Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa xã hội kkhông.docx

mngoc150810 3 views 16 slides May 06, 2025
Slide 1
Slide 1 of 16
Slide 1
1
Slide 2
2
Slide 3
3
Slide 4
4
Slide 5
5
Slide 6
6
Slide 7
7
Slide 8
8
Slide 9
9
Slide 10
10
Slide 11
11
Slide 12
12
Slide 13
13
Slide 14
14
Slide 15
15
Slide 16
16

About This Presentation

1.3.1.1. Tư tưởng chủ nghĩa xã hội không tưởng thông qua truyện cổ tích, thần thoại Những ước mơ, nguyện vọng về một xã hội bình đẳng, không có tình trạng người áp bức, bóc lột người lần đầu tiên xuất hiện vào thời sơ kỳ c...


Slide Content

Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa
xã hội kkhông
1.3.1. Thời kỳ sơ khai
Là thời kỳ nảy sinh những mầm mống và khuynh hướng tư tưởng xã
hội chủ nghĩa thời cổ đại.
Tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời kỳ sơ khai thể hiện thông qua các câu
chuyện dân gian như: truyện thần thoại, truyện cổ tích, những giáo lý
tôn giáo. Chủ nghĩa xã hội không tưởng trong thời kỳ này, một mặt
phản ánh sự bất bình của đông đảo quần chúng nhân dân đối với các
hành vi áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị; mặt khác, nêu lên ước
mơ, khát vọng của công chúng bị bóc lột, bị áp bức về một xã hội bình
đăng, công bằng, bác ái, nhưng rất mơ hồ, vụn vặt, thậm chí muốn trở
về với thời đại “hoàng kim nguyên thủy”.
1.3.1.1. Tư tưởng chủ nghĩa xã hội không tưởng thông qua truyện cổ
tích, thần thoại
Những ước mơ, nguyện vọng về một xã hội bình đẳng, không có tình
trạng người áp bức, bóc lột người lần đầu tiên xuất hiện vào thời sơ kỳ
của chế độ chiếm hữu nô lệ được thể hiện thông qua những câu
chuyện thần thoại, truyện cổ tích.
- Hầu hết các truyện cổ tích của mọi quốc gia dân tộc đều là sáng tác
dân gian thuộc loại hình tự sự, chủ yếu sử dụng yếu tố nghệ thuật kì
ảo để thể hiện cái nhìn hiện thực của nhân dân với đời sống, bộc lộ
quan niệm về đạo đức cũng như về công líxã hội và ước mơ một cuộc
sống tốt đẹp hơn của nhân dân lao động.
Trong mỗi truyện cổ tích đều có những yếu tố của thực tế, nhưng
những yếu tố ấy lại được hư cấu để xây dựng nên một thế giới khác với
thế giới hiện tại - thế giới cổ tích, mà trong thế giới ấy, mọi điều đều có
thể xảy ra. Trong cổ tích, người ta bay trên không trung, ngồi lên tấm
thảm thần biết bay, đi hài bảy dặm, những xã hội có cuộc sống tuyệt
vời. Chủ nhân của các câu chuyện cổ tích là nhân dân lao động, nên kết
thúc những câu chuyện này đều có hậu, nhờ Tiên, nhờ Bụt những
người lao động nghèo khổ đã thoát khỏi bất công và được sống cuộc

đời hạnh phúc. Nói chung, những truyện cổ tích đã mở ra trước mắt
con người ta cánh cửa sổ để nhìn vào một cuộc sống khác, công bằng,
bình đẳng, không áp bức, bóc lột, đẹp như một giấc mơ, không có
trong hiện thực.
1.3.1.2. Tư tưởng chủ nghĩa xã hội không tưởng thông qua giáo lý tôn
giáo
Tôn giáo không chỉ thể hiện sự bất lực của con người trong cuộc đấu
tranh với tự nhiên và xã hội, do thiếu hiểu biết dẫn đến sợ hãi và tự
đánh mất mình do đó phải dựa vào thánh thần, mà còn hướng con
người đến một hy vọng tuyệt đối, một cuộc đời thánh thiện, mang tính
“Hoàng kim nguyên thủy”, một cuộc đời mà quá khứ, hiện tại, tương lai
cùng chung sống. Nó gieo niềm hi vọng vào con người, dù có phần ảo
tưởng, để yên tâm, tin tưởng để sống và phải sống trong một thế giới
trần gian có nhiều bất công và khổ ải.
- Phật giáo ra đời cách đây hơn 2500 năm ở Ấn Độ trong phong trào
đấu tranh chống những giáo lý Bàlamôn (Bramarism) của giai cấp chủ
nô thống trị và chống lại chế độ phân biệt đẳng cấp bất công.
Trong Phật giáo, chữ Từ (Từ Bi Hỉ Xả) có nghĩa là ước vọng, mong muốn
cho mọi sinh linh được sống an lành, hạnh phúc. Phật giáo đề cao sự
bình đẳng giữa con người với con người: “Không có đẳng cấp trong
dòng máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn. Mỗi người sinh ra đều có
Phật tính và đều có thể trở thành Phật. Người xuất thân hèn hạ mà biết
phát tâm bồ đề, xuất gia tu hành, chứng được quả thánh, thì quý báu
vô cùng, chẳng khác gì hoa sen mọc ở bùn lầy nhơ bẩn mà vẫn tinh
khiết thơm tho".
Thiên Chúa giáo, trong lịch sử ban đầu của mình, đã phát triển từ một
tôn giáo Do Thái vào thế kỷ thứ nhất và trở thành một tôn giáo phổ
biến trên toàn bộ đế chế Hy Lạp - La Mã và hơn thế nữa, Công giáo La
Mã và Chính thống giáo Đông phương lan rộng ra khắp châu Âu vào
thời Trung cổ. Kể từ thời kỳ Phục hưng, Thiên Chúa giáo đã mở rộng
khắp thế giới và trở thành tôn giáo lớn nhất thế giới. Ngày nay trên
toàn thế giới có hơn hai tỷ tín đồ Thiên Chúa giáo.
Trước tình trạng bất công, khổ đau của cuộc sống trần thể, Thiên Chúa
giáo khuyên mọi người hãy thực hiện những điều răn của Chúa để khi

