b) Đối với Triết học Trung Quốc:
Trước hết, triết học Trung Quốc nói riêng và triết học phương Đông nói chung ít bàn đến
vấn đề về giới tự nhiên, nhưng khi kiến giải những vấn đề xã hội loài người, ít nhiều họ có đề
cập đến vấn đề khởi nguyên của thế giới, vấn đề cơ bản của triết học.
Lão Tử cho rằng, khởi nguyên của thế giới là "Đạo". Đạo" là một tên gọi khiên cưỡng, vì
theo ông "Đạo" là cái lớn nhất, cái mông lung mờ ảo. Nhưng "Đạo" cũng là cái có trước vạn vật,
cái mà mọi vật được sinh ra và được nhập vào sau khi bị huỷ diệt. "Đạo"cũng là cái mà mọi vật
và cả con người phải tuân theo. Ông cho rằng: "Người theo quy luật của đất, đất theo quy luật
của trời, trời theo quy luật của đạo..." và "đạo theo quy luật của tự nhiên". Với Lão Tử, "Đạo" có
tính duy vật, song trong đó, có chứa đựng mầm mống duy tâm. Do vậy, sau này, một số nhà triết
học kế tục ông đã khai thác yếu tố duy tâm này và biến "Đạo" thành cái có tính chất như một tinh
thần tuyệt đối, cái mà con người không thể nhận thức được.
Với Khổng Tử, tuy không trực tiếp bàn đến vấn đề bản thể, tự nhiên, nhưng ông lại có
quan niệm về "Trời", "mệnh trời". Sau này,một số người kế tục ông biến các quan niệm đó thành
những thực thể thần thánh, với họ "Trời" là vị thần có nhân cách, có quyền thưởng phạt..., và là
kẻ sáng tạo ra thế giới.
Khác với những quan điểm trên, một số nhà triết học duy vật ở Trung Quốc cổ đại cho
rằng vạn vật do "ngũ hành" (kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ) tương sinh tương khắc tạo thành. Hoặc
một số khác cho rằng, do âm dương giao cảm mà tạo nên trời, đất, vạn vật và con người.
Triết học Trung Quốc cổ đại giải quyết vấn đề cơ bản của triết học thông qua việc luận
giải cái phạm trù: Tâm - Vật, Lý - Khí, Thần- Hình. Các nhà duy tâm cho rằng, Tâm, Lý, Thần là
có trước, là cái chủ động; còn Vật, Khí, Hình là có sau, là cái lệ thuộc. Các nhà duy vật đã phản
bác lại quan niệm duy tâm trên và cho rằng, cái tinh thần, cái tâm lý, cái tư tưởng luôn gắn với
cái thân thể và nó mất đi khi thân thể bị huỷ diệt.
2. Nhận thức luận:
a) Đối với Triết học Ấn độ:
Nói đến nhận thức, trước hết phải nói đến phép biện luận của phái Nyàya, Vaisèsika,
phép biện luận này còn được gọi là "ngũ đoạn luận". Trong "ngũ đoạn luận", để chứng minh một
điều gì đó là chân thực hay giả dối, phải qua 5 bước sau: luận đề, nhân đề,ví dụ, suy đoán, kết
luận. Thí dụ cụ thể như: 1. Đồi có lửa cháy, 2. Vì đồi bốc khói, 3. Tất cả những cái bốc khói
đều có lửa cháy, thí dụ bếp lò; 4. Đồi bốc khói thì không thể không có lửa cháy; 5. Do đó, đồi
có lửa cháy.
Trong triết học Ấn Độ cổ đại cũng có những phái đã đề cập tới phép biện chứng, tất nhiên
đó mới là phép biện chứng mộc mạc, tự phát. Những nhà triết học có tư tưởng biện chứng cho
rằng, thế giới có sinh, có diệt, vận động biến đổi không ngừng. Sự vận động biến đổi ấy diễn ra
trong không gian và trong từng khoảnh khắc thời gian hết sức ngắn (sátna - của Phật giáo). Họ
16