư như ưu đãi về thuế đối với những dự án sử dụng công nghệ hiện đại, thời
gian đầu tư dài, quy mô lớn, hướng về xuất khẩu, sử dụng nhiều lao động, sử dụng
nhiều nguyên liệu trong nước, sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư. Hệ thống thuế sẽ càng
hiệu quả nếu càng rõ ràng, đơn giản, dễ áp dụng và mức thuế phù hợp (so với lãi suất,
lợi nhuận bình quân, so với mức thuế ở các nước trong khu vực…) các thủ tục thuế,
cũng như các thủ tục quản lý FDI khác phải được tinh giảm hợp lý, tránh vòng vèo
nhiều khâu trung gian, công khai và thuận lợi cho đối tượng chịu quản lý và nộp thuế.
c).Sự phát triển cơ sở hạ tầng về dịch vụ môi trường tại địa phương
Sự phát triển cơ sở hạ tầng là một điều kiện vật chất hàng đầu để các nhà đầu tư
nước ngoài đầu tư vốn FDI. Cơ sở hạ tầng bao gồm mạng lưới giao thông, mạng lưới
thông tin liên lạc, hệ thống cung cấp năng lượng, cấp thoát nước, các công trình công
cộng phục vụ sản xuất kinh doanh như cảng biển, sân bay,…cơ sở hạ tầng tốt là một
trong các yếu tố quan trọng giúp các nhà đầu tư nước ngoài giảm các chi phí gián tiếp
trong sản xuất kinh doanh và có thể triển khai các hoạt động đầu tư. Thực tế thu hút
tại các địa phương trong cả nước cho thấy các dòng vốn chỉ đổ vào nơi nào có hạ tầng
phát triển, đủ khả năng phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các nhà đầu
tư. Mạng lưới giao thông cũng đóng góp một phần quan trọng vào thu hút vốn FDI,
là cơ sở để vận chuyển vật liệu, đi tiêu thụ sản phẩm và quan trọng nhất là các đầu
mối giao thông tiếp giáp với thế giới như cảng biển, cảng hàng không… Các tuyến
đường giao thông trọng yếu cũng làm cầu nối sự giao lưu phát triển kinh tế giữa các
địa phương của một quốc gia. Một mạng lưới giao thông đa phương tiện và hiện đại
sẽ giúp các nhà đầu tư giảm được chi phí vận chuyển không cần thiết.
Hệ thống thông tin liên lạc là nhân tố quan trọng trong bối cảnh bùng nổ thông
tin như hiện nay, khi mà thông tin về tất cả các biến động trên thị trường ở mọi nơi https://giaoandientu.net/

15


được truyền tải liên tục trên thế giới. Chậm trễ trong thông tin liên lạc sẽ đánh mất cơ
hội kinh doanh. Môi trường đầu tư hấp dẫn dưới con mắt của nhà đầu tư đó phải có
hệ thống thông tin liên lạc rộng lớn và cước phí rẻ. Ngoài ra, hệ thống các ngành dịch
vụ như: tài chính ngân hàng, bưu chính viễn thông, tư vấn hay cung cấp năng lượng
và nước sạch… đảm bảo cho việc sản xuất quy mô lớn và liên tục, các dịch vụ này
nếu không đáp ứng được nhu cầu sản xuất thì sẽ gây rất nhiều trở ngại cho nhà đầu
tư.
d).Đặc điểm thị trường của nước nhận vốn
Địa phương muốn phát triển kinh tế cần có nhiều yếu tố và điều kiện khác nhau,
ngoài các yếu tố về cơ sở hạ tầng được xây dựng cần có thêm các điều kiện khác như:
vị trí địa lý thuận lợi, địa chất nơi đó ổn định, quy mô thị trường rộng lớn, nguồn nhân
lực dồi dào, giá nhân công rẻ, nguồn tài nguyên phong phú…
Với vị trí địa lý thuận lợi sẽ tạo ra khả năng phát triển du lịch, xuất khẩu, vận
chuyển khẩu hàng hóa qua các vùng, các khu vực trên thế giới. Những địa phương
biết phát huy lợi thế vị trí địa lý của từng vùng kinh tế của đất nước sẽ có cơ hội thu
hút được nhiều vốn FDI. Những địa phương biết phát huy lợi thế vị trí địa lý bằng
việc hiện đại hóa hệ thống cảng biển, miễn lệ phí cảng biển, cảng hàng không làm
giảm và tạo các tiện ích cho các nhà đầu tư sẽ tạo ra sức hấp dẫn tối đa vốn FDI.
Với tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng cho phép phát triển kinh tế tại
địa phương đó theo hướng đa ngành và tham gia tích cực vào phân công lao động
quốc gia và quốc tế. Địa phương có tài nguyên thiên nhiên phong phú, gần nguồn
nguyên liệu sẽ làm cho chi phí sản xuất trở nên rẻ hơn, thu hút được nhiều nhà đầu tư
nước ngoài hơn.
Nguồn lực dồi dào, giá nhân công rẻ là lợi thế so sánh của địa phương trong
hoạt động thu hút vốn FDI. Xu hướng đầu tư ngày nay của các nhà đầu tư nước ngoài
trong việc lựa chọn địa điểm đang chuyển từ việc xem xét gần thị trường tiêu thụ sang
ưu tiên tiêu chí trình độ, giá cả sức lao động của công nhân, trình độ ngoại ngữ của
dân bản địa bởi vì công nghệ thông tin phát triển sẽ giúp cho các nhà sản xuất dễ dàng
hơn trong việc tiếp cận các thị trường ở xa. https://giaoandientu.net/

16


Một trong những yếu tố xã hội quan trọng của thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào địa phương là chất lượng nguồn nhân lực và giá cả sức lao động. Đây là
một trong những yếu tố rất cần thiết để các nhà đầu tư lập kế hoạch kinh doanh. Một
nhà đầu tư muốn mở một nhà máy thì trên phương diện nguồn nhân lực nhà đầu tư sẽ
chọn khu vực có thể đáp ứng được cả về số lượng và chất lượng của lao động, ngoài
ra giá cả sức lao động là một trong những chỉ tiêu đánh giá của các nhà đầu tư. Chất
lượng lao động là một lợi thế cạnh tranh đối với các nhà đầu tư vào lĩnh vực có hàm
lượng công nghệ cao hay có sử dụng nhiều công nghệ hiện đại. Ngoài ra, yếu tố văn
hoá cũng ảnh hưởng tới yếu tố lao động như sự cần cù, tính kỷ luật, ý thức trong lao
động…
Vì vậy, yếu tố lao động là một trong những điều kiện tác động tới các nhà đầu
tư nước ngoài khi tiến hành kinh doanh. Tuy nhiên, để có lực lượng lao động tốt thì
lại phụ thuộc vào hệ thống giáo dục, đào tạo, chất lượng đào tạo nghề…
e).Hướng dịch chuyển của các dòng vốn FDI quốc tế về dịch vụ môi trường
Đây là nhân tố bên ngoài có ý nghĩa quyết định đến khả năng thu hút vốn FDI
của quốc gia nói chung và địa phương nói riêng. Mức độ tăng, giảm của việc thu hút
vốn FDI chịu sự chi phối của xu hướng vận động của các dòng vốn FDI trên thế giới.
Nếu quốc gia nằm trong khu vực mà dòng vốn FDI đang hướng tới thì khả năng tiếp
nhận vốn FDI của quốc gia hay địa phương đó là thuận lợi và ngược lại khi các quốc
gia nằm ngoài vùng dịch chuyển của dòng vốn FDI thì sẽ rất khó cho các quốc gia
thu hút được nguồn vốn này.
Đón bắt được xu hướng chuyển dịch vốn FDI trên thế giới là một yếu tố quan
trọng để chính quyền Trung ương và địa phương đưa ra các chính sách phù hợp để
tiếp nhận dòng vốn FDI chuyển về. Nằm trong vùng kinh tế phát triển năng động của
thế giới, trong những năm gần đây khu vực Đông Nam Á đã trở thành khu vực hấp
dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài. Điều này là do so với các nước phát triển thì khu
vực này có mức độ cạnh tranh thấp hơn, hơn nữa giá nhân công của khu vực này
tương đối rẻ, môi trường đầu tư ngày càng được cải thiện. Là một quốc gia nằm trong
khu vực hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, nước ta có cơ hội đón dòng chảy FDI đổ
về nếu biết tận dụng lợi thế so sánh của mình và cải thiện tốt hơn nữa về môi trường https://giaoandientu.net/

17


đầu tư. Khi vốn FDI vào quốc gia thì việc thu hút vốn FDI vào vùng kinh tế nào đó
của đất nước sẽ dễ dàng hơn bằng các chính sách thích hợp riêng cho từng vùng.
1.1.4. Tiêu chí đánh giá hiệu quả thu hút vốn đầu tư FDI vào các dịch vụ môi
trường
Hoạt động thu hút và sử dụng FDI có thể được đánh giá trên nhiều góc độ khác
nhau. Trong phạm vi luận văn, việc đánh giá hoạt động thu hút và sử dụng FDI trên
các phương diện sau đây: (1) kết quả thu hút và thực hiện vốn FDI thể hiện thông qua
quy mô và cơ cấu dòng vốn; (2) hiệu quả kinh tế của khu vực FDI đối với phát triển
kinh tế xã hội; (3) chất lượng FDI thể hiện qua tác động xã hội, môi trường và tác
động lan tỏa của khu vực FDI; (4) chỉ số ngưỡng quy mô FDI.
a).Hệ thống chỉ tiêu về kết quả thu hút và thực hiện FDI
Hệ thống chỉ tiêu này cho phép đánh giá trực tiếp kết quả thu hút và thực hiện
FDI tại nước chủ nhà. Đây là nhóm chỉ tiêu truyền thống với các tiêu chí đánh giá
bao gồm:
(1) Quy mô vốn đăng ký: là tổng số vốn góp bằng tiền hoặc tài sản hợp pháp,
lợi nhuận để lại và các hình thức vốn khác do nhà đầu tư nước ngoài cam kết đưa vào
nước chủ nhà để tiến hành các hoạt động đầu tư trực tiếp3 (World Bank, 2016). Vốn
đăng ký bao gồm vốn cam kết của nhà đầu tư nước ngoài theo giấy phép cấp mới (đối
với các dự án thực hiện lần đầu hoặc dự án độc lập với các dự án đang hoạt động mới
được cấp giấy chứng nhận đầu tư trong kỳ); và cấp bổ sung (đối với các dự án đầu tư
nhằm mở rộng quy mô, nâng cao công suất, năng lực sản xuất kinh doanh, đổi mới
công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm ô nhiễm môi trường của dự án đầu
tư hiện có đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư trong các năm trước).
Quy mô vốn đăng ký cho thấy sức hấp dẫn của môi trường đầu tư cũng như
mức độ tin cậy của nhà đầu tư nước ngoài đối với môi trường đầu tư trong nước.
(2) Quy mô vốn thực hiện: là số vốn đầu tư thực tế do các nhà đầu tư nước
ngoài đã chi ra cho hoạt động sản xuất kinh doanh tại nước sở tại, bao gồm chi phí
xây dựng các công trình, nhà xưởng, mua sắm máy móc thiết bị… Quy mô vốn thực
hiện thể hiện hiệu quả của hoạt động xúc tiến đầu tư, cơ chế quản lý nhà nước, cũng
như hiệu lực thực thi của các văn bản pháp luật. Về mặt lý thuyết, vốn FDI thực hiện https://giaoandientu.net/

18


thường nhỏ hơn vốn FDI đăng ký của dự án. Quy mô vốn FDI đăng ký và thực hiện
càng lớn càng thể hiện quốc gia đó thành công trong công cuộc thu hút vốn FDI. Theo
UNCTAD (2016), FDI ngày càng được quan tâm thu hút hơn ở các nước đang phát
triển. Năm 2015, FDI toàn cầu chảy vào các nước đang phát triển (không tính các
trung tâm tài chính Caribe) đã tăng 9%, đạt kỷ lục mới 765 tỷ USD. Bên cạnh đó,
khi xem xét khoảng cách giữa quy mô vốn đăng ký và vốn thực hiện có thể đánh giá
được mức độ thực hiện của hoạt động đầu tư trong năm đó. Khoảng cách giữa được
thể hiện thông qua tỷ lệ giải ngân. Đây là tỷ lệ phần trăm của vốn FDI thực hiện trên
tổng vốn FDI đăng ký theo thời gian, được tính bằng công thức:
Quy mô vốn thực hiện
Tỷ lệ giải ngân = ×100
Quy mô vốn đăng ký

Tỷ lệ giải ngân lớn thể hiện sự thống nhất giữa cam kết và thực hiện của hoạt
động đầu tư. Ngược lại, tỷ lệ nhỏ hàm ý những vấn đề nảy sinh trong quá trình giải
ngân vốn như thủ tục hành chính, sự lưỡng lự của nhà đầu tư khi bắt tay vào hoạt
động đầu tư, hay điều kiện toàn cầu và khu vực có biến động…
(3) Cơ cấu FDI: là chỉ tiêu thể hiện sự cân bằng hay mất cân bằng trong xu thế
phát triển của dòng vốn FDI. Cơ cấu FDI có thể được phân theo các tiêu chí khác
nhau: hình thức đầu tư, ngành kinh tế, vùng kinh tế. Nhóm chỉ tiêu này cho phép đánh
giá sự thay đổi về mẫu hình (pattern) của dòng vốn tại quốc gia tiếp nhận vốn. Nhìn
chung trên thế giới, xét theo hình thức đầu tư, FDI thông qua các thương vụ M&A
xuyên quốc gia chiếm ưu thế và có xu hướng tăng lên, trong khi các dự án đầu tư mới
giảm xuống. Xét theo ngành, dòng vốn FDI toàn cầu có xu hướng chảy nhiều nhất
vào lĩnh vực dịch vụ, chiếm đến 64% tổng FDI toàn cầu (năm 2015), gấp hơn 2 lần
lĩnh vực công nghệ.
b. Hệ thống chỉ tiêu về chất lượng FDI
Nhóm chỉ tiêu này bao hàm các tác động trực tiếp của FDI đối với xã hội và môi
trường, cũng như tác động gián tiếp (tác động lan tỏa) của khu vực này đối với hoạt
động đầu tư trong nước. Các chỉ tiêu đánh giá bao gồm: (1) Khả năng tạo việc làm:
được thể hiện thông qua số lượng việc làm mà khu vực FDI tạo ra trong tương quan https://giaoandientu.net/

19


với các khu vực kinh tế khác, thông thường được xác định bằng tỷ lệ phần trăm trong
tổng lao động có việc làm trong các ngành kinh tế.
Tỷ lệ lao động tạo ra của khu vực FDI cao cho biết dòng vốn FDI có chất lượng
tốt trong việc tạo công ăn việc làm tại nước sở tại, và ngược lại. (2) Tác động của khu
vực FDI đến môi trường: Đây là một chỉ tiêu rất khó để chuẩn hóa. Trong phạm vi
của luận văn, tác giả sử dụng một số tiêu chí sau đây:
- Tỷ trọng doanh nghiệp FDI gây ô nhiễm môi trường được xác định thông
qua tỷ lệ phần trăm số lượng doanh nghiệp không tuân thủ quy định về bảo vệ môi
trường trên tổng số các doanh nghiệp.
- Chi phí cho hoạt động cải tạo môi trường hàng năm của khu vực FDI
- Chi phí môi trường dự kiến tiết kiệm được của các doanh nghiệp FDI khi đầu
tư vào một quốc gia.
Tỷ trọng doanh nghiệp FDI gây ô nhiễm môi trường càng lớn cho thấy nước sở
tại đang tiếp nhận dòng vốn FDI kém chất lượng, gây ảnh hưởng tới môi trường của
quốc gia đó. Chi phí cho cải tạo môi trường hàng năm của khu vực FDI và chi phí
môi trường dự kiến tiết kiệm được của các doanh nghiệp FDI khi đầu tư vào một quốc
gia lại cho biết mức độ quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp
FDI tại nước sở tại. (3) Mức độ chuyển giao công nghệ: được thể hiện thông qua (i)
số hợp đồng chuyển giao công nghệ tại nước sở tại; (ii) tỷ trọng các dự án đầu tư đến
từ các nước nắm giữ công nghệ nguồn (như EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ…); (iii) mức độ
hiện đại và cập nhật của các công nghệ được chuyển giao; (iv) chỉ tiêu năng suất các
yếu tố tổng hợp TFP của khu vực FDI4 ; (v) tỷ lệ nội địa hóa. Các chỉ tiêu này càng
cao càng cho thấy mức độ chuyển giao công nghệ lớn của các doanh nghiệp FDI vào
nước sở tại.
(4) Mức độ liên kết của khu vực FDI với doanh nghiệp trong nước: Sự liên kết
chặt chẽ của khu vực FDI và doanh nghiệp trong nước được thể hiện qua một số chỉ
tiêu sau đây:
- Hình thức liên kết trong hoạt động FDI (tỷ trọng lớn các hoạt động FDI dưới
hình thức liên doanh, liên kết); - Mức độ phát triển chuỗi và hình thành công nghiệp
phụ trợ của nước chủ nhà (sự hoàn thiện của khu vực công nghiệp phụ trợ); - Mức https://giaoandientu.net/

20


độ liên kết trong hệ thống quản trị điều hành (CEO) giữa doanh nghiệp trong và ngoài
nước (sự liên kết chặt chẽ của giới điều hành doanh nghiệp giữa doanh nghiệp FDI
và doanh nghiệp trong nước); - Mức độ đào tạo và nâng cao kỹ năng của người lao
động trong khu vực FDI (tần suất và bậc đào tạo đối với người lao động trong khu
vực FDI).
c. Hệ thống chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế FDI
Hiệu quả kinh tế FDI là sự hài hòa giữa quy mô, cơ cấu và chất lượng của FDI.
Nhóm chỉ tiêu này được thể hiện thông qua phần đóng góp của khu vực FDI đối với
phát triển kinh tế tại quốc gia tiếp nhận vốn. Các tiêu chí đánh giá bao gồm:
(1) Đóng góp của khu vực FDI vào tổng đầu tư xã hội: là tỷ lệ phần vốn FDI
trong tổng nguồn vốn đầu tư xã hội của nước chủ nhà. Các nghiên cứu lý thuyết và
thực nghiệm đều cho thấy FDI có ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng kinh tế của
nước tiếp nhận. FDI tăng làm tăng tổng nguồn vốn đầu tư xã hội, đồng thời tạo ra tác
động tràn đến đầu tư nội địa, thị trường lao động, và công nghệ của nước chủ nhà.
Do đó, đóng góp của FDI vào tổng đầu từ toàn xã hội càng cao càng cho thấy hiệu
quả kinh tế của FDI là lớn.
Tuy nhiên xét về tổng thể, tỷ lệ FDI/tổng nguồn vốn đầu tư xã hội còn phụ
thuộc vào sự thay đổi đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước và ngoài nhà nước. Vì
vậy, cần đánh giá chỉ tiêu này trong mối tương quan với chỉ tiêu đóng góp vào tăng
trưởng kinh tế để biết sự tương xứng về đóng góp kinh tế và tiềm năng của khu vực
FDI.
(2) Đóng góp của FDI vào tăng trưởng kinh tế: được thể hiện qua tỷ lệ đóng
góp của khu vực FDI vào GDP của quốc gia.
Đóng góp vào GDP lớn là một trong những dấu hiệu quan trọng để nhận biết
hiệu quả kinh tế cao của khu vực FDI. Tuy nhiên, chỉ tiêu này chỉ nói lên hiệu quả
kinh tế FDI về mặt lượng. Theo đó, cần xem xét chỉ tiêu này trong mối quan hệ với
các chỉ tiêu khác trong nhóm chỉ tiêu hiệu quả kinh tế FDI.
(3) Tác động của FDI đối với cán cân thanh toán quốc tế: được thể hiện thông
qua giá trị xuất khẩu ròng của khu vực FDI tại nước chủ nhà. Một mặt, dòng vốn FDI
chảy vào góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nhờ tận dụng được lợi thế về chi https://giaoandientu.net/

21


phí, vị thế sẵn có của các công ty đa quốc gia (MNCs) trên thị trường. Mặt khác, các
doanh nghiệp FDI vẫn phải nhập khẩu hàng hóa, máy móc vào nước chủ nhà. Đây là
một bộ phận đáng kể trong tổng kim ngạch nhập khẩu. Khi giá trị xuất khẩu ròng của
khu vực này tăng lên, cho biết FDI có tác động bổ sung vào thặng dự cán cân vốn, từ
đó cải thiện cán cân thanh toán.
Bên cạnh đó, hiệu quả kinh tế của khu vực FDI còn được thể hiện qua đóng góp
của khu vực FDI vào ngân sách nhà nước thông qua chỉ tiêu (4) hiệu quả thu nhập
(được tính bằng tiền lương trung bình của một lao động trong khu vực FDI trong
tương quan với các khu vực kinh tế khác); (5) thu ngân sách nhà nước (được tính
bằng tỷ lệ phần trăm thu NSNN từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên tổng
thu NSNN), và (6) khả năng giúp quốc gia tiếp nhận vốn thực hiện chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo chiến lược phát triển kinh tế của mình.
Đóng góp của khu vực FDI trong mối tương quan với các thành phần kinh tế
khác càng lớn, càng thể hiện hoạt động sử dụng FDI đạt hiệu quả cao. Nhiều bằng
chứng thực nghiệm cho thấy, không phải lúc nào kết quả thu hút FDI tốt cũng song
hành với hiệu quả kinh tế cao. Do đó, cũng cần xem xét khía cạnh: (i) đóng góp của
khu vực FDI có tương xứng với tiềm năng hay quy mô vốn đã thu hút được hay
không; (ii) nội lực hấp thụ vốn của nền kinh tế có đủ khả năng hấp thụ và khai thác
tối ưu những lợi ích từ nguồn vốn này hay không.
d).Chỉ số ngưỡng FDI
Khi mà hầu hết các quốc gia đang phát triển đều theo đuổi mục tiêu kết quả thu
hút và thực hiện FDI (quy mô FDI) nhưng lại cùng một lúc muốn thu được hiệu quả
kinh tế và chất lượng FDI, thực tế này dẫn đến một mâu thuẫn rằng: Mặc dù quy mô
FDI càng lớn thể hiện kết quả thu hút tốt, nhưng điều đó không đảm bảo hiệu quả
kinh tế và chất lượng FDI tại nước chủ nhà sẽ cao. Bởi, bên cạnh những lợi ích mà
dòng vốn FDI mang lại như nguồn vốn, việc làm, điều kiện để nước chủ nhà tiếp cận
thị trường nước ngoài, tạo ra công nghệ, hiệu ứng lan tỏa, FDI cũng có không ít những
tác động tiêu cực đối với phát triển kinh tế như mất cân bằng cán cân thanh toán, kiềm
chế sự phát triển của các doanh nghiệp trong nước, cạn kiệt nguồn tài nguyên, ô nhiễm
môi trường, rủi ro phụ thuộc của nền kinh tế vào nguồn lực bên ngoài. https://giaoandientu.net/

