LÊ CẨM LINH - VIẾT TAY - SO SÁNH TRIẾT TQ VÀ ẤN ĐỘ.docx

LcThin15 18 views 20 slides Oct 14, 2024
Slide 1
Slide 1 of 20
Slide 1
1
Slide 2
2
Slide 3
3
Slide 4
4
Slide 5
5
Slide 6
6
Slide 7
7
Slide 8
8
Slide 9
9
Slide 10
10
Slide 11
11
Slide 12
12
Slide 13
13
Slide 14
14
Slide 15
15
Slide 16
16
Slide 17
17
Slide 18
18
Slide 19
19
Slide 20
20

About This Presentation

LÊ CẨM LINH - VIẾT TAY - SO SÁNH TRIẾT TQ VÀ ẤN ĐỘ.docx


Slide Content

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.........................................................................................................................................2
1 Lý do chọn đề tài.........................................................................................................................2
2 Mục tiêu nghiên cứu...................................................................................................................2
3 Phương pháp nghiên cứu...........................................................................................................2
4 Ý nghĩa thực tiễn của đề tài.......................................................................................................2
5 Cấu trúc nghiên cứu...................................................................................................................3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ TRUNG ĐẠI VÀ TRUNG
QUỐC CỔ TRUNG ĐẠI ...............................................................................................................4
1. Khái quát triết học Phương Đông cổ trung đại...................................................................4
2. Điều kiện ra đời, phát triển và nét đặc thù của Triết học Ấn Độ cổ trung đại.................4
a) Điều kiện ra đời..................................................................................................................4
b) Các đặc điểm Triết học Ấn Độ cổ đại Triết học Ấn Độ cổ đại là loại hình Triết học
tôn giáo....................................................................................................................................5
c) Quá trình hình thành và phát triển của Triết học Ấn Độ cổ đại...................................5
d) Nội dung cơ bản TH Ấn Độ cổ đại...................................................................................6
3. Điều kiện ra đời, phát triển và nét đặc thù của Triết học Trung Quốc Cổ......................8
a) Điều kiện ra đời:.................................................................................................................8
b) Các đặc điểm Triết học Trung Quốc cổ đại.....................................................................8
c) Quá trình hình thành và phát triển của Triết học Trung Quốc cổ đại.........................9
d) Nội dung cơ bản triết học Trung Quốc cổ đại.................................................................9
CHƯƠNG 2: SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ
TRUNG ĐẠI VÀ TRUNG QUỐC CỔ TRUNG ĐẠI ...............................................................12
1. Sự tương đồng giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại................................12
2. Sự khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ trung đại và Trung Quốc cổ trung đại...............14
KẾT LUẬN...................................................................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...........................................................................................................20
1

MỞ ĐẦU
1 Lý do chọn đề tài
Triết học là một hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những nguyên tắc chung của tồn
tại và nhận thức, là thái độ con người đối với thế giới, là khoa học về những qui luật chung nhất
của tự nhiên, xã hội và tư duy. Lịch sử Triết học đã trãi qua biết bao thăng trầm, biến cố của lịch
sử, có lúc phát triển đến đỉnh cao như giai đoạn triết học của Arixtốt, Đêmôcrít và Platôn nhưng
cũng có lúc biến thành một môn của thần học theo chủ nghĩa kinh viện trong một xã hội tôn giáo
bao trùm mọi lĩnh vực vào thế kỷ thứ X – XV. Sự phát triển của Triết học là sự phát triển song
song giữa hai nền Triết học phương Tây và phương Đông. Do điều kiện địa lý tự nhiên, kinh tế -
xã hội, văn hoá mà sự phát triển của hai nền Triết học có sự khác nhau. Nói đến triết học phương
Đông phải kể đến Triết học Ấn Độ cổ đại và Triết học Trung Quốc cổ đại. Đây là hai trong số
những chiếc nôi Triết học sớm nhất, lâu đời, phong phú và đã tạo nhiều dấu ấn đặc biệt cho nền
lịch sử Triết học. Triết học Ấn Độ cổ đại và Triết học Trung Quốc cổ đại đều có chung đặc điểm
là phân tích các vấn đề xuất phát từ nhân sinh quan, tuy nhiên do đặc điểm kinh tế -chính trị, xã
hội khác nhau nên mỗi nền triết học này cũng có những đặc trưng khác nhau. Do đó nhóm 1
chọn đề tài: “Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Triết học Trung Quốc
cổ đại” để phân tích sâu hơn về các vấn đề như sự hình thành, phát triển và nét đặc thù cũng như
những điểm tương đồng và khác biệt của hai nền Triết học này.
2 Mục tiêu nghiên cứu
Để tài này đặt ra các mục tiêu cần nghiên cứu sau:
+ Sự tương đồng giữa triết học Ấn Độ cổ trung đại và Trung Quốc cổ trung đại
+ Sự khác nhau giữa triết học Ấn Độ cổ trung đại và Trung Quốc cổ trung đại
3 Phương pháp nghiên cứu
Đối với đề tài này, tôi đã lựa chọn các phương pháp nghiên cứu sau:
a) Phương pháp luận theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử để nhìn nhận
sự việc theo sự vận động và phát triển của nó.
b) Thu thập dữ liệu:
– Thu thập thông tin từ sách vở, bài giảng, giáo trình, báo, đài, internet.
4 Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Đề tài này giúp cho học viên cao học hiểu rõ hơn về nền Triết học Phương Đông, chủ yếu
là Triết học Ấn Độ cổ đại và Triết học Trung Quốc cổ đại. Chủ yếu là học viên đi sâu vào sự
tương đồng và khác biệt giữa hai nền Triết học này để có sự hiểu biết đúng đắn và sâu sắc. Đồng
thời, qua đó học viên nâng cao trình độ tư duy lí luận và vận dụng sáng tạo tư duy biện chứng
vào lĩnh vực công tác chuyên môn của chính mình.
2

5 Cấu trúc nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nghiên cứu gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận về triết học Ấn Độ cổ trung đại và Trung Quốc cổ trung đại
Chương 2: Sự tương đồng giữa triết học Ấn Độ cổ trung đại và Trung Quốc cổ trung đại
Chương 3: Sự khác nhau giữa triết học Ấn Độ cổ trung đại và Trung Quốc cổ trung đại
3

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ TRUNG ĐẠI VÀ TRUNG
QUỐC CỔ TRUNG ĐẠI
1. Khái quát triết học Phương Đông cổ trung đại
Lịch sử triết học Phương Đông nỗi bật với hai hệ thống triết học lớn là triết học Ấn Độ và
triết học Trung Quốc
Quá trình hình thành và phát triển của triết học Ấn Độ cổ đại trải qua hai thời kỳ chính:
Thời kỳ Vêđa (khoảng thế kỷ XV đến thể kỷ VIII TCN) và thời kỳ cổ điển (còn gọi là thời kỳ
Bàlamôn – phật giáo, khoảng thế kỷ VI TCN đến thế kỷ VI).
Một xu hướng khá đậm nét trong triết học ấn Độ cổ đại là quan tâm giải quyết những vấn
đề nhân sinh dưới góc độ tôn giáo với xu hướng "hướng nội", đi tìm cái Đại ngã trong cái Tiểu
ngã của một thực thể cá nhân. Có thể nói, sự phản tỉnh nhân sinh là một nét trội và có ưu thế của
nhiều học thuyết triết học ấn Độ cổ, trung đại (trừ trường phái Lokàyata), và hầu hết các học
thuyết triết học này đều biến đổi theo xu hướng từ vô thần đến hữu thần, từ ít nhiều duy vật đến
duy tâm hay nhị nguyên.
Triết học Trung Quốc có mầm mống từ thần thoại thời Tam đại (Hạ, Thương, Chu). Sự
phát triển của triết học Trung Quốc cổ -trung đại là một quá trình đan xen, thâm nhập lẫn nhau
giữa các trường phái (Âm dương gia, Nho gia, Đạo gia, Mặc gia và Pháp gia). Mối quan tâm
hàng đầu của các nhà tư tưởng Trung Hoa cổ đại là những vấn đề thuộc đời sống thực tiễn chính
trị -đạo đức của xã hội. Tuy họ vẫn đứng trên quan điểm duy tâm để giải thích và đưa ra những
biện pháp giải quyết các vấn đề xã hội, nhưng những tư tưởng của họ đã có tác dụng rất lớn,
trong việc xác lập một trật tự xã hội theo mô hình chế độ quân chủ phong kiến trung ương tập
quyền theo những giá trị chuẩn mực chính trị -đạo đức phong kiến phương Đông.
Bên cạnh những suy tư sâu sắc về các vấn đề xã hội, nền triết học Trung Hoa thời cổ còn
cống hiến cho lịch sử triết học thế giới những tư tưởng sâu sắc về sự biến dịch của vũ trụ. Những
tư tưởng về6 Âm Dương, Ngũ hành tuy còn có những hạn chế nhất định, nhưng đó là những triết
lý đặc sắc mang tính chất duy vật và biện chứng của người Trung Hoa thời cổ, đã có ảnh hưởng
to lớn tới thế giới quan triết học sau này không những của người Trung Hoa mà cả những nước
chịu ảnh hưởng của nền triết học Trung Hoa.
2. Điều kiện ra đời, phát triển và nét đặc thù của Triết học Ấn Độ cổ trung đại
a) Điều kiện ra đời
Điều kiện tự nhiên: Ấn Độ cổ đại là một đất nước rộng lớn thuộc bán đảo Nam Á có