chết đi sẽ được lên Thiên Đàng. Thiên Đàng thường được hiểu là nơi
chốn của phước hạnh, đôi khi còn được hiểu là chỗ ở phước hạnh vĩnh
cửu.
1.3.1.3. Tư tưởng chủ nghĩa xã hội không tưởng thông qua những
quan điểm triết học thời cổ đại
Trong Triết học thời Cổ đại nổi bật những tư tưởng của Khổng Tử, Lão
Tử (Triết học Phương Đông) về một xã hội lý tưởng tốt đẹp.
Đứng trước xã hội loạn lạc thời Xuân Thu, Khổng Tử đưa ra khái niệm
thế giới Đại Đồng để nói đến một thế giới lý tưởng mà con người có
thể đạt tới, thể hiện cho ước muốn về một xã hội tốt đẹp trong tương
lai của con người. Thế giới này được thể hiện cơ bản bằng việc người
người yêu thương và giúp đỡ lẫn nhau, nhà nhà an cư lạc nghiệp,
không có cách biệt, không có chiến tranh. Thế giới như vậy được gọi là
“thế giới đại đồng”.
Tháng 5 năm 1921, trên Tạp chí Cộng sản, Hồ Chí Minh đã trân trọng
viết về Khổng Tử: “Khổng Tử vĩ đại (551 trước C.N) khởi xướng thuyết
đại đồng và truyền bá sự bình đẳng về tài sản. Ông từng nói: thiên hạ
sẽ thái bình khi thế giới đại đồng. Người ta không sợ thiếu, chỉ sợ có
không đều. Bình đăng sẽ xóa bỏ nghèo nàn, v.v...
Học trò của Khổng Tử là Mạnh Tử, tiêp tục tư tưởng của thấy và vạch ra
một kế hoạch chi tiết để tổ chức sự sản xuất và tiêu thụ. Sự bảo vệ và
phát triển lành mạnh của trẻ em, sự giáo dục và lao động cưỡng bức
đối với người lớn, sự lên án nghiêm khắc thói ăn bám, sự nghỉ ngơi của
người già, không có điều gì đề án của ông không đề cập đến. Việc thủ
tiêu bất bình đẳng về hưởng thụ, hạnh phúc không phải cho một số
đông mà cho tất cả mọi người, đấy là đường lối kinh tế của vị hiền triết.
Trả lời một câu hỏi của vua, ông đã nói thẳng thắn: dân vi quý, xã tắc
thứ chi, quân vi khinh”².
Lão Tử là một triết gia và một nhà tư tưởng vĩ đại, có tầm ảnh hưởng
rất lớn và quan trọng đối với nền triết học Đông phương cũng như của
nhân loại sau này. Có thể nói, ông sánh ngang với Khổng Tử và một số
tư tưởng gia khác trong lịch sửtriết học cổ đại của Trung Hoa.
Học thuyết của Lão Tử được trình bày khá đầy đủ trong Đạo Đức Kinh,
được xem như tác phẩm triết học đầu tiên quan trọng và có tầm ảnh

hưởng lớn của Trung Hoa gồm 81 chương, 5000 chữ. Trong chương 80
của Đạo Đức Kinh, Lão Tử đã phác họa ra mô hình quốc gia lý tưởng
không có áp bức, không có kẻ giầu, người nghèo với những đặc điểm:
Nước nhỏ, dân ít. Dù có khí cụ gấp trăm sức người cũng không dùng
đến. Ai nấy đều coi sự chết là hệ trọng nên không đi đâu xa. Có thuyền
xe mà không ngồi, có binh khí mà không bày. Bỏ hết văn tự, bắt dân
dùng lại lối thắt nút, ghi dấu thời thượng cổ. Thức ăn đạm bạc mà thấy
ngon, quần áo tầm thường mà cho là đẹp, nhà ở thô sơ mà thích,
phong tục giản phác mà lấy làm vui (nghĩa là chỉ lo ăn no mặc ấm, ở
yên, sống vui, ghét xa xỉ). Các nước gần gũi có thể trông thấy nhau,
nước này nghe được tiếng gà, tiếng chó của nước kia mà nhân dân các
nước ấy đến già chết cũng không qua lại với nhau.
1.3.2. Những đại biểu của chủ nghĩa xã hội không tưởng từ thế kỷ XVI
đến thế kỷ XVIII
Chủ nghĩa tư bản ra đời và sau đó phát triển ở một số nước, trước hết
là ở châu Âu. Sự phân hóa giai cấp diễn ra mạnh mẽ và kèm theo đó là
những xung đột giai cấp cũng diễn ra quyết liệt. Giai cấp tư sản từng
bước thiết lập địa vị thông trị của mình, cùng với giai cấp địa chủ quý
tộc đã dùng nhiều thủ đoạn áp bức, bóc lột tàn bạo đối với người lao
động.
Thông qua các tác phẩm “văn học nhân đạo” của mình, các nhà nhân
đạo thời cận đại đã lên án, phê phán chế độ xã hội dựa trên chế độ tư
hữu, đòi hỏi phải thay thế chế độ xã hội đó bằng một xã hội mới thực
sự công bằng, bác ái.
1.3.2.1. Tô-mát Mo-rơ (1478-1535)
Tô-mát Mo-rơ là người mở đầu các trào lưu xã hội chủ nghĩa và cộng
sản chủ nghĩa thời cận đại.
Tác phẩm chủ yếu của Tô-mát Mo-rơ là tác phẩm Utopia (Không
tưởng). Utopia, theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là “chưa tồn tại ở đâu
cả”.Utopia miêu tả một đất nước trên hòn đảo sống dưới chế độ cộng
hoà, nơi không tồn tại chế độ tư hữu, không có tình trạng người áp
bức, bóc lột người, thể hiện ước mơ về một xã hội lý tưởng cộng sản
chủ nghĩa.
Từ nhận thức sâu sắc về thực trạng xã hội đương thời,

