Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới dạy học tác phẩm Ngữ Văn trường THPT bằng phương pháp thảo luận nhóm.pdf

lop4eduvn 5 views 50 slides Feb 13, 2025
Slide 1
Slide 1 of 50
Slide 1
1
Slide 2
2
Slide 3
3
Slide 4
4
Slide 5
5
Slide 6
6
Slide 7
7
Slide 8
8
Slide 9
9
Slide 10
10
Slide 11
11
Slide 12
12
Slide 13
13
Slide 14
14
Slide 15
15
Slide 16
16
Slide 17
17
Slide 18
18
Slide 19
19
Slide 20
20
Slide 21
21
Slide 22
22
Slide 23
23
Slide 24
24
Slide 25
25
Slide 26
26
Slide 27
27
Slide 28
28
Slide 29
29
Slide 30
30
Slide 31
31
Slide 32
32
Slide 33
33
Slide 34
34
Slide 35
35
Slide 36
36
Slide 37
37
Slide 38
38
Slide 39
39
Slide 40
40
Slide 41
41
Slide 42
42
Slide 43
43
Slide 44
44
Slide 45
45
Slide 46
46
Slide 47
47
Slide 48
48
Slide 49
49
Slide 50
50

About This Presentation

Phân tích tác phẩm văn chương (TPVC), còn gọi là đọc văn, là một phân
môn quan trọng đòi hỏi bản lĩnh của người giáo viên dạy văn. Đọc văn là quá
trình giáo viên phê bình TPVC qua phương tiện lời nói, là quá trình học sinh
tiếp nh�...


Slide Content

- 1 -




SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH VĨNH PHÚC
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG ĐỒNG ĐẬU
-----------------------------










BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN

Tên sáng kiến:
ĐỔI MỚI DẠY HỌC TÁC PHẨM NGỮ VĂN
TRƯỜNG THPT BẰNG PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN N HÓM


Tác giả sáng kiến : Phạm Thị Phượng
Mã sáng kiến : 30.51.04

















Vĩnh Phúc, năm 2020Lop4.edu.vn

- 1 -


MỤC LỤC
Nội dung Trang
1. LỜI GIỚI THIỆU 1
1.1. Lý do chọn đề tài 1
1.2. Phạm vi nghiên cứu 2
1.3. Mục đích nghiên cứu 2
1.4. Phương pháp nghiên cứu 2
2. TÊN SÁNG KIẾN
3. TÁC GIẢ SÁNG KIẾN
4. CHỦ ĐẦU TƯ TẠO RA SÁNG KIẾN
5. LĨNH VỰC ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
6. THỜI GIAN SÁNG KIẾN ĐƯỢC ÁP DỤNG
7. MÔ TẢ BẢN CHẤT CỦA SÁNG KIẾN
7.1. PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHÓM
7.1.1. Khái niệm
7.1.2. Tác dụng của phương pháp thảo luận nhóm
7.1.3 Nhiệm vụ của giáo viên và học sinh trong giờ thảo luận nhóm
7.1.4. Các bước tiến hành thảo luận nhóm
7.1.5. Ưu điểm, nhược điểm của dạy học theo phương pháp thảo luận
nhóm
7.2. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP
THẢO LUẬN NHÓM TRONG DẠY HỌC TÁC PHẨM NGỮ VĂN
Ở TRƯỜNG THPT HIỆN NAY.
7.2.1. Về phía giáo viên
7.2.2. Về phía học sinh
7.3. VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHÓM VÀO GIỜ
DẠY TÁC PHẨM VĂN CHƯƠNG
7.3.1. Những tiền đề thuận lợi cho việc vận dụng phương pháp thảo luận
nhóm vào dạy TPVC
7.3.2. Những nguyên tắc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm nhằm
nâng cao hiệu quả dạy học TPVC
7.3.3. Trình bày và đánh giá kết quả.
7.3.4. Quy trình thảo luận nhóm
7.3.5. Các dạng bài tập có thể vận dung phương pháp thảo luận nhóm
trong giờ dạy TPVC.
7.4. THỰC NGHIỆM GIẢNG DẠY
7.4.1. Thiết kế giáo án thực nghiệm 1
7.4.2. Thiết kế giáo án thực nghiệm 2
8. NHỮNG THÔNG TIN CẦN ĐƯỢC BẢO MẬT (nếu có)
9. CÁC ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT ĐỂ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
10. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM
11. DANH SÁCH CÁC TỔ CHỨC, CÁ NHÂN THAM GIA ÁP
DỤNG THỬ NGHIỆM HOẶC ĐÃ ÁP DỤNG LẦN ĐẦU. PHẦN
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO



3
3
3
3
3
4
4
4
5
6
8
9


10

10
11
12

12

14

18
19
20

23
23
32
42
42

44

45
47
Lop4.edu.vn

- 2 -


CÁC CHỮ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG BÁO CÁO

TLN Thảo luận nhóm
SGK Sách giáo khoa
GV Giáo viên
HS Học sinh
THPT Trung học phổ thông
TPVC Tác phẩm văn chương
Lop4.edu.vn

- 1 -



PHẦN MỞ ĐẦU
1. LỜI GIỚI THIỆU
1.1. Lí do chọn đề tài
Phân tích tác phẩm văn chương (TPVC), còn gọi là đọc văn, là một phân
môn quan trọng đòi hỏi bản lĩnh của người giáo viên dạy văn. Đọc văn là quá
trình giáo viên phê bình TPVC qua phương tiện lời nói, là quá trình học sinh
tiếp nhận TPVC với tư cách người đồng sáng tạo. Nhiệm vụ của đọc văn là giúp
học sinh tự khám phá, cảm thụ cái hay, cái đẹp của TPVC, từ đó phát triển về
tâm hồn và trí tuệ. Không thể có một quá trình cảm thụ thực sự, tự giác và tự
nhiên nếu học sinh không tự nỗ lực vận động. Tuy nhiên những năm gần đây,
học sinh có xu hướng coi nhẹ và chán học văn, yếu kém về năng lực cảm thụ
văn chương, lạnh lùng vô cảm trước nỗi đau của những số phận trong tác phẩm
cũng như ngoài đời sống. Có thể nói đây là hệ quả tất yếu của lối dạy học văn
truyền thống. Đó là lối dạy truyền thụ một chiều, thầy đọc trò chép, thầy say sưa
thuyết giảng, học sinh tiếp nhận thụ động, ghi nhớ một cách máy móc về văn
chương. Có khá nhiều trường hợp, giáo viên chỉ quan tâm đến nội dung tác
phẩm mà chưa chú ý chúng mức về đặc trưng thể loại và ít chú ý về phương
pháp. Tất cả những điều này cho thấy, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học văn
ở nhà trường phổ thông được đặt ra những năm gần đây là tất yếu, buộc các cấp
chỉ đạo chuyên môn và giáo viên phải quan tâm giải quyết.
Thảo luận nhóm là một trong những phương pháp dạy học tích cực được
sử dụng thường xuyên trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.
Để khắc phục lối truyền thụ tri thức một chiều, lối học thụ động, máy móc, cần
phải sử dụng phối hợp nhiều phương pháp, phương pháp dạy học truyền thống
và phương pháp dạy học hiện đại, trong đó có phương pháp thảo luận nhóm.
Phương pháp này giúp người học tự giác, tích cực, chủ động tiếp thu kiến thức.
Với cách dạy học này, học sinh có nhiều điều kiện bộc lộ những suy nghĩ của
mình, tạo không khí học tập sôi nổi, kích thích tất cả học sinh tham gia vào quá
trình học tập; đồng thời đáp ứng mục tiêu giáo dục đề ra: “lấy học sinh làm Lop4.edu.vn

- 2 -


trung tâm”. Vận dụng phương pháp thảo luận nhóm vào dạy học TPVC cũng là
tìm đến một phương pháp dạy học mới để giờ học văn tạo nên được những rung
động tình cảm sâu sắc, phát huy tính chủ động của học sinh, góp phần nâng cao
chất lượng dạy – học TPVC. Trên đây là những lý do khiến tôi quyết định
nghiên cứu đề tài này.
1.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một đề tài sáng kiến kinh nghiệm nhỏ, bài viết chỉ
tập trung nghiên cứu vấn đề ở mức độ sơ lược trong phạm vi sau:
- Cơ sở lí luận của phương pháp thảo luận nhóm.
- Thực trạng của việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy
học môn Ngữ Văn ở trường trung học phổ thông.
- Cách vận dụng phương pháp thảo luận nhóm vào việc giảng dạy môn
Ngữ Văn.
- Thực nghiệm áp dụng so sánh phương pháp thảo luận nhóm tại hai lớp
11A7 và 11A8 trường THPT Đồng Đậu.
1.3. Mục đích nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu nhằm xác định những vấn đề có tính chất lí thuyết
của phương pháp thảo luận nhóm, góp phần bổ sung cho hệ phương pháp dạy
học văn ngày càng hiệu quả.
Nghiên cứu cách vận dụng phương pháp thảo luận nhóm vào dạy học môn
Ngữ Văn sẽ giúp người viết có được cái nhìn đúng đắn, sâu sắc và toàn diện về
phương pháp dạy học này, để việc dạy và học văn ngày càng tốt hơn.
Cung cấp một số ví dụ tiêu biểu mà giáo viên và học sinh đã thực hành
khi áp dụng phương pháp thảo luận nhóm vào việc dạy- học văn để người đọc
có cái nhìn cụ thể hơn.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện nghiên cứu đề tài này, ngoài phương pháp nghiên cứu khoa học
chung tôi còn sử dụng một số phương pháp chủ yếu như phương quan sát,
phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp thực nghiệm.

Lop4.edu.vn

- 3 -


2. TÊN SÁNG KIẾN
" Đổi mới dạy học tác phẩm Ngữ Văn trường THPT bằng phương pháp
thảo luận nhóm”.
3. TÁC GIẢ SÁNG KIẾN
- Họ và tên: Phạm Thị Phượng
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường THPT Đồng Đậu, xã Trung Nguyên, huyện Yên
Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Số điện thoại: 0915.232.233
- Email: [email protected]
4. CHỦ ĐẦU TƯ TẠO RA SÁNG KIẾN
Tác giả cùng với sự hỗ trợ của Trường THPT Đồng Đậu về kinh phí, đầu tư cơ
sở vật chất - kỹ thuật trong quá trình viết sáng kiến và dạy thực nghiệm sáng
kiến.
5. LĨNH VỰC ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
- Sáng kiến có thể được sử dụng để xây dựng giáo án dạy học theo phương pháp
đổi mới dạy và học, lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tích tích cực chủ động
sáng tạo để chiếm lĩnh kiến thức trong môn Ngữ Văn.
- Khi xây dựng sáng kiến dạy học Ngữ Văn bằng phương pháp thảo luận nhóm
giúp:
+ Giáo viên: Chủ động sử dụng phương pháp dạy học mới. Giáo viên tự xây
dựng nội dung phù trình độ nhận thức của từng lớp từ đó phát huy khả năng
sáng tạo của giáo viên.
+ Học sinh: Hiểu, lý giải, xâu chuỗi tìm ra các mối quan hệ, tác động, ảnh hưởng
của các nội dung ; tăng cường khả năng vận dụng các kiến thức đã học vào giải
quyết những vấn đề khác trong học tập và thực tiễn. Tâm lí thoải mái cho học
sinh trong các buổi học, các em được chủ động làm việc trong các giờ học.
Thông qua hoạt động trao đổi giữa các học sinh rèn luyện cho các em kĩ năng
hợp tác trong giải quyết các vấn đề.