22


Như vậy, một quốc gia khi tiếp nhận vốn FDI, không chỉ hướng đến hiệu quả
kinh tế của FDI mà mục tiêu là phải khai thác được hiệu quả cuối cùng của FDI. Hiệu
quả FDI là kết quả của một quy mô phù hợp với năng lực hấp thụ, thể hiện ở chất
lượng của các khoản FDI đó. Nó được kỳ vọng đóng góp vào ngân sách, GDP, thu
nhập sau khi tính tới các tác động tiêu cực về môi trường, hỗ trợ giá, thuế… Hay nói
cách khác, đó là đóng góp ròng của khu vực FDI đối với phát triển kinh tế xã hội của
nước chủ nhà sau khi trừ đi những chi phí cơ hội, giá phải trả cho những vấn đề tiêu
cực nảy sinh khi thu hút và sử dụng FDI. Tuy nhiên, rất khó có thể lượng hóa tất cả
các yếu tố trên để định lượng hiệu quả cuối cùng của FDI. Theo đó, luận án giới thiệu
khái niệm ngưỡng FDI, với mục tiêu là một chỉ tiêu hỗ trợ cho chỉ tiêu hiệu quả FDI.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả nhận thấy khái niệm ngưỡng có thể được
tiếp cận theo hướng tương đối rộng. Cụ thể là:
Thứ nhất, có thể có nhiều biến ngưỡng khác nhau trong một mô hình. Mô hình
tăng trưởng kinh tế là một mô hình phức tạp và chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố
khác nhau. Do đó, chiều hướng ảnh hưởng của FDI lên tăng trưởng kinh tế cũng sẽ
cùng một lúc phụ thuộc vào nhiều biến ngưỡng. Thật vậy, các nghiên cứu thực nghiệm
từ nhiều góc độ khác nhau đã đề xuất các biến ngưỡng và giá trị ngưỡng khác nhau.
Trong phạm vi nghiên cứu này, tác giả sẽ sử dụng biến quy mô FDI (tỷ lệ % trên
GDP) để ước lượng giá trị ngưỡng.
Thứ hai, với mỗi biến ngưỡng, có thể có nhiều hơn một giá trị ngưỡng. Phần
lớn các nghiên cứu về mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng đều đề cập đến giá trị
ngưỡng là giá trị mà tại đó tác động của FDI lên tăng trưởng đảo chiều từ tích cực
(hoặc không ảnh hưởng) sang tiêu cực, hoặc ngược lại. Tuy nhiên, khi nghiên cứu về
lý thuyết các mô hình ngưỡng, tác giả nhận thấy, giá trị ngưỡng không chỉ đơn thuần
mang hàm ý làm tác động của các nhân tố đảo chiều mà thực chất giá trị ngưỡng là
giá trị phân tách mẫu ra thành hai hay nhiều chế độ, trong đó chiều và mức độ tác
động giữa các nhân tố trong từng chế độ sẽ thay đổi.
Thứ ba, “biến xác định ngưỡng” và “biến có hệ số thay đổi trong vùng ngưỡng”
không nhất thiết trùng nhau. Trong mô hình ngưỡng, ở mỗi chế độ ngưỡng (nếu có), https://giaoandientu.net/

23


sẽ tồn tại một hoặc một số biến có hệ số thay đổi trong vùng ngưỡng. Trong đó, biến
xác định ngưỡng và biến có hệ số thay đổi không nhất thiết trùng nhau.
Thứ tư, “tác động tiêu cực” lên tăng trưởng không nhất thiết là sự đảo chiều tác
động giữa các nhân tố trong mô hình. Cũng dựa trên lý thuyết các mô hình ngưỡng,
giá trị ngưỡng được xác định không nhất thiết khiến cho tác động giữa các nhân tố
trong mô hình đảo chiều mà có thể chỉ làm thay đổi độ dốc của mô hình. Như vậy,
giá trị ngưỡng quy mô FDI có thể chỉ là giá trị mà tại đó mức độ ảnh hưởng của các
nhân tố đối với tăng trưởng kinh tế bị sút giảm, chứ không nhất thiết phải là giá trị
làm hướng tác động của các nhân tố lên tăng trưởng đảo chiều.
Về ý nghĩa của chỉ số ngưỡng FDI, chỉ số này có nhiều ý nghĩa đối với quốc gia
tiếp nhận vốn. Thứ nhất, chỉ số này có tính tham khảo lớn trong quá trình xây dựng
kế hoạch thu hút vốn FDI tại từng quốc gia để đảm bảo lượng vốn FDI thu hút được
kiểm soát và khai thác hết tiềm năng. Thứ hai, so sánh lượng vốn FDI với giá trị
ngưỡng cung cấp chỉ báo quan trọng trong quá trình điều hành, đặc biệt là trong quá
trình xây dựng hệ thống chính sách FDI. Khi quy mô FDI dưới ngưỡng, các nhà chính
sách có thể sử dụng các chính sách ưu đãi, xúc tiến đầu tư để thu hút thêm các nhà
đầu tư nước ngoài. Ngược lại, khi quy mô FDI vượt ngưỡng, việc sàng lọc và loại bỏ
các dự án FDI kém hiệu quả, gây ảnh hưởng xấu đến kinh tế, xã hội, môi trường của
nước tiếp nhận là cần thiết. Thứ ba, việc xác định ngưỡng FDI còn giúp cho nền kinh
tế neo giữ kỳ vọng FDI tốt hơn. Theo đó, tác động của FDI đối với nền kinh tế là tối
ưu nhất. Thứ tư và quan trọng hơn cả, chỉ số ngưỡng FDI cần được so sánh với nhu
cầu thực tế của nước sở tại. Như đã để cập ở phần trên, chỉ số ngưỡng cho biết quy
mô FDI nào thu hút vào quốc gia nước sở tại là tối ưu nhất đối với nền kinh tế. Do
đó, trong trường hợp nhu cầu thực tế về vốn của nước sở tại là lớn hơn chỉ số ngưỡng,
để khai thác được tối ưu lợi ích từ nguồn vốn, việc cần làm là phải nâng cao nội lực
hấp thụ vốn của nền kinh tế làm cơ sở để mở rộng dư địa thu hút FDI. Hay nói cách
khác, các nhà làm chính sách cần có những chính sách FDI phù hợp để mở rộng hấp
thụ nguồn vốn này.
1.2. Cơ sở thực tiễn về thu hút vốn đầu tư nói chung và thu hút vốn đầu tư
vào dịch vụ môi trường nói riêng https://giaoandientu.net/

24


1.2.1. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư tại một số nước trên thế giới
1.2.1.1. Trung quốc
➢ Kinh nghiệm của Trung Quốc
Trong quá trình thương lượng gia nhập WTO, Trung Quốc đã có những cam kết
liên quan đến mở cửa thị trường và hạn chế đối xử đối với dịch vụ môi trường. Trung
Quốc đã mở cửa hầu như tất cả các phân ngành, trừ quan trắc chất lượng môi trường
và điều tra nguồn thải gây ô nhiễm. Đối với phương thức 1, Trung Quốc đưa ra những
hạn chế "chưa cam kết" về hạn chế tiếp cận thị trường trừ đối với dịch vụ tư vấn môi
trường và cam kết toàn bộ đối với hạn chế quốc gia. Đối với phương thức 2 không có
bất kỳ hạn chế gì về hạn chế tiếp cận thị trường cũng như đối xử quốc gia. Đối với
phương thức 3 hiện diện thương mại đưa ra những giới hạn là chỉ được phép theo
hình thức liên doanh, trong đó phía nước ngoài có quyền sở hữu phần lớn. Đối với
phương thức 4, Trung Quốc chưa có cam kết cả về hạn chế tiếp cận thị trường và hạn
chế đối xử quốc gia [2,tr.129].
Trung Quốc cũng đã cam kết mở cửa thị trường dịch vụ môi trường theo một
số Hiệp định tự do thương mại (FTA). Ví dụ, trong FTA giữa Trung Quốc và ASEAN,
Trung Quốc đã cam kết rằng "các nhà cung cấp nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ
môi trường được phép cung cấp dịch vụ thông qua hình thức liên doanh trong đó phía
nước ngoài được sở hữu trên 50% số vốn hoặc hình thức công ty 100% vốn nước
ngoài".
Hiện tại, Trung Quốc chưa có chính sách cụ thể về thương mại dịch vụ môi
trường. Chính sách này, nếu có, sẽ bị ảnh hưởng bởi các chính sách liên quan như
đầu tư nước ngoài, mua sắm của chính phủ, giá và thu nhập và chính sách môi trường
cũng như các cam kết chung về thương mại quốc tế.
Trong Luật Ngoại thương của Trung Quốc, Chương 3, Điều 15 khẳng định nhà
nước "cho phép nhập khẩu và xuất khẩu hàng hóa và công nghệ, trừ những hàng hóa
bị cấm theo các bộ luật và quy định khác". Theo Điều 22 thuộc Chương 4, nhà nước
"khuyến khích thương mại quốc tế đối với ngành dịch vụ". Từ đó có thể thấy Trung
Quốc ủng hộ tự do hóa thương mại, trong đó có tự do hóa ngành dịch vụ môi trường. https://giaoandientu.net/

25


Các chính sách đầu tư nước ngoài cũng có ảnh hưởng trực tiếp tới việc gia nhập
thị trường dịch vụ môi trường, đồng thời quyết định mức độ tự do hóa thương mại.
Các chính sách quan trọng nhất được thể hiện trong Hướng dẫn đầu tư nước ngoài
lĩnh vực công nghiệp (sửa đổi năm 2006), Một số giải pháp chính sách đẩy mạnh
ngành dịch vụ trong Kế hoạch 5 năm lần thứ 10, Các giải pháp tăng tốc quá trịnh
phát triển theo định hướng thị trường đối với ngành dịch vụ công ích, Đẩy mạnh phát
triển ngành công nghiệp xử lý nước thải và rác thải đô thị v.v.
Hướng dẫn đầu tư nước ngoài lĩnh vực công nghiệp (sửa đổi năm 2006) có hiệu
lực từ tháng 1/2007. Văn bản này tiếp tục đi theo định hướng trước đó của chính phủ
Trung Quốc với những chính sách, giải pháp và khung pháp lý khuyến khích đầu tư
nước ngoài. Đồng thời, văn bản này cũng nêu ra những lĩnh vực khuyến khích đầu tư
từ nước ngoài, ví dụ công nghệ tái sản xuất tài nguyên, công nghệ khai thác và bảo
tồn năng lượng, công nghệ xử lý và quan trắc ô nhiễm, xây dựng và vận hành cơ sở
thu gom nước thải và rác thải, nhà máy xử lý chất thải độc hại, xây dựng và quản lý
các công trình xử lý môi trường, dịch vụ tư vấn bảo vệ môi trường, v.v. Đồng thời,
Trung Quốc cũng mở rộng phạm vi đối với những ngành đã cho phép đầu tư nước
ngoài và đẩy mạnh các chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực
dịch vụ.
Thực tế là Trung Quốc là quốc gia thu hút FDI hàng đầu trong khu vực. Đó là
nhờ những chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài, cụ thể bao
gồm:
Thứ nhất: Chính sách phát triển ngành sản xuất: Trong từng giai đoạn, Chính
Phủ Trung Quốc ban hành những quy định hướng dẫn đầu tư đối với nhà đầu tư nước
ngoài và danh mục hướng dẫn về ngành sản xuất để thu hút FDI.
Thứ hai: Chính sách phát triển vùng lãnh thổ: Chính phủ Trung Quốc chủ
yếu thông qua các biện pháp như thành lập khu kinh tế đặc biệt, khu phát triển khoa
học kỹ thuật và mở cửa các thành phố ven biển, tạo điều kiện thuận lợi và tập trung
thu hút FDI vào đó.
Từ năm 1999, trọng điểm chiến lược phát triển kinh tế từng bước chuyển về
phía tây. Chính phủ Trung Quốc đã đề ra chính sách nâng đỡ và hỗ trợ các tỉnh Miền https://giaoandientu.net/

26


Tây Trung Quốc. Đồng thời tích cực hướng dẫn thương nhân nước ngoài đầu tư vào
địa phương này bằng các biện pháp:
- Ban hành "danh mục ngành sản xuất ưu thế của miền Trung và Miền tây
Trung Quốc kêu gọi các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư"
- Chính phủ gia tăng một cách thích đáng nguồn vốn tín dụng trong nước, các
khoản vay chính phủ nước ngoài và các khoản vay ưu đãi của các tổ chức tài chính
tiền tệ quốc tế nhằm sử dụng chủ yếu vào xây dựng các công trình hạ tầng, công trình
bảo vệ môi trường trọng điểm của miền trung và miền tây.
- Đối với những hạng mục trong danh mục khuyến khích đầu tư nước ngoài,
nếu đầu tư vào miền trung và miền tây Trung Quốc, sau khi hết thời hạn được hưởng
ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp thì tiếp tục được giảm 15% thuế thu nhập doanh
nghiệp trong 3 năm tiếp theo.
- Khuyến khích nhà đầu tư đã đầu tư vào khu vực miền Đông Trung Quốc tái
đầu tư vào khu vực miền tây và miền Trung.
- Cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại các thành phố ven
biển nhận khoán quản lý kinh doanh các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và
các doanh nghiệp Trung Quốc tại các tỉnh miền tây và miền Trung.
-Cho phép các tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc tỉnh và khu vực tự trị của
miền tây và miền trung lựa chọn thành lập khu phát triển cấp nhà nước
- Nhà nước ưu tiên lựa chọn một số hạng mục về nông nghiệp, giao thông,
năng lượng, nguyên vật liệu để bảo vệ đầu tư nước ngoài vào các tình miền tây và
miền Trung. Đồng thời tăng cường sự hỗ trợ của chính phủ về vốn và các biện pháp
khác đối với các hạng mục trên.
Thứ ba: Chính sách hỗ trợ tài chính đối với các doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài.
- Doanh nghiệp đầu tư tại Trung Quốc có nhu cầu về vốn căn cứ theo quy định
của pháp luật được vay vốn của các ngân hàng tại Trung Quốc. Thời hạn, lãi suất và
phí vay về cơ bản áp dụng như các doanh nghiệp của Trung Quốc https://giaoandientu.net/

27


- Doanh nghiệp nước ngoài khi muốn vay vốn tại Trung Quốc được các ngân
hàng thương mại của Trung Quốc bảo lãnh. Các khoản tiền vốn ngoại tệ của các đơn
vị này có thể dùng để thế chấp vay vốn.
- Cho phép doanh nghiệp nước ngoài đầu tư dùng tài sản của họ ở hải ngoại
để thế chấp vay vốn tại các chi nhánh ngân hàng Trung Quốc ở nước ngoài.
- Các doanh nghiệp nước ngoài ở Trung Quốc nếu có đủ tiêu chuẩn được xin
phép phát hành cổ phiếu.
- Căn cứ theo nguyên tắc chủ động và thoả đáng, Chính phủ Trung Quốc cung
cấp sự đảm bảo về rủi ro chính trị, bảo hiểm về thực hiện hợp đồng, bảo hiểm về bảo
lãnh đối với những hạng mục đầu tư trọng điểm trong các lĩnh vực năng lượng, giao
thông mà chính phủ khuyến khích đầu tư.
Thứ tư: Ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư trực
tiếp nước ngoài
Trung Quốc ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư nước
ngoài như: như Luật doanh nghiệp chung vốn kinh doanh giữa Trung Quốc với nước
ngoài của nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Điều lệ chi tiết thi hành Luật Doanh
nghiệp chung vốn kinh doanh giữa Trung Quốc với nước ngoài: Luật doanh nghiệp
do nước ngoài đầu tư, các quy định và ưu đãi về thuế, ưu đãi về vay vốn đầu tư, về
quyền sử dụng đất.
Từ năm 2010, Trung Quốc áp dụng thêm chính sách mới, trong đó tập trung
vào tối ưu hóa việc sử dụng FDI, khuyến khích đầu tư vào vùng miền trung và tây
Trung Quốc, đa dạng hóa các biện pháp sử dụng đầu tư nước ngoài, cải cách mạnh
công tác quản lý đầu tư nước ngoài và hoàn thiện hệ thống quản lý ngoại hối.
Giải pháp thứ nhất là tối ưu hóa sử dụng FDI. Chính phủ sẽ sửa đổi bản Hướng
dẫn cho nhà đầu tư nước ngoài. Nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế sẽ được mở cửa cho
đầu tư nước ngoài, trong đó khuyến khích họ đầu tư vào ngành chế tạo công nghệ
cao, công nghiệp công nghệ cao, dịch vụ hiện đại, năng lượng mới, tiết kiệm năng
lượng và bảo vệ môi trường. Các biện pháp được nêu trong Kế hoạch tái cấu trúc và
phục hồi ngành công nghiệp cũng áp dụng cho các nhà đầu tư nước ngoài. Các doanh
nghiệp nước ngoài có nhu cầu sử dụng đất cao sẽ được ưu đãi về quyền sử dụng đất. https://giaoandientu.net/

28


Giải pháp thứ hai là tiếp tục khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư
vào miền trung và tây Trung Quốc. Nếu họ thành lập các doanh nghiệp sử dụng nhiều
lao động và đáp ứng được yêu cầu về tiêu chuẩn môi trường thì họ sẽ được hỗ trợ về
vốn và công nghệ.
Giải pháp thứ ba là đa dạng hóa các biện pháp sử dụng đầu tư nước ngoài. Các
nhà đầu tư nước ngoài được phép và được khuyến khích tham gia tái cấu trúc, tái xây
dựng doanh nghiệp nhà nước, qua đó mở rộng thêm kênh đầu tư cho các doanh nghiệp
nước ngoài và các tổ chức tài chính trong nước cũng có điều kiện hỗ trợ vốn hơn cho
các nhà đầu tư nước ngoài.
Giải pháp thứ tư là cải cách hơn nữa công tác quản lý đầu tư nước ngoài, trong
đó cần cải cách toàn bộ quy trình phê duyệt các dự án đầu tư và tối thiểu hóa phạm
vi hoạt động kiểm tra, phê duyệt.
Giải pháp thứ năm là cải thiện môi trường đầu tư. Các vùng kinh tế mở mới sẽ
có nhiều chính sách khuyến khích đầu tư hơn. Đẩy mạnh xây dựng các khu hợp tác
kinh tế. Hệ thống quản lý ngoại hối sẽ được cải thiện và quy trình mua bán ngoại hối
sẽ được đơn giản hóa.
Đồng thời, riêng với ngành dịch vụ môi trường, chính phủ Trung Quốc có
những chính sách thuế ưu đãi để thu hút doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư. Những
ưu đãi về thuế liên quan đến dịch vụ môi trường bao gồm:
• Miễn thuế ba năm đầu tiên và giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp trong
ba năm tiếp theo đối với các doanh nghiệp đang thực hiện các dự án cơ sở hạ tầng
(cầu tàu, bến cảng, sân bay, đường bộ, đường sắt, nhà máy điện) của chính phủ và
các dự án liên quan đến bảo vệ môi trường, bảo tồn năng lượng và nguồn nước, áp
dụng từ năm đầu tiên có doanh thu.
• Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng được ưu đãi thuế nếu thực
hiện chuyển giao công nghệ. Cụ thể, doanh nghiệp sẽ được miễn thuế thu nhập doanh
nghiệp đối với 5 triệu NDT thu nhập từ chuyển giao công nghệ, phần thu nhập vượt
quá sẽ chịu thuế suất bằng một nửa so với thuế suất thông thường là 25%. https://giaoandientu.net/

29


• Mức thuế suất ưu đãi 15% sẽ áp dụng cho các các doanh nghiệp có công nghệ
cao và mới và có giải pháp thúc đẩy việc ứng dụng và phát triển công nghệ. Chi phí
nghiên cứu và triển khai (R&D) được ưu đãi miễn trừ đặc biệt 150%.
• Các công ty đầu tư mạo hiểm đầu tư vốn vào doanh nghiệp vừa và nhỏ công
nghệ cao cũng như các doanh nghiệp thân thiện với môi trường được hưởng thêm ưu
đãi (thu nhập chịu thuế được khấu trừ 70% tổng vốn đầu tư).
➢ Kinh nghiệm cho Việt Nam
• Cải thiện môi trường đầu tư trong nước
Việc thu hút các nhà cung cấp dịch vụ môi trường nước ngoài thành lập hiện
diện thương mại cũng nằm trong nhiệm vụ thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Do đó,
xây dựng lộ trình phát triển dịch vụ môi trường phải đi kèm với cải thiện mô trường
đầu tư, minh bạch và đơn giản hóa thủ tục hành chính, thực hiện ưu đãi đối với nhà
đầu tư nước ngoài về quyền sử dụng đất, thuế v.v.
• Xây dựng chính sách ưu đãi về thuế
Ưu đãi về thuế có thể đa dạng, áp dụng cho một số đối tượng, một số lĩnh vực
khác nhau tùy vào lĩnh vực nào cần thu hút đầu tư mạnh hơn. Tuy nhiên cũng không nên
có quá nhiều mức ưu đãi khác nhau, gây khó khăn khi thực hiện và giám sát.
• Tiêu chí hưởng ưu đãi cụ thể và rõ ràng
Tuy nhiên, các ưu đãi đặc biệt đối với nhà đầu tư nước ngoài chỉ được áp dụng
nếu nhà đầu tư đáp ứng được yêu cầu như tuân thủ quy định trong nước về môi
trường, thực hiện chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp trong nước Như vậy, cần
xây dựng các tiêu chí liên quan đến môi trường để được hưởng ưu đãi thật rõ ràng.
1.2.1.2. Kinh nghiệm Thái Lan
➢ Khái quát chung về chính sách của Thái Lan đối với nhà đầu tư nước ngoài
Theo đánh giá của tổ chức thương mại thế giới thì Thái Lan duy trì một
chế độ đầu tư tương đối mở đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Thái Lan quan điểm
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là nhân tố quan trọng cho sự tăngtrưởng của nền
kinh tế và Thái Lan khuyến khích các nhà đầu tư từ tất cả các nguồn ; dòng vốn FDI
vào Thái Lan trong những năm vừa qua vẫn mạnh. https://giaoandientu.net/

30


Theo nghiên cứu của Ngân hàng thế giới, thì môi trường đầu tư của Thái Lan
khá thuận lợi và đạt tiêu chuẩn quốc tế, mặc dù các công ty khi tham gia đầu tư vào
Thái Lan vẫn gặp phải những cản trở bởi gánh nặng pháp lý nặng nề, thiếu các kỹ
năng và thiếu hụt hệ thống cơ sở hạ tầng đặc biệt là những khuvực ngoại ô (ngoài
Băngkok). Tuy nhiên, theo báo cáo của Chính phủ Thái Lan mới đây thì tình hình cơ
sở hạ tầng của Thái Lan đã có những cải thiện đáng kể, tình hình mất điện thường
xuyên ở những khu vực đã giảm dần. Ngoài ra, Thái Lan cũng có những cải thiện về
đầu tư nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước có thể cạnh tranh hiệu
quả hơn trong khu vực và trên thế giới[2,tr.136].
➢ Các chính sách mở cửa của Thái Lan cho các nhà cung cấp dịch vụ môi
trường nước ngoài thành lập hiện diện thương mại
a. Khái quát về các cam kết của Thái lan liên quan đến mở cửa thị trường dịch
vụ môi trường
Khi tham gia vào thành viên của tổ chức Thương mại thế giới (WTO) trong lĩnh
vực dịch vụ môi trường, Thái Lan cam kết mở cửa toàn bộ các lĩnh vực này (theo
phân ngành của trung tâm phân loại sản phẩm CPC). Bảng dưới đây cho chúng ta
thấy các cam kết cụ thể của Thái Lan.
Bảng 1.1: Tóm tắt các cam kết mở cửa thị trường dịch vụ môi trường củaThái
Lan đối với các nước thành viên WTO
Nội dung Cam kết mở cửa thị trường
Dịch vụ xử lý nước thải XX
Dịch vụ tiêu hủy chất thải X
Dịch vụ vệ sinh và tương tự

Nhóm dịch vụ
Dịch vụ làm sạch khí thải X
Dịch vụ giảm tiếng ồn X
(Nguồn: Bộ tài nguyên và môi trường)
b. Các chính sách và quy định cụ thể của Thái Lan về vấn đề dịch vụ môi
trường đối với các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài
Trên cơ sở những cam kết chung và cụ thể của Thái Lan trong việc mở cửa thị
trường hàng hóa và dịch vụ môi trường, Chính phủ Thái Lan đã có những quy định https://giaoandientu.net/

31


và chính sách cụ thể nhằm thực hiện những cam kết cũng như để bảo vệ các nhà cung
cấp dịch vụ trong nước và tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển các lĩnh vực này trên
đất nước Thái Lan.
Về cơ bản Thái Lan không có các hàng rào chống xâm nhập đối với các dịch vụ
và thiết bị môi trường từ nước ngoài. Thái Lan không hạn chế nhập khẩu cũng như
các yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật liên quan đến bảo vệ tài nguyên và môi trường.
Đồng thời Chính phủ Thái Lan cũng có những chính sách hỗ trợ thị trường hàng hóa
và dịch vụ môi trường bằng cách giảm thuế nhập khẩu. Hàng hóa nhập khẩu vào Thái
Lan cũng cần đáp ứng những yêu cầu về xuất xứ, nhãn mác đăng ký và các tài liệu
cần thiết khác đối với cơ quan Hải Quan.
Đặc biệt, các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ môi trường
muốnthành lập hiện diện thương mại trên đất Thái Lan lại gặp phải những khó khăn
về các chính sách như các chính sách đặc quyền, đặc lợi; kiểm tra về mặt kinh tế;
kiểm tra về mức độ mạo hiểm trong đầu tư; giới hạn về mức vốn trong đầu tư, thậm
chí là sự hạn chế ở một số lĩnh vực . Do vậy, việc các nhà đầu tư nước ngoài muốn
thành lập hiện diện thương mại trên đất Thái Lan lại gặp phải nhiều cản trở. Hầu hết
các nhà cung cấp dịch vụ môi trường quốc tế vào Thái Lan thông qua việc chỉ định
các đại lý hoặc nhà phân phối ở địa phương hoặc mở văn phòng ở địa phương. Điều
này tạo thuận lợi hơn cho các nhà cung cấp dịch vụ môi trường nước ngoài bởi chi
phí thấp.
Ngoài ra, các nhà đầu tư và người lao động nước ngoài tại Thái Lan cũng phải
đáp ứng các yêu cầu về giấy phép lao động (theo Luật tuyển dụng lao động người
nước ngoài năm 1979). Một số ngành nghề bị đóng cửa cho người nước ngoài tham
gia lao động (theo nghị định Hoàng gia năm 1979). Ủy ban xúc tiến luật đầu tư (BOI)
cũng thiết lập văn phòng một cửa nhằm tạo thuận lợi cho việc cấp giấy phép lao động.
Người lao động nước ngoài tại Thái Lan cũng phải đáp ứng các yêu cầu về nhập cư.
Bảng 1.2 sẽ cho chúng ta thấy được những điều kiện của Thái Lan đối với các nhà
đầu tư nước ngoài và người lao động làm việc tại Thái Lan.
Bảng 1.2: Phí và thời hạn của các loại thị thực của Thái Lan
Loại thị thực Phí Giá trị pháp Thời gian ở hiệu lực https://giaoandientu.net/