Tô-mát Mo-rơ đã chỉ ra sự thống trị của chế độ tư hữu là nguyên nhân
chung và nguồn gốc của mọi tệ nạn, mọi bất công trong xã hội đó. Tô-
mát Mo-rơ khẳng định muốn có bình đẳng trong xã hội thì phải xóa bỏ
chế độ tư hữu.
Thông qua việc mô tả về đất nước địa đàng Utopia, tác giả đã phê
phán chế độ bóc lột tại châu Âu, thể hiện lòng xót thương người dân
lao động tại những quốc gia quân chủ chuyên chế châu Âu, sống còn
khổ hơn súc vật và là nạn nhân không lối thoát của những quy tắc vô lý
được ngụy trang bởi pháp luật, công lý.
Có thể nói, trong những điều kiện kinh tế - xã hội lúc bấy giờ, với tác
phẩm Utopia, Tô-mát Mo-rơ không những là người đầu tiên có thái độ
dũng cảm phê phán sự bất công của chế độ quân chủ chuyên chế, mà
còn là người lấy nguyên tắc cộng đồng và bình đẳng xã hội để đối lập
với những nguyên tắc do chế độ tư hữu tạo ra.
-Chính vì thế mà Tô-mát Mo-rơ đã có một vị trí nổi bật trong hàng ngũ
những đại biểu có tư tưởng cộng sản chủ nghĩa thế kỷ thứ XVI.
1.3.2.2. Tô-ma-đô Cam-pa-nen-la (1568 - 1639)
Với tác phẩm Thành phố Mặt trời (City of The Sun), viết vào mùa hè
năm 1601, là một ý tưởng thử nghiệm về xã hội khép kín, mà ở đó
pháp luật và kỷ cương được đề cao cùng với sự thừa nhận quyền bình
đẳng của từng cá nhân, đối lập với xã hội tư bản chủ nghĩa đương thời.
Ý tưởng này thể hiện tư tưởng xã hội chủ nghĩa, phê phán chế độ tư
bản chủ nghĩa đương thời, phê phán chế độ tư hữu, coi chế độ tư hữu
là nguồn gốc của mọi sự bất công, của những tệ nạn xã hội.
1.3.2.3. Giê-rắc-đơ Uyn-xten-li (1609 - 1652)
Nhà lý luận có khuynh hướng cộng sản chủ nghĩa không tưởng và là
lãnh tụ của phái “Đào đất” trên vũ đài chính trị nước Anh những năm
50 của thế kỷ XVII. Đa số những phẩm của Giê-rắc-đơ Uyn-xten-li là
dành cho sự luận chứng những yêu sách của phái "Đào đất", chủ
trương phục hồi chế độ công hữu về ruộng đất đã có từ thời cổ đại,
chống lại chế đô tư hữu, vì cho rằng đây là nguồn gốc sâu xa của mọi
bất công.
Tác phẩm chủ yếu của Giê-rắc-đơ Uyn-xten-li là cuốn Luật tự do. Đó là
một cương lĩnh nhằm cải tạo triệt để xã hội bằng cách xóa bỏ chế độ