6. THỜI GIAN SÁNG KIẾN ĐƯỢC ÁP DỤNG
Giáo án thực nghiệm được chúng tôi áp dụng trong năm học 2019-2020 tại
trường THPT Đồng Đậu.
Lop4.edu.vn

- 4 -


PHẦN NỘI DUNG
7. MÔ TẢ BẢN CHẤT CỦA SÁNG KIẾN
7.1. PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬ N NHÓM
7.1.1. Khái niệm
Thảo luận nhóm là một phương pháp dạy học xuất hiện từ những năm 70
của thế kỷ XX, ở trường Đại học Sư phạm của một số nước tiên tiến, bắt đầu từ
môn học “Năng động tập thể” (Group dynanies) - một môn học dạy cho sinh
viên kỹ năng làm việc tập thể. Dần dần, môn học này chuyên rèn luyện kỹ năng
làm việc theo nhóm, từ đó hình thành nên phương pháp thảo luận trong dạy học
ở tất cả các cấp học. Ở Việt Nam, phương pháp này được áp dụng rộng rãi trong
dạy học từ những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI.
Theo tác giả Nguyễn Văn Cường “Dạy học nhóm là một hình thức xã hội
của dạy học, trong đó học sinh của lớp học được chia thành các nhóm nhỏ trong
khoảng thời gian giới hạn, mỗi nhóm tự lực hoàn thành các nhiệm vụ học tập
trên cơ sở phân công và hợp tác làm việc. Kết quả làm việc của nhóm sau đó
được trình bày và đánh giá trước toàn lớp.”. Tác giả Phan Trọng Ngọ cũng cho
rằng:“Thảo luận nhóm là phương pháp trong đó nhóm lớn (lớp học) được chia
thành những nhóm nhỏ để tất cả các thành viên trong lớp đều được làm việc và
thảo luận về một chủ đề cụ thể và đưa ra ý kiến chung của nhóm mình về vấn đề
đó.”. Thống nhất với các quan điểm trên, Nguyễn Trọng Sửu trong công trình
“Dạy học nhóm – phương pháp dạy học tích cực” viết: “Dạy học nhóm là một
hình thức của xã hội học tập, trong đó học sinh của một lớp được chia thành các
nhóm nhỏ trong khoảng thời gian nhất định, mỗi nhóm tự lực hoàn thành các
nhiệm vụ học tập trên cơ sở phân công và hợp tác làm việc, kết quả làm việc của
nhóm sau đó được trình bày và đánh giá trước lớp.”
Từ các định nghĩa trên, chúng ta có thể đi đến kết luận: thảo luận nhóm là
một phương pháp dạy học hiện đại, lấy người học làm trung tâm.Với phương
pháp này, người học được làm việc cùng nhau theo các nhóm nhỏ và mỗi một
thành viên trong nhóm đều có cơ hội tham gia vào giải quyết các nhiệm vụ học Lop4.edu.vn

- 5 -


tập trong một khoảng thời gian nhất định dưới sự hướng dẫn, lãnh đạo của giáo
viên.
7.1.2. Tác dụng của phương pháp thảo luận nhóm
Mục đích chính của thảo luận nhóm là thông qua cộng tác học tập, nhằm:
Phát huy tính tích cực, chủ động, tự lực của học sinh: trong thảo luận nhóm,
học sinh phải tự giải quyết nhiệm vụ học tập, đòi hỏi sự tham gia tích cực của
các thành viên; đồng thời, các thành viên cũng có trách nhiệm về kết quả làm
việc của mình.
Phát triển năng lực cộng tác làm việc của học sinh: học sinh được luyện tập
kỹ năng cộng tác, làm việc với tinh thần đồng đội, các thành viên có sự quan
tâm và khoan dung trong cách sống, cách ứng xử…
Giúp cho học sinh có điều kiện trao đổi, rèn luyện khả năng ngôn ngữ
thông qua cộng tác làm việc trong nhóm, phát triển năng lực giao tiếp, biết lắng
nghe, chấp nhận và phê phán ý kiến người khác. Đồng thời, các em biết đưa ra
những ý kiến và bảo vệ những ý kiến của mình.
Giúp cho học sinh có sự tự tin trong học tập, vì học sinh học tập theo hình
thức hợp tác và qua giao tiếp xã hội - lớp học, cho nên các em sẽ mạnh dạn và
không sợ mắc phải những sai lầm.
Hình thành phương pháp nghiên khoa học cho học sinh: thông qua thảo
luận nhóm, nhất là quá trình tự lực giải quyết các vấn đề bài học, giúp các em
hình thành dần phương pháp nghiên cứu khoa học, rèn luyện và phát triển năng
lực khoa học trong mọi vấn đề cuộc sống.
Tăng cường tri thức, hiệu quả trong học tập: qua học nhóm, học sinh có thể
nắm bài ngay trên lớp, hình thành những tri thức sáng tạo thông qua việc tự tư
duy của mỗi thành viên. Áp dụng phương pháp này sẽ kích thích học sinh tìm
kiếm những nguồn tri thức có liên quan đến vấn đề thảo luận. Trên cơ sở đó, các
em sẽ thu lượm những kiến thức cho bản thân thông qua quá trình tìm kiếm tri
thức.
Lop4.edu.vn

- 6 -


7.1.3 Nhiệm vụ của giáo viên và học sinh trong giờ thảo luận nhóm
7.1.3.1. Nhiệm vụ của giáo viên:
Trước khi tiến hành thảo luận nhóm, giáo viên trước hết cần chuẩn bị tình
huống thảo luận. Lưu ý đó phải là tình huống có vấn đề để hướng học sinh đi
giải quyết vấn đề. Vấn đề phù hợp với phương pháp thảo luận nhóm là vấn đề có
tính chất tranh luận. Một vấn đề có tính tranh luận là vấn đề có nhiều cách lí
giải, suy tưởng, đôi khi có mâu thuẫn. Sự thành công của thảo luận nhóm là giáo
viên đưa ra được các vấn đề thú vị, thách thức học sinh trả lời, buộc học sinh
cùng nhau hợp tác để tìm ra câu trả lời. Chẳng hạn, khi hướng dẫn học sinh tìm
hiểu truyện cổ tích Tấm Cám, giáo viên có thể định hướng những câu hỏi thảo
luận như sau: có ý kiến lên án, ghét cay ghét đắng nhân vật mụ dì ghẻ vì bà ta
quá đỗi độc ác, bao nhiêu lần bày mưu hãm hại Tấm, nhưng có ý kiến lại cho
rằng: xét ở một phương diện nào đó thì bà ta vẫn là hiện thân của tình mẫu tử,
bởi tất cả những gì mụ làm chỉ vì đứa con gái, đấu tranh giành giật tất cả cũng là
để cho con? Ý kiến của em như thế nào? Tiếp theo, giáo viên hướng dẫn học
sinh tìm và đọc tài liệu liên quan đến vấn đề thảo luận. Tài liệu bao gồm sách
giáo khoa và các tài liệu khác sách tham khảo, phim ảnh… Sau cùng, giáo viên
tiến hành phân nhóm. Việc thành lập nhóm (số lượng nhóm và thành viên trong
nhóm) dựa trên số lượng học sinh trong lớp và nội dung bài học. Số lượng thành
viên trong nhóm tối ưu là từ 4 đến 7 người. Cách chia nhóm có thể hoàn toàn
ngẫu nhiên, hoặc tùy theo tiêu chuẩn của giáo viên. Với vấn đề được nêu ra để
thảo luận về nhân vật dì ghẻ trong truyện Tấm Cám, chắc chắn sau khi hoạt
động nhóm sẽ tồn tại nhiều ý kiến đánh giá, thậm chí trái chiều nhau. Giáo viên
không ép buộc học sinh phải hiểu theo một cách duy nhất, và cũng không có ý
kiến nào là tối ưu nhất bắt học sinh phải đi theo. Vì vậy, hãy khuyến khích các
em được thoải mái bày tỏ quan điểm, suy nghĩ, cách đánh giá của mình với vấn
đề. Tư duy sáng tạo, cách tiếp cận và hiểu vấn đề của riêng cá nhân là mục tiêu
của đổi mới học văn. Do đó, khi nhóm đưa ra những lý giải khác ( tất nhiên là
phải phù hợp với văn cảnh, với chuẩn mực đạo đức, với tính hiện thực và nhân
văn) thì giáo viên ghi nhận xem như một con đường trong nhiều con đường đi Lop4.edu.vn

- 7 -


tới đích. Tuyệt đối giáo viên không được chê bai, phản bác gay gắt nếu ý kiến
của các em chưa thật sự đúng mà cần khích lệ, hướng dẫn các em nhận ra chân
lý một cách thuyết phục nhất. Nếu không, dụng ý tổ chức thảo luận nhóm cho
học sinh của giáo viên sẽ bị thất bại. Nói tóm lại, kĩ năng ứng xử sư phạm đúng
mực, khôn khéo của giáo viên trước học sinh trong giờ thảo luận có tác dụng
cực kì quyết định. Không chỉ quyết định trong giờ học ấy mà còn có tác dụng
trong cả những lần thảo luận sau, làm sao để mỗi giờ dạy và học như thế học
sinh luôn phải hứng thú, luôn muốn được làm việc, thấy được vị trí của mình
trong nhóm, thấy được cái tôi của mình trong mắt thầy cô, bạn bè.
Một nhiệm vụ quan trọng nữa của giáo viên đó là: khi học sinh thảo luận
nhóm, giáo viên di chuyển chung quanh các nhóm, im lặng quan sát các nhóm
làm việc. Khi học sinh gặp khó khăn, bế tắc hay tranh luận ngoài đề, giáo viên
kịp thời can thiệp, hướng dẫn nhóm ra khỏi bế tắc hoặc quay lại vấn đề đang
thảo luận. Hướng dẫn ở đây là đưa ra vài chi tiết liên quan đến giải pháp, đặt lại
câu hỏi cho sáng rõ hơn chứ không đưa ra giải pháp. Nếu nhóm im lặng quá lâu
do hết ý hay không ai có ý kiến, giáo viên tìm hiểu lí do và đặt câu hỏi cho học
sinh trả lời. Trường hợp trong nhóm có thành viên ưu tú hoặc có thành viên quá
nhút nhát, giáo viên khéo léo giải quyết vấn đề bằng cách cho rằng ý kiến của
thành viên nổi trội là đáng ghi nhận nhưng giáo viên muốn nghe ý kiến của học
sinh nhút nhát. Mục đích là để làm cho tất cả thành viên trong nhóm đều phải
làm việc, phải tư duy, nhất là đối với những em ít nói, không dám nói dần dần
các em phải tự thay đổi mình, hòa cùng các bạn trong nhóm. Giáo viên luôn nhớ
rằng không được chỉ gọi duy nhất một người nổi trội mà bỏ quên các em yếu
hơn. Bởi học sinh nổi trội dễ thấy mình luôn đúng, luôn được thầy cô gọi để
phát biểu sẽ rất có thể đâm ra tự kiêu, dễ có thái độ “ là sao” trong nhóm; còn
những em nhát cứ thu mình vào, càng ngày càng rơi vào tự ti, nghĩ mình kém
mà không bao giờ dám bộc lộ bản thân. Do vậy, giáo viên cần rất “ đều tay” với
học sinh. Đây không chỉ là yêu cầu, nhiệm vụ mà còn là nguyên tắc không được
thiếu của giáo viên trong giờ thảo luận. Lop4.edu.vn