32


(bath) lý của thị
thực
Thị thực quá
cảnh
8.00 3 tháng Được phép ở lại trong khoảng thời
gian không quá 30 ngày
Thị thực du lịch
(một người)
1.000

3 tháng Được phép ở lại trong khoảngthời
gian không quá 30 ngày
Thị thực không
nhập cư (Một
người)
2.000 3 tháng


Được phép ở lại trong khoảng thời
gian không quá 90 ngày trừ khi có
chỉ thị của Cục di trú
Thị thực không
nhập cư
5.000 6 tháng hoặc
1 năm
Được phép ở lại trong khoảng thời
gian không quá 90 ngày trừ khi có
chỉ thị của cục di trú
Thị thực 3 năm
không nhập cư
10.000 3 năm Được phép ở lại trong khoảng thời
gian không quá 90 ngày trừ(mỗi
người)khi có chỉ thị của cục di trú
(Nguồn: Bộ Tài nguyên và Môi trường)
+ Đối với các nhà đầu tư nước ngoài tại Thái Lan : Các nhà đầu tư nước ngoài
tại Thái Lan có thể áp dụng hình thức thị thực không nhập cư (Visa B) có thời hạn
từ 1 năm đến 3 năm. Với loại thị thực này thì các nhà đầu tư có thể đến Thái Lan
nhiều lần và mỗi lần không được quá 90 ngày. Ngoài ra, qua nghiên cứu chúng tôi
nhận thấy phí thị thực của Thái Lan là thấp hơn rất nhiều so với các nước khác như :
mỹ, trung quốc, Hàn quốc . Đặc biệt, với vai trò là thành viên của các nước thuộc
khối kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC32) các doanh nhân có thể đăng ký
loại hình thẻ doanh nhân APEC (ABTC) có thể coi như là một loại thị thực và có thể
đến Thái Lan nhiều lần.
+ Người lao động nước ngoài tại Thái Lan : Người lao động nước ngoài muốn
làm việc tại Thái Lan thì phải đáp ứng 2 yêu cầu chủ yếu sau : (i) Thị thực không
nhập cư (Visa B); (ii) Giấy phép làm việc. Để đáp ứng được 2 yêu cầu này thì các
bước mà người lao động phải tiến hành là : Trước hết phải có người nhận làm việc
(người chủ lao động) ; thứ hai là phải đáp ứng các yêu cầu về giấy phép của Bộ Lao
động và Bộ Việc làm và sau đó phải tiến hành xin thị thực không nhập cư (visa B).
Như vậy, người lao động nước ngoài tại Thái Lan cũng phải đáp ứng rất nhiều https://giaoandientu.net/

33


các yêu cầu và thủ tục phức tạp có liên quan. Điều này vừa là một khó khăn đối với
những người nước ngoài muốn đến Thái Lan làm việc đồng thời cũng là cơ hội và
tạo ra một lợi thế cho các nhà đầu tư nước ngoài bởi lẽ việc thuê lao động ở Thái Lan
rẻ hơn nhiều so với việc phải thuê người lao động nước ngoài. Điều này sẽ tạo ra một
lợi thế cạnh tranh lớn cho các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ môi
trường nói riêng và thương mại nói chung.
Thêm vào đó, để bảo vệ các doanh nghiệp trong nước hoạt động trong
lĩnh vực dịch vụ môi trường thì chính phủ Thái lan còn có những định hướng ưu tiên
cho các doanh nghiệp địa phương trong việc giải quyết các vấn đề môi trường như:
môi trường nước, xử lý chất thải nguy hai. Do đó, khi tham gia vào thị trường hàng
hóa và dịch vụ môi trường ở Thái Lan thì các nhà đầu tư nước ngoài thường có xu
hướng hợp tác với các công ty địa phương để cung cấp các dịch vụ liên quan đế lĩnh
vực này.
➢ Bài học kinh nghiệm về chính sách mở cửa cho các nhà cung cấp dịch
vụ môi trường nước ngoài thành lập hiện diện thương mại của Thái Lan
Thái Lan và Việt Nam là hai nước có điều kiện kinh tế, xã hội và môi trường
khá tương đồng. Qua nghiên cứu những vấn đề liên quan đến phát triển dịch vụ môi
trường ở Thái Lan, nghiên cứu nhận thấy Việt Nam nên tham khảo học hỏi những
kinh nghiệm sau từ Thái Lan. Qua việc phân tích các cam kết thực hiện, các chính
sách và quy định hiện nay của Thái Lan đối với các nhà đầu tư nước ngoài khi tham
gia kinh doanh trong các lĩnh vực của dịch vụ môi trường, nghiên cứu đúc rút ra một
số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam như sau:
Một là, mở cửa thị trường dịch vụ môi trường, tạo điều kiện cho các nhà cung
cấp dịch vụ môi trường nước ngoài tham gia vào thị trường của Việt Nam là cơ hội
cho chúng ta phát triển bền vững, đạt được các chỉ tiêu về môi trường, kinh tế và cả
xã hội.
Hai là, coi trọng và tăng cường xúc tiến các nguồn vốn đầu tư nước
ngoài thông qua hình thức đầu tư trực tiếp (FDI) là hết sức quan trọng để phát triển
kinh tế nói chung và dịch vụ môi trường nói riêng.
Ba là, tận dụng các rào cản phi thương mại như: các yêu cầu về thị thực, xuất https://giaoandientu.net/

34


nhập cảnh  cũng là giải pháp giúp Việt Nam tạo ra các rào cản phù hợp với quy
định và cam kết của tổ chức thương mại thế giới. Một số loại công cụ nên được vận
dụng là: các chính sách đặc quyền, đặc lợi; kiểm tra về kinh tế và nhu cầu lao động;
vấn đề hạn chế liên doanh; kiểm tra về chuyên môn.
Bốn là, các quy định và chính sách đối với người lao động nước ngoài
cũng cần phải được cân nhắc phù hợp với bối cảnh hiện nay ở Việt Nam. Cần tránh
trường hợp như Thái Lan, khi các quy định về người lao động nước ngoài quá chặt
trong khi giá lao động trong nước lại thấp hơn bên ngoài nên đã tạo ra những lợi thế
cạnh tranh cho các nhà cung cấp dịch vụ môi trường nước ngoài.
Năm là, trong điều kiện Việt Nam là thành viên mới của tổ chức thương mại
thế giới, nên chúng ta còn một lộ trình dài để thực hiện hết các cam kết mở cửa. Cần
khai thác triệt để những lĩnh vực còn được ưu tiên.
Sáu là, chính phủ cũng cần có những định hướng ưu tiên cho từng lĩnh vực cụ
thể của phân ngành dịch vụ môi trường. Những nhóm nào chỉ do Nhà nước làm;
những nhóm dịch vụ nào khuyến khích tư nhân tham gia và những nhóm dịch vụ nào
cho phép nhà đầu tư nước ngoài tham gia Đồng thời các chính sách về pháp lý, tổ
chức và định hướng chiến lược cũng cần phải được tiến hành thực hiện song song và
đồng bộ.
1.2.1.3. Kinh nghiệm của Singapore
Trong quá trình thương lượng gia nhập WTO, Singapore đã có những cam kết
liên quan đến mở cửa thị trường và hạn chế đối xử đối với dịch vụ môi trường.
Singapore cam kết mở cửa ba phân ngành là dịch vụ vệ sinh (CPC 9403), dịch vụ
làm sạch khí thải (CPC 9404) và dịch vụ xử lý tiếng ồn (CPC 9405) [2,tr.124].
Singapore có vị trí chiến lược trên bản đồ thế giới. Đồng thời quốc đảo này còn
là một quốc gia có uy tín, có cơ sở hạ tầng hoàn thiện, hệ thống ngân hàng mạnh,
khung pháp lý đầy đủ và minh bạch cũng như chính sách thuế hấp dẫn. Tất cả những
điều đó khiến cho Singapore có sức cạnh tranh cao so vớicác quốc gia khác. Vốn đầu tư
nước ngoài chảy vào Singapore vì nền kinh tế này có các ưu điểm sau:
• Trong sạch, có chất lượng, đáng tin cậy, năng suất cao, khung pháp lý tốt.
• Có ngành chế tạo và dịch vụ dựa trên tri thức, là trung tâm tư tưởng và thông https://giaoandientu.net/

35


tin, có cam kết mạnh mẽ về giáo dục và đào tạo kỹ năng.
• Có mạng lưới nhân sự và doanh nghiệp rộng khắp.
• Có chất lượng cuộc sống cao, là nơi lý tưởng để sinh sống, học tập và làm việc.
Với những lợi thế này của Singapore, nhiều công ty đa quốc gia đã chọn
Singapore để đặt văn phòng. Thương mại và đầu tư phát triển mạnh đã biến
Singapore thành một trong những nước châu Á có sức cạnh tranh mạnh nhấttrên bảng
xếp hạng thế giới năm 2008. Ngân hàng thế giới cũng xếp Singapore là một trong
những điểm đến thân thiện nhất với nhà đầu tư trên thế giới.
Khi đặt cơ sở ở Singapore, các công ty quốc tế được hưởng lợi từ trên 50 Hiệp
định tránh đánh thuế hai lần mà Singapore đã ký kết với các quốc gia khác. Ngoài ra
còn có thuận lợi của rất nhiều hiệp định tự do thương mại và 35 Hiệp định đảm bảo
đầu tư. Thông qua các hiệp định này, Singapore đã có mối liên hệ với một mạng lưới
các quốc gia có đóng góp vào ít nhất 60% GDP toàn thế giới.
Thông qua áp dụng nghiêm ngặt luật Sở hữu trí tuệ, Singapore cũng đảm bảo
bảo hộ ý tưởng sáng tạo và cải tiến cho các công ty. Đồng thời, Singapore còn là
quốc gia hàng đầu trong khu vực trong các dịch vụ như ngân hàng quốc tế, tài trợ
thương mại, tài trợ vận tải biển, bảo hiểm và quản lý tài sản. Đây còn là trung tâm
giao dịch ngoại tệ lớn thứ tư thế giới. Các công ty quốc tế tại Singapore cũng được
tiếp xúc với một thị trường vốn rộng lớn, đadạng và những dịch vụ tài chính hiện đại
nhất của hơn 500 định chế tài chính trong nước và quốc tế đặt tại Singapore. Ngoài
ra còn có 4500 công ty cung cấp các dịch vụ chuyên nghiệp khác như kiểm toán, tư
vấn kế toán và quản lý, nghiên cứu thị trường, quảng cáo và quan hệ công chúng, tư
vấn nguồn nhân lực và tư vấn pháp lý. Các dịch vụ như công nghệ thông tin, tài chính
và hậu cần đều có chi phí thấp nhưng chất lượng dịch vụ tốt, năng suất cao nhờ tập
trung hóa hay còn gọi là "chia sẻ sử dụng dịch vụ".
Bên cạnh nền kinh tế tạo thuận lợi cho nhà đầu tư, Singapore còn thực
hiện những chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài như sau:
- Về cân đối ngoại tệ, quản lý ngoại hối: Chính phủ Singapore không có sự
quản lý về ngoại hối mà để cho thị trường này hoạt động tự do theo những quy luật
của thị trường. https://giaoandientu.net/

36


- Về quy định vay vốn, quản lý đất đai: Nhà đầu tư có thể huy động vốn qua
phát hành cổ phiếu, trái phiếu, vay tổ chức tài chính trong nước và nước ngoài.
- Thủ tục đầu tư: Các thủ tục này được thực hiện theo chế độ một cửa, đảm
bảo giải quyết nhanh gọn về các thủ tục cho nhà đầu tư.
- Về lĩnh vực đầu tư: Mở cửa hầu hết đối với các lĩnh vực kinh tế trừ lĩnh vực
liên quan đến an ninh quốc phòng và an toàn xã hội.
Riêng với lĩnh vực dịch vụ môi trường, Singapore cùng với các quốc gia khác
ở châu Á đang tăng trưởng với tốc độ cao, đồng thời nhận thức của các nước trong
khu vực về nhu cầu cân bằng giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường đang ngày
cao. Các công ty dịch vụ môi trường cả trong nước Singapore và nước ngoài khi đặt
tại Singapore đều có vị thế thuận lợi để cung cấp dịch vụ cho cả khu vực, đồng thời
trao đổi công nghệ, trình độ chuyên môn trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ môi trường.
Mặt khác, chính phủ Singapore cũng có những chính sách cụ thể để thu hút đầu
tư vào lĩnh vực dịch vụ môi trường, tạo điều kiện thuận lợi cho dịch vụ môi trường
phát triển. Ví dụ, Singapore có hỗ trợ tài chính cho hoạt động nghiên cứu và triển
khai công nghệ môi trường. Năm 2001, Bộ Môi trường và Tài nguyên nước
Singapore đã thiết lập Quỹ Hỗ trợ sáng kiến vì sự bền vững về môi trường (IESF)
với tổng số tiền là 20 triệu đô la Singapore. Mục đích của quỹ này là khuyến khích,
hỗ trợ tài chính cho các công ty thực hiện các dự án sáng tạo về môi trường. Sáng
kiến thí điểm môi trường là một dự án khác do Bộ Môi trường và Tài nguyên nước
phối hợp với Ủy bản Phát triển kinh tế (EDB) đề xuất vào năm 2003. Mục đích là
tạo ra một cơ quan "một cửa" để các công ty có thể tiếp cận với các bộ ban ngành có
trách nhiệm của chính phủ để được hỗ trợ về cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, pháp
luật và tài chính. Ví dụ, thông qua Cơ quan bảo vệ môi trường (NEA), các công ty
có thể tiếp cận với cơ sở hạ tầng công cộng để thử nghiệm sản phẩm mới, sau đó mới
chính thức thương mại hóa sản phẩm. Các ưu đãi này áp dụng cho cả công ty nước
ngoài có hiện diện thương mại tại Singapore. Do đó, các công ty dịch vụ môi trường
nước ngoài sẽ có động lực để tham gia vào thị trường này.
Bên cạnh đó, Singapore còn thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo và triển
lãm thương mại về lĩnh vực môi trường. Đây là cơ hội để các công ty dịch vụ môi https://giaoandientu.net/

37


trường trong nước và nước ngoài tiếp xúc và thiết lập quan hệ với nhau, đồng thời
cũng là dịp để Singapore giới thiệu những chính sách thu hút đầu tư trong lĩnh vực
dịch vụ môi trường đến với các nhà đầu tư nước ngoài. Singapore hiện là quốc gia tổ
chức những hội thảo quốc tế uy tín như Hội nghị quốc tế và khử mặn và tái sử dụng
tài nguyên nước, Hội thảo quốc tế về công nghệ hydro, Hội thảo khu vực châu Á
Thái Bình Dương về tài nguyên nước
Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
• Nâng cao chất lượng môi trường đầu tư trong nước
Thu hút đầu tư nước ngoài cũng đồng thời là cải thiện môi trường kinh doanh
trong nước. Vì vậy, để thu hút đầu tư nước ngoài, Việt Nam cũng ngày càng phải
nâng cao chất lượng các dịch vụ hỗ trợ hoạt động kinh doanh trong nước. Đó là hiện
đại hóa dịch vụ ngân hàng, nâng cao trình độ tư vấn và cung cấp dịch vụ của dịch vụ
tư vấn quản lý, nhân sự, pháp lý, marketing v.v. Điều đó đồng nghĩa với ngoài hoàn
thiện hệ thống luật pháp liên quan, cải cách hành chính còn cần phải có chính sách
đào tạo lao động để có đủ nhân lực trình độ chuyên môn cao, thường xuyên cập nhật
và nhanh chóng nắm vững thông tin mới, công nghệ mới, đáp ứng được nhu cầu của
các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước.
• Thiết lập quỹ nghiên cứu và triển khai trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường
Việt Nam có thể thiết lập quỹ khuyến khích các hoạt động nghiên cứu và triển
khai cho doanh nghiệp. Hiện tại, chúng ta đã có nguồn kinh phí để hỗ trợ cá nhân và
tổ chức thực hiện nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, nên có một nguồn tài chính riêng
phục vụ cho nghiên cứu và triển khai trong lĩnh vực bảo vệ môi trường (hoặc tách ra
một quỹ từ ngân sách hiện có) ở các doanh nghiệp. Để thu hút đầu tư nước ngoài thì
các công ty trong nước và nước ngoài phải được trao quyền tiếp cận và hưởng hỗ trợ
này như nhau.
• Chế độ "một cửa" đối với giới thiệu dịch vụ môi trường
Singapore áp dụng chế độ một cửa không chỉ cho thủ tục hành chính mà còn
cho cả việc giới thiệu dịch vụ, sản phẩm môi trường mới đến cho các tổ chức công.
Nhờ đó các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ môi trường có cơ hội để https://giaoandientu.net/

38


đưa sản phẩm của mình đến với người sử dụng là các cơ quan thuộc chính phủ và
qua đó nhanh chóng thương mại hóa được sản phẩm của mình.
• Tổ chức triển lãm, hội thảo quốc tế về dịch vụ môi trường
Việt Nam có thể học hỏi Singapore, xây dựng thương hiệu riêng về các triển
lãm, hội chợ hoặc hội nghị quốc tế về một lĩnh vực môi trường hoặc tài nguyên thiên
nhiên nhất định mà mình có ưu thế. Singapore là quốc gia khan hiếm nước, do đó họ
cũng là quốc gia mạnh, có uy tín trong lĩnh vực quản lý nước và đã tổ chức được
những cuộc hội thảo, triển lãm lớn, nổi tiếng về công nghệ khai thác, sử dụng nước
và quản lý nước. Việt Nam cần xác định lĩnh vực ưu thế của mình nếu muốn xây
dựng một "thương hiệu", hình ảnh tương tự. Khi đó Việt Nam cũng sẽ có điều kiện
để thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ môi trường đó.
1.2.2. Bài học rút ra từ thành công của các nước
Môi trường kinh tế, chính trị - xã hội ổn định và minh bạch
Qua tình hình thu hút FDI và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến thu hút FDI
của một số nước, ta có thể nhận thấy các nhà ĐTNN khi xem xét quyết điṇh bỏ vốn
đầu tư vào một nước sẽ lựa chọn một nước có tình hình kinh tế cũng như chính trị ổn
định và minh bạch.
Tạo dựng cơ sở hạ tầng tốt
Qua kinh nghiệm tạo dựng được cơ sở hạ tầng tốt của các nước, Việt Nam cần
nỗ lực hơn nữa để tạo dựng được hệ thống hạ tầng giao thông cũng như nguồn nhân
lực chất lượng cao đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế nhằm thu hút được dòng
FDI chất lượng cao vào trong nước.
Không ngừng đổi mới và chú trọng hoạt động xúc tiến đầu tư
Ở các nước nói trên, hoạt động xúc tiến đầu tư được hết sức chú trọng và được
làm thường xuyên dưới nhiều hình thức rất đa dạng, phong phú và được thực hiện
dưới nhiều cấp độ khác nhau. Có cơ quan chuyên trách quản lý hoaṭ động xúc tiến
đầu tư, hoạt động xúc tiến đầu tư được tiến hành đa dạng nhưng vẫn được quản lý
thống nhất nên tránh được tình trạng xúc tiến đầu tư tràn lan, không có mục tiêu rõ
ràng hay chồng chéo giữa các tổ chức tham gia vận động đầu tư.
Dành nhiều ưu đãi tài chính cho các nhà đầu tư nước ngoài https://giaoandientu.net/

39


Các nước đã có những chính sách tài chính hấp dẫn dành cho các nhà đầu tư
như giảm thuế, ưu đãi tiền tệ,… nhằm thu hút nhiều nhất nguồn vốn FDI vào các
nước này.
Coi trọng đầu tư cho giáo dục và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Nguồn nhân lực chất lươṇg cao là một yếu tố đặc biệt hấp dẫn các nhà ĐTNN. Các
nước đã rất coi trọng đầu tư cho giáo dục và phát triển kỹ năng người lao động. Thực
hiện trang bi ̣miễn phí máy tính cho mỗi lớp học, miễn phí dạy tin học cho mọi đối
tượng,…, dành nhiều ngân sách cho hoạt động R&D - lĩnh vực có đóng góp đáng kể
đối với quá trình phát triển nguồn nhân lực trong dài hạn của đất nước.
1.3. Bài học kinh nghiệm cho quá trình thu hút vốn đầu tư nói chung và
thu hút vốn đầu tư vào dịch vụ môi trường nói riêng tại Việt Nam
Qua nghiên cứu kinh nghiệm thu hút vốn FDI của một số nước ,từ đó rút ra
những kinh nghiệm cho Việt Nam trong thu hút vốn FDI như sau:
➢ Đối với đầu tư FDI nói chung
Thứ nhất, môi trường kinh tế, chính trị - xã hội phải ổn định và tăng cường vai
trò của chính quyền địa phương
Điều kiện tiên quyết để thu hút vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài là cần có sự
ổn định về chính trị - xã hội và môi trường kinh tế. Sự ổn định này sẽ hạn chế rủi ro
cho các nhà đầu tư nước ngoài. Chính quyền địa phương cần làm tốt việc kiểm tra
các thủ tục cấp giấy phép đầu tư, nắm chắc thông tin về đối tác, công nghệ, xem xét
cụ thể về quy mô diện tích, địa điểm xây dựng các dự án cho phù hợp. Phối hợp chặt
chẽ giữa các sở, ban, ngành và địa phương liên quan cũng như với các cơ quan Trung
ương trong việc thẩm tra, cấp phép các dự án đầu tư và theo dõi, đôn đốc các dự án
đầu tư sau cấp phép. Mặc dù đã phân cấp thẩm quyền nhưng vẫn rất cần sự phối hợp
thông tin giữa địa phương với Trung ương. Điều này đặc biệt quan trọng nhằm tránh
các dự án “bong bóng”, tức là các dự án được thổi phồng lên với mục đích nhanh
chóng có được giấy phép đầu tư từ phía chính quyền địa phương, phô trương thanh
thế để huy động vốn và nhất là được cấp nhiều đất. https://giaoandientu.net/