những yếu tố địa lý rất trái ngược nhau: Vừa có núi cao (bao gồm cả nước Pakixtan, Bănglađét
và Nêpan ngày nay), lại vừa có biển rộng; vừa có sông ấn chảy về phía Tây, lại vừa có sông
Hằng chảy về phía Đông; vừa có đồng bằng phì nhiêu, lại có sa mạc khô cằn; vừa có tuyết rơi giá
lạnh, lại có nắng cháy, nóng bức...
Điều kiện kinh tế -xã hội: Xã hội ấn Độ cổ đại ra đời sớm, có điều kiện và dân cư rất

đa dạng. Ấn Độ cổ -Trung đại được chia thành 4 thời kỳ: Thời kỳ văn minh sông Ấn, thời kỳ văn
4

minh Vêđa, thời kỳ các vương triều độc lập và thời kỳ các vương triều lệ thuộc. Từ trong nền
văn minh sông Ấn của người bản địa Đraviđa xa xưa, nhà nước Ấn Độ cổ đã xuất hiện, đến thế
kỷ XVII trước công nguyên, thiên tai (lũ lụt trên sông Ấn…) đã làm cho nền văn minh này sụp
đổ. Vào khoảng thế kỷ XV trước Công nguyên,các bộ lạc du mục Arya ở Trung Á xâm nhập vào
Ấn Độ. Họ định canh, định cư và tiến hành quá trình nô dịch, đồng hóa, hỗn chủng với các bộ lạc
bản địa Đraviđa. Kinh tế tiêu biểu nông nghiệp kết hợp với thủ công nghiệp mang tính tự cung,
tự cấp, lấy gia đình, gia tộc của người Arya làm cơ sở, đã tạo nền tảng vững chắc cho các công
xã nông thôn ra đời. Trong mô hình của công xã nông thôn đã hình thành bốn đẳng cấp với sự
phân biệt hết sức khắc nghiệt và dai dẳng; ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà nước của các đế
vương; nhà nước kết hợp với Tôn giáo thống trị nhân dân và bóc lột nông nô công xã; tôn giáo
bao trùm mọi mặt của đời sống xã hội; con người sống nặng về tâm linh tinh thần và khao khát
được giải thoát. Sư phân biệt về đẳng cấp, chủng tộc, dòng dõi, tôn giáo, nghề nghiệp,v.v… đã
tạo ra những xung đột ngấm ngầm trong xã hội nhưng bị kìm giữ bởi sức mạnh tinh thần của nhà
nước –tôn giáo. Xã hội phát triển một cách chậm chạp và nặng nề.
Điều kiện về văn hóa: Văn hóa ấn Độ được hình thành và phát triển trên cơ sở điều

kiện tự nhiên và hiện thực xã hội. Người Ấn Độ cổ đại đã tích lũy được nhiều kiến thức về thiên
văn, sáng tạo ra lịch pháp, giải thích được hiện tượng nhật thực, nguyệt thực... ở đây, toán học
xuất hiện sớm: phát minh ra số thập phân, tính được trị số π, biết về đại số, lượng giác, phép khai
căn, giải phương trình bậc 2, 3. Về y học đã xuất hiện những danh y nổi tiếng, chữa bệnh bằng
thuật châm cứu, bằng thuốc thảo mộc. Chữ viết đã xuất hiện từ thời văn hóa Harappa; các bộ
kinh Vêđa và sử thi sớm xuất hiện; Nghệ thuật tạo hình như Kiến trúc, điêu khắc được thể hiện
trong các cung điện, đền chùa, tháp, lăng tẩm, trụ đá…; sản sinh ra nhiều tôn giáo lớn như đạo
Bàlamôn – Hinđu, đạo Phật, đạo jaina, đạo Xích,…
b) Các đặc điểm Triết học Ấn Độ cổ đại Triết học Ấn Độ cổ đại là loại hình Triết học tôn
giáo.
Tôn giáo và Triết học xen kẽ vào nhau. Trong Tôn giáo có màu sắc Triết học, trong Triết
học có màu sắc Tôn giáo. Tuy nhiên Tôn giáo của Ấn Độ có xu hướng “hướng nội” đi sâu tìm
hiểu sức mạnh của đời sống tâm linh, tinh thần, không phải “hướng ngoại” như các tôn giáo
phương Tây tìm kiếm sức mạnh nơi thượng đế.
Hầu hết các hệ thống Triết học Ấn Độ đều tập trung giải quyết vấn đề nhân bản, đó là vấn đề
nhân sinh quan và con đường giải thoát.
Cuộc đấu tranh giữa Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa duy tâm xung quanh các vấn đề:
Bản nguyên vũ trụ + Con người, linh hồn, đạo đức.
c) Quá trình hình thành và phát triển của Triết học Ấn Độ cổ đại
Người ta phân chia quá trình thành 2 thời kỳ chính
-Thời kỳ thứ nhất: Thời kỳ Vêđa khoảng thế kỷ 15 TCN đến thế kỷ 8 TCN
5

Trong thời kỳ này con người quan niệm về thế giới, về đời sống bằng các biểu tượng
huyền thoại, đa thần. Những quan niệm đó được thể hiện trong các tác phẩm chủ yếu là kinh
Veđa và Upanisal
+ Vêđa có nghĩa là hiểu biết, tri thức cao cả, thiêng liêng, nó cũng được dùng với nghĩa là
“Kinh thánh”.
+ Kinh Upanishad: Là những kinh sách bình chú tôn giáo -triết học, gồm 200 bài kinh
giải thích ý nghĩa triết lý sâu xa của những tư tưởng thần thoại, tôn giáo Véđa. Nó thể hiện một
tinh thần mới là giải phóng ý thức khỏi sự ràng buộc của nghi lễ và bàn đến những vấn đề có ý
nghĩa triết học thực sự. -Thời kỳ thứ hai: Thời kỳ cổ điển (hay Bà la môn và Phật giáo): Thế kỷ
thứ 7 TCN đến thế kỷ 6 SCN. Đây là thời kỳ nền kinh tế, xã hội nô lệ ấn Độ đã phát triển cao,
nhưng vẫn bị bóp nghẹt bởi tính chất kiên cố của tổ chức công xã nông thôn, cùng sự thống trị
của nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền và sự khắc nghiệt của chế độ đẳng cấp.
Trong lĩnh vực tinh thần, thế giới quan duy tâm, tôn giáo được coi là hệ tư tưởng chính thống,
thống trị trong đời sống tinh thần xã hội. Các trào lưu triết học thời kỳ này với khuynh hướng đa
dạng, đại diện cho các tầng lớp xã hội khác nhau, vừa mang tính chất triết học, vừa mang đậm
màu sắc tôn giáo.
d) Nội dung cơ bản triết học Ấn Độ cổ đại
Vô ngã: Phật giáo cho rằng thế giới (vạn vật và con người) được cấu tạo từ các yếu tố vật
chất (sắc) và tinh thần (danh).9 Sắc và danh chỉ hội tụ nhau trong một thời gian ngắn rồi lại
chuyển sang trạng thái khác, sinh sinh, hóa hóa, tan hợp, hợp tan. Do đó vạn vật chỉ là dòng biến
hóa hư ảo vô cùng, không có gì là thường định. Phật giáo quan niệm: sự tồn tại của một con
người ở trên đời chỉ là ngắn ngủi bởi vì các yếu tố tạo nên con người chỉ nhóm lại trong chốc lát
rồi lại chuyển hóa thành cái khác.
Thủy + Hỏa + Thổ + Phong + Không/ 5 yếu tố vật chất (Sắc) + Thức / 1 yếu tố tinh thần (Danh)
Vô thường: Phật giáo quan niệm: Thế giới này không có cái gì là thường định (ổn định),
vĩnh hằng, đứng im một chỗ mà mọi vật đều thường xuyên biến đổi theo một chu trình: Sinh,
Trụ, Dị, Diệt. Sinh là sinh ra, Trụ là tồn tại, phát triển trong một thời gian, Dị là biến đổi, Diệt là
tiêu vong, là mất.
Nhân duyên: Nhân là nguyên nhân, duyên là điều kiện. Tất cả các sự vật, hiện tượng
trong thế giới này xuất hiện đều có nguyên nhân và điều kiện. Duyên là điều kiện giúp cho nhân
trở thành quả, quả lại do duyên mà thành nhân khác, nhân khác lại do duyên mà thành quả mới.
Cứ như thế không có nguyên nhân đầu tiên và không có kết quả cuối cùng.
Nhân sinh quan (quan điểm của con người về cuộc sống)
Thuyết luân hồi, nghiệp báo
Luân hồi: Bánh xe quay tròn