- 8 -


Cuối buổi thảo luận, nhiệm vụ của giáo viên là nhận xét, bổ sung, định
hướng đúng vấn đề, ghi nhận đóng góp của nhóm, cho điểm. Giáo viên không
quên động viên khích lệ tinh thần các em cho những giờ học sau.
7.1.3.2. Nhiệm vụ của học sinh
Học sinh phải chuẩn bị ý kiến cho vấn đề thảo luận, tham gia thảo luận theo
nhóm mà giáo viên đã phân công một cách nghiêm túc. Nếu ý kiến trùng với ý
kiến của bạn đã đề cập trước thì học sinh cần phải bổ sung thêm hay đưa ra một
ý khác. Học sinh bảo vệ ý kiến của mình bằng những dẫn chứng thuyết phục.
Nếu ý kiến của bản thân khác với ý kiến của cả nhóm và phải chấp nhận ý kiến
đúng đắn. Trong khi thảo luận, học sinh cần ghi chép những ý kiến thảo luận
trên vở nháp. Cuối buổi thảo luận, học sinh nhóm trưởng có trách nhiệm trình
bày ý kiến của nhóm trước lớp.
Trong quá trình thảo luận yêu cầu mỗi thành viên phải hoạt động, phải tư
duy, phát huy tối đa khả năng làm việc của mình trong nhóm. Trong một nhóm,
mỗi học sinh đều có vị trí vai trò và nhiệm vụ như nhau, do đó không thể chỉ có
một hai người làm việc, còn lại không làm gì, tuyệt đối không được dựa dẫm ỷ
lại vào bạn. Đó là thói quen xấu, lâu dần sẽ trở thành tính cách.
7.1.4. Các bước tiến hành thảo luận nhóm
Có 4 bước tiến hành thảo luận nhóm:
Bước 1: Sau khi chia nhóm, giáo viên giới thiệu nội dung và cung cấp
thông tin, định hướng cho việc thảo luận và đề ra nhiệm vụ cụ thể cho các nhóm.
Bước 2: Thảo luận nhóm: từng nhóm ngồi từng cụm với nhau để dễ dàng
trao đổi ý kiến, giáo viên dễ dàng quan sát, động viên hoặc gợi ý (nếu cần) trong
khi cả nhóm đang thảo luận. Nhóm trưởng có nhiệm vụ thu thập các ý kiến trong
nhóm để báo cáo trước lớp.
Bước 3: Thảo luận lớp: các nhóm báo cáo trước lớp, nếu cần các nhóm có
thể thảo luận với nhau để đi đến kết luận.
Bước 4: Giáo viên tổng kết và khái quát kết quả bài học.
Lop4.edu.vn

- 9 -


7.1.5. Ưu điểm, nhược điểm của dạy học theo phương pháp thảo luận nhóm
Bất cứ một phương pháp dạy học nào cũng đều có những ưu điểm và nhược
điểm của nó. Phương pháp thảo luận nhóm cũng không ngoại lệ.
7.1.5.1. Ưu điểm
Phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh, tạo sự đoàn kết, hợp tác giữa
các thành viên trong nhóm và mở rộng giao lưu với các học sinh khác, góp phần
tích cực trong quá trình xây dựng nội dung bài học.
Giáo viên rèn luyện dần phương pháp học tập, nghiên cứu và thái độ học
tập tập thể, trên cơ sở đó sẽ tạo điều kiện tốt cho các em học tập cao hơn.
Rèn luyện vốn ngôn ngữ cho các em trong giao tiếp, kết chặt tình bạn bè
qua những lời nói sẻ chia, thông cảm và yêu thương.
Giúp các em tự tin qua những lần thảo luận, thuyết trình, đồng thời rèn
luyện năng lực tư duy và phát hiện vấn đề.
Thảo luận nhóm là cơ hội tốt cho các em học tập, trao đổi với nhau. Các em
sẽ góp nhặt những kiến thức của nhau mà hoàn chỉnh dần kiến thức của mình.
Tạo ra môi trường học tập nhiều màu sắc, có hứng thú, tránh được tình
trạng học văn theo kiểu đọc- chép, tránh tiếp thu kiến thức thụ động nhồi nhét
nên tâm lý căng thẳng, mệt mỏi, uể oải.
Học sinh phải hòa mình trong tập thể không chỉ giúp các em năng động mà
các em tự thấy mình trưởng thành vì được thầy cô giao cho vai trò “ phát hiện
vấn đề” như một nhà khoa học đang đi thám hiểm. Với đặc điểm lứa tuổi tâm lý
mới lớn, các em sẽ khát khao chinh phục để “ lập công”, ai cũng muốn mình
được thầy cô bạn bè công nhận khả năng.
Riêng đối với giáo viên, áp dụng phương pháp thảo luận nhóm cho học
sinh giúp thầy cô có thời gian quan sát, nhanh chóng phát hiện được nhân tố
tiềm năng, hiểu thêm cá tính, tư duy, cách ứng xử của từng em, thúc đẩy sự
mạnh dạn cho học sinh nhút nhát….đồng thời không còn tự biến mình thành
chiếc “ loa phóng thanh”, nói nhiều mà chưa chắc đã hiệu quả. Lop4.edu.vn

- 10 -


7.1.5.2. Nhược điểm
Bên cạnh những ưu điểm, thảo luận nhóm cũng có những nhược điểm cần
chú ý:
Thời gian học tập trên lớp bị bó hẹp ở một tiết học (45 phút/ tiết), nên giáo
viên sử dụng không khéo sẽ không cung cấp hết nội dung bài học vì phương
pháp này rất mất thời gian.
Do phải tập hợp học sinh thành những nhóm, giáo viên không nói rõ cách
chuẩn bị nhóm trước thì lớp học sẽ rối loạn hoặc mất trật tự, bị lãng phí nhiều
thời gian.
Nếu trình độ học sinh trong nhóm không đều nhau thì những học sinh giỏi,
khá sẽ lấn lướt những học sinh trung bình, yếu. Các em trung bình, yếu sẽ không
có những điều kiện nói lên ý kiến riêng của mình. Từ đấy, các em sẽ mặc cảm,
bất mãn, lơ là, ỷ lại vào bạn và không chú ý vào buổi thảo luận, còn các em khá
giỏi dễ có thái độ hơn người, tự phụ, đôi khi mắc bệnh “sao”.
Số lượng học sinh trong lớp quá đông (mỗi lớp khoảng 40- 45 HS) cũng
gây những khó khăn cho việc vận dụng thảo luận nhóm vào việc dạy và học.
7.2. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP THẢO
LUẬN NHÓM TRONG DẠY HỌC TÁC PHẨM NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG
THPT HIỆN NAY.
Trong những năm gần đây, phương pháp thảo luận nhóm được giáo viên
trên cả nước sử dụng trong nhiều giờ dạy TPVC ở các trường trung học phổ
thông. Khi dự giờ các tiết học có sử dụng phương pháp này, chúng tôi thấy có
những tiết dạy thành công do giáo viên vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy
học trong đó có phương pháp thảo luận nhóm. Song có một số tiết dạy chưa thật
sự thành công khi vận dụng phương pháp này.
7.2.1. Về phía giáo viên
Khi vận dụng phương pháp thảo luận nhóm, giáo viên còn lúng túng ở
một số thao tác sau:
Thao tác lựa chọn vấn đề thảo luận: việc lựa chọn vấn đề thảo luận chưa
mang tính chất tranh luận, hấp dẫn nên chưa khơi dậy tính tích cực của học sinh. Lop4.edu.vn

- 11 -


Ví dụ, giáo viên đưa ra bài tập như sau: “Tấm chết là tại ai? Ông Bụt hiện cứu
Tấm mấy lần?”. Việc lựa chọn vấn đề thảo luận là khâu then chốt quyết định sự
thành bại của phương pháp này. Vấn đề không hay, quá dễ hoặc quá khó không
phù hợp với trình độ học sinh sẽ không huy động, thu hút được học sinh tập
trung thảo luận, nếu có thì cũng chỉ mang tính chất đối phó.
Thao tác chia nhóm: có trường hợp chia nhóm quá lớn hoặc quá nhỏ, không
phù hợp với vấn đề cần thảo luận và đặc điểm của lớp học. Việc chia nhóm còn
đơn điệu, chủ yếu chia theo bàn (2 bàn/nhóm).
Thao tác chọn nhóm trưởng: nhóm trưởng không do nhóm tự bầu hoặc luân
chuyển giữa các thành viên trong nhóm mà do giáo viên chọn một học sinh khá
trong nhóm chuyên trách. Điều này khiến cho các học sinh khác trong nhóm mất
đi cơ hội thể hiện mình cũng như cơ hội rèn luyện năng lực trình bày vấn đề
trước nhóm và tập thể lớp.
Thao tác quan sát, hỗ trợ học sinh khi thảo luận: thông thường, các lớp đều
có số lượng học sinh khá đông ( khoảng 40 em). Một số giáo viên khi giao
nhiệm vụ xong thường ngồi tại chỗ nên không quan sát, bao quát hết được học
sinh trong lớp làm gì trong thời gian thảo luận, dẫn tới tình trạng có học sinh
làm việc riêng, nói chuyện trong thời gian này. Giáo viên cũng không nắm bắt
được những khó khăn, lúng túng của học sinh trong quá trình thảo luận để có sự
gợi ý, hỗ trợ kịp thời.
Thao tác tổng kết: sau khi viết phương án trả lời ra bảng hoặc ra giấy,
nhóm trưởng thay mặt nhóm đọc kết quả thảo luận trước lớp hoặc viết lên bảng.
Giáo viên gọi học sinh khác nhận xét, bổ sung và kết luận. Thao tác này được
lặp đi lặp lại khá đơn điệu, nhàm chán.
7.2.2. Về phía học sinh
Trong thời gian thảo luận, chỉ có số ít học sinh làm việc thật sự (nhóm
trưởng và HS khá, giỏi trong nhóm), còn lại các em thường ngồi chơi, nói
chuyện, làm việc riêng. Một số học sinh không ý thức được sự cần thiết phải hợp
tác để chiếm lĩnh tri thức nên nhiều khi các em biến hoạt động thảo luận thành
cơ hội để tán gẫu, lãng phí thời gian, gây ồn ào, ảnh hưởng tới lớp khác. Lop4.edu.vn