tư hữu về ruộng đất, xây dựng một chế độ cộng hòa của nền sản xuất
nhỏ dựa trên cơ sở sử dụng chung ruộng đất và những sản phẩm được
sản xuất ra.
Căn cứ vào khuynh hướng tư tưởng và quá trình hoạt động thực tiễn
của ông, Giê-rắc-đơ Uyn-xten-li được đánh giá là một đại biểu của chủ
nghĩa cộng sản không tưởng ở nước Anh thế kỷ XVII.
Bên cạnh những yếu tố tích cực có ý nghĩa lịch sử nói trên, hệ tư tưởng
của Giê-rắc-đơ Uyn-xten-li vẫn chịu ảnh hưởng nặng nề của chủ nghĩa
duy tâm, vẫn mang nặng ảo tưởng muốn đổi mới xã hội bằng con
đường cải cách hòa bình.
1.3.3. Những đại biểu của Chủ nghĩa xã hội không tưởng thế kỷ XVIII
1.3.3.1. Giăng Mê-li-ê (1664 - 1729)
Tác phẩm tiêu biểu của Giăng Mê-li-ê là cuốn Những di chúc của tôi
được viết vào những năm cuối đời.
Xuất phát từ tư tưởng cho rằng tư hữu là cội nguồn của mọi bất hạnh,
đau khổ, của chiến tranh và của mọi tội ác khủng khiếp, Giăng Mê-li-ê
khẳng định rằng, với chế độ công hữu về của cải, sẽ không còn hiện
tượng trộm cắp, giết người, dối trá để bảo vệ của riêng nữa Khác với
nhiều nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng trước ông, thường có xu
hướng cải tạo xã hội bằng biện pháp hòa bình, cải lương, Giăng Mê-li-ê
cho rằng nông dân chỉ có thể tự giải phóng bằng con đường đấu tranh
cách mạng.
Có thể nói rằng, Giăng Mê-li-ê là người đã báo trước một cuộc cách
mạng xã hội để lật đổ chế độ chế độ quân chủ phong kiến đầy rẫy bất
công, áp bức, bóc lột. Và những dự báo, mong ước của ông đã được
cuộc cách mạng dân chủ tư sản Pháp năm 1789 thực hiện.
Với tư tưởng xóa bỏ chế độ tư hữu, xác lập chế độ công hữu về của cải,
Giăng Mê-li-ê được coi là nhà cộng sản chủ nghĩa không tưởng đầu
tiên của nước Pháp.
1.3.3.2. Phơ-răng-xoa Mô-ren-ly (cho đến nay giới sử học vẫn chưa xác
định được chính xác tên thật và ngày tháng năm sinh)
Tác phẩm chủ yếu của Mô-ren-ly là tác phẩm Bộ luật của tự nhiên.
Trong tác phẩm này, ông đã trình bày một cách hệ thống quan điểm
chủ nghĩa cộng sản không tưởng trên cơ sở lý thuyết về quyền bình

đẳng tự nhiên. Mô hình xã hội lý tưởng được Phơ-răng-xoa Mô-ren-ly
phác thảo trong tác phẩm là một xã hội dựa trên chế độ công hữu về
tư liệu sản xuất, mỗi người đều được đảm nhiệm một công việc của xã
hội tùy theo sức lực, khả năng của mình, và đều được xã hội chăm sóc.
Đó là một xã hội tốt đẹp theo tâm lý hoài cổ về một "thời hoàng kim"
xa xưa mà chế độ công hữu là nét nổi bật nhất.
Phơ-răng-xoa Mô-ren-ly đã đưa ra biện pháp để xóa bỏ chế độ xã hội
đương thời, đầy dối trá, bất công và để có được một xã hội lý tưởng đó
là chỉ cần làm cho mọi người, nhất là những kẻ cầm đầu biết điều, có
học thức, có đạo đức, hoặc thay luật lệ c bằng luật lệ mới mà ông đã
nêu ra trong "Bộ luật của tự nhiên".
Tuy nhiên, chính Phơ-răng-xoa Mô-ren-ly cũng nhận thấ rằng trong
những điều kiện thực tế đương thời, thì không th xây dựng được một
xã hội như thế, những điều ông viết ra cũng chỉ là mơ ước mà thôi.
1.3.3.3. Ga-bri-en Bôn-nót đơ Ma-bly (1709 - 1785)
Gần giống với Phăng-xoa Mô-ren-ly, lý thuyết về quyền tự nhiên theo
những bộ luật tự nhiên là trọng tâm trong tư duy xã hội - chính trị của
Ga-bri-en Bôn-nớt đơ Ma-bly.
Một số trong những tác phẩm nổi tiếng của ông là: Entretiens de
Phocion (Những cuộc đối thoại của Phocion) được xuất bản lần đầu
tiên vào năm 1763; Historie de France (Lịch sử nước Pháp) xuất bản lần
đầu năm 1765, được tái bản vào tháng 5 năm 1789, Des droits et des
devoirs du citoyen (Quyền lợi và Nghĩa vụ của Công dân), viết vào năm
1758, được xuất bản sau khi ông qua đời.
Những tác phẩm này chứa đựng những tư tưởng của chủ nghĩa cộng
sản và chủ nghĩa cộng hòa. Ga-bri-en Bôn-nớt đơ Ma-bly cho rằng sở
hữu tư nhân hoàn toàn không phù hợp với sự cảm thông và lòng vị
tha, mà chỉ dẫn đến bản năng chống đối xã hội hoặc tự cao tự đại. Từ
đó ông tán thành, ủng hộ việc xóa bỏ sở hữu tư nhân.
Ph. Ăngghen đã có nhận định rằng, ở nước Pháp vào thế kỷ XVIII,
những hệ thống quan điểm của Ga-bri-en Bôn-nót đỡ Ma-bly và
Phrăng-xoa Mô-ren-ly “đã có những lý luận trực tiếp có tính chất cộng
sản chủ nghĩa”
1.3.3.4. Grắc-cơ Ba-bớp (1760 - 1797)

