[NHÓM 4] BTL TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH - Chủ đề 2 - HK232.docx

cuongnguyennt 39 views 24 slides Dec 11, 2024
Slide 1
Slide 1 of 24
Slide 1
1
Slide 2
2
Slide 3
3
Slide 4
4
Slide 5
5
Slide 6
6
Slide 7
7
Slide 8
8
Slide 9
9
Slide 10
10
Slide 11
11
Slide 12
12
Slide 13
13
Slide 14
14
Slide 15
15
Slide 16
16
Slide 17
17
Slide 18
18
Slide 19
19
Slide 20
20
Slide 21
21
Slide 22
22
Slide 23
23
Slide 24
24

About This Presentation

BTL tư tưởng hcm


Slide Content

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
_______________________
BÀI TẬP LỚN
MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
HỌC KỲ 232/ NĂM HỌC 2023-2024
LỚP: L01
NHÓM: 04
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. Phan Duy Anh
Tp. Hồ Chí Minh – 2024

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
_______________________
ĐỀ TÀI:
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội vào giáo dục nhận thức chủ
nghĩa xã hội cho sinh viên Trường Đại học Bách khoa – ĐHQG.HCM trong giai
đoạn hiện nay
Tên các thành viên trong nhóm (MSSV):
Bùi Chí Hào 2010239
Nguyễn Hoàng Hải 2113297
Nguyễn Hoàng Hào 2111126
Tạ Hoàng Hiệp 2013195
Võ Trọng Hiệp 2113385

Tp. Hồ Chí Minh – 2024
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU................................................................................................................
PHẦN NỘI DUNG.............................................................................................................
Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.............................................
1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.............................................
1.2. Tiến lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan.........................................
1.3. Một số đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa........................................
Chương 2: Thực trạng giáo dục nhận thức chủ nghĩa xã hội cho sinh viên
Trường Đại học Bách Khoa – ĐHQG.HCM................................................................
2.1 Thực trạng nhận thức của sinh viên Trường Đại học Bách Khoa –
ĐHQG.HCM về chủ nghĩa xã hội...............................................................................
2.2. Thực trạng công tác giáo dục chủ nghĩa xã hội cho sinh viên Trường Đại
học Bách khoa – ĐHQG.HCM....................................................................................
Chương 3: Giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội vào
giáo dục nhận thức chủ nghĩa xã hội cho sinh viên Trường Đại học Bách khoa –
ĐHQG.HCM...................................................................................................................
3.1. Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội......................................
3.2. Một số giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội vào
giáo dục nhận thức chủ nghĩa xã hội cho sinh viên Trường Đại học Bách khoa
– ĐHQG.HCM.............................................................................................................
KẾT LUẬN.........................................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................

PHẦN MỞ ĐẦU
Trong mọi giai đoạn lịch sử, thanh niên và sinh viên luôn đóng vai trò quan trọng trong
xã hội, được coi là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tương lai, xây
dựng và bảo vệ đất nước. Kế thừa quan điểm tư tưởng của Chủ nghĩa Mác – Lênin,
suốt hành trình lãnh đạo nước ta giành độc lập dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề
cao vai trò, vị trí của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng toàn Đảng, toàn dân.
Người thể hiện niềm tin mạnh mẽ vào thế hệ trẻ, như là lớp người "tiên phong trong
công cuộc phát triển kinh tế và văn hóa, trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa Xã hội",
khẳng định rằng thanh niên, bao gồm cả sinh viên, là lực lượng cách mạng vĩ đại, một
phần quan trọng của dân tộc và là lớp người tiếp nối sứ mệnh cách mạng của cha anh.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, thanh niên, trong đó có
sinh viên được đặt vào vị trí quan trọng hàng đầu. Điều này đã được Đảng ta nhấn
mạnh tại Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 25 tháng 7 năm 2008 BCHTW về tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ mới: “Thanh niên là rường
cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây
dựng và bảo vệ tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của sự
nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng CNXH.
Thanh niên được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy nhân tố và
nguồn lực con người. Chăm lo phát triển thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực
bảo đảm cho sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước”. Việc chăm sóc, nuôi
dưỡng và giáo dục thanh niên để trở thành lớp người "vừa hồng vừa chuyên" theo tư
tưởng của Hồ Chí Minh đã trở thành trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị dưới
sự lãnh đạo của Đảng, cũng như gia đình, trường học và xã hội.
Chính vì thế, việc áp dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội vào giáo dục
nhận thức chủ nghĩa xã hội cho sinh viên Trường Đại học Bách Khoa - ĐHQG.HCM
trở nên vô cùng cấp bách và ý nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh - người lãnh đạo vĩ đại của

dân tộc Việt Nam, đã để lại di sản tư tưởng sâu sắc về chủ nghĩa xã hội, mà qua đó,
giáo dục nhận thức chủ nghĩa xã hội cho thanh niên, sinh viên là một trong những
phương tiện quan trọng để xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và phồn thịnh.
Việc chọn đề tài này không chỉ xuất phát từ sự quan tâm đến triết lý giáo dục của Bác
Hồ mà còn từ nhu cầu thực tiễn của ngành giáo dục hiện nay. Trong giai đoạn phát
triển mạnh mẽ của xã hội, việc truyền đạt và áp dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa xã hội vào giáo dục trở thành một yếu tố then chốt để nuôi dưỡng ý thức cộng
đồng, tinh thần đoàn kết, và lòng yêu nước cho thế hệ trẻ. Sinh viên là những người trẻ
tuổi, đầy nhiệt huyết và khao khát học hỏi, do đó, việc áp dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
vào giáo dục nhận thức chủ nghĩa xã hội cho họ không chỉ giúp họ hiểu rõ về lịch sử,
văn hoá, mà còn khuyến khích họ phát triển tư duy sáng tạo, trách nhiệm và ý thức xã
hội. Đặc biệt, việc áp dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội vào giáo dục
nhận thức chủ nghĩa xã hội không chỉ giúp sinh viên hiểu rõ hơn về lịch sử, truyền
thống và triết lý của dân tộc mình mà còn giúp họ phát triển ý thức trách nhiệm, lòng
yêu nước và tinh thần xây dựng đất nước.
Vậy nên, Nhóm 4 chúng tôi xin thực hiện nghiên cứu đề tài “Vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về chủ nghĩa xã hội vào giáo dục nhận thức chủ nghĩa xã hội cho sinh viên
Trường Đại học Bách khoa – ĐHQG.HCM trong giai đoạn hiện nay” cho bài tập lớn
môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh.