- 12 -


Câu trả lời của học sinh thường lặp lại những kiến thức trong sách giáo
khoa, thiếu sức sáng tạo.
Vì những hạn chế trên mà phương pháp thảo luận nhóm thường được vận
dụng mang tính hình thức, đối phó, chủ yếu trong các giờ hội giảng, hầu như rất
ít được vận dụng trong những giờ học bình thường. Mặt khác, thảo luận nhóm
là phương pháp mất nhiều thời gian mà quỹ thời gian dành giờ dạy TPVC lại
hạn chế và số lượng học sinh trong lớp quá đông cũng là nguyên nhân dẫn đến
việc giáo viên ít vận dung phương pháp này.
Xuất phát từ những thực trạng nêu trên, tôi thiết nghĩ làm thế nào để vận
dụng phương pháp thảo luận nhóm một cách có hiệu quả? Dẫu biết bất kì một
phương pháp dạy học nào cũng có những ưu, nhược điểm nhưng thảo luận nhóm
chúng ta có thể vận dụng được thường xuyên nhất. Do vậy, là người rất ủng hộ
cách đổi mới dạy và học văn, cũng thường xuyên nghiên cứu tìm tòi thay đổi
không khí giờ dạy bằng nhiều phương pháp; tôi thật sự trăn trở. Tôi luôn muốn,
sau mỗi tiết học văn học sinh cảm thấy hứng thú, có thái độ chờ đợi giờ học tiếp,
chứ không phải là tâm lý ngao ngán khi nghĩ tới văn chương. Tất nhiên để thay
đổi được việc học sinh chán văn, đòi hỏi sự kiên trì chịu khó tìm tòi từ cái tâm
của thầy, thái độ hợp tác của trò thì việc dạy và học môn Ngữ Văn mới mong đạt
hiệu quả.
7.3. VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHÓM VÀO GIỜ DẠ Y
TÁC PHẨM VĂN CHƯƠNG
7.3.1. Những tiền đề thuận lợi cho việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm
vào dạy TPVC
TPVC bao giờ cũng là một hệ thống động và do đó trong hoạt động tiếp
nhận TPVC, người đọc không phải là khách thể thụ động mà là một chủ thể có ý
thức, một chủ thể đồng sáng tạo. Người đọc là người cùng tham gia vào tiến
trình sáng tạo để xây dựng ý nghĩa của TPVC. Như chúng ta đã biết, TPVC
được xây dựng thông qua hình tựơng nghệ thuật mang tính phi vật thể, lấy ngôn
từ làm chất liệu và năng lực hư cấu, tưởng tượng của nhà văn. Do đó, TPVC
mang tính đa nghĩa, biểu cảm, có những tác phẩm mà chính bản thân tác giả Lop4.edu.vn

- 13 -


cũng chưa thể giải mã hết được. Tác phẩm càng xuất sắc thì càng đa nghĩa, mở
ra nhiều hướng tiếp cận khác nhau. Khi dạy TPVC, giáo viên phải làm sao giúp
học sinh tự giác, hứng thú tìm hiểu hiểu tác phẩm, học sinh từng bước tri giác
ngôn ngữ đế tưởng tượng, phân tích, khái quát theo con đường cảm xúc hóa phù
hợp với quy luật cảm thụ văn chương. Trong dạy văn, nếu giáo viên chỉ quan
tâm đến văn bản văn chương và chỉ quan tâm đến nghệ thuật, tài năng khám phá
những chỗ độc đáo trong TPVC để rồi tìm ra hình thức lôi cuốn học sinh cảm
thông đồng điệu với những gì giáo viên đã tìm tòi được thì giờ văn chỉ tác động
đến nhận thức lý trí mà không lay động tâm hồn, học sinh không rung dộng
trước những cảnh đời những số phận, xa lạ trước những nỗi niềm của nhà văn
với số phận con người. Tiếng nói của học sinh bị mờ nhạt. Mối liên hệ giữa giáo
viên và học sinh là mối liên hệ một chiều, mất hẳn mối liên hệ giữa nhà văn và
học sinh. Như vậy, có thể nói phương pháp thảo luận nhóm là một trong những
phương pháp thích hợp vì đây là phương pháp tích cực, tạo hiệu quả kép, kích
thích để các em xuất hiện những ý tưởng mới lạ, táo bạo, độc đáo và mở ra được
sự giao tiếp đối thoại giữa nhà văn – học sinh.
Trình độ nhận thức và đặc điểm tâm lý lứa tuổi của học sinh là những yếu
tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến việc thưởng thức, tiếp nhận TPVC. Học
sinh ở lứa tuổi này hoàn toàn có khả năng tư duy trừu tượng và tưởng tượng tái
hiện. Học sinh có thể nhìn nhận, đánh giá về sự vật, hiện tượng một cách sâu sắc
và độc lập. Ở lứa tuổi này, học sinh có nhu cầu ham hiểu biết, khao khát tìm
hiểu thế giới xung quanh. Khi tiếp cận TPVC, trước những tình huống, sự kiện,
số phận của các nhân vật trong tác phẩm, các em sẽ băn khoăn, suy nghĩ, đòi hỏi
một sự lý giải, phân tích.
Lop4.edu.vn

- 14 -


7.3.2. Những nguyên tắc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm nhằm nâng cao
hiệu quả dạy học TPVC
Dạy học nhóm không phải là một phương pháp độc tôn. Nó cũng có những
hạn chế nhất định, nếu tổ chức không khéo dễ gây nên tình trạng kiến thức bị
gián đoạn, không hệ thống, thiếu logic, chỉnh thể tác phẩm bị phá vỡ, không khí
tình cảm của giờ văn dễ bị xâm phạm. Nên khi vận dụng, chúng ta cần đảm bảo
một số nguyên tắc như sau:
7.3.2.1. Câu hỏi thảo luận phải có tính vấn đề
Câu hỏi có tính vấn đề là câu hỏi chứa đựng mâu thuẫn (giữa cái đã biết và
cái chưa biết) tạo nên tình huống có vấn đề, đồng thời kích thích được tính tích
cực, chủ động và phát huy tư duy sáng tạo trong hoạt động cảm thụ văn học của
học sinh.
Ví dụ: (1): Thảo luận nhóm về truyền thuyết An Dương Vương và Mỵ
Châu, Trọng Thủy.
Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu truyền thuyết An Dương Vương và Mỵ
Châu, Trọng Thủy, giáo viên có thể dành thời gian tích hợp thêm một số kiến
thức lịch sử liên quan tới thời đại nhà nước Âu Lạc, quá trình dựng nước mất
nước để nhân dân ta rơi vào thảm cảnh hơn 1000 năm Bắc thuộc; tích hợp một
số kiến thức về tình yêu hôn nhân gia đình, trách nhiệm nghĩa vụ của mỗi công
dân đối với quốc gia dân tộc. Từ gợi ý mang tính định hướng ấy giáo viên
hướng dẫn học sinh thảo luận theo 03 nhóm: mỗi nhóm suy nghĩ đánh giá về 01
nhân vật chính: An Dương Vương, Mỵ Châu, Trọng Thủy.
Trước thời gian nhóm làm việc, giáo viên nên định hướng tư tưởng để tránh
việc học sinh đi quá xa vấn đề trọng tâm. Giáo viên có thể gợi ý bằng các câu
hỏi:
- Giữa công lao và sai lầm ( các em đã biết) theo em công có chuộc được
tội? An Dương Vương có đáng được tha thứ? Hành động tự tay chém con gái
thực tâm nhà vua có muốn điều ấy không? Hành động vua được Rùa Vàng dẫn
xuống biển thể hiện điều gì? ( cái chưa biết các em cần suy nghĩ thảo luận và
cho ý kiến) Lop4.edu.vn

- 15 -


- Với công chúa Mỵ Châu, đáng thương hay đáng giận? Vì sao? Tại sao khi
chạy đến đường cùng nàng lại không xin cha tha chết, mà tình nguyện chết, chỉ
mong biến thành châu ngọc? Hình ảnh ngọc trai giống như sự hóa thân của nàng
truyền đến người đọc những thông điệp gì?
- Còn Trọng Thủy, có ý kiến cho rằng: đó là một tên gián điệp đê tiện, hèn
hạ, ngàn đời đáng bị nhân dân ta lên án phỉ nhổ. Nhưng có ý kiến khác lại cho
rằng: thực ra hắn cũng vẫn còn nhân tính. Hắn đáng thương bởi chính y lại là
con cờ trong âm mưu chính trị của cha mình, xét cho cùng cái chết tức tưởi của
y chứng tỏ y cũng là nạn nhân của chiến tranh. Em hãy nêu ý kiến của mình?
Ví dụ (2): Thảo luận về chi tiết cô Tấm trả thù Cám ở cuối truyện cổ tích
Tấm Cám? Nếu được viết một cái kết khác cho tác phẩm em sẽ viết theo hướng
nào?
Lưu ý: Câu hỏi có vấn đề không nhằm mục đích tái hiện tri thức đã có mà
yêu cầu học sinh phải biết sử dụng “cái đã biết” để làm phương thức tìm tòi,
nghiên cứu những giá trị tri thức mới.
Hơn nữa, vấn đề được nêu trong tác phẩm văn chương không phải có từ ý
định chủ quan của giáo viên mà vấn đề phải được đặt ra từ bản thân của tác
phẩm văn chương có nhiều ẩn số cần được giải mã về nội dung và hình thức và
từ vấn đề khó khăn, vướng mắc nảy sinh từ tầm đón nhận của học sinh trong quá
trình tiếp nhận tác phẩm.Vấn đề trong tác phẩm văn chương thường là tư tưởng
chủ đề, ý nghĩa tác phẩm hoặc tính hiệu quả của nghệ thuật xây dựng hình
tượng, xây dựng tính cách, kết cấu phi logic, sử dụng chi tiết như một điểm sáng
thẩm mĩ, các biện pháp tu từ…
Ngoài ra, nhiều khi sự thành công hay hạn chế của tác phẩm cũng là những
vấn đề. Nắm được vấn đề đặt ra từ tác phẩm và khả năng tiếp nhận của học sinh
được xem là bước khởi đầu quan trọng, có tính chất quyết định khi sử dụng
phương pháp thảo luận nhóm. Như vậy, muốn xây dựng được câu hỏi thảo luận
có vấn đề, giáo viên phải dựa vào những hiểu biết của mình về đặc điểm thi
pháp của các TPVC để đặt học sinh vào tình huống có vấn đề, tổ chức cho học
sinh giải quyết vấn đề bằng câu hỏi gợi mở. Lop4.edu.vn