Grắc-cơ Ba-bớp đã viết tác phẩm Tuyên ngôn của những người bình
dân. Đây được coi là một cương lĩnh hành động với những nhiệm vụ,
những biện pháp cụ thể được thực hiện ngay trong tiến trình cách
mạng.
Quan niệm của Grắc-cơ Ba-bớp về xã hội cộng sản là mọi người có
cuộc sống hạnh phúc, tất cả mọi người đều sung túc, được học hành,
bình đẳng, tự do, hạnh phúc và chỉ khi nào mọi người có hạnh phúc thì
từng người mới có hạnh phúc.
Grắc-cơ Ba-bớp đã nêu lên những tư tưởng dự báo về xã hội tương lai.
Về kinh tế, xã hội cộng sản là một công xã lớn gồm những người công
dân muốn cùng làm việc theo nguyên tắc cộng sản và cùng nhau
hưởng thụ thành quả chung. Quá trình hình thành công xã vừa là quá
trình tước đoạt của kẻ giàu vừa là quá trình tự nguyện hiến tài sản của
mọi công dân. Xã hội cộng sản theo tư tưởng dự báo của Grắc-cơ Ba-
bớp sẽ thủ tiêu quyền thừa kế tài sản, tất cả các tài sản tư nhân sẽ trở
thành tài sản công xã khi người sở hữu tài sản ấy qua đời. Đồng thời
nền kinh tế được tổ chức một cách tập trung, thống nhất, trên cơ sở
bình đẳng cùng với việc nhà nước tính toán nhu cầu xã hội để xác định
xem sản xuất và tiêu thụ như thế nào là hợp lí. Grắc-cơ Ba-bớp cũng đề
cập đến việc đưa máy móc và áp dụng các phương pháp giảm nhẹ
những công việc nặng nhọc cho người lao động.
Về phân phối, cần phân phối theo số lượng và chất lượng, đồng thời
chú ý thỏa mãn nhu cầu của mỗi thành viên theo phương châm phân
phối theo sự phải chăng, chân thật. Về chính trị, chính phủ do cách
mạng lập ra phải là hình thức “chuyên chính cách mạng của những
người lao động” được coi là điều kiện chính trị cần thiết để tiến hành
công cuộc cải tạo xã hội. Phái Ba-bóp quy định những người lao động
không có ích cho xã hội thì không được hưởng bất kỳ quyền lợi chính
trị nào. Lao động có ích là lao động trong các lĩnh vực: chăn nuôi, trồng
trọt, hàng hải cơ khí, giao thông vận tải, khoa học... Lao động chân tay
là tiê chuẩn số một để có quyền lợi chính trị. Lao động trí óc phải được
chứng minh thật sự là có ích cho tổ quốc.

Về con đường thực hiện chủ nghĩa cộng sản, Ba-bớp chủ trương lật đổ
bằng bạo lực chế độ hiện tồn. Điều này được thực hiện do một nhóm
người có lý tưởng, không hề sợ sệt, trung thành với nhân dân, căm thù
bọn bóc lột và giàu có.
Có thể nói, với sự ra đời của phái Ba-bớp, lần đầu tiên trong lịch sử, vấn
đề đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội được đặt ra với tính cách một phong
trào thực tiễn, chứ không chỉ là tư tưởng, lý luận, càng không chỉ là
những khát vọng, mơ ước về một chế độ xã hội mới.
Mặc dù sự nghiệp của Grắc-cơ Ba-bớp chưa thể hoàn thành, bản thân
ông bị chính quyền tư sản đương thời xử tửhình, song những quan
điểm tư tưởng của Grắc-cơ Ba-bớp được coi như một bước phát triển
quan trọng trong lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa, một khâu chuyển
tiếp từ chủ nghĩa xã hội không tưởng sang chủ nghĩa xã hội khoa học.
1.3.4. Những đại biểu của Chủ nghĩa xã hội không tưởng - phê phán
thế kỷ XIX
Từ cuối thế kỷ XVIII đến những thập niên đầu thế kỷ XIX, ở nước Pháp
là một thời kỳ liên tục diễn ra những biến động chính trị, một thời kỳ
đấu tranh giai cấp gay gắt giữa các thế lực mâu thuẫn nhau về lợi ích
cơ bản: thế lực phong kiến, thể lực tư sản, thê lực dân chủ cách mạng
v.v... Đây cũng là thời kỳ chủ nghĩa tư bản đã chiến thắng trong lĩnh
vực kinh tế nhưng chưa hoàn toàn thắng lợi về chính trị; là thời kỳ lực
lượng tiền thân của giai cấp vô sản hiện đại bắt đầu thức tỉnh về sứ
mệnh lịch sử của mình.
Trong thời kỳ này, các tư tưởng xã hội chủ nghĩa được thể hiện như là
một học thuyết. Chủ nghĩa xã hội không tưởng - phê phán đã tố cáo,
phê phán sâu sắc xã hội tư bản chủ nghĩa, phủ định nó, đồng thời đề
xuất con đường, biện pháp và những dự đoán thiên tài về xã hội tương
lai.
Trong hoàn cảnh lịch sử này, ở nước Pháp đã xuất hiện Cô-lô-đơ Hăng-