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Hồ Chí Minh không định nghĩa về chủ nghĩa xã hội. Với cách diễn đạt dung dị, dễ
hiểu, dễ nhớ, khái niệm “ chủ nghĩa xã hội “ được Người tiếp cận ở nhiều góc độ khác
nhau bằng cách chỉ ra đặc trưng ở một lĩnh vực nào đó ( như kinh tế, chính trị, văn hóa,
khoa học kỹ thuật, động lực, nguồn lực, v.v). của chủ nghĩa xã hội. Theo Người: “ Nói
một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao
động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống
một đời hạnh phúc”
So sánh các chế độ xã hội đã tồn tại trong lịch sử để thấy sự khác nhau về bản chất giữa
chủ nghĩa xã hội với các chế độ khác, Hồ Chí Minh viết :” Trong xã hội có giai cấp bóc
lột thống trị, chỉ có lợi ích cá nhân của một số rất ít người thuộc giai cấp thống trị là
được thỏa mãn, còn lợi ích cá nhân của quần chúng lao động thì bị giày xéo. Trái lại,
trong chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là chế độ do nhân dân lao động
làm chủ, thì mỗi người là một bộ phận của tập thể, giữ một vị trí nhất định và đóng góp
một phần công lao trong xã hội. Cho nên lợi ích cá nhân là nằm trong trong lợi ích của
tập thể, là một bộ phận của lợi ích tập thể. Lợi ích chung của tập thể được bảo đảm thì
lợi ích riêng của cá nhân mới có điều kiện được thỏa mãn”. Người khẳng định mục
đích của cách mạng Việt Nam là tiến đến chủ nghĩa xã hội, rồi đến chủ nghĩa cộng sản
vì: Chủ nghĩa cộng sản có hai giai đoạn. Giai đoạn thấp, tức là chủ nghĩa xã hội; giai
đoạn cao, tức là chủ nghĩa cộng sản. Hai giai đoạn ấy giống nhau ở chỗ: Sức sản xuất
đã phát triển cao; nền tảng kinh tế thì tư liệu sản xuất đều là của chung; không có giai
cấp áp bức bóc lột. Hai giai đoạn ấy khác nhau ở chỗ: Chủ nghĩa xã hội vẫn còn chút ít
vết tích xã hội cũ. Xã hội cộng sản thì hoàn toàn không còn vết tích xã hội cũ

Như vậy, theo Hồ Chí Minh, xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội ở giai đoạn đầu của xã
hội cộng sản chủ nghĩa. Mặc dù còn tồn đọng tàn dư của xã hội cũ nhưng xã hội xã hội
chủ nghĩa không còn áp bức, bóc lột, xã hội do nhân dân lao động làm chủ, trong đó
con người sống ấm no, tự do, hạnh phúc, quyền lợi của cá nhân và tâp thể vừa thống
nhất, vừa gắn bó chặt chẽ với nhau.
1.2. Tiến lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan
Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác khẳng định sự phát triển của xã hội
loài người là quá trình lịch sử - tự nhiên. Theo quá trình này, “ Sự sụp đổ của giai cấp
tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản là tất yếu như nhau”. Vận dụng học thuyết của
C.Mác để nghiên cứu về tiến trình lịch sử, Hồ Chí Minh cho rằng: “ Cách sản xuất và
sức sản xuất phát triển và biến đổi mãi, do đó mà tư tưởng của người, chế độ xã hội,
v.v., cũng phát triển và biến đổi. Chúng ta đều biết từ đời xưa đến đời nay, cách sản
xuất từ chỗ dùng cành cây, búa đá đã phát triển dần đến máy móc, sức điện, sức nguyên
tử. Chế độ xã hội cũng phát triển từ cộng sản nguyên thủy đến chế độ nô lệ, đến chế độ
phong kiến, đến chế độ tư bản chủ nghĩa và ngày nay gần một nửa loài người đang tiến
lên chế độ xã hội chủ nghĩa và chế độ cộng sản chủ nghĩa. Sự phát triển và tién bộ đó
không ai ngăn cản được”. Tuy nhiên, ngay từ năm 1953 Hồ Chí Minh đã nhận thấy:
Tùy hoàn cảnh, mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau. Có nước thì đi
thẳng đến chủ nghĩa xã hội như Liên Xô. Có nước thì đi thẳng đến chủ nghĩa xã hội
như Liên Xô. Có nước thì phải kinh qua chế độ dân chủ mới,rồi tiến lên chủ nghĩa xã
hội như các nước Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam ta. Người giải thích: Chế độ dân
chủ mới là chế độ dưới sự lãnh đạo của Đảng và giai cấp công nhân, nhân dân đã đánh
đổ đế quốc và phong kiến; trên nền tảng công nông liên minh, nhân dân lao động làm
chủ, nhân dân dân chủ chuyên chính theo tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Hồ Chí Minh muốn khẳng định, lịch sử xã hội loài người phát triển qua các chế độ
công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa rồi tiến lên xã hội

chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa; nhưng lộ trình này không bắt buộc đối với tất cả các
nước mà nó diễn ra theo hai phương thức: Có thể trải qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa như Liên Xô và cũng có thể bỏ qua giai đoạn này như các nước Đông Âu,
Trung Quốc, Việt Nam.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, tiến lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình tất yếu, tuân
theo những quy luật khách quan, trước hết là những quy luật trong sản xuất vật chất;
song, tùy theo bối cảnh cụ thể mà thời gian, phương thức tiến lên chủ nghĩa xã hội ở
mỗi quốc gia sẽ diễn ra một cách khác nhau; trong đó, những nước đã trải qua sẽ diễn
ra một cách khác nhau; trong đó, những nước đã trải qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa sẽ “đi thẳng” lên chủ nghĩa xã hội. Những nước chưa qua giai đoạn phát
triển này có thể đi lên chủ nghĩa xã hội sau khi đã” đánh đổ đế quốc và phong kiến”
dưới sự lãnh đạo của Đảng vô sản và được tư tưởng Mác – Lênin dẫn đường.
Với nhận định trên, Hồ Chí Minh đã cho thấy tính chất chung của các quy luật phát
triển xã hội và tính đặc thù trong sự thể hiển các quy luật đó ở những quốc gia cụ thể,
trong những điều kiện cụ thể.
Đối với Việt Nam, hàng nghìn năm dưới ách thống trị tàn bạo của chế độ phong kiến,
thực dân, nhiều khuynh hướng cứu dân, cứu nước đã được thử nghiệm nhưng đều
không đem lại kết quả cuối cùng mà dân tộc khao khát đạt được. Chỉ có chủ nghĩa xã
hội mới là nguồn gốc của tự do, bình đẳng, bác ái, xóa bỏ những bức tường dài ngăn
cản con người đoàn kết, yêu thương nhau. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nhân
loại nói chung, của Việt Nam nói riêng vừa là một tất yếu của lịch sử, vừa đáp ứng
được khát vọng của những lực lượng tiến bộ xã hội trong quá trình đấu tranh tự giải
phóng mình.

1.3. Một số đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa
Là xã hội có bản chất khác hẳn các xã hội khác đã tồn tại trong lịch sử, xã hội xã hội
chủ nghĩa có nhiều đặc trưng, song, nếu tiếp cận từ những lĩnh vực lớn của xã hội, xã
hội xã hội chủ nghĩa có một số đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, về chính trị : Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội do nhân dân làm chủ.
Xã hội xã hội chủ nghĩa trước hết là xã hội do nhân dân làm chủ, nhân dân là chủ dưới
sự lãnh đạo của đảng cộng sản trên nền tảng liên minh công – nông. Trong xã hội xã
hội chủ nghĩa, địa vị cao nhất là nhân dân. Nhà nước là của dân, do dân và vì dân. Mọi
quyền lợi, quyền lực, quyền hạn thuộc về nhân dân và mọi hoạt động xây dựng, bảo vệ
đất nước, bảo vệ chế độ xã hội cũng thuộc về nhân dân.
Những tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về đặc trưng chính trị trong xã hội xã hội chủ
nghĩa không chỉ cho thấy tính nhân văn cao cả của Hồ Chí Minh mà còn cho thấy tính
nhân văn cao cả của Hồ Chí Minh mà còn cho thấy Người nhận thức rất sâu sắc về sức
mạnh, địa vị và vai trò của nhân dân; về sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội khi Đảng
lãnh đạo dựa vào nhân dân, huy động được nhân lực, tài lực, trí lực của nhân dân để
đem lại lợi ích cho nhân dân.
Thứ hai, về kinh tế: Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa
trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tự liệu sản xuất chủ yếu.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội phát triển cao hơn chủ nghĩa tư
bản nên xã hội xã hội chủ nghĩa phải có nền kinh tế phát triển cao hơn nền kinh tế của
xã hội tư bản chủ nghĩa, đó là nền kinh tế dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế
độ sở hữu tư liệu sản xuất tiến bộ.
Lực lượng sản xuất hiện địa trong chủ nghĩa xã hội biểu hiện: Công cụ lao động,
phương tiện lao động trong quá trình sản xuất đã “ phát triển dần đến máy móc, sức
điện, sức nguyên tử”. Quan hệ sản xuất trong xã hội xã hội chủ nghĩa được Hồ Chí

Minh diễn đạt: Lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng, v.v. làm của chung; là tư liệu sản xuất
thuộc về nhân dân. Đây là tư tưởng Hồ Chí Minh về chế độ công hữu tư liệu sản xuất
chủ yếu trong xã hội xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, về văn hóa, đạo đức và các quan hệ xã hội: Xã hội xã hội chủ nghĩa có trình độ
phát triển cao về văn hóa và đạo đức, bảo đảm sự công bằng, hợp lý trong các quan hệ
xã hội.
Văn hóa, đạo đức thể hiện ở tất cả các lĩnh vực của đời sống song trước hết là ở các
quan hệ xã hội. Sự phát triển cao về văn hóa và đạo đức của xã hội xã hội chủ nghĩa thể
hiện: xã hội không còn hiện tượng người bóc lột người; con người được tôn trọng,
được bảo đảm đối xử công bằng, bình đẳng và các dân tộc đoàn kết, gắn bó với nhau.
Hồ Chí Minh cho rằng : Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới “ chú ý xem xét những lợi ích cá
nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn”; “ chỉ ở trong chế độ xã hội chủ
nghĩa thì mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy
tính cách riêng và sở trường riêng của mình”
Chủ nghĩa xã hội là cơ sở, là tiền đề để tiến tới chế độ xã hội hòa bình, đoàn kết, ấm
no, tự do, hạnh phúc, bình đằng, bác ái, việc làm cho mọi người và vì mọi người;
không còn phân biệt chủng tộc, không còn gì có thể ngăn cản những người lao động
hiểu nhau và thương yêu nhau.
Chủ nghĩa xã hội bảo đảm tính công bằng và hợp lý trong các quan hệ xã hội. Đó là xã
hội đem lại quyền bình đẳng trước pháp luật cho mọi công dân; mọi cộng đồng người
đoàn kết chặt chẽ trên cơ sở bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ; ai cũng được hưởng
thành quả lao động của mình trên nguyên tắc làm nhiều thì hưởng nhiều, làm ít thì
hưởng ít, không làm thì không hưởng, tất nhiên là trừ những người chưa có khả năng
lao động hoặc không còn khả năng lao động.