- 16 -


7.3.2.2. Việc thành lập nhóm dựa trên số lượng học sinh trong lớp và nội dung
bài học
Trong việc thành lập nhóm, giáo viên nên áp dụng linh hoạt các hình thức
chia nhóm như:
Chia nhóm ngẫu nhiên: học sinh đếm 1,2,3,4... rồi vòng trở lại, học sinh
đếm số nào thì vào nhóm ấy. Giáo viên cũng có thể chia theo bàn, theo tổ.
Chia nhóm theo năng lực học học tập: giáo viên dựa vào năng lực học tập
của học sinh để chia thành nhóm giỏi, khá, trung bình, yếu. Những HS yếu hơn
sẽ xử lý các bài tập cơ bản, những HS đặc biệt giỏi sẽ nhận được thêm những
bài tập bổ sung.
Chia nhóm gồm đủ các trình độ: Cách chia này thường được sử dụng khi
nội dung thảo luận cần có sự hỗ trợ lẫn nhau.
Chia nhóm cố định trong một thời gian dài: nhóm được duy trì trong một số
tuần hoặc một số tháng. Các nhóm này thậm chí có thể được đặt tên riêng.
Số lượng thành viên trong nhóm: nhóm nhỏ (2-3 HS), nhóm vừa (4 - 6 HS),
nhóm lớn (7 - 10 HS).
Số lượng nhóm và số lượng thành viên trong nhóm và thời gian thảo luận
phải phụ thuộc vào số lượng học sinh trong lớp hoặc vấn đề thảo luận nảy sinh
từ nội dung bài học. Cụ thể:
Với vấn đề thảo luận có tính chất phức tạp như vấn chứa nhiều nội dung cần
làm sáng tỏ, hoặc có nhiều cách lí giải như “ Truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch
Lam giống như một bài thơ trữ tình đượm buồn. Hãy chứng minh?”, chúng ta
nên chia nhóm gồm đủ trình độ học sinh, số lượng thành viên từ 5-7 học sinh
thời gian thảo luận khoảng 7-10 phút. Với thời gian và cấu trúc nhóm đó, các em
sẽ chia nhau đảm nhận những vấn đề khác nhau nhằm hoàn thành nhiệm vụ mà
giáo viên giao phó.
Với vấn đề thảo luận có tính chất đơn giản hơn như “Các em hãy tìm những
chi tiết miêu tả ánh sáng và bóng tối trong truyện ngắn Hai đứa trẻ. Theo em,
tương quan giữa ánh sáng và bóng tối được nhà văn miêu tả như thế nào? Điều
đó giúp em nhận ra được thông điệp gì về giá trị hiện thực mà Thạch Lam muốn Lop4.edu.vn

- 17 -


gởi gắm?”, chúng ta nên chia nhóm 3-4 học sinh và thời gian thảo luận trong
khoảng 5 phút.
Sau khi chia nhóm, mỗi nhóm sẽ bốc thăm để chọn nhóm trưởng, thư ký
hoặc tự bầu ra nhóm trưởng. Giáo viên có thể chỉ định nhóm trưởng, thư ký luân
phiên để khắc phục tình trạng chỉ có một học sinh chuyên trách nhiệm vụ này.
7.3.2.3. Giáo viên cần quan sát, hỗ trợ học sinh trong quá trình thảo luận nhóm.
Trong khi học sinh thảo luận nhóm, giáo viên di chuyển chung quanh các
nhóm, im lặng quan sát các nhóm làm việc. Khi học sinh gặp khó khăn, bế tắc,
giáo viên kịp thời can thiệp, hướng dẫn nhóm ra khỏi bế tắc bằng những câu hỏi
gợi mở.
Ví dụ: : Giáo viên yêu cầu học sinh thảo luận vấn đề sau:
(1). Hãy chỉ ra tính thống nhất trong mạch cảm xúc của bài thơ Vội vàng?
(2). Theo em, quan niệm sống nhân văn của Xuân Diệu gửi gắm trong bài thơ
nằm ở chỗ nào?
(3). Em có thích lối sống vội vàng của Xuân Diệu hay không?
Như vậy, liên quan đến thi phẩm Vội vàng của Xuân Diệu ta có thể đưa ra rất
nhiều vấn đề để học sinh thảo luận. Tuy nhiên, do thời gian có hạn nên thầy cô
phải chọn những vấn đề trọng tâm nhất, có thể phát huy tối đa quan niệm, thái
độ đánh giá của học sinh. Đây cũng là bài thơ rất hay, viết về tình yêu tuổi trẻ và
lối sống nên học sinh sẽ hứng thú với nó. Nếu khéo léo một chút, giáo viên sẽ
hướng dẫn học sinh thảo luận say sưa, nắm bắt nhanh tinh thần của bài.
Ở vấn đề thảo luận (1), học sinh không quá khó để tìm ra mạch cảm xúc
logic: Xuân Diệu muốn đoạt quyền tạo hóa ( tắt nắng, buộc gió) để lưu giữ
hương sắc của thiên nhiên cuộc đời và vì cuộc sống đẹp mơn mởn như thiên
đường; nhưng vì mùa xuân, tuổi trẻ cuộc đời là hữu hạn nên muốn tận hưởng
cho no nê, đã đầy sự tuyệt diệu của cuộc sống trần thế chỉ có duy nhất một cách
là chạy đua với thời gian sống nhanh, sống vội vàng, sống gấp gáp….để mong
tận hưởng cho hết thanh sắc của thời tươi. Xuân Diệu luôn là vậy: lúc nào cũng
giục giã, cuống quýt vì rất sợ ngày mai mình không còn, sợ tình non tơ mau
chóng đến độ phai tàn. Lop4.edu.vn

- 18 -


Ở vấn đề thảo luận (2), có thể có nhiều cách trả lời nhưng thầy cô nên hướng
học sinh tới tính giáo dục nhân văn sâu sắc, mặt tích cực trong quan niệm sống
của ông hoàng thơ tình: nghe nhà thơ hối thúc ta sẽ thấy tâm hồn trẻ lại, thấy
yêu cuộc đời, thấy trân quý từng phút giây ta có mặt trên cõi đời, thấy quý giá
vô cùng mọi khoảnh khắc trôi qua đời ta….để từ đấy ta thêm thấm thía bài học
về giá trị của thời gian, làm sao để sống không hoài không phí, để mỗi phút giây
của ta qua đi không trở thành vô nghĩa. Thấm được tư tưởng ấy chính là thấm
được tính nhân văn trong tác phẩm của nhà thơ.
Riêng ở vấn đề thảo luận (3), chắc chắn sẽ có một số ý kiến khác nhau. Trước
những câu trả lời của học sinh, giáo viên nên linh hoạt mềm dẻo. Dù học sinh có
thích hay không, thầy cô cũng nên phân tích chiều sâu bài học nhà thơ đặt ra.
Cuộc sống là không chờ đợi một ai, không biết sống có ích cho từng giây từng
phút cuộc sống sẽ uổng phí. Có điều, đôi khi đối diện với cuộc sống hối hả, gấp
gáp con người dễ nông nổi quên đi nhiều thứ….Do vậy, cần hiểu quan niệm
sống của Xuân Diệu trong từng hoàn cảnh cho phù hợp.
Lưu ý: Trong khi các nhóm thảo luận sẽ gặp một số trường hợp: trong
nhóm có thành viên ưu tú hoặc có thành viên quá nhút nhát, giáo viên kịp thời
can thiệp hạn chế những học sinh nói quá nhiều, khích lệ, động viên học sinh
nhút nhát phát biểu ý kiến bằng cách giáo viên có thể trực tiếp hỏi học sinh nhút
nhát rắng: “Cô nhận thấy nhóm bạn rất có tinh thần tham gia thảo luận, đã đưa
ra được rất nhiều ý kiến, quan điểm của các bạn như vậy còn ý kiến của em như
thế nào? Em thấy chúng ta cần bổ sung những gì cho những ý các bạn vừa
nêu?”.
7.3.3. Trình bày và đánh giá kết quả.
Đại diện các nhóm sẽ lên trình bày kết quả trước toàn lớp: trình bày miệng
hoặc trình bày miệng với báo cáo viết kèm theo. Có thể kèm theo minh họa bằng
tranh ảnh hoặc biểu diễn. Đại diện nhóm có thể là nhóm trưởng hoặc một thành
viên khác trong nhóm do giáo viên chỉ định. Kết quả trình bày của các nhóm
được đánh giá và rút ra những kết luận cho việc học tập tiếp theo. Giáo viên
đóng vai trò trọng tài chốt lại những nội dung cơ bản, khen thưởng những nhóm Lop4.edu.vn

- 19 -


thảo luận tốt, động viên, khuyến khích để tạo hứng thú cho học sinh. Hình thức
khen thưởng có thể là biểu dương cũng có thể là cho thêm điểm thưởng vào
điểm hoạt động nhóm.
7.3.4. Quy trình thảo luận nhóm
+ Giới thiệu thiệu vấn đề thảo luận
+ Xác định nhiệm vụ của các nhóm
+ Thành lập các nhóm
+ Chuẩn bị chỗ làm việc nhóm
+ Lập kế hoạch làm việc
+ Tiến hành giải quyết nhiệm vụ
+ Báo cáo kết quả thảo luận trước lớp
Muốn thành công với phương pháp thảo luận nhóm giáo viên phải nắm
vững phương pháp thực hiện và có những chuẩn bị trước. Để chuẩn bị, giáo viên
cần trả lời những câu hỏi sau:
• Vấn đề đặt ra trong bài học có phù hợp với dạy học nhóm không?
• Các nhóm làm việc với nhiệm vụ giống nhau hay khác nhau?
• Học sinh đã có đủ kiến thức và tài liệu cho công việc nhóm chưa?
• Cần trình bày nhiệm vụ làm việc nhóm như thế nào?
• Cần chia nhóm theo tiêu chí nào?
• Cần tổ chức phòng làm việc, kê bàn ghế như thế nào?
• Thời gian học có đảm bảo cho việc thảo luận nhóm không?
Như đã nói ở phần đầu, không có một phương pháp dạy học tuyệt đối, cũng
không phải lúc nào, bài nào cũng có thể áp dụng thảo luận nhóm. Tùy vào hoàn
cảnh thời gian, không gian, vấn đề, tâm lý mà giáo viên áp dụng cho phù hợp.
Áp dụng được thường xuyên nhưng không có nghĩa là lạm dụng, dễ gây loãng
tác dụng. Trong quá trình dạy học tác phẩm môn Ngữ văn, cần vô cùng sự kết
hợp nhiều phương pháp, giống hệt như thực đơn chúng ta ăn hàng ngày, cũng
cần được “đổi món” và luôn luôn làm mới mẻ. Lop4.edu.vn