ri Xanh-xi-mông và Phơ-răng-xoa Ma-ri Sác-lơ Phu-ri-ê.
1.3.4.1. Cô-lô-đơ Hăng-ri Xanh Xi-mông (1760 - 1825)
Một trong những nội dung quan trọng trong học thuyết chính trị của
Xanh Xi-mông là lý luận về giai cấp và xung đột giai cấp, một yếu tố
mới mẻ mà trong lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước đó chưa hề
có.
Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế - xã hội đương thời và do hạn chế tư
duy của bản thân nên Xanh Xi-mông chưa thể có quan niệm chính xác
về nguồn gốc và những đặc điểm kinh tế -xã hội của các giai cấp.
Mặc dù vậy, như C.Mác nhận xét, với tác phẩm cuối cùng, tác phẩm
Đạo Cơ Đốc mới, Xanh Xi-mông đã thể hiện một cách trực tiếp là người
phát ngôn của giai cấp cần lao và coi việc giải phóng giai cấp cần lao,
xây dựng một xã hội mới, lý tưởng là mục đích tối thượng cuối cùng
của mình.
Xã hội mới mà Xanh Xi-mông mơ ước xây dựng đó là xã hội đáp ứng
được những nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi người. Theo ông
"chế độ sở hữu phải được tổ chức như thế nào để có lợi nhất cho xã hội
về mặt tự do và về mặt của cải". Ong đã nhận thức rõ vị trí và tầm quan
trọng của vấn đề sở hữu nhưng chưa đi tới tư tưởng xóa bỏ chế độ tư
hữu.
Trong xã hội mới, tất cả mọi người đều phải làm việc, đều trở thành
những người lao động và mọi công việc được phối hợp một cách có lợi
trong khối "liên hiệp" thống nhất. Xã hội ấy trong khi tìm cách đảm bảo
phúc lợi cho toàn thể nhân dân. trước hết phải cải thiện tình hình của
"giai cấp nghèo nhất và đông đảo nhất".
Trong xã hội mới, con người được sống trong trạng thái "hòa bình vĩnh
cửu" và các dân tộc liên kết lại để bảo vệ hạnh phúc chung. Các nhà

khoa học, nhà nghệ thuật và nhà công nghiệp phải đóng vai trò điều
khiển và lãnh đạo. Chỉ có họ mới đảm bảo thỏa mãn những nhu cầu
vật chất và tinh thần cho mọi người.
Xanh Xi-mông chủ trương đi tới xã hội mới bằng con đường hòa bình.
Ông khẳng định, các biện pháp hòa bình mới là những biện pháp duy
nhất có thể dùng nhằm mục đích xây dựng, sáng tạo, lập nên những
thiết chế vững chắc.
Xanh Xi-mông không chủ trương xóa bỏ chế độ tư hữu. Theo ông, vấn
đề đặt ra chỉ là cần xóa bỏ sự chênh lệch quá đáng về tài sản giữa mọi
người, cần phổ biến hóa chế độ tư hữu, để bảo đảm cho ai cũng có cơ
sở vật chất kinh tế, ai cũng có điều kiện lao động sản xuất và khắc phục
được tình trạng phân cực sâu sắc trong xã hội về giàu nghèo.
Những dự kiến về xã hội mới của Xanh Xi-mông còn mơ hồ, chưa chỉ ra
lực lượng xã hội thật sự sẽ thực hiện sự biến đổi xã hội tư bản chủ
nghĩa thành xã hội xã hội chủ nghĩa, ông còn ảo tưởng về lòng từ thiện
của giai cấp tư sản. Có thể nói rằng, mô hình xã hội tương lai của Xanh
Xi-mông còn mang tính không tưởng và mang sắc thái tôn giáo.
--
Nhưng có thể nhận thấy ở Xanh Xi-mông là người có công lớn với
những tư tưởng bình đẳng xã hội và có nhiều dự kiến độc đáo, đặc biệt
là tấm lòng chân thành của ông vì sự nghiệp và mưu cầu hạnh phúc
cho nhân loại cần lao vì thế mà ông được lịch sử thừa nhận là một nhà
xã hội chủ nghĩa không tưởng có vị trí quan trọng vào đầu thế kỷ XIX.
-
1.3.4.2. Phơ-răng-xoa Ma-ri Sác-lơ Phu-ri-ê (1772 - 1837)
Một trong những nội dung có giá trị trong học thuyết

Phu-ri-ê là sự phê phán, lên án xã hội tư bản chủ nghĩa. Ông nhận định
xã hội tư sản là một “trạng thái vô chính phủ của công nghiệp” trong
đó người lao động được hưởng quá ít còn các tầng lớp ăn bám thì
được hưởng quá nhiều.
Phu-ri-ê công kích kịch liệt chế độ tư bản, chỉ rõ rằng trong xã hội tư
bản, sự thừa thãi của cải ở cực này có được là nhờ sự nghèo khổ ở cực
kia. Chủ nghĩa tư bản làm què quặt con người, đàn áp tư tưởng, tình
cảm và ước vọng nhân dân. Ông phê bình, chỉ trích chế độ tư bản xây
dựng trên sự cạnh tranh, sản xuất vô tổ chức, không có kế hoạch; việc
mâu thuẫn, xung đột nhau về quyền lợi giữa các giai cấp đã gây ra
những hành động ác ý đối với nhau. Phu-ri-ê cho rằng chế độ tư bản
phải được thay thế bằng một chế độ xã hội cao hơn, tốt đẹp hơn, đó là
chế độ xã hội chủ nghĩa. Xã hội tương lai được tổ chức theo hình thức
Pha-lăng-giơ (công xã), trong đó mọi người sống trong cộng đồng, lao
động được tiến hành theo kế hoạch, mỗi người đều biết nhiều nghề và
làm nghề nào mình thích thú, do đó lao động là nhu cầu niềm vui đối
với con người. Nhưng ông cho là vẫn phải kinh doanh theo lối tư bản,
có nghĩa là vẫn bảo tồn lợi tức cho giai cấp tư sản. Theo ông, thì sản
phẩm bán ra, dành một phần để mua lương thực, thực phẩm cung cấp
cho toàn công xã, còn lại những người lao động và kỹ thuật được
hưởng 2/3, còn 1/3 dành cho các nhà tư bản bỏ tiền vào việc xây dựng
công xã.
Xã hội mới mà Phu-ri-ê muốn xây dựng phải trải qua 2 giai đoạn: giai
đoạn "xã hội đảm bảo" và tiến lên "xã hôi hài hòa" Trong xã hội đó sự
thống nhất giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể được xác lập khi "mỗi
con người riêng biệt chỉ tìm thấy điều có lợi... trong cái lợi của toàn thể
quần chúng".
Phu-ri-ê là người đầu tiên chỉ rõ tính tất yếu và ưu việt của việc tổ chức
làm ăn tập thể trong các hiệp hội. Mỗi hiệp hội sản xuất và tiêu thụ
khoảng 1600 người. Hiệp hội được tổ chức một cách tự nguyện, không