40


Các cấp chính quyền địa phương kiểm tra, giám sát, cùng đồng hành với nhà
đầu tư nước ngoài để hướng dẫn, tạo điều kiện, kịp thời tháo gỡ những vướng mắc
cho các dự án đầu tư thực hiện đúng cam kết và kiên quyết thu hồi các dự án triển
khai chậm tiến độ, các dự án treo. Phối hợp với Ban quản lý các KCN, KKT kiểm tra
việc chấp hành luật pháp Việt Nam của các nhà đầu tư nước ngoài như: bảo vệ môi
trường, tiền công, tiền lương, bảo hiểm, an toàn lao động…
Tăng cường vai trò của các cấp chính quyền trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài
là rất cần thiết để tạo môi trường thu hút đầu tư, bảo đảm đầu tư nước ngoài theo quy
hoạch, định hướng của nhà nước, khai thác nguồn lực có hiệu quả, bảo vệ tài nguyên
môi trường, bảo đảm sự phát triển bền vững tại địa phương.
Thứ hai, cần chú trọng và tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật tạo
thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài
Đẩy mạnh xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật. Vấn đề này được
các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài quan tâm hàng đầu. Với một kết cấu hạ tầng tương
đối hoàn chỉnh và hiện đại sẽ đảm bảo thực hiện di chuyển vốn nhanh và kịp thời ứng
phó với những biến động của thị trường. Tăng cường chất lượng cơ sở hạ tầng giúp
giảm chi phí kinh doanh cho các nhà đầu tư là yêu cầu cấp bách, không chỉ có tác
dụng thu hút thêm các dự án FDI mà còn giữ chân những dự án đang hiện hữu.
Vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nên huy động từ nhiều nguồn khác nhau:
vốn ngân sách, vay thương mại, phát hành trái phiếu, khuyến khích vốn tư nhân đầu
tư cho các dự án Nhà nước…cần có quy chế ưu đãi rõ ràng, cụ thể và đủ sức hấp dẫn
đối với các hình thức đầu tư khác nhau vào các dự án, lĩnh vực trọng điểm. Phát triển
hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật không chỉ tăng sự hấp dẫn của môi trường đầu tư mà
còn tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài, tăng thu hút vốn nước
ngoài đầu tư vào lĩnh vực hạ tầng…
Thứ ba, thủ tục hành chính cần đơn giản, gọn nhẹ
Phải thường xuyên rà soát, sửa đổi bổ sung các quy định hành chính liên quan
đến hoạt động đầu tư để vừa khuyến khích các nhà đầu tư vừa đảm bảo phù hợp với
các quy định chung của Nhà nước, tránh trường hợp “xé rào” trong thủ tục hành chính
nhưng sau đó phải dừng lại, gây mất lòng tin đối với các nhà đầu tư. Các thủ tục hành https://giaoandientu.net/

41


chính cần công khai hoá, minh bạch hoá và được công bố rộng rãi trên các phương
tiện thông tin đại chúng, đảm bảo thông tin đến với các nhà đầu tư nước ngoài một
cách thuận lợi nhất. Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính
liên quan đến lĩnh vực FDI, đơn giản hoá thủ tục thẩm định và cấp phép đầu tư, kiên
quyết xử lý những trường hợp hạch sách, nhũng nhiễu, vô trách nhiệm của các cán
bộ cơ quan công quyền. Xây dựng và triển khai cơ chế “một cửa liên thông” trong xử
lý hồ sơ của nhà đầu tư, thực hiện cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh qua mạng.
Thứ tư, tăng cường các dịch vụ hỗ trợ để thu hút nguồn vốn FDI
Chính sách phát triển dịch vụ hỗ trợ liên quan đến hoạt ñộng FDI là rất cần thiết
cho các nhà đầu tư nước ngoài như: dịch vụ tư vấn hỗ trợ trong thực hiện các thủ tục
hành chính, tư vấn pháp luật, cung cấp các thông tin đến thị trường, các chương trình
marketing, các hỗ trợ để doanh nghiệp có thể tiếp cận được các dịch vụ tài chính, vận
tải, kho bãi, hay chuyển giao công nghệ, dịch vụ hỗ trợ sau cấp phép…
Thứ năm, đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao tại địa phương
Phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực cho các
ngành công nghệ cao. Phát triển và đổi mới cơ bản đào tạo, dạy nghề theo định hướng
yêu cầu của thị trường lao động, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế, của các nhà đầu tư
nước ngoài và yêu cầu việc làm của người lao động. Phát triển thị trường lao động và
hoàn thiện thị trường lao động theo hướng tiếp cận với chuẩn mực chung của quốc tế
về đào tạo, dạy nghề, về lao động, việc làm, phù hợp với thông lệ và cam kết quốc tế
của đất nước trong quá trình hội nhập địa phương phải có chính sách dào tạo nguồn
nhân lực đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư nước ngoài, trong trường hợp không
đào tạo được thì phải có các chính sách thu hút nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất
lượng cao. Nâng cao trình độ thẩm định dự án của các cán bộ phụ trách tại địa phương
cũng là vấn đề cần được quan tâm, bồi dưỡng.
Thứ sáu, coi trọng quy hoạch và xúc tiến đầu tư
Chủ động chủ trì và phối hợp với các cơ quan sở, ban, ngành sớm xây dựng và
quản lý thống nhất triển khai các quy hoạch tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội,
quy hoạch không gian sử dụng đất, cũng như quy hoạch chi tiết các ngành, lãnh thổ
cần thiết. Trừ một số dự án đặc thù như khai thác chế biến khoáng sản, chế biến nông https://giaoandientu.net/

42


sản gắn với vùng nguyên liệu, các dự án cần đặt tại nơi có thị trường tiêu thụ trực
tiếp, cần định hướng quy tụ các dự án FDI tập trung vào các KKT, KCN được xây
dựng phù hợp theo quy hoạch, đáp ứng các tiêu chuẩn kiểm soát môi trường nghiêm
ngặt. Trên cơ sở đó, hình thành các danh mục, dự án gọi vốn đầu tư nước ngoài và
tiến hành xúc tiến đầu tư có địa chỉ theo lộ trình thích hợp, trong đó xác định rõ yêu
cầu về đối tác dự án, sản phẩm, công suất, tiến độ, trình độ công nghệ, thị trường tiêu
thụ, địa bàn thực hiện dự án, các chính sách khuyến khích, ưu đãi cần thiết.
Thứ bảy, chủ động lựa chọn các dự án, nhà đầu tư nước ngoài và công nghệ
phù hợp
Phải chủ động lựa chọn dự án FDI, tránh tình trạng dễ dãi, tuỳ tiện, tin vào
những lời hứa hẹn của nhà đầu tư nước ngoài mà buộc phải có thiết kế dự án cụ thể
khả thi và đầu tư vào khâu bảo vệ môi trường mới cấp phép cho triển khai dự án. Nếu
nhà đầu tư nước ngoài có quyền lựa chọn địa điểm và nước để đầu tư thì địa phương
cũng có quyền cho phép hoặc từ chối những dự án không có lợi cho cộng đồng dân
cư. Định hướng đầu tư, kiên quyết từ chối cấp giấy phép cho các ngành chưa khuyến
khích, hướng vào những ngành mà địa phương cần vốn và công nghệ để cải tạo, nâng
cấp, phát triển. Không chấp nhận cho đầu tư những ngành, lĩnh vực dù tạo nhiều việc
làm nhưng kỹ thuật trung bình, gây ô nhiễm môi trường. Phải xem xét kỹ các dự án
có vốn đầu tư lớn, tìm hiểu cụ thể thương hiệu và năng lực thực tế của đối tác, thực
hiện nguyên tắc “Chưa biết rõ về nhà đầu tư nước ngoài thì chưa cấp giấy phép đầu
tư”. Phải có quan điểm đúng đắn, giải quyết mối quan hệ giữa lợi ích trước mắt và
lợi ích lâu dài để bảo đảm sự phát triển bền vững.
Thứ tám, địa phương cần hoàn thiện khung pháp lý phù hợp với pháp luật Việt
Nam nhưng vẫn đảm bảo thông thoáng hơn
Cần có kiến nghị với Nhà nước về những chính sách chưa phù hợp, gây cản trở,
vướng mắc, khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư nước
ngoài; những chính sách ưu đãi chưa phù hợp với quy định của pháp luật để từ đó
Nhà nước đưa ra các biện pháp điều chỉnh kịp thời cho phù hợp với pháp luật Việt
Nam nhưng vẫn đảm bảo thông thoáng tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài.
➢ Đối với dịch vụ môi trường https://giaoandientu.net/

43


Phát triển khung chính sách pháp luật
Điểm đầu tiên cần phải nhấn mạnh là dịch vụ môi trường là ngành chịu tác động
lớn của chính sách, vì vậy, nó chịu sự chi phối của các định hướng chính sách. Sự
phát triển và thành công của ngành dịch vụ môi trường trên thế giới, thể hiện qua con
số thị phần và giá trị thị trường, đã cho thấy một kinh nghiệm thực tế là trong từng
giai đoạn, phải có được một định hướng phù hợp cho sự phát triển khoa học công
nghệ và chính sách xã hội trong ngành dịch vụ môi trường. Ví dụ cụ thể như Mỹ,
quốc gia phát triển hàng đẩu ngành dịch vụ môi trường lại chịu thua thiệt rát nhiêu
trong lĩnh vực năng lượng mới và năng lượng tái tạo do thiếu sự quan tâm từ phía
chính phủ, so với các doanh nghiệp ở châu Âu, nơi mà các Chính phủ khuyến khích
rất mạnh việc sử dụng năng lượng tái tạo, thậm chí so với cả Trung Quốc, quốc gia
đang phát triển có nhu cầu năng lượng lớn thứ hai thế giới, bởi chính sách khuyến
khích sử dụng năng lượng tái tạo trên cơ sở giá rẻ mặc dù chất lượng không cao.
Theo sự xác định các định hướng cụ thể, việc đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính
sách, bao gốm các chính sách thị trường, cơ chế và chính sách đầu tư, cũng như các
chính sách hỗ trợ và phát triển khoa học công nghệ củng cần được tiến hành kịp thời
và đổng bộ, nhằm đảm bảo tạo ra thị trường mới, mở, với môi trường đầu tư thích
hợp cho doanh nghiệp công nghiệp môi trường, nâng cao sức cạnh tranh của các
doanh nghiệp này với các doanh nghiệp ngoài ngành cả về nguồn lực, năng lực công
nghệ, năng lực quản lý.
Phát triển các doanh nghiệp về dịch vụ môi trường chính quy có quy mô lớn.
Trong lĩnh vực tái chế tại Việt Nam, đa phần các đơn vị tham gia tái chế thuộc
thành phần tư nhân phi chính quy. Hoạt động tái chế ở quy mô phi chính quy tạo ra
công ăn việc làm và cải thiện thu nhập cho nhiều hộ gia đình, nhưng lại tạo ra sản
phẩm chát lượng thấp và gây tác động tiêu cực đến môi trường và sức khỏe cộng
đổng. Vì vậy, một mặt Việt Nam vẫn cần nhìn nhận vai trò đang tổn tại của khu vực
tư nhân phi chính quy, nhưng một mặt khác, đã cẩn phải xác định lộ trình và cơ chế
chính quy hóa doanh nghiệp cho sự phát triển chung trong tương lai gần. Thực tế
cũng chỉ ra rằng, ở Việt Nam, các doanh nghiệp tư nhân đang chiếm ưu thê trong https://giaoandientu.net/

44


ngành dịch vụ môi trường, với việc hình thành các công ty cổ phần, hình thành các
liên doanh liên kết với nhiều thành phần, kết quả là việc nâng cao rõ rệt hiệu quả hoạt
động và kinh doanh.
Ngoài ra, trong bối cảnh hội nhập khu vực và thế giới các doanh nghiệp dịch vụ
môi trường Việt Nam cũng cần hợp tác liên doanh với các doanh nghiệp cùng loại
trong khu vực và thế giới để học hỏi kinh nghiệm, giải mã công nghệ nhằm nâng cao
năng lực nội địa trong xu thế vừa hợp tác vừa cạnh tranh.
Cần liên kết chặt chẽ doanh nghiệp dịch vụ môi trường với nghiên cứu khoa
học.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy sự liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp dịch vụ
môi trường với các đơn vị nghiên cứu khoa học là hướng đi phù hợp hơn là việc phát
triển các thành phần nghiên cứu ngay trong doanh nghiệp. Điểu này có thể thấy ở hầu
hết các quốc gia phát triển, sự liên kết chặt chẽ này đã tận dụng thế mạnh trong nghiên
cứu lý thuyết và thực nghiệm mà đặc biệt là ưu thế trong các nghiên cứu tiên tiến trên
mọi lĩnh vực của các đơn vị nghiên cứu cũng như ưu thế vẽ tài chính của các doanh
nghiệp môi trường. Trong trường hợp này, doanh nghiệp là "người đặt hàng" cho các
đơn vị nghiên cứu dựa vào nhu cầu của xã hội. Sự kết hợp này cho phép doanh nghiệp
giảm chi phí đầu tư phát triển nghiên cứu khoa học, đổng thời có được các thành quả
nghiên cứu mới nhát, cũng như có điếu kiện phù hợp nhất ứng dụng kết quả nghiên
cứu lý thuyết và thực nghiệm vào thực tế, đáp ứng được nhu cầu của xã hội.
Tại Việt Nam hiện nay, mặc dù đã có rất nhiều chương trình, đề án nghiên cứu
phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sản xuất công nghiệp nói chung và dịch vụ
môi trường nói riêng, nhưng thực tế kế thừa thành quả và kết quả của các chương
trình và đế án này vào trong các ngành dịch vụ môi trường còn rất khiêm tốn. Trong
khi đó, nhiều doanh nghiệp thiếu thổn về cơ sở vật chất, nguồn lực nghiên cứu, dẫn
đến việc lãng phí thời gian, tài chính và công sức của bản thân doanh nghiệp, nhưng
hiệu quả không cao. Đây là một trong những yếu tố cẩn phải được chú ý hàng đẩu
trong quy hoạch định hướng phát triển ngành dịch vụ môi trường ở Việt Nam.
https://giaoandientu.net/

45


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ FDI VÀO CÁC DỊCH VỤ MÔI
TRƯỜNG TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2012-2016
2.1. Tổng quan về tình hình vốn đầu tư FDI vào các dịch vụ môi trường tại
Việt Nam trong những năm qua
2.1.1. Số lượng dự án đầu tư vào các dịch vụ môi trường tại Việt Nam trong
những năm qua
Đầu tư FDI trong lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ môi trường có xu hướng tăng
mạnh.Đối với khu vực FDI, theo số liệu thống kê của cục đầu tư nước ngoài tính lũy
kế đến ngày 31/12/2014, lĩnh vực cấp nước xử lý chất thải là 38 dự án với số vốn điều
lệ là 368,62 triệu USD và tổng vốn đầu tư đăng ký là 1.348,49 triệu USD. Số DN FDI
tham gia vào lĩnh vực này cũng tăng từ 5 doanh nghiệp (năm 2005) lên 37 doanh
nghiệp vào năm 2012. Kết quả khảo sát cũng cho thấy, kết quả kinh doanh của các
DN FDI trong lĩnh vực hàng hóa và dịch vụ môi trường tương đối khả quan. Các nhà
đầu tư nước ngoài và Việt Nam ngày càng nhận ra những lợi ích tiềm năng của việc
đầu tư vào trong các lĩnh vực hàng hóa dịch vụ môi trường tại Việt Nam.
Thực tế cũng cho thấy tăng trưởng kinh tế và phát triển công nghiệp đã tạo ra
áp lực và hệ quả về môi trường ngày càng cao. Trong đó, lĩnh vực xử lí chất thải nước
được tập trung nhiều nhất.
“Dự báo nhu cầu về vốn cho bảo vệ môi trường của Việt Nam năm sau luôn
tăng hơn năm trước. Dự kiến đến năm 2020 mức vốn đầu tư cho bảo vệ môi trường
ở Việt Nam sẽ ở mức khoảng trên 40.000 tỉ đồng”.
Theo nhận định của các chuyên gia, môi trường pháp lý của Việt Nam và đầu
tư trong các lĩnh vực hàng hóa dịch vụ môi trường đang có nhiều thuận lợi. Đầu tư
vào hàng hóa dịch vụ môi trường thực sự được khuyến khích với các chính sách miễn,
giảm đáng kể thuế nhập khẩu và phí sử dụng đất. Lợi ích của các nhà đầu tư sẽ gia
tăng nếu có các khoản đầu tư liên quan đến chuyển giao công nghệ mới đặc biệt là
công nghệ cao. Đồng thời các nhà đầu tư sẽ được hưởng lợi ích tối đa nếu thực hiện
các dự án đầu tư tại các địa bàn được khuyến khích đầu tư. Ngoài ra đầu từ vào ngành https://giaoandientu.net/

46


hàng hóa và dịch vụ môi trường cũng sẽ được hưởng lợi từ việc bảo hộ sở hữu trí tuệ
liên quan đến các công nghệ được chuyển giao.
Trong những năm gần đây, tỷ trọng của ngành DVMT trong GDP có xu hướng
tăng lên, từ mức 0,51% năm 2005 đã tăng lên gần 0,57% năm 2013, đáp ứng khoảng
5% nhu cầu xử lý chế biến nước thải đô thị, chế biến khoảng 15% nhu cầu chất thải
rắn và 14% lượng chất thải nguy hại. Trong năm 2014, theo báo cáo của Bộ Công
Thương, ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải có tốc độ tăng
trưởng thấp hơn so với mức tăng chung toàn ngành, đạt 6,4%, thấp hơn mức tăng
cùng kỳ năm trước (9,1%).
Hiện nay, quy mô thị trường DVMT của Việt Nam theo số liệu thống kê của
Trung tâm Thương mại Quốc tế (ITC) dựa vào danh mục của OECD năm 2015 vào
khoảng 30 tỷ USD và có xu hướng tăng liên tục với tốc độ trên 8%/năm. Việt Nam
hiện đứng thứ 21 trong tổng số 21 nền kinh tế thành viên Diễn đàn Hợp tác Kinh tế
Châu Á – Thái Bình Dương (APEC) về xuất khẩu DVMT với xuất khẩu trung bình
năm giai đoạn 2008-2014 hơn 1,4 tỷ USD. Ngoài ra, chúng ta vẫn đứng ở vị trí rất
thấp so với các quốc gia trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Indonexia… Tuy
nhiên, Việt Nam nằm trong top 20 quốc gia trên thế giới về nhập khẩu DVMT với
quy mô nhập khẩu trung bình giai đoạn 2008-2014 vào khoảng 4 tỷ USD. Xuất nhập
khẩu DVMT của Việt Nam tập trung vào nhóm các máy móc, thiết bị, gồm các linh
kiện cho sản xuất năng lượng tái tạo, các sản phẩm tiết kiệm điện, các linh kiện cho
hoạt động của các nhà máy tái chế, xử lý nước thải, rác thải, khí thải… Mặc dù vậy,
dựa vào các số liệu về thị trường DVMT và danh mục theo phân loại DVMT của Việt
Nam thì có sự chênh lệch rất lớn về quy mô thị trường do nhiều DVMT không được
đưa vào thống kê.
Bảng 2.1: Thực trạng số lượng dự án đầu tư nước ngoài
Stt Ngành
Số dự
án cấp
mới
Vốn ĐK
mới (triệu
USD)
Số dự
án tăng
vốn
Vốn
ĐK
thêm
Vốn ĐK
cấp mới và
tăng thêm
1 Giáo dục và đào tạo 25 77,26 2 0,20 77,46
2 Thông tin và truyền thông 160 69,34 19 6,56 75,90
3 Cấp nước, xử lý chất thải 8 368,62 0 0,00 63,31 https://giaoandientu.net/

47


4 Hành chính và hỗ trợ 11 8,39 1 0,18 8,57
5 Dịch vụ khác 13 5,35 4 1,91 7,26
6 Khai khoáng 5 101,65 2 5,65 107,30
7 Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm 3 9,68 0 0,00 9,68
8 Nghệ thuật và giải trí 7 10,89 1 3,7 14,59
Tổng số 232 651.18 29 18,2 364.2
(Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ kế hoạch và đầu tư)
2.1.2. Quy mô của các dự án đầu tư vào các dịch vụ môi trường tại Việt Nam
trong những năm qua
Theo số liệu điều tra, khảo sát cho thấy, hiện có 3.769 doanh nghiệp (DN) hoạt
động trong lĩnh vực DVMT do địa phương cấp phép, hoạt động tại 46 tỉnh, thành phố
và 96 DN do Bộ TN&MT cấp phép (là các DN hoạt động liên vùng, liên tỉnh, hoạt
động chủ yếu trong lĩnh vực thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải nguy hại).
Các doanh nghiệp do địa phương cáp phép: Theo sô liệu thống kê, hiện có 13
tỉnh/thành phố (TP) dẫn đầu về số lượng DN hoạt động trong lĩnh vực DVMT là TP.
Hà Nội (1.258 DN), tiếp đến là TP. Hồ Chí Minh (1.025 DN), Hưng Yên (417 DN),
Hải Phòng (114 DN), Đắc Lắc (100 DN), Bình Phuơc (75 DN), Thái Bình (75 DN),
TP. Đà Nẵng (72 DN), Thanh Hóa (66 DN), Đồng Nai (55 DN), cần Thơ (54 DN),
Lâm Đồng (53 DN), Bắc Giang (51 DN). Chủ yếu các DN DVMT phân bố ở các tỉnh,
TP lớn, chiếm 90,61% tổng số DN DVMT cả nước.
Nhiều tỉnh thuộc khu vực miền núi phía Bắc, khu vục Tây Nguyên, khu vực Tây
Nam Bộ gần như không có DN hoạt động trong lĩnh vực DVMT về quan trắc, phân
tích môi trường; thiết kế, chế tạo, xây dựng hệ thống xử lý chất thải; phát triển, chuyển
giao công nghệ sản xuất thân thiện với môi trường; kiểm toán môi trường.
Các doanh nghiệp do Bộ TN&MT cấp phép: Giai đoạn 2001- 2011, Bộ TN&MT
đã cấp phép cho 96 DN, trong đó phạm vi hoạt động của các DN được phân bố như
sau: Có 7 DN hoạt động tại 8 vùng trên cả nước, 2 DN hoạt động tại 7 vùng, 2 DN
hoạt động tại 6 vùng, 4 DN hoạt động tại 5 vùng, 29 DN hoạt động tại 4 vùng, 23 DN
hoạt động tại 3 vùng, 26 DN hoạt động tại 2 vùng và 3 DN hoạt động tại 1 vùng. Các
DN thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải nguy hại (CTNH) chủ yếu được thành lập
tại các vùng công nghiệp phát triển cao kéo theo sự phát thải lớn. Địa bàn hoạt động https://giaoandientu.net/

48


của DN DVMT cũng rất rộng, vượt ra khỏi phạm vi của một tỉnh, TP, nhiều DN đã
hoạt động rộng khắp cả nước, không phụ thuộc vào vị trí phân bố.
Ngoài sự phân bố không đồng đều về số lượng các DN DVMT trên địa bàn toàn
quốc, việc cung cấp các loại hình DVMT của các DN trên cũng khác nhau. Theo số
liệu điều tra cho thấy, trong số các DN DVMT, chưa có DN nào có khả năng cung
cấp tất cả các loại hình dịch vụ; các DN có khả năng cung cấp từ 2 loại hình dịch vụ
trở lên tập trung tại các thành phố lớn như: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng...
Phần lớn, các DN chủ yếu tập trung vào các mảng dịch vụ có nhu cầu cao xuất phát
từ các yêu cầu trong Luật BVMT 2005 như dịch vụ thiết kế, chế tạo, xây dựng hệ
thống xử lý chất thải; lập, thẩm định báo cáo Đánh giá tác động môi trường, Đánh giá
môi trường chiên lược; quan trắc và phân tích môi trường; tư vấn, đào tạo, cung cấp
thông tin môi trường [32].
Bên cạnh một số lĩnh vực dịch vụ môi trường đã hoạt động từ lâu đời như dịch
vụ thu gom, xử lý rác thải sinh hoạt, dịch vụ quan trắc và phân tích môi trường thì đa
số các lĩnh vực dịch vụ còn lại ở Việt Nam còn tương đối mới mẻ. Trong các doanh
nghiệp DVMT được điều tra cho thấy hầu hết các doanh nghiệp đều đăng ký hoạt
động từ 2 loại hình dịch vụ môi trường trở lên, chưa có doanh nghiệp nào có khả năng
cung cấp tất cả 09 loại hình dịch vụ, các doanh nghiệp có khả năng cung cấp từ 5 dịch
vụ trở lên chiếm tỉ lệ nhỏ, tập trung tại các thành phố như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Hải
Phòng…
Trong số 493 doanh nghiệp được điều tra cho thấy, các doanh nghiệp hoạt động
chủ yếu trong dịch vụ tư vấn, đào tạo, cung cấp thông tin về môi trường (chiếm 50%);
lĩnh vực dịch vụ thiết kế, chế tạo, xây dựng hệ thống xử lý chất thải (chiếm 43%);
dịch vụ thu gom, vận chuyển, tái chế, xử lý chất thải (chiếm 45%); tiếp theo là dịch
vụ quan trắc, phân tích môi trường (chiếm 20%); dịch vụ khắc phục và cải tạo môi
trường (chiếm 9%); dịch vụ phát triển, chuyển giao công nghệ sản xuất thân thiện với
môi trường, công nghệ môi trường (chiếm 6%). Các doanh nghiệp hoạt động trong
một số lĩnh vực khác còn khá khiêm tốn như doanh nghiệp DVMT đối với máy móc,
thiết bị, công nghệ, giám định thiệt hại về môi trường (chiếm 3%); dịch vụ kiểm toán https://giaoandientu.net/