Thứ tư, về chủ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội: Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể
của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Từ xã hội chiếm hữu nô lệ đến xã hội tư bản chủ nghĩa, cuộc đấu tranh của người lao
động luôn diễn ra ngày càng quyết liệt nhằm thủ tiêu chế độ người bóc lột người. Trong
chế độ xã hội chủ nghĩa – chế độ của nhân dân, do nhân dân làm chủ, lợi ích của cá
nhân gắn liền với lợi ích của chế độ xã hội nên chính nhân dân là chủ thể, là lực lượng
quyết định tốc độ xây dựng và sự vững mạnh của chủ nghĩa xã hội. Trong sự nghiệp
xây dựng này, Hồ Chí Minh khẳng định: “ cần có sự lãnh đạo của một đảng cách mạng
chân chính của giai cấp công nhân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Chỉ có sự lãnh
đạo của một Đảng biết vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều
kiện cụ thể của nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc và cách
mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công”.
Chương 2: Thực trạng giáo dục nhận thức chủ nghĩa xã hội cho sinh viên Trường
Đại học Bách Khoa – ĐHQG.HCM
2.1 Thực trạng nhận thức của sinh viên Trường Đại học Bách Khoa – ĐHQG.HCM
về chủ nghĩa xã hội
2.1.1. Mặt tích cực
Ngày nay, sự tích cực của sinh viên trong việc nhận thức chủ nghĩa xã hội đang trở
thành một yếu tố quan trọng, thể hiện sự chín chắn và lòng đam mê của thế hệ trẻ đối
với các vấn đề xã hội. Một trong những khía cạnh tích cực là khả năng của sinh viên
trong việc sử dụng các nguồn thông tin đa dạng để mở rộng kiến thức và hiểu biết về
chủ nghĩa xã hội. Không giống như thế hệ trước đó, sinh viên ngày nay có sự tiếp cận
dễ dàng đến các nguồn thông tin trực tuyến, từ các blog cá nhân đến các trang web
chuyên về vấn đề xã hội, giúp họ có cái nhìn tổng quan và sâu sắc hơn về các vấn đề
này. Không chỉ được tiếp cận thông tin từ internet, sinh viên còn có thể tiếp xúc với
kiến thức chủ nghĩa xã hội thông qua những môn học bắt buộc trên trường.

Một điểm nổi bật khác là sự đam mê và tương tác tích cực của sinh viên với các vấn đề
xã hội. Tham gia vào các hoạt động cộng đồng, các chiến dịch xã hội, hoặc các nhóm
nghiên cứu là cách mà sinh viên không chỉ thể hiện sự quan tâm đến các vấn đề xã hội
mà còn có cơ hội học hỏi và đóng góp vào giải quyết chúng. Việc này không chỉ giúp
họ phát triển kỹ năng giao tiếp và lãnh đạo mà còn xây dựng tinh thần xã hội và trách
nhiệm cá nhân.
Đặc biệt, sinh viên ngày nay cũng thể hiện sự tự chủ và trách nhiệm xã hội bằng cách
tham gia vào các hoạt động tình nguyện và các dự án xã hội. Họ không chỉ đặt câu hỏi
và thách thức về khả năng thực hiện của chủ nghĩa xã hội mà còn hành động để tạo ra
những thay đổi tích cực trong xã hội. Thông qua việc xây dựng những giá trị nhân văn,
tôn trọng đa dạng văn hóa, và đóng góp vào việc giải quyết các vấn đề xã hội, sinh viên
không chỉ phát triển bản thân mà còn góp phần vào sự phát triển bền vững của xã hội.
Tóm lại, sự tích cực của sinh viên trong việc nhận thức chủ nghĩa xã hội ngày nay
không chỉ là biểu hiện của sự hiểu biết sâu sắc và tư duy mở rộng mà còn là sự thể hiện
của tinh thần xã hội, đam mê tham gia và khát vọng tạo ra những thay đổi tích cực
trong xã hội. Đó là những nguồn động viên quan trọng, định hình một thế hệ sinh viên
có trách nhiệm và tầm nhìn rộng lớn trong xã hội hiện nay.
2.1.2. Mặt hạn chế
Mặc dù sinh viên ngày nay thường có sự tiếp cận dễ dàng đến thông tin và kiến thức về
chủ nghĩa xã hội, nhưng vẫn tồn tại một số hạn chế trong mặt nhận thức. Một trong
những hạn chế chính là hạn chế về thái độ và giá trị cũng là một vấn đề quan trọng. Do
sự đa dạng của giá trị và quan điểm, một số sinh viên có thể không chấp nhận hoặc
không tôn trọng quan điểm của người khác, dẫn đến sự mâu thuẫn và tranh cãi trong
việc đánh giá và ứng dụng chủ nghĩa xã hội vào thực tế. Sự thiếu hiểu biết và sự thiếu
thông tin chính xác cũng có thể góp phần vào việc hình thành những thái độ và giá trị