- 20 -


7.3.5. Các dạng bài tập có thể vận dung phương pháp thảo luận nhóm trong giờ
dạy TPVC.
Như đã nói ở trên, việc lựa chọn vấn đề thảo luân là khâu then chốt quyết
định sự thành bại của phương pháp này. 80% thành công của thảo luận nhóm là
giáo viên đưa ra được các vấn đề thảo luận thú vị. Để vận dụng thành công
phương pháp này vào dạy TPVC, chúng ta cần xây dựng được các dạng bài tập
thảo luận phù hợp với đặc điểm thi pháp thể loại.
7.3.5.1. Dạng bài tập thảo luận trên lớp
Dạng bài tập thảo luận so sánh:
-So sánh nhân vật Chí Phèo với nhân vật Chị Dậu để thấy được sức sáng tạo mới
mẻ của nhà văn Nam Cao so với các thế hệ đàn anh đi trước trong đề tài người
nông dân? ( Bằng sự so sánh truyện ngắn Chí Phèo với một tác phẩm văn xuôi
về đề tài người nông dân trước đó, em hãy làm sáng tỏ quan điểm của nhà văn
Nam Cao: Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một
vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, tìm
tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có.
-So sánh tính cách Chí Phèo trước khi đi tù với tính cách Chí Phèo sau khi ra tù
(Chí Phèo). ( chú ý đến sự tha hóa dần trong tính cách)
-So sánh hình tượng người lính trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu với bài
thơ Tây Tiến của Quang Dũng. (Với dạng bài thảo luận này, học sinh có thể chia
thành nhóm vừa chỉ ra những điểm giống nhau và khác nhau về hình tượng
người lính trong hai bài thơ.)
-So sánh vẻ đẹp hình tượng bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân
với hình tượng người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
của nhà văn Nguyễn Minh Châu? Từ đó các nhóm hãy khái quát vẻ đẹp người
phụ nữ Việt Nam?
Dạng bài tập thảo luận phân tích:
- Phân tích hình ảnh, chi tiết và từ ngữ :“Trong truyện ngắn Hai đứa trẻ, có một
hình ảnh được lặp đi lặp lại nhiều lần, đó là hình ảnh nào? Sự lặp lại này có tác
dụng gì?” Lop4.edu.vn

- 21 -


- Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân? Từ
đó, các nhóm hãy nêu khái quát giá trị nhân đạo của tác phẩm?
Nói chung, khi làm các bài tập dạng trên, học sinh sẽ thảo luận với các bạn
trong nhóm để đưa ra dàn ý khái quát chứ không phải để viết thành bài văn hoàn
chỉnh. Mỗi học sinh góp ý kiến của mình để xây dựng dàn ý. Cách tiếp cận đề
bằng phương pháp thảo luận nhóm như thế sẽ giúp học sinh không bị thụ động
trong quá trình xây dựng đáp án cho đề bài, khuyến khích được những ý tưởng
sáng tạo, dần dần hình thành thói quen độc lập trong việc tìm hiểu và phân tích
đề, mỗi các nhân sẽ tự học hỏi được nhiều điều ở bạn mình. Giáo viên luôn quan
sát, hướng dẫn gợi ý cho các em
Dạng bài tập lập biểu đồ, sơ đồ:
- Dạng bài tập lập biểu đồ sơ đồ rất phù hợp trong hoạt động thảo luận nhóm.
Nhóm có thể sử dụng hình tròn, hình vuông, khung, các mũi tên đường thẳng và
hình vẽ để biểu thị mối quan hệ giữa các khái niệm trừu tượng hoặc các sự kiện.
Loại này thích hợp trong các giờ ôn tập, giờ rèn luyện kỹ năng khái quát, hệ
thống và khắc sâu kiến thức.
- Dạng bài tập này luôn có ưu điểm là dùng tư duy trực quan nên học sinh sẽ rất
dễ ghi nhớ được sơ đồ hóa kiến thức cơ bản. Từ việc nắm bắt được kiến thức cơ
bản thì việc hành văn sau đó của các em sẽ thuận lợi.
- Ví dụ: Khi cho học sinh ôn tập tác phẩm Rừng xà nu của nhà văn Nguyễn
Trung Thành, giáo viên có thể chia nhóm và đặt ra vấn đề thảo luận: Em hãy vè
sơ đồ, biểu đồ kiến thức cơ bản về hình tượng cây xà nu trong tác phẩm?





Lop4.edu.vn

- 22 -


7.3.5.2. Dạng bài tập thực hiện ở nhà.
Giáo viên cho các bài tập để mỗi nhóm chuẩn bị. Bài tập có thể là tìm
những vấn đề có liên quan đến bài học, hoặc sưu tầm tư liệu, hoặc tìm hiểu một
vấn đề, hoặc toàn bộ của bài học. Bài tập này có tác dụng giúp học sinh tìm hiểu
trước vấn đề, khi vào lớp học, các nhóm sẽ góp ý kiến bổ sung những mảng kiến
thức còn thiếu, từ đó các em sẽ hiểu vấn đề hơn. Hạn chế của dạng bài tập này là
giáo viên không thể nắm bắt tình hình học nhóm của các em, do vậy sẽ có những
học sinh không tham gia trực tiếp với các bạn của mình để thảo luận.
Ví dụ như khi dạy các tiết 55, 56 của sách giáo khoa Ngữ Văn 10, bài văn
thuyết minh. Sau khi học xong lý thuyết, thầy cô có thể phân chia lớp thành 4
nhóm, cho các nhóm chuẩn bị 1 tuần về một đề tài thuyết minh có ý nghĩa thiết
thực về một sự vật, hiện tượng, nhân vật…. nào đó.
Việc học sinh thảo luận bài tập này ở nhà sẽ bắt buộc các em phải nghiên
cứu, sưu tầm tài liệu, tập hợp chắt lọc kiến thức, lập dàn ý và viết thành bài văn
thuyết minh hoàn chỉnh, sau đó tập duyệt tác phong đi đứng nói năng để bài giới
thiệu của mình được trôi chảy.
Tôi đã áp dụng cách này khi dạy về văn thuyết minh. Mỗi lớp chia làm 4
nhóm sau đó cho các em tùy chọn đề tài thuyết minh. Dĩ nhiên, tôi gợi ý một số
đề tài thiết thực và có ý nghĩa. Sau đó, cho học sinh chuẩn bị trong vòng 01 tuần.
Trong tiết học tự chọn, tôi dành cả tiết để các nhóm lên trình bày sản phẩm của
mình. Tất cả các nhóm đều hoàn thành bài khá tốt: các em chuẩn bị toàn bộ bài
thuyết minh trên giấy Ao, có tranh ảnh minh họa đi kèm. Một số bài viết được
đánh giá cao như: Giới thiệu về tà áo dài Việt Nam, giới thiệu về món bánh
chưng- đặc sắc của ngày Tết cổ truyền Việt Nam, giới thiệu về khu di tích lễ hội
đền Bắc Cung ( Tam Hồng- Yên Lạc- Vĩnh Phúc)….những đề tài vô cùng gần
gũi giàu ý nghĩa đối với bản thân mỗi chúng ta. Qua đó, tôi nhận ra học sinh của
mình khá năng động, sáng tạo. Các em có ý thức tư duy, tìm tòi, phát hiện. Làm
việc nhóm giúp các em hiểu nhau hơn, sáng tạo hơn, biết đoàn kết và hơn cả là
các em tìm thấy được cái hứng trong văn chương, tìm thấy cái tôi của mình.
Lop4.edu.vn

- 23 -


7.4. THỰC NGHIỆM GIẢNG DẠY
7.4.1. Thiết kế giáo án thực nghiệm 1
Ngày soạn:
Ngày giảng:
Tiết 9
THƯƠNG VỢ
- Trần Tế Xương –
I. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT
1. Kiến thức, kĩ năng, thái độ
- Kiến thức: Hiểu được những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của bài thơ
Thương vợ: nỗi niềm tâm sự của nhà thơ; nghệ thuật xây dựng hình ảnh, thể
hiện cảm xúc, sử dụng ngôn ngữ; hiểu một vài đặc điểm cơ bản của thơ trữ tình
trung đại Việt Nam
- Kĩ năng: Biết cách đọc – hiểu tác phẩm thơ trữ tình theo đặc trưng thể loại;
biết vận dụng hiểu biết vào viêc phân tích thơ trữ tình trung đại khi làm bài nghị
luận văn học
- Thái độ: Biết trân trọng, yêu thương đối với người phụ nữ. Yêu mến, kính
trọng đức hi sinh của người vợ, người mẹ Việt Nam
2. Các năng lực cần hình thành cho học sinh
- Năng lực đọc hiểu văn bản thơ theo đặc trưng thể loại.
- Năng lực cảm thụ thẩm mĩ ( qua việc tìm hiểu, lí giải chi tiết đặc sắc).
- Năng lực tư duy so sánh, tổng hợp (qua việc so sánh hình ảnh con cò trong thơ
Tú Xương và hình ảnh con cò trong ca dao; hình ảnh người phụ nữ xưa và nay)
- Năng lực giao tiếp, hợp tác ( thông qua việc hoạt động nhóm)
3. Chuẩn bị của học sinh:
- Đọc trước phần tiểu dẫn và văn bản bài Thương vợ
- Tự tìm hiểu các kiến thức liên quan đến tác giả Tú Xương và bài thơ Thương
vợ
- Tìm hiểu về người phụ nữ trong xà hội phong kiến
- Tìm hiểu về tâm sự của những nhà nho cuối mùa
4. Hướng dẫn tổ chức hoạt động của học sinh.
4.1. Hướng dẫn chung
4.2. Hướng dẫn cụ thể cho mỗi hoạt động
II. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC.
Hoạt
động
Mục tiêu, ý
tưởng thiết kế
hoạt động
Hoạt
động của
HS
Hoạt động
của GV
Sản phẩm yêu cầu