49


môi trường hầu như chưa có (chỉ chiếm 1%); không có doanh nghiệp cung cấp dịch
vụ thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường (chiếm 0%).
Biểu đồ 2.1: Quy mô các dự án đầu tư vào dịch vụ môi trường tại Việt Nam
2012-1016
Đơn vị: Triệu USD

(Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài, Báo cáo tình hình FDI tại Việt Nam 2012-2016)
Qua biểu đồ trên ta thấy quy mô các doanh nghiệp và dự án FDI đầu tư vào
lĩnh vực môi trường luôn tăng đều qua các năm. Đặc biệt là ngành dịch vụ thu om,
xử lý, tiêu hủy rác thải phế liệu luôn chiếm tỷ trọng cao. Thực tế đó cho thấy một
điều là, ngành công nghiệp môi trường ở nước ta còn kém phát triển, công nghệ mới
chỉ tập trung vào việc giải quyết được khâu cơ bản của chất thải rắn, chưa có sự đầu
tư đúng mức và chiều sâu vào xử lý chất thải mang tính hệ thống
Các doanh nghiệp môi trường nói chung và doanh nghiệp cung cấp dịch vụ môi
trường nói riêng phần lớn được xếp vào doanh nghiệp vừa và nhỏ, thậm chí siêu nhỏ,
ít doanh nghiệp lớn. Theo số liệu điều tra, khảo sát tại 493 doanh nghiệp cho thấy,
vốn đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp trung bình là 35.856.404.908/1 đơn
vị.
Trong lĩnh vực xử lý nước thải công nghiệp, một số công ty có quy mô khá lớn
như SEEN, Công ty Môi trường Á Đông, Công ty môi trường ECO; một số công ty
0
100
200
300
400
500
600
2012 2013 2014 2015 2016
thoát nước và xử lý
chất thải
xử lý ô nhiễm và quản lý
chất thải
dịch vụ vệ sinh nhà cửa,
công trình cảnh quan
thu gom, xử lý, tiêu hủy
rác thải phế liệuhttps://giaoandientu.net/

50


nước ngoài chuyên thực hiện các dự án ODA chính phủ trong lĩnh vực này như
EBARA (Nhật Bản), xử lý các loại nước thải công nghiệp như Glơwtech (Singapore),
xử lý và chế biến rác CSW (Hoa Kỳ).
Biểu đồ 2.2. Quy mô đầu tư theo đối tác

(Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài, Báo cáo tình hình FDI tại Việt Nam 2012-2016)
Những đối tác ở khu vực Châu Á chủ yếu là Nhật Bản đứng đầu với 107 dự án,
sau đó là Hàn Quốc với 47 dự án, Singapore và Thái Lan có số dự án bằng nhau là
25 dự án. Ở khu vực Mỹ và EU chủ yếu là Hoa Kỳ với 20 dự án, Pháp với 17 dự án,
Vương quốc Anh với 15 dự án.
Kết quả điều tra, khảo sát của Hiệp hội CNMT trong năm 2015 cũng cho thấy:
Nhóm doanh nghiệm quy mô vốn từ 1 – 5 tỷ đồng là phổ biến nhất (315 DN, chiếm
28% tổng số DN); nếu tính cả các doanh nghiệp nhỏ hơn, có tới 592 doanh nghiệp,
chiếm tới 52,6% tổng số DN. Số doanh nghiệp lớn có số vốn trên 500 tỷ VNĐ chỉ là
32, chiếm 2,84% tổng số doanh nghiệp môi trường.
Theo niên giám thống kê năm 2014, Tổng sản phẩm theo giá hiện hành của
doanh nghiệp môi trường năm 2013 là 17.883 tỷ (0,499% GDP), năm 2014 là 19.526
tỷ (0,496% GDP); tăng trưởng 9,19%/năm, gần gấp đôi so với tăng trưởng GDP
47%
52%
1% 0%
Quy mô đầu tư theo đối tác
Mỹ và EU
Châu Á
Đối tác kháchttps://giaoandientu.net/

51


(5,98%), chiếm gần 0,5% tổng sản phẩm trong nước, cao hơn nhiều so với tăng trưởng
công nghiệp cùng kỳ (7,15%).
Như vậy, có thể nói, CNMT Việt Nam mới ở giai đoạn đầu của sự phát triển,
đóng góp trong tổng sản lượng công nghiệp cũng như GDP còn rất khiêm tốn, kể cả
so với mức trung bình của thế giới lẫn so với chính các ngành công nghiệp Việt Nam.
Điều này dẫn tới hai kết luận: (1) ngành CNMT của VN còn quá nhỏ, đồng nghĩa với
công tác bảo vệ môi trường được đáp ứng ở mức rất thấp so với nhu cầu; (2) nhu cầu
phát triển CNMT là rất lớn, dư địa để phát triển còn nhiều.
2.2. Thực trạng thu hút vốn đầu tư FDI vào các dịch vụ môi trường tại Việt
Nam giai đoạn 2012 – 2016
2.2.1. Thực trạng hoạch định kế hoạch, chiến lược thu hút vốn đầu tư FDI
vào các dịch vụ môi trường tại Việt Nam giai đoạn 2012 – 2016
Trong những năm qua, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách để
định hướng, thúc đẩy phát triển nhằm tận dụng các cơ hội của tự do hóa thương mại
và phát triển năng lực nội tại của các doanh nghiệp trong nước. Chính sách phát triển
DVMT của Việt nam trực tiếp nhất cho đến thời điểm hiện tại là Đề án “Phát triển
dịch vụ môi trường đến năm 2020” được ban hành kèm theo Quyết định số 249/QĐ-
TTG của Thủ tướng Chính phủ ngày 10 tháng 02 năm 2010.
Đề án trên thực hiện tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương với mục tiêu
đến năm 2020 đáp ứng nhu cầu xử lý 70% nước thải sinh hoạt tại các khu đô thị từ
loại IV trở lên; thu gom, xử lý 95% chất thải rắn tại các đô thị, 75% chất thải rắn tại
khu vực nông thôn; tái sử dụng, tái chế hoặc thu hồi năng lượng, sản xuất phân bón
từ ít nhất 85% chất thải rắn phát sinh; xử lý, tiêu hủy, chôn lấp an toàn sau xử lý, tiêu
hủy 85% chất thải nguy hại phát sinh; xử lý được 50% tỷ lệ diện tích đất bị ô nhiễm.
Tiến tới mở rộng thị trường cung cấp dịch vụ môi trường. Đến năm 2020 có các
doanh nghiệp đủ năng lực để giải quyết các vấn đề môi trường lớn, bức xúc của đất
nước bao gồm: Xử lý chất thải rắn cho các vùng kinh tế trọng điểm; cải tạo, phục hồi
môi trường đối với các khu vực bị ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ô nhiễm hóa
chất bảo vệ thực vật, dioxin; ứng phó, khắc phục sự cố môi trường; giám định về môi
trường đối với máy móc, thiết bị, công nghệ, giám định thiệt hại về môi trường. https://giaoandientu.net/

52


Đến năm 2030, phát triển mạng lưới doanh nghiệp dịch vụ môi trường đáp ứng
100% nhu cầu sử dụng dịch vụ môi trường ở trong nước; tiến tới mở rộng thị trường
cung cấp dịch vụ môi trường sang một số nước trong khu vực.
Đề án “Phát triển ngành Công nghiệp môi trường Việt Nam đến năm 2015,
tầm nhìn đến năm 2025” được ban hành theo Quyết định số 1030/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ ngày 20 tháng 7 năm 2009. Theo đó DVMT, sản xuất thiết bị môi
trường và sử dụng bền vững tài nguyên, phục hồi môi trường là ba lĩnh vực phát triển
chủ đạo của Việt Nam.
Đề án phấn đấu phát triển các công nghệ xử lý, tái chế chất thải, phân tích, quan
trắc, giám sát và kiểm soát ô nhiễm môi trường; công nghệ sử dụng bền vững tài
nguyên và phục hồi môi trường phù hợp với điều kiện của Việt Nam và xu hướng của
thế giới; đẩy mạnh ứng dụng và thương mại hóa các kết quả nghiên cứu, phát triển
công nghệ.
Đồng thời, phát triển sản xuất thiết bị và sản phẩm đáp ứng cơ bản nhu cầu bảo
vệ môi trường trong nước, từng bước tiến tới xuất khẩu các sản phẩm có lợi thế và
năng lực cạnh tranh; năng lực sản xuất trong nước đáp ứng khoảng 70 - 80% nhu cầu
thiết bị xử lý nước cấp và nước thải, 60 - 70% nhu cầu thiết bị xử lý và tái chế chất
thải rắn, 70 - 80% nhu cầu thiết bị xử lý khí thải, khoảng 50 - 60% nhu cầu thiết bị
thu gom, vận chuyển và phân loại chất thải, 40 - 50% nhu cầu thiết bị quan trắc môi
trường; 60 - 70% nhu cầu sản phẩm bảo vệ môi trường; 40 - 50% thiết bị sản xuất
năng lượng tái tạo; 60 - 70% thiết bị và công nghệ tiết kiệm năng lượng, sử dụng năng
lượng hiệu quả; 20 - 30% thiết bị, phương tiện sử dụng năng lượng tái tạo; xuất khẩu
được 20 - 30% các sản phẩm của ngành công nghiệp môi trường.
Phát triển dịch vụ môi trường cơ bản đáp ứng nhu cầu của xã hội về xử lý nước
thải, chất thải rắn đô thị, công nghiệp, chất thải nguy hại; phục hồi môi trường các
khu vực bị ô nhiễm và nhu cầu phân tích, quan trắc môi trường và các dịch vụ tư vấn
về môi trường, sử dụng bền vững tài nguyên, năng lượng.
Một trong những giải pháp để phát triển ngành công nghiệp môi trường mà Đề
án hướng tới là xây dựng, ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật trong lĩnh vực
công nghiệp môi trường, các bộ đơn giá dịch vụ môi trường, suất đầu tư theo công https://giaoandientu.net/

53


nghệ trong xử lý môi trường; phát triển công nghệ bảo vệ môi trường, sử dụng bền
vững tài nguyên và phục hồi môi trường; phát triển sản xuất, chế tạo, cung cấp các
thiết bị, phương tiện, dụng cụ, sản phẩm bảo vệ môi trường; phát triển thị trường và
thu hút đầu tư phát triển ngành công nghiệp môi trường...
Ngoài ra, Việt nam cũng đã ban hành rất nhiều chính sách định hướng nhằm
thúc đẩy phát triển DVMT như “Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm
2020 và tầm nhìn đến 2030”.
Để định hướng công tác BVMT trong bối cảnh và xu thế mới, Thủ tướng Chính
phủ đã phê duyệt Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn
đến năm 2030 tại Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 05 tháng 9 năm 2012. Chiến
lược có mục tiêu kiểm soát, hạn chế về cơ bản vào năm 2020, ngăn chặn và đẩy lùi
vào năm 2030 xu hướng gia tăng ô nhiễm môi trường, suy thoái, cạn kiệt tài nguyên
và suy giảm đa dạng sinh học, kết hợp cải thiện chất lượng môi trường sống, nâng
cao khả năng chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu nhằm bảo đảm nguồn tài nguyên
thiên nhiên, chất lượng môi trường phục vụ sự nghiệp phát triển bền vững đất nước.
Chiến lược đưa ra các định hướng lớn cho công tác bảo vệ môi trường giai đoạn đến
năm 2020, bao gồm:
1. Phòng ngừa và kiểm soát các nguồn ô nhiễm môi trường
2. Cải tạo phục hồi môi trường các khu vực đã bị ô nhiễm, suy thoái; đẩy mạnh
cung cấp nước sạch và dịch vụ vệ sinh môi trường
3. Khai thác, sử dụng hiệu quả và bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên;
bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học
4. Xây dựng năng lực ứng phó với biến đổi khí hậu, giảm nhẹ phát thải khí nhà
kính
Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến
2050”, “Kế hoạch hành động tăng trưởng Xanh quốc gia giai đoạn 2014-2020” với
các định hướng nhằm thúc đẩy sản xuất hàng hóa môi trường và cung ứng dịch vụ
môi trường.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng ban hành rất nhiều các chính sách hỗ trợ, ưu đãi
phát triển DVMT, chẳng hạn, Luật bảo vệ Môi trường năm 2014 cũng có các quy https://giaoandientu.net/

54


định về DVMT (Điều 150) với việc nhà nước đầu tư, hỗ trợ và khuyến khích tổ chức
cá nhân thành lập doanh nghiệp DVMT thông qua hình thức đấu thầu, cơ chế hợp tác
công tư. Luật đầu tư số 67/2014/QH13 do Quốc hội ban hành ngày 26/11/2014 có
quy định hoạt động thu gom, xử lý, tái chế hoặc tái sử dụng chất thải; Nghị định số
59/2007/NĐ-CP về quản lý chất thải rắn do Chính phủ ban hành ngày 9/4/2007 có
quy định nguồn vốn đầu tư và ưu đãi đầu tư trong xây dựng cơ sở xử lý chất thải rắn,
các công trình phụ trợ. Nghị định số 80/2014/NĐ-CP về thoát nước và xử lý nước
thải nhằm điều chỉnh các hoạt động thoát nước và xử lý nước thải do Chính phủ ban
hành ngày 6/8/2014 có quy định về các dự án thoát nước và xử lý nước thải đô thị,
khu dân cư nông thôn tập trung do các tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng được miễn
thuế nhập khẩu, miễn giảm tiền thuê đất, sử dụng đất, thuế sử dụng đất, thuế thu nhập
doanh nghiệp.
2.2.2. Thực trạng nguồn nhân lực thực hiện thu hút vốn đầu tư FDI vào các
dịch vụ môi trường tại Việt Nam giai đoạn 2012 – 2016
Phát triển nguồn nhân lực và nâng cao chất lượng lao động là nhiệm vụ quan
trọng, đảm bảo tính bền vững của tăng trưởng kinh tế, đồng thời cũng tạo điều kiện
để cải thiện môi trường đầu tư, tăng tính hấp dẫn đối với việc thu hút FDI của các
Công ty xuyên quốc gia (TNCs). Một đội ngũ công nhân lành nghề, công nhân kỹ
thuật, các nhà quản lý doanh nghiệp có năng lực sẽ là điều kiện rất thuận lợi cho các
Công ty xuyên quốc gia triển khai các dự án đầu tư một cách có hiệu quả.
Nguồn nhân lực chất lượng cao đảm bảo cho việc tiếp thu công nghệ mới, công
nghệ nguồn, làm chủ kỹ thuật và quy trình công nghệ sẽ đảm bảo cho các công ty
xuyên quốc gia có thể sử dụng tại chỗ và thực hiện triển khai công nghệ tiên tiến. Mặt
khác, với một quốc gia, để tăng trưởng kinh tế bền vững, nâng cao năng lực cạnh
tranh trong điều kiện toàn cầu hoá, khu vực hoá, trước hết phải dựa trên cơ sở chất
lượng và công nghệ tiên tiến chứ không chỉ cạnh tranh trên cơ sở các nguồn tài nguyên
hay giá nhân công rẻ. Vì vậy, nâng cao chất lượng đào tạo để phát triển nguồn nhân
lực có chất lượng cao là việc làm có ý nghĩa rất lớn cho cả trước mắt và lâu dài, đặc
biệt trong việc tiếp thu có hiệu quả nguồn vốn FDI của các Công ty xuyên quốc gia
vào phát triển kinh tế - xã hội đất nước. https://giaoandientu.net/

55


Trong quá trình đổi mới, việc xây dựng và phát triển nền kinh tế mở, hội nhập
của Việt Nam từ năm 1986 đến nay đã đặt ra hàng loạt vấn đề đòi hỏi phải giải quyết.
Một trong những vấn đề đó là phải nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực. Bởi
lẽ, đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài thì nguồn nhân lực có chất lượng
cao là một tiêu chí vô cùng quan trọng khi họ quyết định đầu tư.
Thực tiễn hai mươi năm đổi mới cho thấy, để thực hiện thành công sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chúng ta không thể không khai thác có hiệu
quả nguồn nhân lực tự nhiên; không thể không sử dụng cơ sở vật chất, tiềm năng
khoa học - kỹ thuật vốn có và tận dụng những khả năng to lớn về vốn, thị trường,
công nghệ, kinh nghiệm quản lý của các nước, đặc biệt là của các Công ty xuyên quốc
gia (TNCs) để xây dựng đất nước.
Cơ hội để Việt Nam thu hút FDI trong lĩnh vực công nghiệp môi trường tăng
cao đã khiến cho nhu cầu về nhân lực trong lĩnh vực này cũng tăng cao. Chẳng hạn
như, nhân lực làm việc trong ngành công nghiệp môi trường trong 5 năm 2006-2014
đã tăng gần gấp ba lần, từ 150.000 lên hơn 440.000 người, với tốc độ tăng trưởng
13%-18%/năm.
Tính đến năm 2014, Việt Nam có rất nhiều trường đại học và trung tâm đào tạo
nhân lực về lĩnh vực tài nguyên môi trường. Tuy nhiên, nhân lực cho ngành công
nghiệp môi trường còn rất nhiều hạn chế
Một là, nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp môi trường còn thiếu và chất
lượng chưa cao. Như ngành công nghiệp môi trường được dự kiến đến năm 2020 cần
tới 600.000 người, nhưng hiện chỉ đào tạo đáp ứng được hơn 60% nhu cầu. Hầu hết
các doanh nghiệp FDI đầu tư vào công nghiệp môi trường tại Việt Nam đều là những
hãng phát triển và kinh doanh công nghệ hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, thực tế là
nguồn nhân lực trình độ cao ở Việt Nam để đáp ứng yêu cầu rất khan hiếm.
Điển hình như Tập đoàn Samsung cần 2.000 nhân lực công nghệ cao đạt tiêu
chuẩn làm việc tại nhà máy, nhưng rất khó khăn trong tuyển dụng. Còn hãng Global
Cybersoft hàng năm phỏng vấn 20%-25% nhân lực , nhưng chỉ 10% đáp ứng được
yêu cầu. Trong khi đối tác tổ chức sát hạch các kỹ sư công nghệ của Việt Nam theo
tiêu chuẩn Nhật Bản, thì tỷ lệ đạt của các ứng viên chỉ dưới 10% . https://giaoandientu.net/

56


Hai là, chương trình đào tạo tại các trường còn tản mạn, chưa đáp ứng nhu cầu
thực tế của xã hội. Giáo trình và bài giảng còn nặng về lý thuyết, chủ yếu dạy nguyên
lý, cách giải quyết bài toán tổng quát, chưa bám sát được sự phát triển của công nghệ
tiên tiến trên thế giới. Chính vì thế, nguồn nhân lực sau đào tạo có nền tảng kiến thức
lý thuyết, nhưng kỹ năng thực hành, năng lực ứng dụng còn rất hạn chế, đặc biệt là
chưa được tiếp cận với công nghệ mới, tiên tiến đang diễn ra ở các doanh nghiệp
nước ngoài. Nội dung, phương thức đào tạo trong nhà trường và nhu cầu của các đơn
vị sử dụng nguồn nhân lực còn một khoảng cách khá xa, đào tạo chưa bám sát và
chưa gắn với thực tiễn về phía đơn vị sử dụng nguồn nhân lực.
Ba là, đào tạo nhân lực ở Việt Nam không theo tiêu chuẩn nào, vấn đề sinh viên
ra trường không có việc làm chủ yếu là do chất lượng đào tạo. Quy mô đào tạo còn
mang tính tràn lan không có tính định hướng, nặng về số lượng, chưa đáp ứng thực
chất theo nhu cầu. Mô hình đào tạo theo đơn đặt hàng, theo địa chỉ của các đơn vị sử
dụng lao động còn ít, dẫn đến tình trạng đầu ra đào tạo nguồn nhân lực thiếu cân đối
với nhu cầu thực tế.
Bốn là, khả năng ngoại ngữ, kỹ năng mềm kém. Nguồn nhân lực côngnghệ cao
của Việt Nam phần nhiều hạn chế về năng lực ngoại ngữ, khả nănghiểu biết về văn
hóa ứng xử, giao lưu quốc tế. Một điểm yếu nữa của nguồn nhân lực Việt Nam là khả
năng làm việc theo nhóm kém, trong khi các doanh nghiệp nước ngoài lại rất chú
trọng vào yếu tố này, bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả công việc.
Thời gian trước đây, DVMT được xem là một loại dịch vụ công nên chỉ có nhà
nước độc quyền thực hiện. Tuy nhiên gần đây, do thực hiện chủ trương xã hội hoá
công tác bảo vệ môi trường, tại nước ta đã xuất hiện các công ty tư nhân, công ty cổ
phần, hợp tác xã, viện trường trung tâm nghiên cứu tham gia cung ứng DVMT. Ngoài
ra, các hoạt động hợp tác quốc tế cũng huy động được sự hỗ trợ của nước ngoài vào
thực hiện các DVMT.
➢ Năng lực của các tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam
Đối với khu vực Nhà nước
Nhìn chung, ở mỗi tỉnh và thành phố đều có một số công ty phụ trách về môi
trường trên địa bàn tỉnh, dưới đó là các công ty cấp quận, huyện. Tuỳ từng địa phương https://giaoandientu.net/

57


mà cơ cấu tổ chức khác nhau. Tại một số địa phương, các công ty vệ sinh môi trường,
công ty cấp nước sạch, công ty cấp thoát nước đều thuộc khối doanh nghiệp công ích
và trực thuộc Sở Giao thông công chính, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Xây dựng
hoặc Uỷ ban nhân dân tỉnh/thành phố, . Dù là trực thuộc dưới một đơn vị chủ quản
nào, các đơn vị DVMT đều được cấp một khoản kinh phí hàng năm từ ngân sách Nhà
nước để thực hiện nhiệm vụ BVMT trên địa bàn tỉnh, thành phố. Các hoạt động được
thực hiện chủ yếu là đầu tư cho hệ thống hạ tầng môi trường như cấp thoát nước, thu
gom và xử lý chất thải rắn.
Đối với khu vực tư nhân
Tính đến nay khu vực tư nhân đã tham gia cung ứng vào nhiều lĩnh vực dịch
vụ vệ sinh môi trường với nhiều mức độ khác nhau như cấp thoát nước, xử lý nước
thải, khí thải, thu gom rác thải, hoạt động tư vấn, thiết kế... 40% lượng rác thải tại TP
Hồ Chí Minh được thu gom bởi các công ty tư nhân. Việc các nhà đầu tư tư nhân
tham gia ngày càng nhiều vào DVMT là một xu hướng tích cực, phù hợp yêu cầu xã
hội hoá công tác BVMT. Tuy nhiên, họ còn gặp nhiều khó khăn trong triển khai, ứng
dụng vì nhiều lý do: năng lực tài chính của các doanh nghiệp tư nhân có hạn, Nhà
nước lại chưa có những chính sách cụ thể nhằm tạo mọi điều kiện, nhất là về nguồn
vốn, vì thế các doanh nghiệp phải vừa triển khai ứng dụng, vừa hoàn thiện, chưa đủ
cơ sở để thuyết phục các địa phương tự bỏ vốn hoặc vay vốn xây dựng nhà máy.
2.2.3. Thực trạng đánh giá kết quả thực hiện quá trình thu hút vốn đầu tư
FDI vào các dịch vụ môi trường tại Việt Nam giai đoạn 2012 – 2016
Hiện trạng DVMT của Việt Nam được nhận định còn rất sơ khai, chỉ mới định
hình rõ và phát triển ở lĩnh vực chất thải và nước thải với tham gia của các doanh
nghiệp Nhà nước.
Về năng lực cung ứng dịch vụ: Hiện nay các doanh nghiệp DVMT của Việt
Nam hoạt động tập trung chủ yếu vào lĩnh vực nước thải và rác thải. Mặc dù có sự
gia tăng đáng kể về số lượng và quy mô các tổ chức DVMT nhưng về cơ bản mới chỉ
xử lý được một phần rất nhỏ chủ yếu là hoạt động thu gom và xử lý sơ bộ so với nhu
cầu của ngành, nhiều dịch vụ đòi hỏi công nghệ cao như xử lý khí thải… thì các doanh
nghiệp DVMT hầu như chưa đáp ứng được. Cho đến nay, năng lực ngành DVMT https://giaoandientu.net/

