Tháng 9-1939, khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, Đảng ta chuyển hướng chỉ đạo
chiến lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và phát động cao trào đấu
tranh mới tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền.
Tháng 5-1941, Trung ương Đảng xác định: Trong lúc này nếu không giải quyết được
vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì
chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của
bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được.
Tháng 3-1945, Nhật đảo chính lật đổ Pháp, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật - Pháp
bắn nhau và hành động của chúng ta” đồng thời phát động cao trào chống Nhật cứu
nước, chủ động tạo và nắm bắt thời cơ tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Tháng 8-1945, Nhật đầu hàng Đồng minh, Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Trước
tình hình biến chuyển nhanh chóng có lợi cho cách mạng, Trung ương Đảng triệu tập
Hội nghị toàn quốc, nhận định điều kiện khởi nghĩa chín muồi và cử ra Uỷ ban khởi
nghĩa toàn quốc. Tiếp đó, Quốc dân Đại hội họp tại Tân Trào quyết định chủ trương
tổng khởi nghĩa và thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc (Chính phủ lâm thời) do Hồ
Chí Minh làm Chủ tịch. Nghị quyết Quốc dân Đại hội nhấn mạnh: Không phải Nhật
bại là nước ta tự nhiên được độc lập. Nhiều sự gay go trở ngại sẽ xảy ra. Chúng ta phải
khôn khéo và kiên quyết. Khôn khéo để tránh những sự không có lợi cho ta. Kiên
quyết để giành cho được hoàn toàn độc lập.
Ngày 16-8-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc
ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta.
Hưởng ứng lời kêu gọi, nhân dân ta nhất tề nổi dậy. Chưa đầy nửa tháng, Tổng khởi
nghĩa CMT8 đã giành toàn thắng, quân Nhật đầu hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Bộ máy
thống trị thực dân, phát xít và phong kiến tay sai bị lật đổ. Chính quyền cách mạng
được thiết lập trên toàn quốc.
Ngày 2-9-1945, tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc
lập, tuyên bố trước quốc dân đồng bào và toàn thế giới: Việt Nam đã trở thành nước tự
do, độc lập đồng thời khai sinh ra nước Việt Nam DCCH, nay là nước CHXHCN Việt
Nam.
Như vậy, thắng lợi của CMT8 không phải “từ trên trời rơi xuống” và càng không phải
là sự “ăn may”, “cướp công” như các thế lực thù địch rêu rao. Mà đó là kết quả tất yếu
của quá trình vận động cách mạng lâu dài, đầy gian khổ, hy sinh của Nhân dân Việt
Nam. Thắng lợi đó khẳng định sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, được tổ chức
chặt chẽ, chuẩn bị kỹ lưỡng, đặt dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh, đặc biệt là nghệ thuật khởi nghĩa từng phần, kịp thời nắm bắt và
chớp thời cơ “ngàn năm có một” để tiến lên tổng khởi nghĩa giành toàn thắng.
Mặt khác, CMT8 thành công là kết quả vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-
Lênin ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, đã được Hồ Chí Minh phát biểu trong
luận điểm nổi tiếng: Cách mạng ở các nước thuộc địa có thể và phải chủ động tiến lên