không cân nhắc. Do đó, nhiều sinh viên có thể bị bỏ lại phía sau trong việc hiểu biết và
đánh giá các vấn đề xã hội.
Thứ hai, sự ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông và mạng xã hội đôi khi làm
mờ giới hạn giữa thông tin đúng và sai, dẫn đến sự hiểu lầm và thiếu hiểu biết về các
vấn đề xã hội. Trong một thế giới mà thông tin tràn ngập và đa dạng, việc phân biệt
giữa tin tức chính xác và thông tin sai lệch trở thành một thách thức lớn. Một số sinh
viên có thể dễ dàng chấp nhận các quan điểm và ý kiến mà không qua suy nghĩ hoặc
kiểm tra lại tính chính xác của chúng, dẫn đến việc hình thành quan điểm thiên vị hoặc
không cân nhắc.
Hơn nữa, một số sinh viên cũng có thể thiếu kỹ năng phân tích sâu sắc và suy luận
logic trong việc đối mặt với các vấn đề xã hội phức tạp. Việc đánh giá và phân tích các
tình huống xã hội yêu cầu một quy trình suy nghĩ có cấu trúc và khoa học, nhưng
không phải ai cũng có khả năng phát triển và thực hiện những kỹ năng này. Điều này
có thể dẫn đến sự hiểu biết hạn chế và quan điểm mờ nhạt về chủ nghĩa xã hội, khi mà
sinh viên không thể hiểu được sự phức tạp và đa chiều của các vấn đề xã hội.
Tóm lại, mặc dù sinh viên ngày nay có nhiều cơ hội và nguồn thông tin để nhận thức
về chủ nghĩa xã hội, nhưng vẫn tồn tại những hạn chế nhất định trong việc hiểu biết và
đánh giá các vấn đề xã hội. Điều này yêu cầu sự cải thiện trong giáo dục, khuyến khích
tư duy phê phán và phát triển kỹ năng phân tích cho sinh viên để họ có thể thể hiện một
sự nhận thức toàn diện và sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội.
2.1.3. Nguyên nhân
- Nguyên nhân của mặt tích cực
Tiếp cận thông tin đa dạng: Sinh viên ngày nay thường có tiếp cận dễ dàng đến thông
tin và nguồn kiến thức từ nhiều nguồn khác nhau như sách, báo, Internet, và các diễn
đàn trực tuyến. Điều này giúp họ có cái nhìn tổng thể và phong phú về các vấn đề xã

hội. Ngoài ra hiện nay sinh viên còn có thể tiếp cận thông tin bằng cách tham gia nhiều
hoạt động khác nhau.
Thái độ tìm kiếm và sự hiếu kỳ: Một số sinh viên có thái độ tích cực trong việc tìm
kiếm và khám phá về chủ nghĩa xã hội. Sự hiếu kỳ này thúc đẩy họ tìm hiểu sâu hơn về
các nguyên lý và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Tinh thần xã hội và trách nhiệm cá nhân: Sinh viên có thể có tinh thần xã hội và trách
nhiệm cá nhân, mong muốn đóng góp vào giải quyết các vấn đề xã hội và thúc đẩy sự
công bằng và bình đẳng trong xã hội.
- Nguyên nhân của mặt hạn chế
Thiếu kiến thức và hiểu biết cơ bản: Một số sinh viên có thể thiếu kiến thức cơ bản về
chủ nghĩa xã hội và không hiểu rõ về các nguyên lý và mục tiêu của nó. Điều này có
thể do sự thiếu sót trong giáo dục về các vấn đề xã hội.
Ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông và mạng xã hội: Sự lan truyền của thông
tin trên các mạng xã hội có thể làm mờ giới hạn giữa thông tin đúng và sai, dẫn đến sự
hiểu lầm và thiếu hiểu biết về các vấn đề xã hội.
Thiếu kỹ năng phân tích và suy luận: Một số sinh viên có thể thiếu kỹ năng phân tích
sâu sắc và suy luận logic trong việc đối mặt với các vấn đề xã hội phức tạp. Điều này
có thể dẫn đến sự hiểu biết hạn chế và quan điểm mờ nhạt về chủ nghĩa xã hội.
Thách thức về thái độ và giá trị: Sự khác biệt về quan điểm và giá trị giữa các sinh viên
có thể dẫn đến sự mâu thuẫn và tranh cãi trong việc đánh giá và ứng dụng chủ nghĩa xã
hội vào thực tế.

2.2. Thực trạng công tác giáo dục chủ nghĩa xã hội cho sinh viên Trường Đại học
Bách khoa – ĐHQG.HCM
Sinh viên là tầng lớp xã hội đặc thù, nhạy cảm với cái mới, năng động, ham học hỏi,
tìm tòi và sáng tạo. Ở nước ta hiện nay có hơn 2 triệu sinh viên đang học tập tại hơn
400 trường cao đẳng, đại học trên cả nước, tập trung chủ yếu ở 2 thành phố lớn là Hà
Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Trong bài tiểu luận này chúng ta sẽ đi làm rõ thực
trạng công tác giáo dục chủ nghĩa xã hội cho hơn 20 ngàn sinh viên Trường Đại học
Bách khoa – ĐHQG.HCM
Giáo dục là gì?
Giáo dục là hình thức học tập hay một cách tiếp thu kiến thức theo đó kiến thức, kỹ
năng và thói quen của một nhóm người được trao từ thế hệ này sang thế hệ khác thông
qua hình thức giảng dạy, đào tạo hay nghiên cứu. Giáo dục thường diễn ra dưới sự
hướng dẫn hoặc cũng có thể thông qua tự học.
Công tác giáo dục là gì?
Công tác giáo dục là quá trình hoạt động chủ yếu trong các tổ chức giáo dục nhằm
cung cấp cho học sinh, sinh viên hoặc người tham gia đào tạo các kiên thức, kỹ năng
và giá trị phù hợp với nhu cầu và mục tiêu của từng cá nhân. Công tác giáo dục có thể
bao gồm các hoạt động như giảng dạy, đào tạo, nghiên cứu, tư vấn và hỗ trợ sinh viên,
định hướng nghề nghiệp, phát triển tài năng và kỹ năng mềm.
Công tác giáo dục thường được thực hiện bởi các giáo viên, giảng viên hoặc chuyên
gia có chuyên môn cao trong lĩnh vực giáo dục. Mục tiêu của công tác giáo dục là giúp
học sinh, sinh viên và các cá nhân khác phát triển tối đa tiềm năng của họ, tăng cường
kiến thức và kỹ năng để đáp ứng các yêu cầu của công việc, đời sống và trở thành các
thành viên có ích trong xã hội