58


mới đáp ứng được 2-3% nhu cầu xử lý nước thải đô thị, 15% nhu cầu xử lý chất thải
rắn, khoảng 14% nhu cầu xử lý chất thải nguy hại; nhiều lĩnh vực như tái chế dầu
thải, nhựa phế liệu, chất thải điện, điện tử chưa phát triển.
Về phát triển nguồn nhân lực: các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc thu
hút nguồn nhân lực phù hợp trong lĩnh vực công nghệ và quản lý môi trường vốn vừa
thiếu lại vừa yếu của thị trường nhân lực trong nuớc.
Về năng lực công nghệ: Khả năng công nghệ của các doanh nghiệp đang ở mức
rất thấp, các công nghệ sử dụng không hiện đại. Một trong những lý do là tỷ suất lợi
ích/đầu tư trong lĩnh vực DVMT chưa cao cùng với cơ chế chính sách hỗ trợ chưa
hẳn rõ ràng, ưu đãi lớn để có thể thúc đẩy mạnh mẽ sự đầu tư của các doanh nghiệp
vào lĩnh vực này.
Về nguồn vốn: Thu hút vốn đầu tư vào phát triển ngành DVMT còn thấp, chưa
tương xứng với yêu cầu của xã hội, chủ yếu dựa vào kinh phí cấp từ nguồn vốn ngân
sách nhà nước, nhất là lĩnh vực dịch vụ xử lý nước thải đô thị. Doanh nghiệp trong
nước còn hạn chế về khả năng tiếp cận với các nguồn vốn ưu đãi khoa học công nghệ
tiên tiến, cũng như thông tin và khả năng tiếp cận thị trường so với doanh nghiệp
nước ngoài.
Về chính sách hỗ trợ phát triển: Hệ thống văn bản pháp lý có liên quan đến phát
triển DVMT vẫn còn rất thiếu, chưa đồng bộ, một số chưa có những văn bản hướng
dẫn thực thi. Chẳng hạn, Việt Nam chưa có danh mục phân loại chi tiết về DVMT
cũng như mã ngành trong phân ngành các sản phẩm. Ngoài ra, một số các văn bản
pháp lý có liên quan quy định về ưu đãi, hỗ trợ cho các hoạt động bảo vệ môi trường
lại thiếu các văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở để so sánh, phân loại và xác định
đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi, hỗ trợ.
2.3. Đánh giá chung về thực trạng thu hút vốn đầu tư FDI vào các dịch vụ
môi trường tại Việt Nam giai đoạn 2012 – 2016
Những kết quả đạt được
- Thứ nhất, vốn FDI vào dịch vụ môi trường bổ sung thêm vốn cho đầu tư phát
triển kinh tế xã hội của cả nước https://giaoandientu.net/

59


Đầu tư FDI trong lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ môi trường có xu hướng tăng
mạnh. Đối với khu vực FDI, theo số liệu thống kê của cục đầu tư nước ngoài tính lũy
kế đến ngày 31/12/2014, lĩnh vực cấp nước xử lý chất thải là 38 dự án với số vốn điều
lệ là 368,62 triệu USD và tổng vốn đầu tư đăng ký là 1.348,49 triệu USD.
Bảng 2.2. Tỷ trọng vốn FDI của DVMT trong tổng vốn FDI của toàn xã hội
Năm
Vốn FDI
từ DVMT
Vốn FDI
toàn xã hội
Tỷ trọng vốn FDI từ DVMT /
vốn FDI toàn xã hội (%)
2012 1.193 2.839 42,02
2013 1.691 3.143 53,80
2014 409 2.999 13,64
2015 34 3.191 1,07
2016 61 4.548 1,34
(Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài, Báo cáo tình hình FDI tại Việt Nam 2012-2016)
- Thứ hai, vốn FDI góp phần nâng cao năng lực sản xuất, nâng cao năng suất
lao động.
Bên cạnh hiệu quả kinh tế, qua thu hút đầu tư FDI, nhà nước đã tiếp thu những
công nghệ kĩ thuật hiện đại, kinh nghiệm quản lí tiên tiến. Ngoài ra, các doanh nghiệp
FDI luôn đòi hỏi người lao động phải nâng cao tay nghề, năng lực và trình độ quản lí
để đáp ứng với yêu cầu hội nhập; từ đó, làm cho đội ngũ lao động có trình độ của cả
nước tăng nhanh.
Vốn FDI góp phần chuyển giao công nghệ, nâng cao trình độ quản lý, chuyên
môn kỹ thuật cho công nhân, xây dựng thêm nhà máy, nhập khẩu thêm máy móc thiết
bị, thúc đẩy cải tạo, phát triển thêm các ngành công nghiệp.
- Thứ ba, tạo ra giá trị đóng góp vào GDP, vào giá trị sản xuất công nghiệp, giá
trị xuất khẩu
Thông qua hoạt động xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp nước ngoài cung cấp
nhiều sản phẩm có chất lượng cao cho nhu cầu tiêu dùng của toàn xã hội, góp phần
cải thiện và nâng cao mức tiêu dùng của người dân. Không chỉ đáp ứng nhu cầu trong
nước, phần lớn sản phẩm của các ngành công nghiệp chế biến có vốn đầu tư nước
ngoài đều hướng vào xuất khẩu là chính, góp phần làm tăng kim ngạch xuất khẩu. https://giaoandientu.net/

60


Ngoài ra, các doanh nghiệp FDI còn tạo sự cạnh tranh ngay tại thị trường trong nước,
thúc đẩy doanh nghiệp trong nước đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm,
đẩy mạnh sản xuất theo hướng xuất khẩu. Điều đó góp phần mở rộng mối quan hệ
quốc tế, mở ra cơ hội để hàng hóa thương hiệu Việt Nam có thể đến với thị trường
nước ngoài. Trong những năm gần đây, tỷ trọng của ngành DVMT trong GDP có xu
hướng tăng lên, từ mức 0,51% năm 2005 đã tăng lên gần 0,57% năm 2013, đáp ứng
khoảng 5% nhu cầu xử lý chế biến nước thải đô thị, chế biến khoảng 15% nhu cầu
chất thải rắn và 14% lượng chất thải nguy hại. Trong năm 2014, theo báo cáo của Bộ
Công Thương, ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải có tốc độ
tăng trưởng thấp hơn so với mức tăng chung toàn ngành, đạt 6,4%, thấp hơn mức
tăng cùng kỳ năm trước (9,1%).
- Thứ tư, vốn FDI vào dịch vụ môi trường đóng góp vào nguồn thu ngân sách
của cả nước.
Nguồn vốn FDI đã góp phần quan trọng bổ sung nguồn vốn trong nước và trở
thành động lực, tạo ra "cú hích" cho tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh
tế của cả nước.
- Thứ năm, vốn FDI vào dịch vụ môi trường góp phần tạo việc làm, tăng thu
nhập và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của cả nước.
Thu hút đầu tư nước ngoài đã tác động mạnh đến nguồn nhân lực, tăng nhu
cầu lao động, giảm tỉ lệ thất nghiệp. Các dự án FDI luôn là khu vực thu hút đông lực
lượng lao động, góp phần giải quyết việc làm không chỉ cho người lao động của cả
nước mà còn cho các tỉnh, thành phố khác, nhất là lực lượng lao động trẻ và lao động
có trình độ chuyên môn kĩ thuật cao. Thực tế trong những năm qua, FDI mang lại cơ
hội việc làm rõ rệt cho người lao động Việt Nam.
Bên cạnh đó, thu nhập của người lao động tại các doanh nghiệp FDI thường cao
hơn doanh nghiệp 100% vốn trong nước đối với cùng một lĩnh vực ngành nghề. Chính
việc này đã góp phần cải thiện đời sống của người lao động và gián tiếp nâng cao
mức sống trung bình của người dân cả nước nói chung.
Các dự án FDI đã tác động đến việc phát triển cơ sở hạ tầng kĩ thuật cũng như
hạ tầng xã hội trên địa bàn cả nước, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư. https://giaoandientu.net/

61


Nhiều dự án FDI đầu tư vào lĩnh vực xây dựng cơ bản đã tăng nguồn vốn và xây dựng
mở rộng hệ thống cơ sở hạ tầng của cả nước. Từ việc hình thành Khu chế xuất và các
khu công nghiệp khác đến việc mở rộng các đại lộ.
Những hạn chế, tồn tại
Hầu như vắng bóng các doanh nghiệp nhà nước về CNMT đủ mạnh để giải
quyết các vấn đề môi trường lớn, quan trọng của đất nước như trung tâm xử lý chất
thải nguy hại cấp vùng/liên tỉnh; doanh nghiệp xử lý sự cố tràn dầu; doanh nghiệp xử
lý chất thải rắn sinh hoạt tập trung, doanh nghiệp xử lý nước thải sinh hoạt tập trung
liên vùng, liên tỉnh; doanh nghiệp giám định tổn thất về tài nguyên và môi trường,
doanh nghiệp thẩm định công nghệ môi trường....
Quy mô hoạt động của doanh nghiệp thực hiện CNMT thường ở mức vừa và
nhỏ, vốn điều lệ ít, không có khả năng đầu tư vào các lĩnh vực đòi hòi nguồn vốn lớn.
Ví dụ, trên địa bàn tỉnh Hưng Yên chỉ có 18% doanh nghiệp DVMT có vốn đăng ký
điều lệ 5 tỷ đồng, còn lại là nhỏ hơn 5 tỷ đồng.
Doanh nghiệp trong nước còn bị hạn chế về khả năng tiếp cận với các nguồn
vốn ưu đãi, khoa học công nghệ tiên tiến, thông tin và khả năng tiếp cận thị trường
so với doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt là công nghệ. Số liệu điều tra, khảo sát cho
thấy, có 8,7% doanh nghiệp gặp khó khăn về công nghệ.
Chất lượng cung ứng dịch vụ của một số doanh nghiệp thực hiện DVMT chưa
cao, chưa đầy đủ, tư vấn chưa sát với thực tiễn là nguyên nhân làm chậm tiến độ thực
hiện hợp đồng DVMT. Trên thực tế, một số cơ sở sản xuất kinh doanh đã ký kết hợp
đồng thuê lập báo cáo đánh giá tác động môi trường cho dự án, tuy nhiên, sau khi dự
án đã triển khai được 2 năm mà báo cáo đánh giá tác động môi trường vẫn chưa được
bàn giao. Ngoài ra, một số cơ sở sản xuất đã thuê đơn vị thực hiện dịch vụ quan trắc
môi trường định kỳ, nhưng vẫn bị xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường
do quan trắc thiếu về tần suất, vị trí, thông số môi trường, trong khi đó một số thông
số, vị trí lại quan trắc thừa dẫn đến lãng phí.
Chưa có quy định rõ ràng về điều kiện cấp phép hành nghề cung cấp DVMT,
dẫn tới doanh nghiệp được thành lập tràn lan theo kiểu “toàn dân làm DVMT”, thiếu
đầu tư về mặt chuyên môn nghiệp vụ, dẫn đến hoạt động kém hiệu quả. Không ít https://giaoandientu.net/

62


trường hợp cơ quan thẩm định, cấp phép hoạt động của doanh nghiệp chỉ dựa vào hồ
sơ, không kiểm tra thực tế năng lực con người, trang thiết bị; vốn hoạt động; cơ sở
vật chất kỹ thuật; trụ sở làm việc; khả năng cung ứng dịch vụ; năng lực doanh nghiệp
trước khi đi vào hoạt động, làm cho số lượng doanh nghiệp thực hiện DVMT biến
động nhiều,chất lượng cung ứng dịch vụ chưa cao trong thời gian qua.
Thiếu cơ chế khuyến khích, tạo thị trường cho các doanh nghiệp thực hiện
DVMT hoạt động, cụ thể: (1) Chưa có cơ chế cạnh tranh lành mạnh và công bằng
giữa doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước tham gia cung ứng DVMT; (2)
chế tài xử lý vi phạm pháp luật đối với các doanh nghiệp DVMT có hành vi vi phạm;
(3) chưa có các cơ chế chính sách riêng, cụ thể hỗ trợ về đất đai, hình thức và mức độ
hỗ trợ vốn từ ngân sách nhà nước; ưu đãi về tín dụng; thu hút vốn tài trợ nước ngoài;
miễn giảm thuế, phí ở mức hợp lý nhất để khuyến khích, thu hút doanh nghiệp DVMT
tham gia. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc cung ứng DVMT còn
nhiều hạn chế, năng lực cung cấp dịch vụ và chất lượng dịch vụ còn thấp.
Chưa quy định mức phí chi trả DVMT hợp lý, một số lĩnh vực nhà nước vẫn
phải hỗ trợ một phần kinh phí hoạt động, tạo ra sự bất bình đẳng giữa doanh nghiệp
có vốn nhà nước và doanh nghiệp tư nhân. Cho đến nay, nhiều thông số quan trắc
môi trường chưa có định mức kinh tế kỹ thuật, đơn giá, dẫn đến khó khăn cho cả cung
cấp và doanh nghiệp sủ dụng dịch vụ quan trắc môi trường trong quá trình đàm phán,
ký kết hợp đồng.
Công tác xã hội hoá khu vực DVMT còn hạn chế, chưa quy định cụ thể lĩnh vực
dịch vụ cần hoá hội hoá, đồng thời chưa có kế hoạch và lộ trình cho việc xã hội hoá
nên chưa thu hút được nhiều doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực cung ứng DVMT.
Chưa có chính sách phát triển doanh nghiệp thực hiện DVMT tổng thể trên
phạm vi cả nước, một số địa phương “thừa”, trong khi đó, nhiều địa phương lại rất
thiếu doanh nghiệp cung ứng DVMT. Điều này, gây khó khăn không nhỏ cho cơ sở
sản xuất tìm kiếm, lựa chọn doanh nghiệp thực hiện DVMT phù hợp với điều kiện
thực tiễn của mình với mức chi phí tiết kiệm, hiệu quả nhất. Điển hình là trường hợp,
cơ sở sản xuất rất lúng túng trong việc lựa chọn doanh nghiệp tư vấn, thẩm định công
nghệ xử lý chất thải trong bối cảnh trên thị trường có rất nhiều https://giaoandientu.net/

63


Năng lực sản xuất chế tạo và cung cấp thiết bị môi trường trong nhiều năm vẫn
còn nhỏ lẻ, đơn chiếc và tự phát, mới chỉ thực hiện khâu lắp ráp, sản xuất ở quy mô
công nghiệp gặp khó khăn, do thị trường chưa được tiêu chuẩn hóa. Hiện nay, Việt
Nam vẫn chưa hình thành được những doanh nghiệp, những tập đoàn có thương hiệu
lớn, uy tín trong nước và quốc tế. Điều này dẫn đến các doanh nghiệp sản xuất có vốn
đầu tư nước ngoài thường ít tin cậy các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trong nước,
thường sử dụng các hệ thống thiết lập sẵn từ bản địa đến và nhà thầu trong nước chỉ
thực hiện một số việc nhỏ lẻ như cung ứng vật tư phụ, lắp đặt, kiểm định, lập hồ sơ
cam kết v.v.
2.3.1. Nguyên nhân thành công
➢ Nguyên nhân khách quan
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam ngày càng được đẩy mạnh theo
chiều sâu với việc hoàn thành AFTA, thực hiện các cam kết của Hiệp định Thương
mại song phương Việt - Mỹ, Sáng kiến chung Việt - Nhật và Hiệp định khung về kết
nối kinh tế giữa Việt Nam và Singapore, thành viên chính thức của WTO và là thành
viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, vị thế của Việt Nam đã
cao hơn nhiều. Việt Nam đang trở thành điểm hấp dẫn đầu tư của châu Á trong con
mắt của cộng đồng đầu tư quốc tế, các tập đoàn xuyên quốc gia quan tâm, sẵn sàng
đầu tư nhiều hơn...Hãng tư vấn quốc tế A.T. Kearney về chỉ số niềm tin FDI (FDI
Confidence Index) đã xếp loại những điểm đến hấp dẫn nhất thế giới của vốn FDI
trong năm 2010, Việt Nam đứng thứ 12 sau các nước lần lượt là: Trung Quốc, Mỹ,
Brazil, Đức, Ba Lan, Australia, Mexico, Canada, Anh...Bên cạnh đó phải kể đến sự
đóng góp trực tiếp, to lớn của xu hướng và công thức đầu tư “Trung Quốc +1”. Xu
hướng này mở ra triển vọng to lớn cho dòng FDI chảy vào một nước thứ ba bên cạnh
Trung Quốc, góp phần thu hút các tập đoàn xuyên quốc gia đến từ Nhật Bản, Mỹ, Đài
Loan, Hàn Quốc dành sự quan tâm đặc biệt to lớn đối với thị trường đầu tư này, trong
đó Việt Nam có một vị trí tiềm năng và đầy hứa hẹn. Diễn biến suy thoái kinh tế và
khủng hoảng tài chính toàn cầu mặc dù có những tác động đến tình hình thu hút FDI
nhưng mức độ ảnh hưởng chưa lớn, kết quả thu hút FDI thời gian qua đạt được khá
tốt vì thế FDI vào tỉnh Nghệ An có xu hướng tăng lên là điều tất yếu. https://giaoandientu.net/

64


Xét trên góc độ khu vực, dòng vốn FDI trên thế giới đang có xu hướng dịch
chuyển từ các nước công nghiệp phát triển sang một số nước có thị trường mới nổi,
đặc biệt là những nước ở châu Á. Việt Nam thuộc khối ASEAN và nằm trong khu
vực châu Á Thái Bình Dương, một khu vực kinh tế phát triển năng động trên thế giới,
kinh tế khu vực đạt mức tăng trưởng tốt vì thế dòng vốn FDI vào khu vực này cao.
Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội được giữ vững ổn định, tốc độ tăng trưởng
kinh tế Việt Nam thời gian qua luôn duy trì ở mức độ cao. Mặc dù gặp nhiều bất lợi
trong chu kỳ suy thoái kinh tế chung nhưng tốc độ tăng trưởng trung bình giai đoạn
2001 - 2010 vẫn đạt được gần 10%. Theo kết quả thăm dò từ phía các nhà đầu tư
nước ngoài, Việt Nam có môi trường đầu tư và thương mại an toàn.
Tiềm năng của tỉnh Việt Nam có sức hấp dẫn nhất là về tài nguyên thiên nhiên
phong phú và đa dạng, đất đai kể cả đất nông nghiệp và lâm nghiệp rộng lớn , có lợi
thế về khoáng sản , tài nguyên biển phong phú, là điều kiện hết sức quan trọng để thu
hút các nhà đầu tư nước ngoài.
Hiệu quả của một số dự án FDI vào tỉnh Việt Nam thời gian qua tạo hiệu ứng
tích cực cho các nhà đầu nước ngoài.
➢ Nguyên nhân chủ quan
Đảng và Nhà nước đã tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ về mặt tư tưởng và
đưa ra chiến lược phát triển phù hợp cho nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hội
nhập kinh tế quốc tế, trong đó FDI được coi là một trong những động lực phát triển
của nền kinh tế. đồng thời, Chính phủ Việt Nam đã thể hiện rõ thái độ thân thiện với
các nhà đầu tư nước ngoài, thường xuyên lắng nghe những ý kiến của họ, cùng tháo
gỡ các khó khăn và trở ngại.
Hệ thống pháp luật, chính sách cho hoạt động FDI ngày càng được cải thiện và
phù hợp với thông lệ quốc tế. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ban hành năm
1987 đã tạo cơ sở pháp lý cho các nhà đầu tư nước ngoài vào nước ta. Sau đó, Chính
phủ và các cơ quan Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản, từng bước tạo môi trường
thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Trong quá trình thực hiện, Luật này được
sửa đổi, bổ sung 4 lần vào các năm 1990, 1992, 1996, 2000 và đến năm 2005 ban
hành Luật đầu tư chung tạo môi trường đầu tư ngày càng thông thoáng, phù hợp với https://giaoandientu.net/

65


thông lệ quốc tế hơn. Chính sách thu hút FDI thời gian qua đã có những thay đổi
mạnh mẽ trên các mặt như sau: (i) sự thay đổi về nhận thức, tư duy và quan điểm của
đảng và Nhà nước đối với khu vực FDI, (ii) tăng tính cạnh tranh trong thu hút vốn
FDI giữa các nước trong khu vực và thế giới, (iii) thực thi các chính sách hội nhập
kinh tế quốc tế, (iv) thực thi các chính sách FDI tác động đến môi trường kinh doanh
và đầu tư tại nước ta .
Sau khi ra đời Luật đầu tư chung, ngày 22/9/2006 Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 108/2006/Nđ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật đầu tư.
Thủ tục hành chính ngày càng được cải thiện, những vướng mắc, khó khăn của
các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam được quan tâm tháo gỡ, cơ sở hạ tầng ngày
càng hoàn thiện hơn.
Định hướng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ngành và lĩnh vực đã được
nhà nước ta xác định sớm, từ đó xây dựng các chương trình dự án đầu tư để kêu gọi
đầu tư, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư vào khảo sát, tìm hiểu đầu tư.
Đảng và Nhà nước ta đã tích cực, chủ động hơn, nhanh nhạy, nắm bắt thông
tin kịp thời, vận động đúng kênh, đúng địa chỉ, đẩy nhanh lộ trình áp dụng cơ chế một
giá, hỗ trợ nhà đầu tư giảm chi phí sản xuất, tiếp tục thực hiện việc cải cách hành
chính, quan tâm hơn tới việc tháo gỡ khó khăn trong triển khai dự án.
Hoạt động vận động xúc tiến đầu tư của cả nước ngày càng được chú ý và cải
tiến, tiến hành ở nhiều cấp, nhiều ngành. Hàng năm, tổ chức được nhiều cuộc hội
thảo, các cuộc tiếp xúc và làm việc với các nhà đầu tư nước ngoài, gắn với việc
quảng bá rộng rãi hình ảnh của cả nước, vận động đầu tư - xúc tiến thương mại và du
lịch. Nhờ vậy, các nhà đầu tư nước ngoài đã tìm đến đầu tư ngày một nhiều hơn.
2.3.2. Nguyên nhân hạn chế.
Thứ nhất, hệ thống pháp luật, chính sách liên quan đến thu hút vốn đầu tư của
Việt Nam còn nhiều bất cập
- Hệ thống pháp luật chưa minh bạch, thi hành luật chưa nghiêm.
Mặc dù hệ thống pháp luật nước ta đang ngày càng được hoàn thiện theo hướng
tích cực và phù hợp với thông lệ quốc tế, nhất là với sự ra đời của Luật đầu tư chung https://giaoandientu.net/

66


năm 2005. Nhưng nhìn chung, các chính sách còn chưa thật sự đồng bộ, văn bản ban
hành chậm, chưa thật cụ thể và gần như là không có lộ trình trước cho những thay
đổi. Do đó gây ra cho các nhà đầu tư nhiều khó khăn và thiệt hại vì khó dự báo, dự
toán hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực thi chính sách pháp luật thiếu nhất quán,
tuỳ tiện, chồng chéo, nhiều văn bản có nội dung không rõ ràng, thậm chí còn đối lập
nhau hoặc quy định của ngành này chồng chéo ngành khác, các văn bản luật còn
chung chung chưa rõ ràng, như: theo Luật đất đai, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài có thể được Nhà nước giao đất để thực hiện các dự án đầu tư tại Việt Nam theo
pháp luật về đầu tư. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài có quyền lựa chọn giao
đất có thu tiền hoặc thuê đất trả tiền thuê 1 lần hoặc hàng năm; tổ chức, cá nhân người
nước ngoài chỉ có quyền thuê đất (điều 93 của Luật đất đai). Theo điều 37 của Luật
đất đai, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định giao đất, cho thuê
đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với tổ chức; giao đất, cho thuê đất đối
với người Việt Nam định cư ở nước ngoài; cho thuê đất đối với tổ chức, cá nhân nước
ngoài. điều 41 của Luật đất đai quy định: Nhà nước thu hồi đất, bồi thường, giải phóng
mặt bằng và giao đất cho nhà đầu tư để thực hiện dự án đối với các trường hợp đã có
dự án đầu tư được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt. Câu hỏi đặt ra ở đây
là: (i) Nhà đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo Luật đầu
tư cótrùng với tổ chức, cá nhân người nước ngoài theo Luật đất đai hay không? (ii)
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài và nhất là doanh nghiệp do họ lập nên thuộc
nhóm các nhà đầu tư nào, trong nước hay ngoài nước? Mặt khác, Thực tế cho thấy có
nhiều vấn đề nổi lên liên quan đến đăng ký và thẩm tra cấp giấy chứng nhận đầu tư
đối với dự án đầu tư cụ thể là:
Một là, chưa có căn cứ pháp lý để xác nhận đăng ký địa điểm và nhu cầu sử
dụng đất. Vì vậy, trên thực tế ở tất cả các địa phương, UBND đều đã ban hành văn
bản hướng dẫn chi tiết về đăng ký đầu tư trên phạm vi địa phương; trong đó, yêu cầu
các nhà đầu tư phải được chấp thuận về chủ trương đầu tư và thoả thuận về địa điểm
đầu tư trước khi làm thủ tục đăng ký, thẩm tra đầu tư.
Hai là, đối với dự án dưới 300 tỷ đồng liệu trong quá trình “đăng ký” đầu tư,
UBND cấp tỉnh và Ban quản lý KCN có được quyền xem xét đến các loại quy hoạch https://giaoandientu.net/