6

Lý giải: Khi người ta chết thì chết về thể xác, còn linh hồn bất tử, còn sống đầu thai sang
kiếp khác.
Nghiệp báo: là cái do hành động của ta gây ra, trong cuộc đời hiện hữu của mỗi người

đều phải gánh chịu hậu quả của những hành vi do kiếp trước gây ra. Đạo Phật cho rằng một
người tu nhân, tích đức ở kiếp này, đời này thì đời sau thiện báo, còn đời này ác thì đời sau ác
báo: Thiện giả Thiện báo; Ác giả Ác báo. Cuộc đời con người trong vòng số kiếp kiếp này
 
là quả của kiếp trước và lại là nhân của kiếp sau.
Thuyết tứ diệu đế:
Tứ diệu đế hay còn gọi là tứ chân đế hay tứ thánh đế là đạo lý căn bản của Thanh Văn
Thừa, đồng thời cũng là cơ sở của các thuyết khác trong giáo lý Phật. Tứ đế gồm có: Khổ đế,
Tập đế, Diệt đế, Đạo đế.
a. Khổ đế: Trong tứ đế, Phật đưa ra đầu tiên vấn đề khổ, rồi giảng cho ta thấy vì sao mà
khổ, phương pháp diệt khổ và con đường đi đến diệt khổ. Theo cách phân tích khác, Phật chia
cái khổ ra làm 8 loại:
1, Sinh khổ: Đã có sinh là có khổ vì đã sinh nhất định có diệt, bị luật vô thường chi phối
nên khổ.
2, Lão khổ: người ta mong muốn trẻ mãi nhưng cái già theo thời gian vẫn cứ đến. Cái già
vào mắt thì mắt bị mờ đi, cái già vào lỗ tai thì tai bị điếc, vào da, xương tủy thì da nhăn nheo,
xương tủy mệt mỏi. Cái già tiến đến đâu thì suy yếu đến ấy làm cho người ta phiền não.
3, Bệnh khổ: Trong cuộc sống, thân thể thường ốm đau, nhất là khi già yếu, thân thể suy
nhược, bệnh tật dễ hoành hành làm cho người ta đau khổ.
4, Tử khổ: Là cái khổ khi người ta chết.
5, Ái biệt ly khổ: nỗi khổ khi phải chia ly.
6, Sở cầu bất đắc khổ: Người ta thường chạy theo những điều mình ưa thích, mong cầu
hết cái này đến cái khác. Khi chưa cầu được thì phiền não, khi cầu được rồi thì phải lo giữ nó,
nếu nó mất đi thì lại luyến tiếc.
7, Oán tăng hội khổ: những điều mình chán ghét thì nó cứ tiến đến bên mình.
8, Ngũ uẩn khổ: sự hội tụ và xung đột của ngũ uẩn – sắc, thụ, tưởng, hành, thức.
b. Tập đế: Tập đế còn gọi là nhân đế, là những nguyên nhân tạo thành sự khổ, gồm ba
nguyên nhân chính (tham, sân, si) còn gọi là tam độc, là nguồn gốc của mọi sự khổ. Nhân đế
được diễn giải trong thuyết thập nhị nhân duyên để thấy được nguồn gốc của sự vật trong thế
gian gồm:
7

1. Vô minh 2. Hành 3. Thức 4. Danh -sắc. 5. Lục nhập 6. Xúc 7. Thụ 8. Ái 9. Thủ 10.
Hữu 11. Sinh 12. Lão -tử
c. Diệt đế: Diệt đế là lý luận về khả năng tiêu diệt được nỗi khổ nơi cuộc sống thế gian để
đạt tới cảnh giới Niết Bàn11.
Niết Bàn là sự chấm dứt mọi phiền não được thực hiện không phải ở một nơi nào khác,
một cõi nào khác mà thực hiện ngay trong cõi thế gian này, nhờ sự tu hành nghiêm túc mang lại
cho ta mọi trạng thái tinh thần đặc biệt: Trạng thái an lạc, siêu thoát, tịnh diệt.
d. Đạo đế: Đạo đế là con đường hướng dẫn cho chúng sinh đạt được đến quả giải thoát, ra
khỏi luân hồi sinh tử.
Để đi qua tám con đường trên thì không ngoài ba nguyên tắc: giới, định, tuệ hay còn gọi
là tam học..
3. Điều kiện ra đời, phát triển và nét đặc thù của Triết học Trung Quốc Cổ
a) Điều kiện ra đời:
1. Nước có nhiều dân tộc: Có hơn 60 dân tộc với 5 dân tộc lớn, lớn nhất là Hán. Cờ có 5
ngôi sao tượng trưng cho sự đoàn kết của các dân tộc, ngôi sao lớn tượng trưng cho dân tộc Hán
2. Chế độ phong kiến: Ra đời sớm, kết thúc muộn so với các nước phương Tây – Trong
lòng xã hội phong kiến không có yếu tố tư bản.
3. Chiến tranh diễn ra liên miên
Thời Xuân thu: 3 thế kỷ với 483 cuộc chiến tranh. Mạnh Tử: “Đánh nhau tranh thành thì thây
chất đầy thành, đánh nhau giành đất thì thây chất đầy đồng”.
b) Các đặc điểm Triết học Trung Quốc cổ đại
1. Triết học Trung Quốc gắn liền với 12 chính trị và đạo đức
Thường những nhà triết học là những nhà chính trị, những ông quan tham mưu cho các vương
triều đình – có đạo đức tiêu biểu cho xã hội đương thời – như Khổng Tử.
2. Triết học Trung Quốc trải qua nhiều thời kỳ, trong đó thời Xuân thu, Chiến quốc là
thời kỳ phát triển rực rỡ nhất có nhiều học thuyết gọi thời kỳ này là “Bách gia chu tử, trăm nhà
trăm thấy”; “Bách gia tranh minh, trăm nhà đua tiếng”
3. Vấn đề cơ bản của triết học
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức nói chung, trong triết học Trung Hoa nói riêng là mối quan
hệ: Thiên – Địa – Nhân.
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm chủ yếu diễn ra xung quanh các vấn
đề:
+ Khởi nguyên vũ trụ: Duy tâm: Trời (Đổng Trọng Thư). Duy vật: âm dương, ngũ hành
8

