10
gỗ Cầu Đuống đã sản xuất sản phẩm tay đập và thoi dệt từ ván mỏng dán ép
nhiều lớp, có thể coi đây là sản phẩm gỗ biến tính đầu tiên ở Việt Nam, theo
phương pháp nhiệt - hoá - cơ (Đào Xuân Thu, 2011) [6].
Trong Luận án Tiến sĩ Kĩ thuật của Đào Xuân Thu (2011) [6] đã nói
cuối những năm 1980, Nguyễn Trọng Nhân và cộng sự ở Viện Công Nghiệp
Rừng (Viện KHLN Việt Nam ngày nay) đã nghiên cứu tẩm dung dịch
Phenolformaldehyd và nén ép với tỷ suất nén 40 - 45% nhằm biến tính gỗ
Vạng Trứng để làm thoi dệt, theo phương pháp nhiệt - hoá - cơ. Kết quả đã
nâng cao độ bền cơ học, độ cứng gấp 2 - 3 lần gỗ nguyên.
Nghiên cứu về loài Lát Mêhicô của Đỗ Văn Bản và Lưu Quốc Thành
(2002) [1] đã cho biết hệ số co rút thể tích của Lát Mêhicô là 0.39 và 0.41%
gỗ được xếp vào nhóm những loại gỗ co rút "Trung bình", có thể so sánh với
các loại gỗ như Bồ kết, Cà ổi, Máu chó lá to, Sâng, Thôi ba, Vàng kiêng,... Gỗ
có khả năng chịu nén dọc chỉ ở mức độ "Trung bình", tương đương với một
số loại gỗ như Lim vang, Mán đỉa, Mỡ vàng tâm, Thôi chanh, Thôi ba, Trám
hồng,... Sức chịu uốn của gỗ từ "Thấp" đến "Rất thấp", tương đương với một
số loại gỗ như: Sấu, Máu chó lá to, Gù hương, Lát khét, Chặc khế, Xoan ta,
Mỡ hải nam, Vạng,… Gỗ có khả năng chịu uốn va đập "Thấp", tương đương
với các loại gỗ như Re xanh, Mít mật, Bản xe, Bồ kết, Cồng sữa, Máu chó lá
to, Mỡ vàng tâm, Núc nác,... Nhìn chung, gỗ cây Lát Mêhicô nhẹ và mềm, có
khả năng dễ ngâm tẩm bảo quản hoặc tẩm keo để biến tính gỗ, dễ sấy khô,
khả năng chịu lực thấp, kém dẻo dai và kém đàn hồi. Đối chiếu với tiêu chuẩn
"TCNV 1072-71 Gỗ - Phân nhóm theo tính chất cơ lý", gỗ cây Lát Mêhicô
chỉ có thể xếp vào nhóm V – nhóm của các loại gỗ có cường độ thấp, không
dùng được cho các cấu kiện chịu lực trong xây dựng và kiếm trúc.
Nghiên cứu sự thay đổi của tính chất vật lý, cơ học, hoá học của gỗ Sa
Mộc và gỗ Mỡ theo tuổi cây làm cơ sở cho việc sử dụng hai loại gỗ này trong https://skknhay.com/