A. KHỞI ĐỘNG Lop4.edu.vn

- 24 -


Hoạt
động 1:
Trả lời các
câu hỏi
ngắn đã
chuẩn bị
sẵn.
Tạo tâm thế
học tập co HS,
giúp HS ý thức
được nhiệm vụ
hoc tập, hứng
thú học bài
mới.
- HS thảo
luận
nhóm và
trả lời
câu hỏi
- Nêu câu hỏi
liên quan đến
kiến thức bài
thơ Thương
vợ và cung
cấp đáp án
đúng; nhận
xét kết quả
sau khi HS đã
trả lời.
+ Câu hỏi 1:
Tìm những
bài thơ viết về
đề tài người
vợ trong VH
trung đại?
+ Câu hỏi 2:
Tìm ít nhất 3
bài ca dao bắt
đầu bằng
môtip thân em
+ Câu hỏi 3:
Những hiểu
biết của em về
thân phận
người phụ nữ
trong xã hội
phong kiến
- Đáp án
B. HÌNH THÀNH KIẾN THỨC
Hoạt
động 1:
Tìm hiểu
vài nét về
cuộc đời,
sự nghiệp
sáng tác
của tác giả


- Tìm hiểu
chung về tác
gỉa, tác phẩm

- HS hoạt
động độc
lập



- GV yêu cầu
HS đọc tiểu
dẫn và trả lời
câu hỏi
? Dựa vào
phần Tiểu
dẫn trong
SGK, hãy giới
thiệu những
nét cơ bản về
con người và
sự nghiệp của
Trần Tế
Xương?
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
- (1870-1907) thường gọi là Tú
Xương.
- Quê: Vị Xuyên - Mĩ Lộc - Nam
Định
- Là người có tài và rất có cá tính, ưa
sống phóng túng.
- Sự nghiệp sáng tác: Khoảng trên
100 bài, chủ yếu là thơ Nôm, gồm
nhiều thể thơ và một số bài văn tế,
câu đối…
- Tú Xương sáng tác ở 2 mảng: Trào Lop4.edu.vn

- 25 -


HS trình bày
GV cung cấp
thêm kiến
thức: Cuộc
đời gắn liền
với bi kịch thi
cử: học giỏi,
thông minh
nhưng cá tính
của người
nghệ sĩ ko làm
sao khuôn nổi
vào các phép
tắc luật lệ của
chốn trường
thi. Tám khoa
chưa khỏi
phạm trường
quy, ông đi thi
từ năm 17 tuổi
(1886), đến
lần thứ 4
(1894) mới đỗ
tới rốt
bảng (tú tài
thủ thiêm –
lấy thêm).
Trải qua 4
khoa thi nữa
cho đến năm
1906 vẫn ko
sao vượt khỏi
danh vị tú tài.
Gv giảng:
Tiếng cười
trong thơ Tú
Xương có
nhiều cung
bậc: châm
biếm sâu cay,
đả kích quyết
liệt.. Trong
mảng thơ trữ
tình, ông thể
phúng và trữ tình.
2. Tác phẩm “Thương vợ”
- Thương vợ là một trong những bài
thơ hay và cảm động nhất của Tú
Xương viết về bà Tú. Được sáng tác
vào khoảng từ 1896-1897 Lop4.edu.vn

- 26 -


hiện nỗi u
hoài trước sự
thay đổi của
làng quê, tâm
sự bất mãn
với đời.
- GV nhận
xét bổ sung,
chuẩn kiến
thức và diễn
giảng mở
rộng.
Hoạt
động 2:
Hướng
dẫn đọc
văn bản.



+ HS biết Đọc
– hiểu thơ trữ
tình theo đặc
trưng thể loại

- GV hướng
dẫn đọc
(giọng điệu
vừa hóm hỉnh
vừa thương
xót, trân trọng
và ngợi ca,
vừa tự trào
bực bội, cay
đắng).
- GV đọc
mẫu và gọi 1,
2 HS đọc
diễn cm bthơ
- GV nhận xét
và yêu cầu HS
về nhà học
thuộc bài thơ
II. ĐỌC- HIỂU VĂN BẢN
- Hs đọc văn bản
Lop4.edu.vn

- 27 -


Hoạt
động 3:
Hướng
dẫn tìm
hiểu văn
bản.
- Bước 1:
tìm hiểu
hai câu
đề.
+ Nhận
xét cách
nói của Tú
Xương về
chuyện bà
Tú nuôi
đủ 5 con
với 1
chồng

















- Bước 2:
Tìm hiểu
hai câu
thực
+ Giúp HS
cảm nhận được
hình ảnh người
vợ tần tảo,
đảm đang, giàu
đức hi sinh và
ân tình sâu
nặng cùng
tiếng cười tự
trào của Tú
Xương.






















+ Giáo dục
HS yêu mến,
kính trọng đức
hi sinh của
người vợ,
người mẹ Việt
Nam
- HS: trả
lời.







- HS thảo
luận
trong
phạm vi
bàn






















- HS: suy
nghĩ trả
? Hoàn cảnh
làm ăn buôn
bán của bà Tú
được giới
thiệu như thế
nào?
- GV: nhận
xét.

? Câu thơ thứ
2 cách dùng
từ và sắp xếp
trật tự từ trong
câu có gì đặc
biệt ?

? Cách đếm
con và chồng
có ý nghĩa như
thế nào ?
- Gv: Phát
phiếu học tập
- GV: nhận
xét, nhấn
mạnh ý chính.
- Số từ 5 >1;
Trong câu thơ
5=1 tác giả tự
coi mình là
thứ con đặc
biệt, là cái nợ
đời mà bà Tú
phải gánh
chịu. Ông
dám sòng
phẳng với bản
thân, với cuộc
đời, tự nhận
khuyết điểm
về mình -> thể
hiện nhân
cách cao đẹp.
1. Hai câu đề:
- Lời kể về công việc làm ăn và gánh
nặng mà bà Tú phải đảm đương
''Quanh năm buôn bán ở mom sông
- Thời gian: ''Quanh năm''-> từ đầu
năm đến cuối năm, năm này qua năm
khác=> tg tuần hoàn không ngừng
nghỉ.
- Công việc: buôn bán -> công việc
nặng nhọc, vất vả.
- Không gian: ''mom sông''-> chênh
vênh, bấp bênh, nguy hiểm.
=> Vất vả, lam lũ, tất tả ngược xuôi
của bà Tú.
Nuôi đủ năm con với một
chồng
- ''Nuôi đủ''
+ Nuôi tất cả từ con đến chồng->
sự vất vả
+ cung cấp đầy đủ cho chồng, cho
con-> chu đáo, tân tuỵ
+ Vừa đủ -> sự đảm đang, tháo
vát,
-> Khẳng định vai trò trụ cột, công
lao nuôi nấng, đảm bảo đời sống vật
chất, tinh thần của bà Tú đối với gia
đình
- ''Năm con với một chồng'': cách
nói đặc biệt, Tác giả tách riêng mình
ra, tự hạ thấp mình, cho mình là ăn
bám, là gánh nặng
cho vợ-> Tú Xương lên án mình
bằng nụ cười tự trào hóm hỉnh=> Sự
cảm thông, chia sẻ và lòng biết ơn
sâu sắc của ông Tú đối với vợ.

2. Hai câu thực: Đặc tả cảnh làm ăn
vất vả để mưu sinh của bà Tú
''Lặn lội thân cò khi quãng vắng
- Mượn hình ảnh con cũ trong ca dao
một cách sáng tạo + NT đảo ngữ: lặn Lop4.edu.vn

- 28 -


+ HS liên
hệ với
những
hình ảnh
con cò
trong ca
dao xưa





















- Bước 3:
Tìm hiểu
hai câu
luận































+ Giáo dục
HS yêu mến,
kính trọng đức
hi sinh của
người vợ,
người mẹ Việt
Nam







lời.


- Hs so
sánh và
trả lời























- HS: Giải
thích các
từ duyên,
nợ, âu,
phận,
thành ngữ
năm nắng
mười mưa



? Hình ảnh
thân cò trong
câu thơ lấy ý từ
câu ca dao nào
để từ đó khắc
họa ró hơn
chân dung vợ
mình ?
- GV: minh
họa thêm
những câu ca
dao nói về hình
ảnh con cò, con
đò
con cò lặn lội
bờ sông
Gánh gạo nuôi
chồng tiếng
khóc nỉ non
Con cò mà đi
ăn đêm...


? Sự vật lộn
với cuộc sống
của bà Tú
được khắc
hoạ như thế
nào ?

- GV: nhận
xét, nhấn
mạnh ý chính
Con ơi nhớ
lấy câu này
Sông sâu chớ
lội, đò đầy
chớ qua

? Đây là lời
của ai ? Ý của
lội thân cò-> sự nhẫn nại, chịu
thương chịu khó của bà Tú -> hình
ảnh ẩn dụ phù hợp, gây ấn tượng
mạnh-> Sự tài tình của Tú Xương
trong việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc.
- ''khi quãng vắng'': diễn tả thời gian,
không gian heo hút, vắng vẻ, rợn
ngợp chất chứa đầy lo âu, nguy
hiểm. -> sự cô đơn, hiu quạnh.
Eo sèo mặt nước buổi đò
đông''
- ''Eo sèo'':Tiếng mặc cả, chèo kéo
cãi cọ nơi chợ búa-> xô bồ, phức tạp
- Đò đông:
+ Đông người trên một chuyến đò
+ Đông đò trên một dòng sông.
->đông đúc, bon chen, nguy hiểm.
-> Khắc họa rõ nét sự bươn trải,
quên mình vật lộn với cuộc sống xô
bồ chứa đầy bất trắc của Bà Tú.
- NT đối ”Khi quãng vắng- buổi đò
đông” -> nổi bật sự gian truân, vất
vả, đơn chiếc của bà Tú.
=> Hai câu thơ vừa tả thực cảnh của
bà Tú đồng thời cho thấy thực tình
của Tú Xương: tấm lòng xót thương,
sự khâm phục, biết ơn của ông Tú.


3. Hai câu luận: Bình luận về cảnh
đời oái oăm mà bà Tú phải gánh chịu
''Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám
quản công”
- 1 duyên - 2 nợ -> số từ cấp số cộng:
duyên ít mà nợ thì nhiều
- “âu đành phận'': cam chịu, lặng lẽ
chấp nhận, không phàn nàn.
-''Năm nắng mười mưa'': mượn
thành ngữ dân gian-> nói lên sự vất
vả gian truân, dãi dầu, chịu thương Lop4.edu.vn

- 29 -









Bước 4:
Hai câu
kết:
- HS thảo
luận về ý
kiến cho
rằng: Phía
sau tiếng
chửi là
một bi
kịch Tú
Xương
chất chứa
phẫn uất
và tê tái













+ Ân tình sâu
nặng cùng
tiếng cười tự
trào của Tú
Xương




























- HS: thảo
luận

ai ? Câu thơ đã
làm sáng lên
phẩm chất nào
của bà Tú ?
(''Một duyên,
hai nợ, ba tình
Chiêm bao lẩn
khuất bên
mình năm
canh)
- GV nhận xét,
chốt ý










? Hai câu thơ
cuối là lời của
ai ? Nó có ý
nghĩa gì?