+ Vấn đề con người: số phận, tính người. Duy tâm: Do trời – Mệnh trời: Sống chết, giàu nghèo
do thiên mệnh quy định. Duy vật: Hoàn cảnh và giáo dục (quyết định).
+ Nhận thức: Duy tâm: 3 dạng: Thánh nhân + Thượng trí + Hạ ngu có học cũng không biết. Duy
vật: mọi tầng lớp phải học mới biết.
4. Trong nhiều hệ thống triết học của Trung Quốc cổ đại các yếu tố: Duy vật, duy tâm, vô
thần, hữu thần đan xen vào nhau đôi khi khó thấy.
Phân biệt nhà triết học duy vật – duy tâm không như phương Tây.
c) Quá trình hình thành và phát triển của Triết học Trung Quốc cổ đại
Đây là thời đại tư tưởng được giải phóng, tri thức được phổ cập, nhiều học giả đưa ra học
thuyết của mình nhằm biến đổi xã hội, khắc phục tình trạng loạn lạc bấy lâu nay. Có hàng trăm
học giả với hàng trăm học thuyết được ra đời, cho nên, thời này còn được gọi là thời Bách gia
chư tử. Trong hàng trăm học thuyết đó có sáu học phái lớn là Âm dương gia, Nho gia, Đạo gia,
Mặc gia, Pháp gia, Danh gia. Sang thời kỳ phong kiến hưng thịnh, Nho gia đã vươn lên vai trò
thống trị. Từ thời Tần – Hán, rồi Lưỡng Hán, Ngụy -Tấn, Tùy – Đường trở nên thiên hạ thống
nhất, dựa vào năng lực chính trị, giai cấp thống trị yêu cầu thống nhất, dựa vào quyền lực chính
trị, giai cấp thống trị yêu cầu thống nhất tư tưởng hoặc tôn Nho, hoặc sùng Đạo, hoặc sùng Phật.
Năm 136 Hán Vũ Đế chấp nhận kiến nghị của Đổng Trọng Thư nên đã ra lệnh bãi truất bách gia,
độc tôn Nho thuật. Mặc dù được đề cao, nhưng để giữ vai trò thống trị lâu dài, Nho gia phải hấp
thụ các tư tưởng của các trường phái khác. Kinh học do Nho làm chủ đã xuất hiện. Sau giai đoạn
thống trị của Nho gia đến thời kỳ hưng thịnh của đạo giáo, với sự xuất hiện của Huyền học do
Đạo làm chủ. Rồi tiếp theo là sự vươn lên của Phật học do Phật giáo làm chủ (Đường). Sự phát
triển mạnh tư tưởng triết học thời kỳ này là cơ sở để dân tộc Trung Hoa sáng tạo nên một nền
văn hóa huy hoàng, xán lạn trong thời kỳ cực thịnh của xã hội phong kiến Trung Quốc phải trải
qua quá trình phát triển gần một vòng, đến thời Tống. Nho học lại được đề cao và phát triển đến
đỉnh cao. Hình thức biểu hiện của nó là Lý học – dung hợp đạo Phật vào Nho. Các nhà tư tưởng
đời Thanh như Hoàng Tông Hy, Cố Viêm Võ, Vương Phu Chi đề xướng Thực học, tiến hành
tổng kết một cách duy vật các cuộc tranh cãi hơn nghìn năm về hữu và vô (động và tỉnh), tâm và
vật (tri và hành)… Như vậy, sự phát triển của triết học Trung Hoa cổ -trung đại là một quá trình
đan xen, thâm nhập lẫn nhau của các trường phái.
d) Nội dung cơ bản triết học Trung Quốc cổ đại
Học thuyết nho giáo. Khổng tử là người sáng lâp
̣ ra nho giáo vào cuối thời kỳ Xuân thu là
thời kỳ mà người ta rất quan tâm đến đạo đức, chính trị, xã hôi.
̣ Ông coi hoạt đông̣ đạo đức là
nền tảng của xã hôi,
̣ là công cụ để gìn giữ trâṭ tự xã hôị và hoàn thiêṇ nhân cách cá nhân cho con
người. Đến thời chiến quốc, do bất đồng về bản tính con người mà nho giáo bị chia thành 8 phái,
trong đó có phái của Tôn tử và phái của Mạnh tử là mạnh nhất. Mạnh tử có nhiều đóng góp đáng
kể cho sự phát triển của nho giáo nguyên thủy, ông đã khép lại môt
̣ giai đoạn quan trọng – giai
đoạn hình thành nho giáo, nho giáo Khổng – Mạnh còn được gọi là nho giáo nguyên thủy hay
nho giáo tiên Tần.
9


ị dung cơ bản của Nho giáo: Để tổ chức xã hôi,̣ điều cốt lõi là phải đào tạo cho được
những người cai trị kiểu mẫu – người Quân tử (Quân = cai trị; Quân tử = người cai trị). Để trở
thành người quân tử, trước hết là phải tu thân. Có ba tiêu chuẩn chính:
1. Đạt “đạo”: Đạo là con đường, là những mối quan hê ̣ mà con người phải biết cách ứng
xử trong cuôc
̣ sống. Có 5 đạo: Vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bè bạn (quân thần, phụ tử,
phu phụ, huynh đê,
̣ bằng hữu). 5 Đạo đó gọi là ngũ luân (luân = thứ bâc,̣ cư xử). Trong xã hôi,̣
cách ứng xử hợp lý hơn cả là trung dung (dung hòa ở giữa).
2. Đạt “đức”: Người quân tử, theo Khổng tử, nếu có 3 điều nhân – trí – dũng thì gọi là đạt
đức. Về sau, Mạnh tử bỏ “dũng” mà thay bằng “lễ, nghĩa” thành 4 đức “nhân, lễ, nghĩa, trí”. Đến
đời Hán thêm “tín” thành 5 đức gọi là ngũ thường.
3. Ngoài các tiêu chuẩn về “đạo”, “đức”, người quân tử còn phải biết thi -thư -lễ – nhạc.
Khổng tử nói rằng con người “hưng khởi trong lòng là nhờ học thi, lâp
̣ thân được là nhờ biết lễ,
thành công được là nhờ có nhạc” (Luâṇ ngữ). Nói cách khác, ông đòi hỏi người cai trị không thể
là dân võ biền, mà phải có môt ̣ vốn văn hóa toàn diên.
̣
Tu thân rồi, bổn phân ̣ của người quân tử là Hành Đông,
̣ phải tề gia, trị quốc, bình thiên
hạ. Kim chỉ nan cho mọi hành đông
̣ cho viêc̣ cai trị là 2 phương châm:
1. Phương châm thứ nhất là Nhân trị. Nhân là tình người; Nhân trị là cai trị bằng tình người, coi
người như bản thân mình.
2. Phương châm thứ hai là Chính danh. Chính danh là sự vât
̣ phải ứng với tên gọi, mỗi người
phải làm đúng với chức phân ̣ của mình. Chính danh trong cai trị là phải làm sao để “vua ra
vua,15 tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con” (Luân ̣ ngữ). “Nếu danh không chính thì lời nói không
thuân,
̣ lời nói không thuâṇ thì tức viêc̣ chẳng thành” (Luâṇ ngữ).
Đó chính là những nét chủ yếu nhất trình bày trong các kinh sách của học thuyết Nho
giáo. Gọn hơn nữa, nó đã được người sáng lâp
̣ tóm gọn trong 9 chữ tu thân, tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ. Và 9 chữ ấy cũng nằm trong chữ 2 cai trị mà thôi.
Học thuyết đạo gia Đạo gia được Lão tử sáng lâp
̣ ra và sau đó được Trang tử phát triển
thêm vào thời Chiến quốc. Kinh điển của Đạo gia chủ yếu tâp ̣ trung lại trong bô ̣Đạo đức kinh
do Lão Tử soạn và Nam hoa kinh do Trang tử và môt
̣ số người theo Đạo gia viết. Trong đó Đạo
là phạm trù triết học vừa để chỉ bản nguyên vô hình, phi cảm tính, phi ngôn từ, sâu kín, huyền
diê
ụ của vạn vât,̣ vừa để chỉ con đường, quy luâṭ chung của mọi sự sinh thành, biến hóa xảy ra
trong thế giới. Đức là phạm trù triết học dùng để thể hiên ̣ sức mạnh tiềm ẩn của đạo, là cái hình
thức nhờ đó vạn vât
̣ được định hình và phân biêṭ được với nhau đó là cái lý sâu sắc để nhâṇ biết
vạn vât.
̣ Đạo gia xem xét đạo không chỉ là nguồn gốc, bản chất mà còn là quy luâṭ của mọi cái
đã, đang, và sẽ tồn tại trong thế giới. Điều này cho phép hiểu đạo như nguyên lý thống nhất –
vân ̣ hành của vạn vât
̣ – đạo lý – nguyên lý đạo pháp tự nhiên. Đạo vừa mang tính khách quan,
vừa mang tính phổ biến; vì vâỵ trong thế giới, không đâu không có đạo, không ai không theo
10