67


(sử dụng đất, kết cấu hạ tầng kỹ thuật, quy hoạch phát triển giao thông, đô thị, môi
trường, nhu cầu sử dụng đất và cả một số yếu tố khác) để chấp thuận hay từ chối đăng
ký dự án đầu tư hay không? Và nếu có, thì cơ sở pháp lý và tiêu chí nội dung để thẩm
tra là gì? Nếu không thẩm tra các nội dung nói trên, thì ai hay cơ quan nào sẽ chịu
trách nhiệm về hệ quả xảy ra?...
Ba là, chưa có hướng dẫn thống nhất về hình thức và nội dung báo cáo năng
lực tài chính của nhà đầu tư và ý nghĩa pháp lý của báo cáo này. Vì vậy, trên thực tế
có không ít cách hiểu và áp dụng khác nhau. Cách thứ nhất là nhà đầu tư tự kê khai
năng lực tài chính với nội dung và hình thức bất kỳ theo ý muốn của nhà đầu tư. Cách
thứ hai là yêu cầu nhà đầu tư nộp bản sao báo cáo tài chính gần nhất hoặc trong ba
năm gần nhất liên tiếp. Tuy nhiên, ý nghĩa pháp lý của bản báo cáo năng lực tài chính
vẫn là vấn đề lớn; nó dùng để làm gì, có ý nghĩa và tác dụng gì trong xem xét hồ sơ,
chấp thuận hay không chấp thuận đăng ký dự án đầu tư.
Bốn là, không có tiêu chí cụ thể để thẩm tra các nội dung: nhu cầu sử dụng đất,
tiến độ thực hiện dự án và giải pháp về môi trường.
- Đối với các chính sách ưu đãi đầu tư của Trung ương.
Chưa có quy định cụ thể quy trình, cách thức thực hiện các chính sách ưu đãi
đầu tư. Luật đầu tư mới chỉ đề cập đến việc ghi các nội dung ưu đãi đầu tư vào giấy
chứng nhận đầu tư, nhưng chưa quy định cụ thể quy trình thực hiện các nội dung ưu
đãi ấy như thế nào.
Chưa có sự phối hợp và lồng ghép giữa các quy định về chính sách ưu đãi đầu
tư nói chung với các cơ chế chính sách khuyến khích phát triển các ngành, lĩnh vực
đặc thù (như lĩnh vực xã hội hoá, xây dựng nghĩa trang, các dự án nhà ở xã hội, ...),
dẫn đến sự chồng chéo, thiếu nhất quán.
Thứ hai, cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật cho ngành dịch vụ môi trường còn
nhiều yếu kém.
Thời gian qua, nhà nước ta đã có nhiều cố gắng trong việc huy động các nguồn
lực cho việc phát triển hạ tầng kỹ thuật nhưng còn chưa đồng bộ, chất lượng còn
nhiều yếu kém. Đây cũng là một nguyên nhân khiến chi phí đầu tư, kinh doanh vào
nhà nước cao, nguồn vốn đầu tư dành cho xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng https://giaoandientu.net/

68


trong các khu công nghiệp tập trung, cụm công nghiệp mới còn quá thấp chỉ 20 - 30%
tổng nguồn vốn đầu tư, chưa huy động được nguồn vốn khác để phát triển khu công
nghiệp một cách đồng bộ.
Thứ ba, chất lượng lao động còn thấp và trình độ quản lý của nhà nước đối
với FDI còn kém hiệu quả.
Tỷ lệ lao động có tay nghề thấp, phần lớn các doanh nghiệp phải tuyển dụng
và tự đào tạo lao động, điều này làm cho họ mất thời gian và chi phí đào tạo, ngoài
ra các dự án FDI khi tìm kiếm các nhân sự cấp cao, có trình độ rất khó khăn. Cơ cấu
lao động ở nước ta còn mất cấn đối, còn yếu, nhất là công nhân kỹ thuật có tay nghề
cao là ít, cơ cấu lao động còn bất hợp lý, thiếu lao động ở những ngành công nghệ
cao, ngành mũi nhọn, lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội. Chất lượng lao động
còn chưa cao, tính kỷ luật lao động còn thấp, chưa đều và có khoảng cách xa với yêu
cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá. Nguồn nhân lực còn phân phối chưa hợp lý và sử
dụng chưa hiệu quả. Ngoài ra, các cơ chế, chính sách, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng,
đãi ngộ…còn bộc lộ nhiều bất cập. Các trường đào tạo nguồn nhân lực mang nặng
tính lý thuyết vì thế nếu được tuyển dụng các công ty cũng phải đào tạo lại, làm tăng
thêm chi phí cho dự án và lãng phí nguồn lực xã hội.
Thứ tư, do tiềm lực tài chính của một số nhà đầu tư còn hạn chế
Một số nhà đầu tư nước ngoài bị hạn chế năng lực tài chính nên không triển
khai được các dự án, hoặc triển khai chậm, thậm chí không triển khai được dự án.
Mặt khác, tình hình kinh tế thế giới trong những năm vừa qua biến động bất thường,
khủng hoảng và suy thoái kinh tế diễn ra ở nhiều nơi, làm cho hoạt động đầu tư gặp
khó khăn, có một số nhà đầu tư nước ngoài bị phá sản cho nên không triển khai hoạt
động các dự án.
https://giaoandientu.net/

69


CHƯƠNG 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT VỐN ĐẦU
TƯ FDI VÀO CÁC DỊCH VỤ MÔI TRƯỜNG TẠI VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN TỚI (ĐẾN NĂM 2020)
3.1. Quan điểm, định hướng và mục tiêu phát triển ngành môi trường Việt
Nam đến năm 2020
3.1.1. Quan điểm chỉ đạo
Bảo vệ môi trường là yêu cầu sống còn của nhân loại; Chiến lược bảo vệ môi
trường là bộ phận cấu thành không tách rời của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội,
Chiến lược phát triển bền vững; bảo vệ môi trường hướng tới mục tiêu phát triển bền
vững nhằm đáp ứng nhu cầu của các thế hệ hiện tại nhưng vẫn giữ được tiềm năng
và cơ hội cho các thế hệ mai sau; đầu tư cho bảo vệ môi trường là đầu tư cho phát
triển bền vững.
Phát triển phải tôn trọng các quy luật tự nhiên, hài hòa với thiên nhiên, thân
thiện với môi trường; khuyến khích phát triển kinh tế phù hợp với đặc tính sinh thái
của từng vùng, ít chất thải, các-bon thấp, hướng tới nền kinh tế xanh.
Ưu tiên phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm; coi trọng tính hiệu quả, bền vững
trong khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên; chú trọng bảo tồn đa dạng
sinh học; từng bước phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường; tăng cường năng
lực ứng phó với biến đổi khí hậu.
Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của toàn xã hội, là nghĩa vụ của mọi người
dân; phải được thực hiện thống nhất trên cơ sở xác định rõ trách nhiệm của các Bộ,
ngành, phân cấp cụ thể giữa Trung ương và địa phương; kết hợp phát huy vai trò của
cộng đồng, các tổ chức quần chúng và hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế
giới.
Tăng cường áp dụng các biện pháp hành chính, từng bước áp dụng các chế tài
hình sự, đồng thời vận dụng linh hoạt các cơ chế kinh tế thị trường nhằm nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, bảo đảm các quy định của pháp luật các yêu cầu,
quy chuẩn, tiêu chuẩn về môi trường được thực hiện. https://giaoandientu.net/

70


Tổ chức, cá nhân hưởng lợi từ tài nguyên và các giá trị của môi trường phải trả
tiền; gây ô nhiễm môi trường, suy thoái tài nguyên và đa dạng sinh học phải
trả chi phí khắc phục, cải tạo, phục hồi và bồi thường thiệt hại.
3.1.2. Mục tiêu đến năm 2020
➢ Mục tiêu tổng quát
Kiểm soát, hạn chế về cơ bản mức độ gia tăng ô nhiễm môi trường, suy thoái
tài nguyên và suy giảm đa dạng sinh học; tiếp tục cải thiện chất lượng môi trường
sống; nâng cao năng lực chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, hướng tới mục tiêu
phát triển bền vững đất nước.
➢ Mục tiêu cụ thể
Phát triển các công nghệ xử lý, tái chế chất thải, phân tích, quan trắc, giám sát
và kiểm soát ô nhiễm môi trường; công nghệ sử dụng bền vững tài nguyên và phục
hồi môi trường phù hợp với điều kiện của Việt Nam và xu hướng của thế giới; đẩy
mạnh ứng dụng và thương mại hóa các kết quả nghiên cứu, phát triển công nghệ. Phát
triển SX thiết bị và sản phẩm đáp ứng cơ bản nhu cầu bảo vệ môi trường trong nước;
từng bước tiến tới xuất khẩu các sản phẩm có lợi thế và năng lực cạnh tranh; năng lực
SX trong nước đáp ứng khoảng 70-80% nhu cầu thiết bị xử lý nước cấp và nước thải,
60-70% nhu cầu thiết bị xử lý và tái chế chất thải rắn, 70-80% nhu cầu thiết bị xử lý
khí thải, khoảng 50-60% nhu cầu thiết bị thu gom, vận chuyển và phân loại chất thải,
40-50% nhu cầu thiết bị quan trắc môi trường; 60-70% nhu cầu sản phẩm bảo vệ môi
trường; 40-50% thiết bị SX năng lượng tái tạo; 60-70% thiết bị và công nghệ tiết
kiệm năng lượng, sử dụng năng lượng hiệu quả; 20-30% thiết bị, phương tiện sử dụng
năng lượng tái tạo; xuất khẩu được 20-30% các sản phẩm của ngành công nghiệp môi
trường.
Phát triển dịch vụ môi trường cơ bản đáp ứng nhu cầu của xã hội về xử lý nước
thải, chất thải rắn đô thị, công nghiệp, chất thải nguy hại; phục hồi môi trường các
khu vực bị ô nhiễm và nhu cầu phân tích, quan trắc môi trường và các dịch vụ tư vấn
về môi trường, sử dụng bền vững tài nguyên, năng lượng.
3.1.3. Định hướng phát triển ngành công nghiệp môi trường đến năm 2020 https://giaoandientu.net/

71


Định hướng phát triển ngành CNMT ở nước ta phải đảm bảo đạt được mục
tiêu tổng quát là phát triển ngành CNMT thành một ngành có khả năng cung cấp các
công nghệ, thiết bị, dịch vụ, sản phẩm phục vụ yêu cầu bảo vệ môi trường nhằm xử
lý, kiểm soát ô nhiễm, hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm và cải tạo chất lượng môi
trường. Để đảm bảo phát triển ngành CNMT ổn định và chắc chắn, các hoạt động cần
bám sát những mục tiêu đã đề ra trong “Đề án phát triển ngành công nghiệp môi
trường Việt Nam đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025”.
Cụ thể, giai đoạn từ nay đến năm 2015, các đơn vị tiến hành xây dựng, phê
duyệt và tổ chức thực hiện quy hoạch phát triển ngành công nghiệp môi trường; phát
triển các doanh nghiệp công nghiệp môi trường, các tổ chức nghiên cứu, chuyển giao
và ứng dụng công nghệ môi trường đủ năng lực đáp ứng cơ bản nhiệm vụ bảo vệ môi
trường, sử dụng bền vững tài nguyên; nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các tổ
chức, cá nhân trong việc phát triển ngành công nghiệp môi trường.
Đối với tầm nhìn đến năm 2025, sẽ phát triển ngành công nghiệp môi trường
thành một ngành kinh tế có đóng góp quan trọng trong cơ cấu phát triển ngành công
nghiệp Việt Nam; phát triển các doanh nghiệp công nghiệp môi trường, các tổ chức
nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng công nghệ cao về môi trường có khả năng giải
quyết có hiệu quả nhiệm vụ bảo vệ môi trường, sử dụng bền vững tài nguyên. Các
hoạt động nhằm phát triển ngành CNMT tại Việt Nam cần cân đối và hài hòa giữa ba
lĩnh vực chính: (i) Dịch vụ môi trường; (ii) Phát triển công nghệ và sản xuất thiết bị;
và, (iii) Phát triển và phục hồi tài nguyên thiên nhiên.
3.2. Giải pháp tăng cường thu vút vốn đầu tư FDI vào các dịch vụ môi
trường tại Việt Nam giai đoạn tới (đến năm 2020)
3.2.1. Giải pháp chính
3.2.1.1. Hoàn thiện khâu hoạch định kế hoạch,quy hoạch thu hút vốn đầu tư
FDI vào các dịch vụ môi trường tại Việt Nam
Công tác quy hoạch trong thời gian vừa qua là một trong những nguyên nhân
chính dẫn đến hoạt động thu hút vốn FDI vào Việt Nam thấp. Vì vậy, việc xây dựng https://giaoandientu.net/

72


quy hoạch cần phải được đánh giá đúng mức và quan trọng nhất là vai trò quản lý
Nhà nước trong công tác quy hoạch. Trong thời gian tới cần:
- Thực hiện thống nhất các quy định mới của Luật đầu tư trong công tác quy
hoạch. Cần đổi mới phương pháp quy hoạch từ truyền thống sang áp dụng các phương
pháp quy hoạch tiên tiến trên thế giới như: Quy hoạch chiến lược hợp nhất (integrated
strategic planning), kế hoạch đầu tư đa ngành (multi sectoral investment planning).
Đồng thời hợp tác với các tổ chức quốc tế để tiến hành đào tạo, nâng cao năng lực
quy hoạch và chính sách sử dụng đất để phát triển hạ tầng các KCN, KKT.
-Tiến hành rà soát, điều chỉnh, phê chuẩn và công bố các quy hoạch về kết cấu
hạ tầng trong những năm tới làm cơ sở để thu hút phát triển kết cấu hạ tầng, khẩn
trương triển khai các loại quy hoạch ngành, xây dựng, phát triển đô thị, sử dụng đất
đến năm 2020.
-Đẩy nhanh tiến độ xây dựng, phê duyệt các quy hoạch còn thiếu và rà soát,
bổ sung, điều chỉnh các loại quy hoạch đã được duyệt cho phù hợp với quy hoạch
tổng thể kinh tế - xã hội quốc gia của từng ngành kinh tế, các cam kết quốc tế nhằm
tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc xác định và xây dựng dự án như:
Quy hoạch sản phẩm, các vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông - lâm -
thuỷ sản, quy hoạch phát triển đô thị và quy hoạch sử dụng đất.
-Trừ một số dự án đặc thù như khai thác chế biến khoáng sản, chế biến nông
lâm sản gắn với địa bàn nguyên liệu và các dự án dịch vụ cần đặt tại nơi có thị trường
tiêu thụ trực tiếp, cần định hướng quy tụ các dự án FDI tập trung vào các KKT, KCN
được xây dựng phù hợp theo quy hoạch, đáp ứng các tiêu chuẩn hạ tầng kỹ thuật - xã
hội hiện đại và các tiêu chuẩn kiểm soát môi trường nghiêm ngặt. Trên cơ sở đó, hình
thành danh mục các dự án kêu gọi đầu tư nước ngoài và tiến hành xúc tiến đầu tư có
địa chỉ theo lộ trình thích hợp, trong đó xác định rõ yêu cầu về đối tác dự án, sản
phẩm, trình độ công nghệ, thị trường tiêu thụ, địa bàn thực hiện dự án.
-Tổ chức hướng dẫn các tỉnh, thành phố, xây dựng quy hoạch phát triển các
KCN, KKT và phối hợp với các đơn vị nghiên cứu phương án điều chỉnh quy hoạch
phát triển các KCN, KKT với an sinh xã hội. https://giaoandientu.net/

73


3.2.1.2. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thực hiện thu hút vốn đầu tư
FDI vào các dịch vụ môi trường tại Việt Nam.
Các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực có thể được chia làm hai
nhóm: (1) giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm thu hút FDI nói chung;
(2) giải pháp nâng cấp nguồn nhân lực nhằm thu hút FDI vào các ngành dịch vụ môi
trường.
Để thu hút FDI nói chung, “lợi thế cạnh tranh” về lao động của Việt Nam cần
có thay đổi về chất. Nếu như trước kia, Việt Nam sử dụng lợi thế nguồn nhân lực dồi
dào giá rẻ thì nay cần được chuyển đổi sang nguồn lực có trình độ và chuyên môn
cao hơn. Theo đó, một số giải pháp cụ thể cần được thực hiện là:
- Đổi mới chương trình giáo dục đào tạo dựa trên việc khảo sát và nghiên cứu
nhu cầu về lao động của thị trường nói chung và của các nhà đầu tư nước ngoài nói
riêng.
- Hệ thống giáo dục và đào tạo đại học, cao đẳng, chuyên nghiệp, dạy nghề...
cần có sự cải cách và chuyển hướng mạnh mẽ hơn. Nên xây dựng các trường dạy
nghề điểm, tránh tình trạng thành lập quá nhiều trường đại học trong khi hệ thống
trường dạy nghề lại thiếu và yếu.
- Tăng cường công tác dự báo về dân số nói chung và nhu cầu nguồn nhân lực
ở các ngành, lĩnh vực nói riêng. Dự báo chu kỳ tăng dân số trong việc thành lập trường
giúp tránh được tình trạng nhiều trường học không tuyển đủ sinh viên, gây lãng phí.
Dự báo nhu cầu nguồn nhân lực ở các ngành, lĩnh vực giúp chủ động tránh tình trạng
thừa thiếu, mất cân bằng về nhân lực.
- Hoạt động hướng nghiệp cho học sinh, sinh viên khi còn đang ngồi trên ghế
nhà trường cần được chú trọng hơn, giúp điều hòa phân công lao động xã hội đồng
thời giúp người lao động tìm được đúng đam mê và ngành nghề phù hợp với khả năng
của mình.
Để nâng cấp nguồn lực cung cấp cho FDI vào ngành dịch vụ môi trường, các
chính sách về nguồn nhân lực của Việt Nam cần hướng tới việc đào tạo lao động đủ
khả năng tiếp cận công nghệ hiện đại, cụ thể là: https://giaoandientu.net/

74


- Cần chú trọng đào tạo đội ngũ thiết kế sản phẩm và quản lý chất lượng cao,
để lực lượng lao động của Việt Nam có thể tham gia sâu vào quá trình sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp FDI về dịch vụ môi trường.
- Cần có chế độ, chính sách khuyến khích lao động tự học và tạo điều kiện cho
người lao động tham gia bồi dưỡng và tự học để nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ
năng nghề nghiệp.
- Cần có chính sách đãi ngộ xứng đáng đối với nhân tài và nhân lực chất lượng
cao, các đối tượng đi đào tạo từ nước ngoài về nước.
- Đối với doanh nghiệp FDI, cần có những quy định yêu cầu doanh nghiệp FDI
cam kết thực hiện các chương trình liên kết đào tạo, tập huấn cho người lao động.
Qua đó, chất lượng lao động được cải thiện, đồng thời tận dụng cơ hội để học hỏi
kinh nghiệm, bí kíp, chuyển giao công nghệ.
- Nhằm tạo điều kiện cho người lao động yên tâm cống hiến, trau dồi kỹ năng
nghề nghiệp, Việt Nam cũng cần tăng cường công tác kiểm tra giám sát đối với các
doanh nghiệp FDI để đảm bảo sự công bằng cho người lao động làm việc tại khu vực
FDI. Liên đoàn lao động cần có những quy định và giám sát công bằng, minh bạch
và đảm bảo tính thực thi để bảo vệ quyền lợi của người lao động.
• Nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực bám sát yêu cầu của khu vực FDI.
- Đào tạo theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp và bám sát thực tiễn, dự báo
được nhu cầu trong tương lai.
- Phát triển hệ thống dạy nghề bền vững có sự tham gia tích cực, chủ động của
doanh nghiệp có vốn FDI vào hoạt động dạy nghề vào các cấp độ khác nhau.
- Các cơ sở đào tạo cần chú trọng chất lượng đào tạo gắn với thực tiễn, thực
hành thực tế.
• Tăng cường thanh tra kiểm tra, rút kinh nghiệm trong bảo đảm nguồn nhân
lực cho khu vực kinh tế FDI.
- Thanh tra, kiểm tra để phát hiện những gì làm được và chưa làm được trong
quá trình bảo đảm nguồn nhân lực cho khu vực kinh tế FDI.
- Thanh tra, kiểm tra về trách nhiệm của các cơ quan ban ngành khu vực
FDI trong quá trình sử dụng lao động. https://giaoandientu.net/

75


3.1.2.3. Hoàn thiện khâu kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện thu hút vốn
đầu tư FDI vào các dịch vụ môi trường tại Việt Nam
Tăng cường năng lực của cơ quan quản lý nhà nước về DVMT từ Trung ương
đến địa phương đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ BVMT ngày càng lớn, phức tạp. Rà soát,
phân định rõ chức năng, nhiệm vụ quản lý, sắp xếp tổ chức bộ máy, tăng cường năng
lực quản lý của đội ngũ cán bộ quản lý môi trường các cấp, nhất là ở các địa phương,
ưu tiên cấp huyện, xã, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, xuyên suốt từ Trung ương
đến cơ sở. Xây dựng cơ chế tham vấn, phối hợp trong công tác bổ nhiệm, đề bạt,
đào tạo, bồi dưỡng lãnh đạo cơ quan chuyên môn về tài nguyên và môi trường ở địa
phương. Tăng cường khâu kiểm tra giám sát quá trình thực hiện thu hút vốn đầu tư
FDI vào các dịch vụ môi trường tại Việt Nam.
Trên cơ sở báo cáo của các nhà đầu tư nước ngoài, tiến hành nghiên cứu các
chỉ tiêu về tài chính như doanh nghiệp nộp thuế như thế nào, mức độ lãi lỗ qua các
năm, các chính sách ưu đãi được hưởng, quy mô vốn…đặc biệt, tiến hành rà soát
các doanh nghiệp báo cáo thua lỗ nhiều năm, phân tích hiệu quả kinh doanh và so
sánh với các doanh nghiệp trong nước với điều kiện tương tự.
3.1.2.4. Nâng cấp hệ thống cơ sở vật chất, hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật
phục vụ quá trình thu hút vốn đầu tư vào dịch vụ môi trường tại Việt Nam
Cải thiện, nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật là cơ sở để thu hút và thực hiện các
dự án FDI có hiệu quả. Đồng thời tiếp tục hiện đại hoá, mở rộng hệ thống cơ sở hạ
tầng bởi đây không chỉ là điều kiện để tăng sự hấp dẫn của môi trường đầu tư, tạo
điều kiện thuận lợi triển khai các dự án mà còn là cơ hội để Việt Nam tăng thu hút
FDI vào lĩnh vực hạ tầng. Tuy nhiên, Phát triển cơ sở hạ tầng đòi hỏi một lượng vốn
rất lớn trong khi chi tiêu công lại ngày càng bị cắt giảm. Do vậy, Nhà nước ta trong
thời gian tới cần có cơ chế, chính sách, thu hút và sử dụng các nguồn vốn khác nhau
trong xã hội vào cơ sở hạ tầng một cách có hiệu quả, trong đó nguồn vốn từ ngân
sách nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo, tập trung vào những công trình then chốt,
mang tính đầu mối, mà các thành phần kinh tế khác không có khả năng đầu tư hoặc
không muốn đầu tư vì đòi hỏi vốn lớn, thời gian hoàn vốn lại dài. cụ thể:
- Đối với nguồn vốn vay thương mại, trong thời gian tới tích cực phòng https://giaoandientu.net/