Công tác giáo dục chủ nghĩa xã hội của sinh viên trường bách khoa được biểu hiện
thông qua những vấn đề gì?
Lãnh đạo công tác giáo dục chủ nghĩa xã hội cho sinh viên trong nhà trường là nhiệm
vụ của Đảng ủy. Thực hiện sự chỉ đạo của Đảng ủy nhà trường về công tác giáo dục
chủ nghĩa xã hội trong sinh viên là ba đoàn thể, phòng ban chức năng chuyên trách đó
là Phòng Công tác chính trị, Đoàn thanh niên, đội ngũ giảng dạy các môn lý luận chính
trị. Ba tổ chức này trực tiếp thực hiện nhiệm vụ và có vai trò to lớn nhất trong công tác
giáo dục chủ nghĩa xã hội cho sinh viên. Trong Trường Đại học Bách Khoa, đội ngũ
giảng viên dạy các môn lý luận chính trị là những người giữ vai trò trọng yếu trong
việc thực hiện nhiệm vụ công tác giáo dục chủ nghĩa xã hội cho sinh viên. Bên cạnh đó
còn có phòng Công tác chính trị và Đoàn thanh niên. Ở trường, phòng Công tác chính
trị cũng với Đoàn thanh niên, Hội sinh viên tổ chức các hoạt động chính trị xã hội, văn
hóa nghệ thuật, thể thao nhằm giáo dục chủ nghĩa xã hội chi sinh viên.
2.2.1. Mặt tích cực
Phần lớn sinh viên tỏ ra hứng thú với công tác giáo dục chủ nghĩa xã hội thông qua các
phương pháp dạy tích cực hơn của các giảng viên. Hiện nay, ở trường bách khoa, giảng
viên bộ môn lý luận chính trị thường có các phương pháp dạy mới lạ hơn tạo hứng thú
cho sinh viên. Bao gồm các phương pháp: phương pháp thảo luận trên lớp, phương
pháp nêu vấn đề, phương pháp nêu vấn đề, phương pháp thuyết giảng kết hợp giáo án
điện tử, phương pháp thảo luận nhóm. Tất cả các phương pháp này đều nhằm mục đích
giúp sinh viên chủ động hơn trong việc tìm kiếm thêm kiến thức về các môn lý luận
chính trị.
Phòng công tác chính trị và đoàn thanh niên có vai trò chủ chốt trong việc tổ chức công
tác giáo dục chủ nghĩa xã hội cho sinh viên bởi những hoạt động ngoại khóa dó Đoàn
khoa tổ chức đã giúp sinh viên được giáo dục chủ nghĩa xã hội với nhiều hình thái
riêng không khô khan, cứng nhắc và gò bó làm mất đi sự gần gũi và phù hợp với sở

thích của sinh viên. Một số hoạt động như là sinh hoạt công dân, các chương trình
hướng nghiệp, các giải bóng đá giao lưu trong khoa,... Nhờ đó, công tác giáo dục chủ
nghĩa xã hội được lồng ghép qua các hoạt động này sẽ dễ dàng được sinh viên tiếp thu.
2.2.2. Mặt hạn chế
Nhưng bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận sinh viên tỏ ra thờ ơ, không hứng thú lắm khi
học các môn lí luận chính trị. Sinh viên cảm thấy rằng các môn đó không thực sự có
ích lắm mà chỉ chăm chăm và các môn đại cương, các môn chuyên ngành.
Đa số sinh viên nhận thức được vai trò và ý nghĩa của những hoạt động do trường tổ
chức mang lại cho họ, tuy nhiên đa số có thái độ đón nhận không mấy hào hứng, chính
vì những hoạt động này chỉ tổ chức mang tính hình thức.
2.2.3. Nguyên nhân
- Nguyên nhân của mặt tích cực
Đa số sinh viên có lập trường chính trị vững vàng, có lòng tin mạnh mẽ vào lý tưởng
cao đẹp của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, sự lãnh đạo của Đảng. Sự ổn định
chính trị và phát triển xã hội của Việt Nam sau 30 năm đổi mới, đã tác động tích cực
đến tư tưởng chính trị sinh viên, tạo ra trong sinh viên bầu không khí phấn khởi, tin
tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng. Sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa đã khơi dậy trong sinh viên những hoài bão, lý tưởng cao đẹp của tuổi
trẻ. Với những thành tựu kinh tế đạt được trong quá trình đổi mới đất nước, sinh viên
đã nhận thức được sự đúng đắn của đường lối đổi mới, có ý thức sâu sắc hơn về mối
quan hệ gắn bó giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Từ đó, nhiều sinh viên đã
thấy rõ hơn trách nhiệm của mình trong học tập và rèn luyện đạo đức, phẩm chất tư
tưởng chính trị xứng đáng với truyền thống của dân tộc, qua hàng nghìn năm dựng
nước và giữ nước.
Cách giảng dạy của giảng viên môn lí luận chính trị đang trải qua sự đổi mới để đáp
ứng tốt hơn với yêu cầu của thời đại và nhu cầu của sinh viên. Nhiều giảng viên lúc
giảng dạy có cập nhật tình hình thời sự và xây dựng các tình huống có vấn đề để sinh