đạo. Quan niêṃ về đạo, đức của trường phái Đạo gia thể hiên ̣ môt
̣ trình đô ̣khái quát cao của tư
duy biêṇ chứng khi giải quyết vấn đề bản nguyên của thế giới.
Lão Tử cho rằng vũ trụ vân ̣ đông ̣ biến đổi theo hai quy luât: ̣ quy luât ̣ bình quân và quy
luât
̣ phản phục. Luâṭ bình quân là luôn cho sự vâṭ được cân bằng theo môt ̣ trât ̣ tự điều hòa tự
nhiên, không có cái gì thái quá, bất câp.
̣ Luât ̣ phản phục là sự phát triển đến cực điểm thì quay
trở lại phương hướng cũ. Đây là quản điểm biên ̣ chứng mang tính máy móc đơn giản. Vạn vât
̣
chỉ vâṇ đông
̣ tuần hoàn, lăp ̣ đi lâp ̣ lại.
Trong quan niêṃ về nhân sinh và chính trị – xã hôi,
̣ Lão Tử đã xây dựng thuyết vô vi tức
là sống và hành đông
̣ theo lẽ tự nhiên, thuần phác. Xã hôị lý tưởng đối với ông là những nước
nhỏ, dân ít. Dân hai nước ở cạnh nhau, dù cách nhau bởi môt
̣ bờ dâụ nhỏ hay môṭ con mương
cạn, cùng nghe tiếng chó sủa tối, tiếng gà gáy sáng… nhưng đến già đến chết họ cũng không bao
giờ qua lại thăm nhau.
Sang thời Chiến quốc, xuất phát từ quan niêṃ của Lão Tử coi vạn vât
̣ đều do đạo sinh ra.
Trang Tử cho rằng, trời đất và ta cùng sinh ra, vạn vât ̣ với ta đều là môt.
̣ Trang Tử đã đã biến
các yếu tố biêṇ chứng trong triết học của Lão Tử thành chủ nghĩa tương đối và thuyết ngụy biên.
̣
Ông cho rằng đúng sai, trên dưới, sang hèn, bần tiêṇ đều như nhau; coi đời như môt
̣ cuôc̣ giải trí,
môt
̣ cõi mông̣ mơ mà khi tỉnh dâỵ không biết ta hóa bướm hay bướm hóa ta; chủ trương sống
thuân ̣ theo thời vì cái tự nhiên nào cũng hợp lý cả cho nên không khen chê phải trái, tốt xấu làm
gì, phải lánh nạn để bảo tồn sinh mạng.
Tóm lại Nho gia và Đạo gia là những trường phái những triết lý, nhân sinh quan khác
nhau; có những điểm khác nhau như đường lối trị dân (Nho gia đòi hỏi người trị vì thiên hạ phải
là bâc
̣ thánh nhân quân tử, với những phẩm chất đạo đức sáng ngời nhân, nghĩa, lễ, trí, tín… chủ
trương xây dựng môt
̣ xã hôị đại đồng thì Lão Tử cho rằng bâc̣ Thánh nhân trị vì thiên hạ phải
bằng lẽ tự nhiên của đạo vô vi, và chủ trương xóa bỏ hết mọi ràng buôc
̣ về măṭ đạo đức, pháp
luât
̣ đối với con người để trả lại cho con người cái bản tính tự nhiên vốn có của nó). Cả hai học
thuyết của Khổng Tử và Lão Tử đều không được xã hô
ị đương thời chú ý. Song cả hai đều là
những trường phái có ảnh hưởng to lớn đến đời sống xã hôi ̣ sau này.
11

CHƯƠNG 2: SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ
TRUNG ĐẠI VÀ TRUNG QUỐC CỔ TRUNG ĐẠI
1. Sự tương đồng giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
Triết học Ấn Độ và Trung Quốc giống nhau ở chỗ cả hai đều là triết học phương Đông vì
thế hai nền triết học mang đầy đủ những nét đăc trưng của triết học phương Đông.
Thứ nhất đó là triết học phương Đông nhấn mạnh sự thống nhất trong mối quan hệ giữa
con người và vũ trụ với công thức thiên địa nhân là một nguyên tắc “thiên nhân hợp nhất”. Cụ
thể là: Triết học Trung quốc là nền triết học có truyền thống lịch sử lâu đời nhất, hình thành cuối
thiên niên kỷ II đầu thiên niên kỷ I trước công nguyên. Đó là những kho tàng tư tưởng phản ánh
lịch sử phát triển của những quan điểm của nhân dân Trung hoa về tự nhiên, xã hội và quan hệ
con người với thế giới xung quanh, họ coi con người là tiểu vũ trụ trong hệ thống lớn... trời đất
với ta cùng sinh, vạn vật với ta là một. Như vậy con người cũng chứa đựng tất cả những tính
chất, những điều huyền bí của vũ trụ bao la. Từ điều này cho ta thấy hình thành ra các khuynh
hướng như: khuynh hướng duy tâm của Mạnh Tử thì cho rằng vũ trụ, vạn vật đều tồn tại trong ý
thức chủ quan vầ trong ý niệm đạo đức Trời phú cho con người. Ông đưa ra quan điểm “vạn vật
đều có đầy đủ trong ta”. Ta tự xét mình mà thành thực, thì có cái thú vui nào lớn hơn nữa. Ông
dạy mọi người phải đi tìm chân lý ở ngoài thế giới khách quan mà chỉ cần suy xét ở trong tâm,
“tận tâm” của mình mà thôi. Như vậy theo ông chỉ cần tĩnh tâm quay lại với chính mình thì mọi
sự vật đều yên ổn, không có gì vui thú hơn. Còn theo Thiện Ung thì cho rằng: vũ trụ trong lòng
ta, lòng ta là vũ trụ. Đối với khuynh hướng duy vật thô sơ -kinh dịch thì biết đến cùng cái tính
của con người thì cũng có thể biết đến cái tính của vạn vật, trời đất: trời có chín phương, con
người có chín khiếu. Ở phương Đông khuynh hướng duy vật chưa rõ ràng đôi khi còn đan xen
với duy tâm, mặc dù nó là kết quả của quá trình khái quát những kinh nghiệm thực tiến lâu dài
của nhân dân Trung hoa thời cổ đại. Quan điểm duy vật được thể hiện rõ ở học thuyết Âm
dương, tuy nó còn mang tính chất trực quan, chất phác, ngây thơ và có những quan điểm duy
tâm, thần bí về lịch sử xã hội nhưng trường phái triết học này đã bộ lộ rõ khuynh hướng duy vật
và tư tưởng biện chứng tự phát của mình trong quan điểm về cơ cấu và sự vận động, biến hoá
của sự vật hiện tượng trong tự nhiên cũng như trong xã hội.
Ở Ấn độ tư tưởng triết học Ấn độ cổ đại được hình thành từ cuối thiên niên kỷ II đầu
thiên niên kỷ I trước công nguyên, bắt nguồn từ thế giới quan thần thoại, tôn giáo, giải thích vũ
trụ bằng biểu tượng các vị thần mang tính chất tự nhiên, có nguồn gốc từ những hình thức tôn
giáo tối cổ của nhân loại. Ở Ấn độ nguyên tắc “thiên nhiên hợp nhất” lại có màu sắc riêng như:
Xu hướng chính của Upanishad lànhằm biện hộ cho học thuyết duy tâm, tôn giáo trong
kinh Vêđa về cái gọi là “tinh thần sáng tạo tối cao” sángtạo và chi phối thế giới này. Để trả lời
câu hỏi cái gì là thực tại cao nhất, là căn nguyên của tất cả mà khi nhận thức được nó, người ta sẽ
nhận thức được mọi cái còn lại và có thể giải thoát được linh hồn khỏi sự lo âu khổ nào của đời
sống trần tục và ràng buộc của thế giới này là “tinh thần vũ trụ tối cao” Brahman, là thực thể duy
nhất, có trước nhất, tồn tại vĩnh viễn, bất diệt, là cái từ đó tất cả thế giới đều nảy sinh ra và nhập
12