76


chống thất thoát, lãng phí và tham nhũng trong quá trình sử dụng, do nguồn vốn này
thường có chi phí cao nên phải luôn xem xét, coi trọng hiệu quả sử dụng vốn.
- Đối với nguồn vốn ODA, nên sử dụng vốn ODA không hoàn lại cho các
dự án không có khả năng hoàn vốn, các nghiên cứu phát triển thể chế, tăng cường
chất lượng lao động và bảo vệ môi trường. Sử dụng vốn ODA có ưu đãi cao với thời
gian ưu đãi dài, lãi suất thấp…ưu tiên cho xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng đô
thị đồng bộ, hiện đại.
- Thu hút khu vực tư tham gia cung ứng dịch vụ cơ sở hạ tầng qua mô hình
hợp tác công - tư, cần đẩy mạnh chính sách xã hội hoá trong khu vực cung ứng dịch
vụ công nhằm gia tăng sự tham gia của khu vực tư nhân vào cơ sở hạ tầng bằng việc
xây dựng định chế ổn định và khuôn khổ pháp lý thích hợp. Có thể mở cửa các dịch
vụ công ích của Việt Nam như vệ sinh môi trường, điện nước, vận tải hành
khách…hoặc mở rộng hình thức liên doanh với các nhà đầu tư. Khuyến khích việc
đầu tư theo hình thức BOT, BT, BTO, PPP…để gia tăng sự tham gia của khu vực
kinh tế tư nhân vào đầu tư cơ sở hạ tầng. Muốn vậy, Việt Nam phải có quy định
pháp lý, giá cả rõ ràng và thông thoáng, trong đó các nhà đầu tư có quyền định đoạt
giá phí để thu hồi vốn trên cơ sở thoả thuận với Chính Phủ theo nguyên tắc người
đầu tư chấp nhận được. Bên cạnh đó, nên tập trung vào công tác khảo sát, thiết kế
lập kế hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết các công trình, bố trí vốn cho những công
trình đã cam kết với phía nước ngoài nhằm bảo đảm tốc độ giải ngân vốn cho giải
phóng mặt bằng. Ngoài đầu tư mới cơ sở hạ tầng, cần nâng cấp và từng bước hiện
đại hoá cơ sở hạ tầng như: đường giao thông, cảng biển, hệ thống điện, nước, thông
tin liên lạc, sân bay…
3.2.2. Các giải pháp hỗ trợ
Thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp về dịch vụ môi trường; cụ thể hóa các
cơ chế chính sách thu hút đầu tư vào lĩnh vực xử lý chất thải, phát triển công nghệ xử
lý nước thải, tái chế chất thải.
Sửa đổi, bổ sung các quy định về đánh giá môi trường chiến lược và đánh giá
tác động môi trường, cấp giấy phép xả nước thải vào nguồn nước; về kiểm tra công
tác thẩm định, phê duyệt, chấp thuận điều chỉnh báo cáo ĐTM, cấp giấy phép xả nước https://giaoandientu.net/

77


thải vào nguồn nước, bảo đảm kiểm soát chặt chẽ công tác BVMT. Xây dựng hệ
thống phòng ngừa, cảnh báo sớm sự cố môi trường.
Thực hiện tổng điều tra các nguồn thải, nguồn gây ô nhiễm trên phạm vi cả
nước, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về môi trường của các Bộ, ngành, địa phương
và các cơ sở sản xuất, kinh doanh để quản lý thống nhất, có cơ chế chia sẻ thông tin
và cảnh báo đồng bộ từ Trung ương đến địa phương.
Rà soát, sửa đổi, ban hành các quy chuẩn kỹ thuật về môi trường bảo đảm kiểm
soát chặt chẽ, nghiêm ngặt đối với các ngành, lĩnh vực có khả năng gây ô nhiễm môi
trường cao, quy chuẩn kỹ thuật về môi trường ngành phải nghiêm ngặt hơn các quy
chuẩn kỹ thuật về môi trường nói chung, đặc biệt chú trọng các ngành nhuộm, thuộc
da, sản xuất giấy, luyện thép từ quặng..., tiếp cận với quy chuẩn kỹ thuật về môi
trường của các nước tiên tiến.
Rà soát quy hoạch, xây dựng các khu xử lý, chôn lấp rác thải sinh hoạt, rác
thải công nghiệp, chất thải nguy hại đáp ứng nhu cầu theo quy mô phát sinh các loại
chất thải này tại các địa phương, các khu vực kinh tế trọng điểm, nơi có các dự án
lớn. Kiểm soát, giám sát chặt chẽ hoạt động phát sinh, thu gom, vận chuyển, xử lý,
thải bỏ, chôn lấp các loại chất thải, nhất là chất thải nguy hại. Đầu tư và có các chính
sách thu hút đầu tư của khối tư nhân, các nhà đầu tư nước ngoài vào hoạt động xử lý
chất thải, cung cấp các dịch vụ BVMT; phát triển ngành công nghiệp, dịch vụ môi
trường.
Tiếp tục tăng cường đầu tư xây dựng mạng lưới quan trắc tài nguyên và môi
trường trên phạm vi cả nước. Xây dựng cơ chế chia sẻ thông tin, số liệu quan trắc,
đánh giá về chất lượng môi trường làm cơ sở phục vụ công tác thẩm định, xét duyệt
các dự án đầu tư, đồng thời, để các cơ quan, Bộ, ngành, địa phương và người dân
thực hiện kiểm soát, giám sát về môi trường.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và kiểm soát đảm bảo việc tuân thủ
quy định về BVMT đối với những dự án đã đi vào hoạt động, trước hết là các dự án
có nguồn thải ra sông, ra biển. Tăng cường các biện pháp kiểm soát chặt chẽ việc thu
gom, vận chuyển, xử lý, tái chế chất thải, hoàn thiện hệ thống pháp lý về quản lý chất https://giaoandientu.net/

78


thải thông thường, trong đó có nội dung quy định về sử dụng chất thải làm nguyên
liệu, nhiên liệu, coi chất thải là tài nguyên.
Tăng cường hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra việc quản lý, sử dụng nguồn chi sự
nghiệp môi trường tại các Bộ, ngành, địa phương bảo đảm tiết kiệm, hỗ trợ và thực
hiện có hiệu quả các hoạt động quản lý môi trường tại địa phương. Trước mắt, điều
chỉnh tái cơ cấu đầu tư cho công tác BVMT ngay trong kế hoạch đầu tư công trung
hạn giai đoạn 2016 - 2020, tập trung ưu tiên cho các dự án tiết kiệm năng lượng, xử
lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, các dự án theo hướng tăng trưởng
xanh và phát triển bền vững.
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Đối với nhà nước
Thứ nhất, tiếp tục rà soát, bổ sung và hoàn thiện các chính sách hiện có nhằm
đổi mới và hoàn thiện thể chế, chính sách liên quan đến hỗ trợ phát triển DVMT như
hoàn thiện hệ thống mã ngành kinh tế và danh mục mã sản phẩm của ngành công
nghiệp môi trường và DVMT để nhận dạng dịch vụ, làm căn cứ để quy định các chính
sách; Lồng ghép phát triển dịch vụ môi truờng vào các quy hoạch, kế hoạch phát triển
ngành và địa phương; Thúc đẩy cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước về dịch vụ
môi truờng.
Giảm tình trạng luật, chính sách luôn thay đổi gây ra sự không an tâm cho các
nhà đầu tư về môi trường pháp lý của Việt Nam. Tiếp tục xem xét sửa đổi, bổ sung
Luật Đất đai, Luật Đầu tư, Luật Tài nguyên, Luật Môi trường và các văn bản liên
quan đến đầu tư cho phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế mới, nhất là khi
nước ta đã tham gia sâu vào tổ chức WTO. Đặc biệt, phải tăng hình phạt cao cho Luật
Môi trường để răn đe, ngăn chặn những hành vi vi phạm đến môi trường; sửa đổi
Luật Đất đai, pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân nước ngoài thuê
đất tại Việt Nam cho đồng bộ với quy định của Luật Đầu tư.
• Hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài cần phải hoàn thiện theo hướng
đồng bộ, minh bạch và thực thi nghiêm từ Trung ương đến địa phương, tránh chồng
chéo, mỗi ngành, mỗi địa phương lại có những quy định khác nhau gây phiền hà cho
nhà đầutư. https://giaoandientu.net/

79


• Sửa đổi một số chính sách cho phù hợp với các nước khu vực như: chính
sách giá cả đất đai, dịch vụ bưu chính viễn thông, vận tải. Sửa đổi chính sách liên
quan đến đất đai, tài sản và đặc biệt là có chính sách cụ thể, thiết thực để hỗ trợ cho
những người bị mất đất để mở khu kinh tế, khu công nghiệp hay chuyển giao đất
cho nhà đầu tư nướcngoài.
• Miễn thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng đối với máy móc, thiết bị được
sử dụng để nghiên cứu, phát triển sản xuất, nâng cao trình độ cán bộ quản lý Nhà
nước đối với khu vực FDI về đạo đức nghề nghiệp, tinh thần trách nhiệm với công
việc, hoạch định chính sách…để có thể tiếp nhận các dòng vốn FDI chấtlượng.
Thứ hai, củng cố và phát triển thị trường dịch vụ môi trường thông qua việc
hình thành và phát triển mạng lưới tổ chức DVMT; xây dựng, hoàn thiện hệ thống
quản lý chuyên môn về DVMT trong cơ cấu thành phần tổ chức ngành công nghiệp
môi trường ở các cấp; Tăng cường liên kết giữa cơ quan nghiên cứu, doanh nghiệp
chế tạo thiết bị và tổ chức dịch vụ để nâng cao năng lực và hoạt động DVMT.
Thứ ba, tăng cường công tác huy động nguồn lực và ưu đãi, hỗ trợ đối với
các hoạt động thúc đẩy phát triển DVMT với việc tạo điều kiện thuận lợi cho doanh
nghiệp tiếp cận được ưu đãi cao nhất theo quy định của pháp luật đối với DVMT,
tăng cường đầu tư từ ngân sách trung ương, địa phương cho hoạt động DVMT,
khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào lĩnh vực DVMT.
Cuối cùng, cần đẩy mạnh các hoạt động đào tạo và khoa học, công nghệ, hợp
tác quốc tế và tự do hóa thương mại đối với phát triển DVMT như nghiên cứu và
chuyển giao các công nghệ; thu hút tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia hỗ trợ đào
tạo nguồn nhân lực, đầu tư liên kết, liên doanh, đẩy mạnh đàm phán và tổ chức thực
hiện các cam kết tự do hóa thương mại trong các hiệp định thương mại quốc tế…
3.3.2. Đối với các cơ quan hữu quan
Dưới góc độ vĩ mô, Chính phủ điều tiết và định hướng đầu tư nước ngoài vào
các ngành, các vùng bảo đảm sự phát triển cân đối, hài hoà giữa các địa phương,
giữa các vùng miền. Các Bộ, Ngành, Trung ương kiểm tra thủ tục cấp giấy phép đầu
tư, nắm chắc thông tin về đối tác, công nghệ, xem xét cụ thể về quy mô diện tích,
địa điểm xây dựng các dự án. Phối hợp với các ban ngành để kiểm tra việc chấp https://giaoandientu.net/

80


hành luật pháp trong nước về lao động, tiền công, tiền lương, bảo vệ môi trường.
• Đổi mới mạnh mẽ nhận thức và quản lý Nhà nước đối với FDI. Trước hết
là hoàn thiện cơ chế bảo vệ lợi ích quốc gia trên cơ sở tăng cường thống nhất, tập
trung và phối hợp đồng bộ hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước trên tất cả
các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường, đề cao lợi ích dài hạn và lợi ích tổng thể,
kiên quyết chống lại lợi ích ngắn hạn, cục bộ và phe phái nhất là trong bảo vệ tài
nguyên khoáng sản, chủ quyền an ninh quốc gia.
• Phân cấp mạnh hơn nữa cho các địa phương trong quản lý FDI, trong đó
có việc nâng quy mô dự án FDI mà các địa phương. Điều này là cần thiết để đảm
bảo thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ, các ngành có hàm
lượng khoa học công nghệ cao và hiện đại hoá cơ sở hạ tầng.
• Xây dựng quy hoạch tổng thể trên cơ sở chiến lược phát triển tổng thể của
đất nước và chính sách phát triển ngành, vùng và lĩnh vực nhằm phát huy có hiệu
quả nguồn vốn nội lực, kết hợp với nguồn vốn ngoại lực.
• Cần xây dựng quy định rõ ràng, chi tiết về công nghệ sử dụng và các căn
cứ pháp lý tạo thuận lợi cho việc chuyển giao công nghệ, đưa ra các biện pháp
khuyến khích cụ thể cho các nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công nghệ vào Việt
Nam.
• Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên quan đến hoạt động đầu tư
trực tiếp nước ngoài. Nên xem lại việc thực hiện cấp phép đầu tư theo Nghị định
108/2006/NĐ-CP, đảm bảo đúng thời hạn như đã quy định.
• Ban hành, phổ biến chính thức hệ thống phân ngành của Liên Hợp Quốc
theo tiếng Việt một cách chính thức để việc hiểu, áp dụng, hướng dẫn thi hành thống
nhất.
• Ban hành các chính sách ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án
xây dựng công trình phúc lợi như bệnh viện, nhà văn hoá, trường học và xây dựng
một cơ chế huy động vốn hiệu quả để đầu tư vào cơ sở hạ tầng các KKT, KCN.
• Bộ Lao động - Thương binh & Xã hội phối hợp với công đoàn các doanh
nghiệp FDI để kiểm tra xem xét các chế độ về lương, thưởng, an toàn lao động, chế
độ làm việc…nhằm đảm bảo lợi ích cho người lao động. https://giaoandientu.net/

81


• Bộ Kế hoạch & Đầu tư với tư cách là cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư
nên yêu cầu và hướng dẫn các nhà đầu tư nước ngoài hằng năm tiến hành thống kê,
tính toán để tổng hợp.
• Thực hiện chính sách kiểm soát chiến lược chuyển giá nhằm trốn thuế
chẳng hạn như: các cơ quan thuế cần thông báo cho các doanh nghiệp FDI gửi báo
cáo kiểm toán hằng năm vào tháng 12 với thời hạn nộp 30 ngày để đối chiếu so sánh
về chi phí và lợi nhuận tránh hiện tượng “lỗ ảo” nhưng lãi thật nhằm mục đích trốn
thuế, hay hoàn chỉnh các phương pháp định giá chuyển giao trong các doanh nghiệp
FDI, kiểm soát các chính sách giá chuyển giao trong nội bộ công ty, kiểm tra và
giám sát chi phí tiền lãi vay, quản lý…
• Các cơ quan Thuế và Hải quan nhanh chóng đẩy nhanh tiến độ thực hiện
công tác đơn giản hoá thủ tục thuế và hải quan theo hướng phù hợp với các tiêu
chuẩn và tập quán quốc tế nhằm cải thiện tích cực môi trường đầu tư, có chế độ khen
thưởng và xử lý kịp thời các biểu hiện sai phạm.
• Đầu tư và đào tạo, nâng cao chất lượng lao động của Việt Nam, đáp ứng
yêu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài về chất lượng lao động và kỷ luật lao động.
Nâng cao trình độ chuyên môn cho công chức Nhà nước ở các cấp liên quan đến
công tác quản lý các hoạt động của khu vực FDI. Về lâu dài, Chính phủ cần có chính
sách đón đầu trong giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực có trình độ kỹ thuật, kỹ năng
kinh doanh phù hợp với yêu cầu quốc tế.
• Nghiên cứu và áp dụng các hình thức mua lại và sát nhập vào thực tế nước
ta để mở rộng các hình thức thu hút vốn FDI, mô hình công ty mẹ - con, công ty hợp
danh để tăng sức hấp dẫn cho môi trường đầu tư của Việt Nam.

https://giaoandientu.net/

82


KẾT LUẬN
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng khẳng định vai trò quan
trọng trong nền kinh tế Việt Nam. FDI là nguồn vốn bổ sung cho phát triển kinh tế,
chuyển giao công nghệ mới, mở rộng thị trường xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế... Nhận thức được vị trí quan trọng của FDI, Việt Nam đã và đang nỗ lực hoàn
thiện hệ thống pháp lý nói chung và hệ thống pháp lý liên quan đến FDI nói riêng
để thu hút các nhà đầu tư. Thực tế, Việt Nam đã thu hút được một lượng vốn FDI
lớn và có xu hướng tăng lên.
Ở Việt Nam nói chung và các địa phương nói riêng đang cần rất nhiều vốn
cho đầu tư phát triển do tích luỹ nội bộ trong nền kinh tế còn thấp nên việc hút vốn
từ bên ngoài là tất yếu. Thời gian qua, nhờ nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã
hội Việt Nam đã có những thay đổi tích cực, trong các nguồn vốn đầu tư phát triển
đó đã có một phần đóng góp từ vốn FDI vào dịch vụ môi trường.
Phát triển DVMT và tự do hóa thương mại là yêu cầu tất yếu của quá trình
phát triển kinh tế và quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu do những đóng góp cho các
hoạt động bảo vệ môi trường trước áp lực ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu
ngày càng gia tăng. Mặc dù đã có nhiều chính sách được xây dựng để thúc đẩy phát
triển, tuy nhiên, đây là một ngành công nghiệp dịch vụ còn non trẻ, quy mô doanh
nghiệp chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, năng lực công nghệ, tài chính và nguồn
nhân lực còn hạn chế, các chính sách hỗ trợ phát triển vẫn còn nhiều bất cập.
Mặc dù ngành CNMT ở Việt Nam chưa chính thức hình thành nhưng đã và
đang có những đóng góp tích cực không chỉ cho bảo vệ môi trường mà còn hứa hẹn
nhiều tiềm năng phát triển thành một ngành kinh tế với các doanh nghiệp và sản
phẩm đặc thù. Định hướng phát triển phát triển ngành CNMT phải phù hợp điều
kiện thực tế của Việt Nam và xu thế phát triển của thế giới nhằm đáp ứng các yêu
cầu thực tế đặt ra từ quá trình phát triển kinh tế-xã hội, góp phần phát triển bền vững
đất nước. Sự phát triển này cần được thực hiện từng bước chắc chắn để đạt được
mục tiêu phát triển ngành CNMT thành một ngành kinh tế quan ttrọng, có khả năng
cung cấp các dịch vụ, công nghệ, thiết bị môi trường, cơ bản đáp ứng nhu cầu bảo
vệ môi trường; hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm, kiểm soát và cải thiện chất lượng
môi trường; giải quyết tình trạng suy thoái môi trường. https://giaoandientu.net/

83


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban công tác về việc gia nhập WTO của Việt Nam (2006), Biểu cam kết cụ thể về
dịch vụ, Hà Nội.
2. “Báo cáo tổng hợp kinh nghiệm quốc tế về dịch vụ môi trường”, Hà Nội, 2010.
3. Bộ Kế hoạch và đầu tư (2008), Kỷ yếu 20 năm đầu tư nước ngoài tại Việt Nam,
Nhà xuất bản Thống nhất Hà Nội, Hà Nội.
4. Bộ Tài nguyên Môi trường (2009), Nghị quyết về đẩy mạnh kinh tế hóa ngành tài
nguyên và môi trường, Hà Nội.
5. Bộ Tài nguyên môi trường (2010) Dự án xây dựng chiến lược phát triển dịch vụ
môi trường đến năm 2030, Hà Nội.
6. Bộ tài nguyên và môi trường (2004), Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến
năm 2010 và định hướng đến năm 2020, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Bùi Huy Nhượng (2006), Một số biện pháp thúc đẩy việc triển khai thực hiện các
dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Trường
đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, tr 20 - 25
8. Các Công ước quốc tế về bảo vệ môi trường (1995) Tuyên bố của Hội nghị Liên
Hợp Quốc về môi trường con người, về môi trường và phát triển, các Công ước cụ
thể và hướng dẫn, Nghị định thư, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 20 -
21.
9. Đảng cộng sản Việt Nam (2013),”Nghị quyết về chủ động ứng phó với biến đổi khí
hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường”, Báo Quân đội nhân
dân, số 21083, tr 3.
10. Đặng Văn Sánh (2013), “Vai trò của Quân đội nhân dân Việt Nam trong hoạt động
dịch vụ môi trường”, Luận án Tiến sĩ kinh tế.
11. Lê Công Toàn (2001), Các giải pháp tài chính nhằm tăng cường thu hút và quản
lý FDI tại Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, 18 - 22
12. Lê Tiến Cơi (2011), “Xu hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài và vai trò của các tập
đoàn xuyên quốc gia”, Thông tin tài chính, số 8/2011, tr 26-28.
13. Nguyễn Bích Ngọc (2010), “FDI: Giải quyết những “nút thắt cổ chai””,Tạp chí
Tài chính, số tháng 3/2010, tr 30 - 31 https://giaoandientu.net/

84


14. Nguyễn Đình Kiệm - Bạch đức Hiển (2006), Giáo trình Tài chính doanh nghiệp,
NXB Tài chính, Hà Nội, tr 30 -35.
15. Nguyễn Đức Khiển (2007), “Lựa chọn công nghệ xử lý nước”, Tạp chí Môi trường
và Sức khỏe, số 12, tr. 14 - 15.
16. Nguyễn Hồng Hà (2009), “Thu hút FDI của Việt Nam năm 2009: Tìm cơ hội trong
gian khó”, Tạp chí tài chính, số tháng 4/2009, tr 15 -16.
17. Nguyễn Minh Phong - Nguyễn Tiến Cơi (2008), “Kinh nghiệm thu hút FDI của
một số nước Châu Á”, Tạp chí ngân hàng, số 13/ 2008, tr 20 - 30
18. Nguyễn Minh Tuấn (2009), “Tác động ngược của hoạt động đầu tư nước ngoài
tới sự phát triển bền vững của Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số11/2009,
25 - 27
19. Nguyễn Quang Thuấn (2010), “Đầu tư trực tiếp của liên minh châu Âu vào Việt
Nam”, tạp chí Nghiên cứu kinh tế, tháng 1/2010, 16 - 19
20. Nguyễn Thị Hường (2001), Giáo trình quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài - tập 1, Trường đại học Kinh tế quốc dân. NXB Thống kê, Hà Nội,
tr 21 -22.
21. Nguyễn Thị Kim Nhã (2005), Giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở Việt Nam, luận án Tiến sĩ kinh tế, Trường đại học kinh tế quốc dân,
Hà Nội, tr 15 - 17
22. Nguyễn Thường Lạng (2011), “Nâng cao chất lượng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, 6/ 2011, tr 20 - 24
23. Nguyễn Trọng Hải (2008), “Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích
hiệu quả kinh tế của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ
kinh tế, Trường đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, tr 10 - 12
24. Phạm Sỹ An (2010), “Lao động FDI và cơ chế tỷ giá hối đoái - một mô hình đơn
giản”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, Tháng 1/2010, tr 21-24.
25. Quốc hội (1996), Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội. https://giaoandientu.net/

85


26. Trần Anh Phương (2004), Một số giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài của các nước nhóm G7 vào Việt Nam, Luận án Tiến sĩ kinh tế,
Trường đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, tr 7 - 9
27. Trần đăng Long (2002), Một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nhà nước
đối với hoạt động FDI tại Thành phố HCM, Luận án tiến sĩ kinh tế.
28. Triệu Hồng Cẩm (2003), Các nhân tố ảnh hưởng và giải pháp đẩy mạnh thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường đại học
kinh tế TPHCM, tr 30 - 32.
29. Trương Thái Phiên (2000), Chiến lược đổi mới chính sách huy động các nguồn vốn
nước ngoài phụ vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2010, đề
tài cấp Bộ của vụ tài chính đối ngoại, Bộ Tài chính, tr 30 – 33.
30. Viện Kinh tế và chính trị thế giới (2005), Thương mại dịch vụ chiến lược phát triển
toàn diện khu vực dịch vụ của Việt Nam.
31. Viện nghiên cứu thương mại (2008), Điều tra đánh giá thực trạng phát triển dịch
vụ môi trường ở Việt nam. Đề xuất chính sách phát triển dịch vụ môi trường phù
hợp với cam kết quốc tế trong tiến trình hội nhập, Hà Nội.
32. Võ Thanh Thu và Ngô Thị Hải Xuân (2010), “Sự mất cân đối trong hoạt động đầu
tư trực tiếp nước ngoài và những giải pháp khắc phục”, Tạp chí Phát triển kinh tế,
số tháng 2/2010, 29 -33
33. Vụ Môi trường - Bộ Tài nguyên và Môi trường (2005), Cơ sở lý luận và thực tiễn
cho việc xây dựng chính sách phát triển dịch vụ môi trường phù hợp với xu thế hội
nhập kinh tế ở nước ta, Hà Nội.
34. Vũ Đình Nam (2013), “Thực trạng và chính sách phát triển dịch vụ môi trường ở
Việt Nam”, Tổng cục Môi trường.
• Trang thông tin điện tử
http://vea.gov.vn.
http://www.entrepreneurstoolkit.org.
http://www.thiennhien.net.
http://www.chinhphu.vn.
https://giaoandientu.net/

86


https://giaoandientu.net/