viên suy nghĩ cùng giảng viên tìm hướng giải quyết. Đặc biệt là rèn luyện cho sinh viên
khả năng phản biện và đấu trạnh tư tưởng ở một mức độ nhất định cho mỗi nội dung
được chọn.
- Nguyên nhân của mặt hạn chế
Tuy nhiên một bộ phận sinh viên lại có thái độ không có hứng thú khi học các môn lí
luận chính trị, trong khi đã thấy được sự cần thiết của nó. Vấn đề đặt ra ở đây là việc
dạy và việc học các môn lí luận chính trị đang tồn tại những bất cập gì? Vấn đề tồn tại
chủ yếu của việc dạy và học các môn lí luận chính trị chính là ở chỗ nội dung chương
trình còn nhiều bất cập dẫn đến việc sinh viên tỏ ra thờ ơ, xem nhẹ các môn học này.
Một bộ phận sinh viên tỏ ra thờ ơ, không quan tâm đến những hoạt động ngoại khóa
mà trường tổ chức nguyên nhân là do áp lực về kinh tế. Họ lo lắng, thiếu sự tập trung
trong học tập hoặc phải lo đi tìm việc làm thêm gây ra sự ảnh hưởng rất lớn đến công
tác học tập cũng như rèn luyện. Cũng chính vì nguyên nhân như vậy rất dễ tạo ra sự
thờ ơ với các sự kiện chính trị, ngại tham gia các hoạt động phong trào ngoại khóa.
Chương 3: Giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội vào
giáo dục nhận thức chủ nghĩa xã hội cho sinh viên Trường Đại học Bách khoa –
ĐHQG.HCM
3.1. Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Là mục tiêu, hướng đi mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng cộng sản và toàn bộ nhân dân
Việt Nam đã lựa chọn và tuân thủ, chủ nghĩa xã hội chính là nền tảng của di sản tư
tưởng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, những giá trị tốt đẹp của di sản chỉ thực sự được làm
rõ khi chúng ta thật sự xem xét những di sản tư tưởng của Bác trong kỉ niệm 131 năm
ngya2 sinh của Người (19/5/1890 - 19/5/2021)
Thứ nhất, giải quyết mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là một tiến
bộ lý luận hết sức căn bản, thể hiện sự dũng cảm, sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh

và Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhờ độc lập dân tộc và sức mạnh của chủ nghĩa xã hội,
Việt Nam đã giành thắng lợi trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, trong cuộc kháng
chiến chống Pháp và Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa các nước đi
lên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Những đóng góp đặc biệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ khẳng định tính tất yếu
của chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chủ nghĩa nhân văn và văn hóa, sự phát triển và
tiến bộ không ngừng của nó mà còn trả lời cho câu hỏi “Chủ nghĩa xã hội là gì?” Mục
tiêu là khẳng định những đặc điểm cốt yếu của chủ nghĩa xã hộ, sau đó tiến đến chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Theo Bác, chủ nghĩa xã hội là làm giàu cho người dân và
củng cố đất nước. Chúng ta sẽ làm cho quê hương giàu mạnh và làm cho người dân
hạnh phúc. Đó là nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của con người. Đó là việc
nâng cao dời đống con người gắn liền với sự phát triển của khoa học, công nghệ và văn
hóa... bao gồm việc đảm bào cho mọi người ăn, mặc thật đầy đủ: tạo ra một môi
trường hạnh phúc và tự do.
Với tầm nhìn xóa đói, chống nghèo, tăng cường thịnh vượng và phát triển kinh tế gắn
liền với tiến bộ và sự công bằng xã hội, tất cả mọi người đều có cơm ăn, áo mặc, mọi
người đều được tiếp cận với giáo dục, chăm sóc sức khỏe và nhân quyền. Ngay lúc này,
con người vừa là động lực vừa là mục tiêu để phát triển chủ nghĩa xã hội. Trong đó,
Chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung vào ba trụ cột chính: kinh tế, xã hội và môi trường.
Nhằm xóa đói giảm nghèo cùng cực, phổ cập giáo dục tiểu học, thực hiện bình đẳng
giới, nâng cao vị thế của phụ nữ và giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em, chúng ta đã đặt nền
móng cho sự phát triển bền vững, phòng chống dịch bệnh, chăm sóc sức khỏe cho toàn
thể người dân, nâng cao vị thế phụ nữ, hợp tác kinh tế quốc tế và xây dựng quan hệ đối
tác phát triển toàn cầu. Di sản Hồ Chí Minh đã đặt nền móng, chỉ đạo Đảng Cộng sản
Việt Nam xây dựng chương trình, đường lối xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Trong 35 năm đổi mới, đất nước Việt Nam đã có những tiến bộ chưa từng có dựa trên
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đạt được những thành tựu to lớn có
ý nghĩa lịch sử, như Quốc hội khóa XIII đã khẳng định trong văn kiện. Đảng Cộng sản
Việt Nam: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế
như ngày nay”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã dẫn dường mở lối con đường cách mạng của dân tộc Việt
Nam, nhất là trong bối cảnh phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế. Ý nghĩa lịch sử và
giá trị lý luận, thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia
và trở thành một phần giá trị của văn hóa nhân loại.
3.2. Một số giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội vào giáo
dục nhận thức chủ nghĩa xã hội cho sinh viên Trường Đại học Bách khoa –
ĐHQG.HCM
Một là, thế hệ trẻ phải chăm chỉ, sáng tạo, có mục đích và động lực học tập đúng đắn
để xây dựng đất nước tương lai và hiểu rằng học giỏi chính là lòng yêu nước. Thanh
niên Việt Nam nói chung và sinh viên Việt Nam nói riêng có vai trò rất quan trọng
trong việc hình thành nguồn nhân lực chất lượng cao, có đủ kiến thức, kỹ năng thích
ứng với những phát triển mới của khoa học công nghệ.
Hai là, chúng ta tích cực thực hành đạo đức và hành vi. Một lối sống trong sạch, lành
mạnh giúp bạn tránh xa các tệ nạn xã hội. Chúng ta biết cách chống lại những biểu hiện
của lối sống lai tạp, thực dụng, đi chệch khỏi các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống
của đất nước.
Ba là, luôn nâng cao ý thức chính trị, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tránh tình trạng suy thoái của đảng,
làm suy thoái các tổ chức công đoàn, xa rời chính trị. Ngày nay, các thiết bị khoa học
công nghệ hiện đại và hệ thống mạng xã hội ngày càng phát triển đã có những tác