về với nó sau khi chết. Tóm lại Brahman là tinh thần vũ trụ, là đấng sáng tạo duy nhất, là đại
ngã, đại đinh, là vũ trụ xung quanh cái tồn tại thực sự, là khách thể. Còn Atman là tinh thần con
người, là tiểu ngã, là cái có thể mô hình hoá, là chủ thể và chẳng qua chỉ là linh hồn vũ trụ cư trú
trong con người mà thôi. Linh hồn con người (Atman) chỉ là sự biểu hiện, là một bộ phận của
“tinh thần tối cao”. Vì Atman “linh hồn” là cái tồn tại trong thể xác con người ở đời sống trần
tục, nên ý thức con người lầm tưởng rằng linh hồn, “cái ngã” là cái khác với “linh hồn vũ trụ”,
khác với nguồn sống không có sinh, không có diệt vong của vũ trụ. Vậy nên kinh Vêđa nối con
người với vũ trụ bằng cầu khẩn, cúng tế bắt chước hoà điệu của vũ trụ bằng lễ nghi, hành 19lễ ở
hình thức bên ngoài. Còn kinh Upanishad quay vào hướng nội để đi từ trong ra, đồng nhất cá
nhân với vũ trụ bằng tri thức thuần tuý kinh nghiệm.
Ở Phương Đông người ta đặt trọng tâm nghiên cứu mối quan hệ người với người và đời
sống tâm linh, ít quan tâm đến mặt sinh vật của con người, chỉ nghiên cứu mặt đạo đức thiện hay
ác theo lập trường của giai cấp trống trị cho nên nghiên cưú con người không phải là để giải
phóng con người mà là để cai trị con người, không thấy quan hệ giữa người với người trong lao
động sản xuất. Thứ hai, ở phương Đông những tư tưởng triết học ít khi tồn tại dưới dạng thuần
tuý mà thường đan xen với các hình thái ý thức xã hội khác. Cái nọ lấy cái kia làm chỗ dựa và
điều kiện để tồn tại và phát triển cho nên ít có những triết gia với những tác phẩm triết học độc
lập. Và có những thời kỳ người ta đã lầm tưởng triết học là khoa học của khoa học như triết học
Trung hoa đan xen với chính trị lý luận, còn triết học Ấn độ lại đan xen tôn giáo với nghệ thuật.
Nói chung ở phương Đông thì triết học thường ẩn dấu đằng sau các khoa học Thứ ba, Lịch sử
triết học phương Đông ít thấy có những bước nhảy vọt về chất có tính vạch ra ở các thời điểm,
mà chỉ là sự phát triển cục bộ, kế tiếp xen kẽ. Ở Ấn độ, cũng như Trung quốc các trường phái có
từ thời cổ đại vẫn giữ nguyên tên gọi cho tới ngày nay (từ thế kỷ VIII – V trước công nguyên đến
thế kỷ 19). Nội dung có phát triển nhưng chỉ là sự phát triển cục bộ, thêm bớt hay đi sâu vào
từng chi tiết như: Nho tiền tần, Hán nho, Tống nho vẫn trên cơ sở nhân – lễ – chính danh, nhưng
có cải biên về một phương diện nào đó ví như Lễ thời tiền Tần là cung kính, lễ phép, văn hoá,
thời Hán biến thành tam cương ngũ thường, đời Tống biến thành chữ Lý...
Các nhà triết học ở các thời đại chỉ giới hạn mình trong khuôn khổ ủng hộ, bảo vệ quan
điểm hay một hệ thống nào đó để hoàn thiện và phát triển nó hớn là vạch ra những sai lầm và
không đặt ra mục đích tạo ra thức triết học mới. Do vậy nó không mâu thuận với các học thuyết
đã được đặt nền móng từ ban đầu, không phủ định nhau hoàn toàn và dẫn đến cuộc đấu tranh
trong các trường phái không gay gắt và cũng không triệt đêt. Có tình trạng đó chính là do chế độ
phong kiến quá kéo dài và bảo thủ, kết cấu kinh tế, giai cấp trong xã hội đan xen cộng sinh bên
nhau.
Thứ tư, Sự phân chia trường phái triết học cũng khác:
Ở phương Đông đan xen các trường phái, yếu tố duy vật, duy tâm biện chứng, siêu hình
không rõ nét. Sự phân chia chỉ xét về đại thể, còn đi sâu vào những nội dung cụ thể thường là có
mặt duy tâm có mặt duy vật, sơ kỳ là duy vật, hậu kỳ là nhị nguyên hay duy tâm, thể hiện rõ thế
13

giới quan thiếu nhất quán, thiếu triệt để của triết học vì phân kỳ lịch sử trong các xã hội phương
Đông cũng không mạch lạc như phương Tây.
2. Sự khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ trung đại và Trung Quốc cổ trung đại
Giữa Trung Quốc và Ấn Độ cũng có sự khác biệt: Triết học Ấn Độ hầu như là nghiên cứu
về tôn giáo. Còn triết học Trung Quốc nghiên cứu không chỉ là tôn giáo mà còn rất nhiều lĩnh
vực, chuyên ngành của triết học.
Triết học Ấn Độ cổ đại ca ngợi nhiều vị thần linh vì thế giới thật là đa dạng và hơn nữa,
có nhiều cõi thế giới. Thần thánh cao hơn con người và muôn vật bởi sự siêu việt của nó thoát
khỏi luân hồi sinh tử, khổ đau của đời sống con người, viên mãn trường tồn. Thần thánh cũng rất
gần gũi với con người và muôn vật bởi con người và muôn vật cùng bản chất và là sự thể hiện
của thần thánh. Sự sống thần thánh chảy trong con người. Con người là một bản thể thần thánh
tiềm tàng. Nếu vứt bỏ cái vỏ thô lậu trần tục, phát hiện ra cái ngã thì cái thần thánh lộ ra: sự toả
sáng tinh thần, sự giải thoát khỏi mọi tục lụy. Xác tín rằng con người, bằng nỗ lực của chính
mình có thể vượt qua thân phận con người đạt đến thần thánh, đạt đến trường tồn. Trong khi
Triết học Trung Quốc chủ yếu tập trung giải quyết những vấn đề do thực tiễn đạo đức – chính trị
-xã hội của thời đại đặt ra, điển hình là Nho gia Khổng-Mạnh với các bộ sách kinh điển: bộ Ngũ
kinh (Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân Thu) và bộ Tứ Thư (Luận Ngữ, Đại học, Trung du, Mạnh Tử)
Nếu như triết học Ấn Độ cổ nhấn mạnh vào các học thuyết của trường phái hay các kinh
sách cổ, thay vì nhấn mạnh vào cá nhân các triết gia, đa số họ khuyết danh hoặc tên tuổi không
được lưu truyền lại thì ở Trung Quốc, Triết học gắn với những hiền triết - nhà tôn giáo, nhà giáo
dục đạo đức, chính trị-xã hội.
Nền triết học ấn Độ biểu hiện ra là một nền triết học chịu ảnh hưởng lớn của những tư
tưởng tôn giáo. Trừ trường phái Lokayata, các trường phái còn lại đều có sự thống nhất giữa tư
tưởng triết học và những tư tưởng tôn giáo. Ngay cả hai trường phái: Jaina và Phật giáo, tuy
tuyên bố đoạn tuyệt với truyền thống văn hóa Véda (truyền thống tôn giáo) nhưng trong thực tế
nó vẫn không thể vượt qua truyền thống ấy. Tuy nhiên tính tôn giáo của ấn Độ cổ đại có xu
hướng “hướng nội” mà không phải “hướng ngoại” như nhiều tôn giáo phương Tây. Cũng bởi
vậy, xu hướng chú giải và thực hành những vấn đề nhân sinh quan dưới góc độ tâm linh tôn giáo
nhằm đạt tới sự “giải thoát” là xu hướng trội của nhiều học thuyết triết học – tôn giáo ấn Độ cổ
đại.
Đó chỉ là những nét đặc thù của tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại trong tương quan so sánh
với các nền triết học cổ đại khác, cái làm nên thiên hướng riêng của nó. Còn về nội dung tư
tưởng, nền triết học Ấn Độ cũng giống như nhiều nền triết học cổ đại khác, nó đã đặt ra và giải
quyết nhiều vấn đề về triết học: Bản thể luận, nhận thức luận v.v…
Triết học Trung Quốc nhấn mạnh sự thống nhất trong mối quan hệ giữa con người và vũ
trụ với công thức thiên địa nhân là một nguyên tắc “thiên nhân hợp nhất”.
14