chịu sự kiểm soát của nhà nước và sẽ là cơ sở để đi tới "chế độ hài
hòa". Trong các hiệp hội mọi người đều phải lao động. Ở giai đoạn đầu,
khi đã đảm bảo đầy đủ điều kiện để sinh sống thì chuyển sang giai
đoạn "hài hòa". Lúc đó mọi người sẽ lao động hoàn toàn tự nguyện,
được thật sự tự do và đời sống sẽ tươi vui, hạnh phúc. Phu-ri-ê lấy trình
độ giải phóng phụ nữ làm tiêu chuẩn đánh giá sự tiến bộ của xã hội.
Muốn xây dựng xã hội mới, cần khám phá ra quy luật vận động cơ bản
của xã hội - những đam mê, dục vọng của nó. Mỗi người đều phải có
những đam mê, dục vọng làm động lực cho hành vi. Quy luật cơ bản
của xã hội là sự lôi cuốn các đam mê, sự thỏa mãn dục vọng. Nhận
thức được những đam mê, dục vọng với tất cả sự đa dạng của nó thì có
thể khám phá ra những quy luật của xã hội phù hợp với bản chất con
người.
Con đường xây dựng xã hội mới của Phu-ri-ê chứa nhiều mâu thuẫn,
một mặt ông khẳng định trong các giai đoạn phát triển của nhân loại,
cách mạng là hợp quy luật, nhưng mặt khác ông lại phản đối bạo lực
cách mạng. Cũng như những nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng khác,
Phu-ri-ê không nhận thức được vai trò lịch sử của giai cấp vô sản và
phản đối cách mạng bạo lực. Ông cho rằng có thể tổ chức xã hội chủ
nghĩa tương lai bằng con đường tuyên truyền hòa bình. Trong nhiều
năm, ông hướng về những người giàu có kêu gọi họ cấp tiền để tổ
chức công xã, nhưng ông đã thất bại.
Mặc dầu học thuyết của ông có nhiều hạn chế nhưng ông vẫn được
đánh giá là một trong những đại biểu xuất sắc của Chủ nghĩa xã hội
không tưởng, tư tưởng của Phu-ri-ê có ảnh hưởng lớn đến sự phát
triển tư tưởng xã hội chủ nghĩa sau này.
1.3.4.3. Rô-bớc Ô-oen (1771 - 1858)
Ở nước Anh, cuộc cách mạng công nghiệp đã gây nên sự biến đổi lớn
trong sự phát triển lực lượng sản xuất và trong cơ cấu giai cấp - xã hội.

Giai cấp tư sản và giai cấp vô sản hiện đại gắn liền với công nghiệp cơ
khí đã bắt đầu hình thành.
Từ nửa sau những năm 30 đến những năm 40 thế kỷ XIX giai cấp công
nhân Anh dần dần lớn mạnh và đã tổ chức những phong trào đấu
tranh lớn, tiêu biểu là phong trào Hiến chương của giai cấp công nhân
đòi cải cách tuyển cử.
Trong những điều kiện kinh tế - xã hội như trên đã xuất hiện Rô-bớc Ô-
oen, một nhà cải cách có khuynh hướng cộng sản chủ nghĩa, nhà xã
hội chủ nghĩa không tưởng vĩ đại người Anh. Trong học thuyết của
mình, ông đã phê phán những cơ sở của chế độ tư bản chủ nghĩa; từ
đó có những suy nghĩ sâu sắc về xã hội tư bản và những dự định cải
tạo xã hội đó. Học thuyết của ông là một trong những tiền đề xây dựng
học thuyết về chủ nghĩa cộng sản khoa học sau này.
Ô-oen xem chế độ tư hữu, hôn nhân tư sản và tôn giáo là “ba ác nhân”
biến toàn thế giới trở thành sân khấu cạnh tranh nhằm chiếm đoạt của
cải và quyền lực. Đó là "ba trở lực" mà ông tuyên bố cần gạt bỏ trên
con đường thực hiện lý tưởng về một xã hội mới.
Để xây dựng xã hội mới đó, theo quan điểm của O-oen. phải thay thế
chế độ tư hữu bằng chế độ công hữu. Nếu như trước đây, chế độ tư
hữu đã từng là một nhu cầu tất yêu hoặc có ích đối với sự phát triển
của xã hội, thì ngày nay, khi các máy móc đã ra đời, nó hoàn toàn
không cần thiết nữa và là một tệ nạn không có gì thể biện bạch được.
Nếu có một chế độ xã hội được tổ chức hợp lý, có khoa học, có máy
móc, thì chế độ tư hữu hoàn toàn không cần thiết nữa. Ở đây, từ người
có địa vị cao nhất đến người ở vị trí thấp nhất trong xã hội đều có thể
tự bảo đảm được mọi nhu cầu cần thiết và hạnh phúc của mình, thậm
chí còn đầy đủ hơn nhiều so với mức có thể đạt được bằng cạnh tranh
để có tài sản tư hữu. Nếu chế độ công hữu được tổ chức đúng đắn,
mọi người đều được hưởng thụ một nền giáo dục tốt và có điều kiện
sống như nhau thì sẽ không còn những cuộc hôn nhân dựa trên sự