động rất lớn đến sinh viên, cả tích cực lẫn tiêu cực, và một trong số đó là việc giới trẻ
nói chung, trong đó có sinh viên, đang ngày càng tách rời khỏi xã hội. cuộc sống và trở
thành một người nhẫn tâm, vô tâm. và một lối sống phi chính trị. Ngoài ra, nhiều thanh
niên đọc báo chủ yếu thông qua các bài viết chia sẻ trên mạng xã hội chưa được kiểm
chứng cụ thể, chứ không chủ động tiếp cận các nguồn tin chính thống, có thể dẫn đến
thù địch mà không nhận thức đầy đủ, tạo cơ hội tung tin xuyên tạc Đảng. và dân tộc.
Nội dung chính trị có thể gây nhầm lẫn cho người đọc và gây ra những hậu quả không
lường trước được cho tình hình an sinh xã hội của họ.
Bốn là, nâng cao kỹ năng hội nhập trong thời đại mới, tiếp thu sự phát triển của công
nghệ, biết phát triển phù hợp với điều kiện gia đình, xã hội. Trong quá trình xây dựng
nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, chúng ta không nên mù quáng phủ nhận mọi thành
tựu của chủ nghĩa tư bản mà phải lựa chọn và tiếp thu những thành tựu đó phù hợp với
điều kiện phát triển của đất nước.

KẾT LUẬN
Tóm lại, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội vào giáo dục nhận thức
chủ nghĩa xã hội là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu trong giáo dục tư
tưởng cho sinh viên, có ảnh hưởng sâu sắc đến suy nghĩ và hành động của sinh viên
Việt Nam, đặc biệt là sinh viên trường Đại học Bách khoa – ĐHQG.HCM. Nhận thức
được tầm quan trọng sâu sắc cả về lý luận lẫn thực tiễn của chủ nghĩa xã hội nói chung
và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội nói riêng, cũng như vai trò của việc hiểu
rõ tư tưởng đó để có thể thiết lập và duy trì nhận thức đúng đắn và toàn diện, đề tài đã
làm rõ những vấn đề xoay quanh quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội,
cũng như thực trạng giáo dục nhận thức chủ nghĩa xã hội cho sinh viên Trường Đại học
Bách khoa – ĐHQG.HCM, đề tài về cơ bản đã hoàn thành được trọn vẹn những nhiệm
vụ được đề ra. Điều này đã được thể hiện thông qua những bình diện sau đây.
Thứ nhất, đề tài đã phân tích, làm rõ Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, mang
đến cho sinh viên một cách tiếp cận gần gũi, dễ hiểu hơn về những quan niệm, góc
nhìn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề này, từ đó có thể hiểu rõ và nâng cao nhận
thức của mình.
Thứ hai, bên cạnh việc phân tích những quan niệm, giá trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong suốt những năm tháng từ xưa đến nay, đề tài cũng so sánh, đối chiếu với thực
trạng của công tác giáo dục xã hội chủ nghĩa cho sinh viên hiện nay, từ đó có thể làm
rõ những hạn chế cũng như tích cực, đồng thời chỉ ra nguyên nhân xuất hiện những hạn
chế và tích cực đó.
Thứ ba, dựa trên những phân tích về mặt lý luận và thực tiễn đề tài cũng đi sâu vào
những giải pháp trong công tác vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
vào giáo dục nhận thức cho sinh viên trường Đại học Bách khoa – ĐHQG.HCM.

Chính vì vậy, có thể nói về cơ bản, đề tài đã thực hiện được nhiệm vụ đề ra ban đầu.
Tuy nhiên, cần thiết phải có sự phấn đấu, góp sức của cả Ban giám hiệu, giảng viên
cũng như sinh viên, có như vậy thì mới có thể vận dụng hiệu quả tư tưởng Hồ Chí
Minh về chủ nghĩa xã hội, biến thành một công cụ hữu hiệu hơn nữa để giáo dục nhận
thức chủ nghĩa xã hội cho sinh viên.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB:
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2.Nguyễn Thị Anh. (2022). “Giáo dục lối sống xã hội chủ nghĩa cho sinh viên
theo tư tưởng Hồ Chí Minh”. Tạp chí Giáo dục lý luận.
3.Phan Thị Phương Anh, Trần Thị Như Tuyến. (2017). “Thực trạng công tác giáo
dục chính trị tư tưởng cho sinh viên hiện nay và một số giải pháp mang tính
định hướng”. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 48, Phần D, tr.
13-19.
Tags