15
- Chữa đái dầm : Lá rau ngót tươi 50g, rửa sạch, vò vào nước đã đun sôi để nguội, mỗi
lần uống một bát. Uống vài lần sẽ có kết quả.
Ngoài ra, rau ngót 30g, phối hợp với nõn cây dứa ăn quả 20g, rệp 7 - 9 con, giã nát, thêm
nước gạn uống, bã đắp chữa rắn độc cắn.
Ở Ấn Độ, nước sắc rễ rau ngót, chữa sốt, tiểu tiện khó, chẹt bàng quang, lá và rễ tươi
giã nát đắp ngoài chữa chứng viêm loét mũi.
Nhàu
Rễ nhàu được nhân dân miền Nam dùng chữa cao huyết áp. Rễ thái nhỏ, phơi khô sắc
nước uống thay chè với liều 10 -20g mỗi ngày. Sau khi dùng thuốc 14 -15 ngày, bắt đầu
thấy kết quả; sau đó giảm liều dùng liên tục trong vài tháng thì huyết áp ổn định
Ngoài ra, rễ nhàu thái nhỏ, sao vàng ngâm rượu, uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần một thìa
canh chữa chứng nhức mỏi, đau lưng, tê bại. Có thể dùng quả nhàu non thái mỏng, sao
khô, để thay thế. Rễ nhàu phối hợp với muồng trâu, rễ gừa, cù đèn, thài lài, cỏ bấc, vòi
voi, ngũ gia bì chân chim, quao nước với liều lượng bằng nhau, phơi khô sắc uống, chữa
sỏi thận.
Theo Đào Văn Phan, Trân Ngọc Ân, cao nước rễ nhàu có tác dụng tốt đối với viêm khớp
dạng thấp ở giai đoạn I và II. Qua điều trị bằng rễ nhàu, kết quả đạt 91,6%, trong đó tốt
chiếm 56%, trung bình 35,6%.
Quả nhàu chín ăn với muối có tác dụng giúp tiêu hoá, nhuận tràng, lợi tiểu, điều kinh.
Quả nhàu non (3 quả) phối hợp với rễ mía dò (10g), củ tầm sét (10g); phơi khô, tán nhỏ,
sắc với 400ml nước còn 100ml, uống trong ngày chữa tụ huyết do ngã hay bị đánh. Quả
nhàu nướng chín ăn chữa kiết lỵ.
Lá nhàu,để tươi,rửa sạch giã nhỏ đắp, làm mụn nhọt sớm mưng mủ, mau lành, chóng
lên da non. Lá nhàu phơi khô (10g) thái nhỏ sắc uống chữa sốt rét, kiết lỵ. Lá nhàu còn
được dùng nấu canh ăn.
Các nước ở châu Á cũng dùng các bộ phận của cây nhàu để làm thuốc, ở Trung Quốc,
Nhật Bản, nước sắc rễ nhàu được dùng làm thuốc bổ, thuốc hạ sốt. Ở Đài Loan, nước
sắc của rễ dùng chữa lỵ. Ở Philippin, cao toàn phần rễ nhàu chữa bệnh cao huyết áp,
sung huyết, trĩ, xuất huyết não. Ở Malaysia, lá nhàu hơ nóng đắp lên ngực, bụng chữa
ho, nôn mửa, đau bụng, lách to. Nước ép từ quả chữa ho, sốt, tiểu tiện khó, đái đường,
giun sán, kinh nguyệt không đều.
Nhọ nồi (Cỏ mực)
Nhọ nồi thường được dùng làm thuốc bổ máu, cầm máu bên trong và bên ngoài, chữa
ho ra máu, lỵ ra máu, rong kinh, băng huyết, chảy máu cam, trĩ ra máu, nôn ra máu, đái
ra máu, bị thương chảy máu. Còn dùng chữa ban sởi, ho, hen, viêm họng, bỏng, lao phổi,
di mộng tinh, bệnh nấm ở da, làm thuốc mọc tóc (sắc uống hoặc ngâm vào dầu dừa mà
bôi) và nhuộm tóc.
Mỗi ngày dùng 20g cây khô, dưới dạng thuốc sắc uống. Dùng tươi 30 - 50g, giã nát vắt
lấy nước uống, còn bã đắp vết thương.
Trong y học cổ truyền Trung Quốc, nhọ nội được dùng làm thuốc bổ toàn thân và cầm
máu, có trong thành phần thuốc mỡ để điều trị một số bệnh của da. Liều dùng một lần:
4 - 6g, dạng thuốc sắc uống.
Ở Ấn Độ, nhọ nồi được dùng làm thuốc bổ và chữa ứ tắc trong các bệnh phì đại gan và
lách, và chữa một số bệnh về da. Dịch ép cây được dùng phối hợp với một số chất thơm https://pdf.vn/