Khuynh hướng duy tâm của Mạnh Tử thì cho rằng vũ trụ, vạn vật đều tồn tại trong ý thức
chủ quan và trong ý niệm đạo đức Trời phú cho con người. Ông đưa ra quan điểm “vạn vật đều
có đầy đủ trong ta”. Ta tự xét mình mà thành thực, thì có cái thú vui nào lớn hơn nữa. Ông dạy
mọi người phải đi tìm chân lý ở ngoài thế giới khách quan mà chỉ cần suy xét ở trong tâm, “tận
tâm” của mình mà thôi. Như vậy theo ông chỉ cần tĩnh tâm quay lại với chính mình thì mọi sự
vật đều yên ổn, không có gì vui thú hơn.
Từ thế giới quan triết học “thiên nhân hợp nhất” là cơ sở quyết định nhiều đặc điểm khác
của Triết học Trung Quốc như: lấy con người làm đối tượng nghiên cứu chủ yếu – tính chất
hướng nội; hay như nghiên cứu thế giới cũng là để làm rõ con người và vấn đề bản thể luận trong
Triết học Trung Quốc bị mờ nhạt.
Ở Trung Quốc những tư tưởng Triết học ít khi tồn tại dưới dạng thuần tuý mà thường đan
xen với các hình thái ý thức xã hội khác. Cái nọ lấy cái kia làm chỗ dựa và điều kiện để tồn tại và
phát triển cho nên ít có những Triết gia với những tác phẩm Triết học độc lập. Và có những thời
kỳ người ta đã lầm tưởng triết học là khoa học của khoa học, Triết học đan xen với chính trị lý
luận. Nói chung thì Triết học thường ẩn dấu đằng sau các khoa học.
Giữa Triết học Trung Quốc và Triết học Ấn Độ cũng có sự khác biệt: Triết học Ấn Độ
hầu như là nghiên cứu về tôn giáo. Còn triết học Trung Quốc nghiên cứu không chỉ là tôn giáo
mà còn rất nhiều lĩnh vực, chuyên ngành của triết học. Sự khác nhau đó thể hiện ở 3 nội dung cơ
bản: Bản thể luận, nhận thức luận và con người.
1. Bản thể luận:
a) Đối với Triết học Ấn độ:
Theo cách phân chia truyền thống, triết học Ấn Độ cổ đại có 9 hệ thống thuộc hai loại:
Chính thống có 6 hệ thống Mimànsà, Vedànta, Sàmkhuya, Yoga, Nyàya, Vaisèsika. Phái không
chính thống hay Tà giáo (nàstika) 3 hệ thống: Buddha (Phật giáo), Jaina giáo, Lôkàyata. (Tiêu
chuẩn của chính thống là thừa nhận và bảo vệ tính đúng đắn tuyệt đối của kinh Vèda. Còn tà giáo
thì ngược lại). Các trường phái trên đều ít nhiều bàn đến vấn đề khởi nguyêncủa thế giới.
Những trường phái có tính chất duy tâm tôn giáo cho rằng, khởi nguyên của thế giới là
Bràhman - là thực tại duy nhất của vũ trụ,là cái mà do đó, mọi vật sinh trưởng, cái trong đó, mọi
vật nhập vào khi bị huỷ diệt. Bràhman tồn tại vĩnh viễn, và có khi còn được coi là một vị thần
sáng tạo. Con người là một bộ phận của Bràhman, tức là Atman; muốn trở về với cái vĩnh hằng,
con người phải tu luyện, phải thoát tục để Atman trở về với Bràhman.
Những trường phái có tính chất duy vật cho rằng, thế giới này (kể cả con người) được tạo
thành từ những yếu tố vật chất, tuỳ theo quan niệm khác nhau của các phái mà các yếu tố đó là:
nước, đất, không khí,... hoặc trừu tượng hơn là nguyên tử. Đồng thời với quan niệm này, người ta
còn cho rằng, linh hồn cũng được sinh ra từ những yếu tố vật chất, nó mất đi khi vật chất (thể
xác) bị tiêu huỷ.
15

b) Đối với Triết học Trung Quốc:
Trước hết, triết học Trung Quốc nói riêng và triết học phương Đông nói chung ít bàn đến
vấn đề về giới tự nhiên, nhưng khi kiến giải những vấn đề xã hội loài người, ít nhiều họ có đề
cập đến vấn đề khởi nguyên của thế giới, vấn đề cơ bản của triết học.
Lão Tử cho rằng, khởi nguyên của thế giới là "Đạo". Đạo" là một tên gọi khiên cưỡng, vì
theo ông "Đạo" là cái lớn nhất, cái mông lung mờ ảo. Nhưng "Đạo" cũng là cái có trước vạn vật,
cái mà mọi vật được sinh ra và được nhập vào sau khi bị huỷ diệt. "Đạo"cũng là cái mà mọi vật
và cả con người phải tuân theo. Ông cho rằng: "Người theo quy luật của đất, đất theo quy luật
của trời, trời theo quy luật của đạo..." và "đạo theo quy luật của tự nhiên". Với Lão Tử, "Đạo" có
tính duy vật, song trong đó, có chứa đựng mầm mống duy tâm. Do vậy, sau này, một số nhà triết
học kế tục ông đã khai thác yếu tố duy tâm này và biến "Đạo" thành cái có tính chất như một tinh
thần tuyệt đối, cái mà con người không thể nhận thức được.
Với Khổng Tử, tuy không trực tiếp bàn đến vấn đề bản thể, tự nhiên, nhưng ông lại có
quan niệm về "Trời", "mệnh trời". Sau này,một số người kế tục ông biến các quan niệm đó thành
những thực thể thần thánh, với họ "Trời" là vị thần có nhân cách, có quyền thưởng phạt..., và là
kẻ sáng tạo ra thế giới.
Khác với những quan điểm trên, một số nhà triết học duy vật ở Trung Quốc cổ đại cho
rằng vạn vật do "ngũ hành" (kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ) tương sinh tương khắc tạo thành. Hoặc
một số khác cho rằng, do âm dương giao cảm mà tạo nên trời, đất, vạn vật và con người.
Triết học Trung Quốc cổ đại giải quyết vấn đề cơ bản của triết học thông qua việc luận
giải cái phạm trù: Tâm - Vật, Lý - Khí, Thần- Hình. Các nhà duy tâm cho rằng, Tâm, Lý, Thần là
có trước, là cái chủ động; còn Vật, Khí, Hình là có sau, là cái lệ thuộc. Các nhà duy vật đã phản
bác lại quan niệm duy tâm trên và cho rằng, cái tinh thần, cái tâm lý, cái tư tưởng luôn gắn với
cái thân thể và nó mất đi khi thân thể bị huỷ diệt.
2. Nhận thức luận:
a) Đối với Triết học Ấn độ:
Nói đến nhận thức, trước hết phải nói đến phép biện luận của phái Nyàya, Vaisèsika,
phép biện luận này còn được gọi là "ngũ đoạn luận". Trong "ngũ đoạn luận", để chứng minh một
điều gì đó là chân thực hay giả dối, phải qua 5 bước sau: luận đề, nhân đề,ví dụ, suy đoán, kết
luận. Thí dụ cụ thể như: 1. Đồi có lửa cháy, 2. Vì đồi bốc khói, 3. Tất cả những cái bốc khói
đều có lửa cháy, thí dụ bếp lò; 4. Đồi bốc khói thì không thể không có lửa cháy; 5. Do đó, đồi
có lửa cháy.
Trong triết học Ấn Độ cổ đại cũng có những phái đã đề cập tới phép biện chứng, tất nhiên
đó mới là phép biện chứng mộc mạc, tự phát. Những nhà triết học có tư tưởng biện chứng cho
rằng, thế giới có sinh, có diệt, vận động biến đổi không ngừng. Sự vận động biến đổi ấy diễn ra
trong không gian và trong từng khoảnh khắc thời gian hết sức ngắn (sátna - của Phật giáo). Họ
16