tính toán bằng tiền; sẽ không còn những trẻ em hư, những hành động
thô bạo trong quan hệ giữa người với người; sẽ không còn mâu thuẫn
đối kháng về lợi ích giữa các dân tộc.
Theo Ô-oen sự khác nhau về đẳng cấp và giai cấp do con người xa rời
những quy luật tự nhiên là điều kiện cần thiết của sự bình đẳng xã hội.
Theo ông, sự phân chia xã hội hợp lý và tự nhiên chỉ là sự phân chia
theo trình độ nắm được kiến thức và kinh nghiệm của các cá nhân theo
lứa tuổi. Mỗi nhóm lứa tuổi được nhận công việc hoàn toàn phù hợp
với khả năng và sức lực của nó, không một ai được ngoại lệ, không một
ai được đặc quyền. Khác với hiệp hội của Phu-ri-ê, công xã lao động
của Ô-oen là một tổ chức lao động "mở", dựa trên chế đô công hữu về
tư liệu sản xuất. Ông nhấn mạnh sự cần thiết của những quan hệ hợp
tác mang tính liên hiệp giữa các thành viên trong từng công xã và giữa
các công xã trong quá trình sản xuất. Liên hiệp các công xã sẽ là một tổ
chức hoàn toàn mới của xã hội loài người với tất cả tính ưu việt của nó.
Sự liên kết thành những công xã lớn sẽ tiết kiệm được thời gian lao
động, vốn trong sản xuất và chi phí trong phân phối của cải, trong việc
quản lý địa phương. Sự tiết kiệm này sẽ phù hợp với sự tiết kiệm đạt
được nhờ thay thế lao động chân tay bằng máy móc hoàn hảo. Nếu tạo
ra được những tổ hợp gia đình rộng lớn như vậy, kết hợp với những
biện pháp kinh tế quan trọng khác về mặt sản xuất, bảo quản sản
phẩm, phân phối và tiêu dùng, cũng như về mặt giáo dục và quản lý thì
đất đai sẽ cung cấp phương tiện sống cho số lượng người nhiều hơn ít
ra là bốn lần so với trong điều kiện xã hội đương thời.
Ô-oen cho rằng, chỉ có thể chuyển sang một chế độ xã hội mới bằng
con đường hòa bình, rằng "sự biến đổi đó sẽ xảy ra mà không phải
dùng đến bạo lực, không đổ máu". Theo ông, chỉ bằng cách tuyên
truyền và giải thích những chân lý cơ bản thì mới có thể hoàn thành
cuộc cách mạng vĩ đại. Ông dự kiến cuộc cách mạng đó sẽ diễn ra gần
như đồng thời trong tất cả các dân tộc có văn hóa rồi lan nhanh đến tất
cả các dân tộc khác và không gặp phải một sự chống đối nào. Ô-oen
đặt nhiều hy vọng vào sự thức tỉnh của các chính phủ đang cầm quyền.
Ông chủ trương thuyết phục để các chính phủ đó từ bỏ con đường lầm

lạc và tạo mọi điều kiện thuận lợi để ông thực hiện những cải cách của
mình. Nhưng, ông càng trình bày hoàn chỉnh những tư tưởng của
mình thì giới thượng lưu tư sản càng có thái độ lạnh nhạt với ông. Kết
quả là ông bị "bỏ rơi" trong môi trường xã hội đương thời và mất địa vị
trong đó. Là người đề xướng học thuyết về một xã hội mới và can đảm
thực hiện trong thực tế, nhưng học thuyết của Ô-oen vẫn là không
tưởng và thể hiện cả tính chất tư duy siêu hình. Đặc biệt Rô-bớc Ô-oen
quan niệm rất sai lầm, rằng đấu tranh giai cấp là kết quả sự dốt nát
của quần chúng. Ông đã viết: “Những nỗi đau khổ nặng nề của quần
chúng hoàn toàn đáp ứng nguyện vọng của họ muốn thủ tiêu pháp
luật mang tính chất giai cấp là chính đáng. Nhưng quần chúng hãy còn
quá dốt nát, họ chưa biết nên thay thế luật pháp đó bằng cái gì”. Chính
quan niệm này là một trong những nguyên nhân làm cho học thuyết
của Ô-oen ít có ảnh hưởng tới công nhân.
Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng những cống hiến của Ô-oen là rất có
ý nghĩa, học thuyết của ông vẫn có giá trị lịch sử và giá trị