còn cho rằng, sự vận động đó là do những lực bên trong của nó. Chính Mác và Ăngghen đã đánh
giá cao những tư tưởng biện chứng này trong tín điều Phật giáo sơ kỳ.
Triết học Ấn Độ cổ đại có sự pha trộn, hoà nhập với những tư tưởng có tính chất duy linh
tôn giáo, trong đó, có nhiều vấn đề mà ngày nay chúng ta cần phải xem xét; diễn giải như: luyện
yoga; luân hồi,...
b) Đối với Triết học Trung Quốc:
Triết học Trung Quốc cổ đại ít bàn đến vấn đề nhận thức giới tự nhiên, và nếu có thì
nhận thức ấy cuối cùng cũng để quay về nhận thức xã hội (thí dụ: vấn đề "Đạo" và nhận thức
"Đạo" của Lão Tử,...).Khi bàn nhiều đến khả năng nhận thức của con người, KhổngTử cho rằng
thánh nhân không học cũng biết, quân tử học thì biết, còn tiểu nhân học cũng không biết. Một số
nhà triết học khác thì cho rằng, dù kẻ trí hay ngu cũng phải qua học mới biết. Nhưng nhiều nhà
triết học cho rằng, cái học, biết ấy là nhằm để làm theo "danh", "phận" của mình.
Phép biện chứng cũng là vấn đề đã được đặt ra trong triết họcTrung Quốc cổ đại, thể hiện
trong kiến giải về "Đạo", về "Biến dịch".Trong đó, họ thừa nhận rằng: Thế giới vận động biến
đổi là tồn tại vĩnh viễn, có tính quy luật và nhờ những mâu thuẫn vốn có của nó. Nhưng do hạn
chế lịch sử, sự vận động, biến đổi đó lại được coi là một chu trình khép kín, không có phát triển.
3. Quan điểm về con người:
a) Đối với Triết học Ấn độ:
Nhiều trường phái triết học Ấn Độ cổ đại cho rằng, con người gồm hai phần: hồn và xác.
Phần xác có thể bị huỷ diệt, còn phần hồn là tồn tại vĩnh viễn, tuỳ theo "nghiệp" hay do tu luyện,
do làm điều thiện hay ác..., mà hồn có thể trở về với cõi "vĩnh hằng" hoặc di chuyển sang thân
xác khác (luân hồi).
Ngược lại, một số trường phái có tính chất duy vật cho rằng, linh hồn hay tư tưởng, ý
thức của con người được nảy sinh từ vật chất và nó liên quan đến thể xác của mỗi con người. Vật
chất sinh ra ý thức cũng như gạo nấu thành rượu (phái Lôkàyata). Ý thức, tư tưởng con người sẽ
mất đi khi người ta chết.
Do có những quan niệm khác nhau về con người, nên trong các trường phái triết học Ấn
Độ cũng có những quan niệm khác nhau về ý nghĩa của cuộc sống và vai trò của con người trong
thế giới. Nhưng nhìn chung, triết học Ấn Độ cổ đại (kể cả các trường phái duy vật) đều ít nhiều
có quan niệm duy tâm tôn giáo về những vấn đề trên.
b) Đối với Triết học Trung Quốc:
Triết học Trung Quốc rất chú ý đến vấn đề con người, nhiều vấn đề "ngoài con người" có
được đề cập tới, cuối cùng cũng chỉ để giải quyết vấn đề con người trong các mối quan hệ gia
đình và xã hội.
17

Một số quan niệm có tính chất duy vật cho rằng, con người là sản phẩm của sự vận động,
phát triển của các yếu tố có tính vật chất như quan niệm "ngũ hành", "âm dương", hay coi con
người là một bộ phận của sự phát triển của cái gọi là "Đạo" hay "tự nhiên". Nhưng ngay trong
những quan niệm trên cũng ít nhiều có biểu hiện của yếu tố duy tâm, nhất là trong việc giải thích
vấn đề "tính người".Trong các quan niệm này, "tính người" được hiểu là những phẩm chất, năng
lực, ý thức, tư tưởng,...Quan niệm có tính duy tâm cho rằng, tính người là cái có sẵn (tính bản
thiện, tính bản ác, tính người do trời phú...,). Cũng có nhà triết học cho rằng tính người không
thiện, không ác, vốn dĩ gần nhau (giống nhau) và do "tập, nhiễm" mà thành thiện hay ác. Họ cho
rằng cái đáng sợ không phải là "mệnh trời", mà là "nhân hoạ".
Vấn đề vai trò của con người đã được các nhà triết học Trung Quốc cổ đại đề cập khá
nhiều. Điều đặc biệt lưu ý ở đây là, trong những biến đổi sâu sắc của đời sống xã hội đương thời,
một số nhà triết học đã thấy được vai trò to lớn của con người, của nhân dân. Như quan niệm:
"dân là gốc, xã tắc là quý, vua quan là thường", hay "dân có sức mạnh như nước, lật thuyền cũng
là dân...". Nhưng do sự phát triển trì trệ của xã hội Trung Quốc và do hạn chế lịch sử của chính
các nhà triết học mà cuối cùng hầu hết họ đều có quan niệm về tính chất đẳng cấp, định mệnh
trong vấn đề con người.
18

KẾT LUẬN
Qua việc nghiên cứu đề tài này chúng ta phần nào hiểu thêm về sự hình thành, phát triển
và đăc
̣ điểm Triết học Phương Đông thời cổ đại, các tư tưởng triết học Phương Đông thường gắn
liền với tôn giáo, dường như giữa triết học và tôn giáo không có ranh giới rõ ràng. Tôn giáo và
Triết học xen kẽ vào nhau, trong Tôn giáo có màu sắc Triết học, trong Triết học có màu sắc Tôn
giáo. Tuy nhiên Tôn giáo của triết học phương Đông có xu hướng “hướng nội” đi sâu tìm hiểu
sức mạnh của đời sống tâm linh, tinh thần, không phải “hướng ngoại” như các tôn giáo phương
Tây tìm kiếm sức mạnh nơi thượng đế. Cả hai nền Triết học đều coi trọng vấn đề về con người,
coi trọng những yếu tố tác động đến con người như đạo đức -chính trị -xã hội. Quan niệm đạo
đức trong Triết học Trung Quốc: Nho gia coi đạo đức là nền tảng của xã hội, là công cụ để gìn
giữ trật tự xã hội và hoàn thiện nhân cách cá nhân cho con người. Đạo đức chuẩn mực là tiêu
chuẩn của người quân tử, người quân tử phải có đủ tam đức (trí, nhân, dũng). Đạo và đức là lý
luận nền tảng chủ yếu của Đạo gia. Trong khi đó, hầu hết các hệ thống Triết học Ấn Độ đều tập
trung giải quyết vấn đề nhân bản, đó là vấn đề nhân sinh quan và con đường giải thoát. Cuộc đấu
tranh giữa Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa duy tâm xung quanh các vấn đề: Bản nguyên vũ trụ,
con người, linh hồn, đạo đức.
Đồng thời, qua đó học viên nâng cao trình độ tư duy lí luận và vận dụng sáng tạo tư duy
biện chứng vào lĩnh vực công tác chuyên môn của chính mình. Dù còn những khuyết điểm và
hạn chế mong thầy đánh giá góp ý để đề tiều luận hoàn thiện hơn.
19

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Triết học – Phần I: Đại cương về lịch sử Triết học – Chủ biên: TS.Bùi Văn Mưa
2. Giáo trìnhTriết học mác – lênin -Đồng chủ biên: GS, TS. Nguyễn Ngọc Long -GS, TS.
Nguyễn Hữu Vu
3. Cơ sở văn hóa Viêt ̣ nam – PGS, Viên ̣ sĩ Trần Ngọc Thêm – 1997
4. Đại cương lịch sử Triết học Phương Đông Cổ Đại -Đoàn Chính, Trương Văn Chung, Nguyễn
Thế Nghĩa, NXB Thanh niên
5. Will Durant: Lịch sử văn minh Ấn Độ. Nxb văn hoá – Thông tin, Hà Nội, 2004.
6. Lịch sử triết học, Nxb Tư tưởng – văn hoá, Hà Nội, 1991, tập 1, tr. 126 – 168.
7. http://giaiphapmoitruong.com/tai-lieu2/tieu-luan2/tieu-luan-triet-noi-dung-triet-hoc-phuong-
dong-co-dai-y-nghia-va-phuong-phap-luan-rut-ra
http://www.chungta.com/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Nhan-Thuc/So_sanh_triet_hoc_Don
g_va_Tay/ http://www.vinabook.com/dai-cuong-lich-su-triet-hoc-phuong-dong-co-dai-
m11i19693.html Các website:
20