- Sau 3 phút
GV gọi đại
diện trình bày
- GV nhận
xét, nhấn
mạnh ý chính.
chịu khó của bà Tú.
- dám quản công: không quản ngại,
không kể công-> Sự hi sinh, khiêm
tốn, giản dị. quên mình, hết lòng vì
chồng con của bà Tú.
TL: ở bà Tỳ kết tinh, hội tụ đầy đủ
những đức tớnh cao đẹp của người phụ
nữ Việt Nam truyền thống.

4. Hai câu kết: Hình ảnh ông Tú qua
nỗi lòng thương vợ
- Là lời của Tế Xương chửi:
+ ''thói đời'' bạc bẽo -> nguyên
nhân sâu xa khiến bà Tú phải khổ.
+ bản thân-> Thái độ tự nhận lỗi, tự
phán xét mình
->Lời tự trào chua xót, cay đắng về
cuộc đời mình =>Thể hiện nhân cách
cao đẹp của Tú Xương



Hoạt
động 4:
Hướng
dẫn tổng
kết văn
+ Khái quát lại
những nét lớn
về nghệ thuật
và nội dung
- HS thảo
luận
và trả lời
GV chốt lại III. TỔNG KẾT
1. Đặc sắc nghệ thuật
- Sử dụng TV giản dị, tự nhiên, giàu
sức biểu cảm Lop4.edu.vn

- 30 -


bản.

- Rút ra
bài học
vận dụng
vào cuộc
sống
của bài thơ
+ Củng cố kĩ
năng đọc hiểu
tác phẩm
- Vận dụng sáng tạo hình ảnh, cách
nói của VHDG
- Sự kết hợp giữa giọng điệu trữ tình
và giọng điệu tự trào thâm thuý
2. Nội dung
- Hình ảnh bà Tú tần tảo, vất vả
nhưng đảm đang giàu đức hy sinh.
Đó là vẻ đẹp truyền thống của người
phụ nữ VN
- Tình yêu thương, biết ơn , tri ân vợ
và nhân cách cao đẹp của Tú Xương

C. LUYỆN TẬP
Hoạt động
1:
- Qua bài
thơ, em có
nhận xét gì
về hình ảnh
bà Tú và
thái độ của
ông Tú với
vợ?
-Hoạt
động 2:
- Từ hình
tượng bà
Tú,
anh./chị có
suy nghĩ gì
về hình về
hình ảnh
người phụ
nữ Việt
Nam trong
xã hội PK?
Hoạt động
3:
Từ hình
ảnh bà Tú
trong bài
thơ, trình




- Khắc sâu
hình ảnh bà
Tú vất vả,
đảm đang,
giàu đức hy
sinh
- Ông Tú thấu
hiểu, trân
trọng, biết ơn
vợ...





- Giúp hs mở
rộng kiến
thức về văn
học hiện đại





- HS thảo
luận nhóm
- Trình
bày trao
đổi, phản
biện giữa
các nhóm







-Hs viết
đoạn văn
ghi lại
những suy
nghĩ của
mình
- GV nêu vấn
đề
















- Gv nhận xét




-Hướng dẫn
học sinh tự
- Đáp án
















- Văn bản thể hiện suy nghĩ cá nhân Lop4.edu.vn

- 31 -


bày suy
nghĩ của
em về khổ
thơ sau:
Việt Nam,
ôi Tổ quốc
yêu thương
Trong khổ
dau người
đẹp hơn
nhiều
Như bà nẹ
sớm chiều
gánh nặng
Nhẫn nại
nuôi con,
suốt đời im
lặng

học ở nhà

D. VẬN DỤNG
Hoạt động
1:
- Chất trữ
tình và tự
trào hóm
hỉnh của
ngồi bút Tú
Xương
trong bài
thơ Thương
vợ?
Hoạt động
2
-So sánh
hình ảnh
người phụ
nữ xưa và
nay?
- HS vận
dụng kiến
thức để giải
quyết vấn đề
- HS thảo
luận theo
nhóm và
viết ý kiến
ra phiếu
học tập
- GV giao
việc, gợi ý
- GV gọi HS
trình bày,
nhận xét
- Đáp án
E. MỞ RỘNG, PHÁT TRIỂN Ý TƯỞNG SÁNG TẠO
Vẽ chân dung nhân vật bà Tú theo trí tưởng tượng sáng tạo của em! Lop4.edu.vn

- 32 -



7.4.2. Thiết kế giáo án thực nghiệm 2

Ngày soạn:
Ngày giảng:
Tiết 52: Đọc văn
CHÍ PHÈO
- Nam Cao –
I. Mục tiêu cần đạt
1. Về kiến thức, kĩ năng, thái độ
- Về kiến thức: Hướng dẫn học sinh nắm được tâm trạng của Chí Phèo từ
sau khi gặp thị Nở đến kết thúc cuộc đời. Hiểu được giá trị hiện thực và giá trị
nhân đạo sâu sắc mới mẻ của tác phẩm; Nắm vững giá trị nghệ thuật của tác
phẩm: Nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình.
- Về kĩ năng: Củng cố kĩ năng đọc hiểu truyện ngắn hiện đại theo đặc
trưng thể loại; biết cách lựa chọn và phân tích chi tiết nghệ thuật, nhân vật trong
đọc hiểu truyện ngắn.
- Về thái độ: Biết thông cảm với đời sống của xã hội nông thôn trước
Cách mạng tháng Tám với sự đè nén, áp bức bọc lột của giai cấp địa chủ và thực
dân; trước mâu thuẫn giai cấp gay gắt; Có thái độ bao dung, tấm lòng vị tha, yêu
thương con người.
2. Các năng lực cần hình thành cho học sinh
- Năng lực đọc hiểu văn bản truyện ngắn hiện đại theo đặc trưng thể loại.
- Năng lực cảm thụ thẩm mĩ (qua việc tìm hiểu, lí giải chi tiết đặc sắc).
- Năng lực tư duy phân tích, bình luận chi tiết nghệ thuật, hình tượng nhân
vật.
- Năng lực giao tiếp, hợp tác (hình thành qua việc thảo luận, trình bày,
trao đổi về các phương diện của tác phẩm).
- Năng lưc so sánh.
3. Chuẩn bị của học sinh
- Đọc lại tác phẩm truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao trong SGK Ngữ
văn 11, tập 1.
- Ôn tập lại kiến thức ở tiết học trước để xây dựng nội dung kiến thức
mới.
- Suy nghĩ về chi tiết nghệ thuật, nhân vật theo hướng cá nhân hóa người
học.
- Vận dụng, luyện kĩ năng tìm bài học cuộc sống từ tác phẩm văn học.
4. Hướng dẫn tổ chức hoạt động của học sinh
II. Tiến trình dạy học.

Hoạt động Mục tiêu, ý
tưởng thiết kế
hoạt động
Hoạt động
của học sinh
Hoat động
của giáo
viên
Sản phẩm yêu
cầu
Phương
tiện hỗ
trợ
A. KHỞI ĐỘNG Lop4.edu.vn

- 33 -


Khởi động
(5 phút)
- Giới thiệu
tác phẩm
bằng đoạn
phim, một
trích đoạn
trong phim
Làng Vũ
Đại ngày
ấy (Đoạn
thị Nở cho
Chí Phèo
ăn bát cháo
hành)

- Tạo tâm thế
tiếp nhận và
gây hứng thú
cho học sinh
vào bài.

- Đánh giá
năng lực tiếp
nhận tác phẩm
thông qua cách
học sinh xem
và nghe đoạn
phim.

Hoạt động cá
nhân.

Học sinh giới
thiệu tác
phẩm thông
qua trích
đoạn phim.
Sau khi học
sinh nghe,
xem trích
đoạn phim
và trả lời câu
hỏi; Giáo
viên nhận
xét, bổ sung,
đánh giá.
- Cảm nghĩ của
học sinh về trích
đoạn phim.











Sử dụng
máy
chiếu
B. HÌNH THÀNH KIẾN THỨC MỚI Lop4.edu.vn

- 34 -


Hoạt động
1:
Trả lời
theo câu
hỏi
Cuộc gặp
gỡ giữa Chí
Phèo và thị
Nở:






















- Củng cố kĩ
năng đọc hiểu
tác phẩm tự
sự, tập trung
vào một trong
những vấn đề
trung tâm:
Nhân vật.

- Giúp học
sinh hiểu được
diễn biến tâm
trạng của nhân
vật Chí Phèo
buổi sáng hôm
sau.


- Giúp HS phát
triển tư duy
nội tâm, bày tỏ
cảm xúc, quan
điểm của mình
về nhân vật

- Hoạt động cá
nhân

- Liệt kê
được dẫn
chứng.



- Phân tích
các tầng lớp
ý nghĩa.



-
- GV kể ngắn
gọn về lai
lịch của thị
Nở, về hoàn
cảnh cuộc
gặp gỡ tình
cờ của thị Nở
(thị đi kín
nước rồi ngủ
quên…Chí
Phèo say,
tình cờ gặp
thị Nở…nửa
đêm Chí
Phèo bị
cảm…)
- GV đặt câu
hỏi gợi mở:
Khi tỉnh dậy
Chí Phèo
nhìn thấy
những gì và
nghe thấy
những gì?
Tâm trạng
của hắn như
thế nào? Tại
sao lại có sự
chuyển biến
như thế?
- Nhận xét
quá trình làm
việc và hoạt
động của các
nhóm.
- Tâm trạng của
Chí Phèo buổi
sáng hôm sau:
+ Tỉnh táo sau một
chuỗi cơn say dài
bất tận.
+ Nhận biết được
mọi âm thanh
trong cuộc sống.
+ Gợi nhớ đến ước
mơ thuở xưa…..
+ Nhận ra bi kịch
trong cuộc đời của
mình và sợ cô
đơn, cô độc đối
với Chí Phèo “cô
độc còn đáng sợ
hơn đói rét và ốm
đau”.
+ Chí Phèo thèm
lương thiện và
muốn làm hòa với
mọi người.



Máy
chiếu
projecte
r
Lop4.edu.vn

- 35 -


Hoạt động
2:
Hoạt động
nhóm thảo
luận về:
Tâm trạng
của Chí
Phèo khi ăn
bát cháo
hành của
thị Nở.


- Giúp học
sinh hiểu được
diễn biến tâm
trạng của nhân
vật Chí Phèo
khi ăn bát cháo
hành của thị
Nở.

- Đánh giá
nhìn nhận ý
nghĩa của
cuộc gặp gỡ
đối với cuộc
đời Chí Phèo.
- Giúp HS
phát triển tư
duy nội tâm,
bày tỏ cảm
xúc, quan
điểm của mình
về chi tiết
nghệ thuật,
nhân vật.














- - HS thảo luận
nhóm, phân
tích các tầng
lớp ý nghĩa.


- - Đại diện
nhóm trình
bày s ản
phẩm và trao
đổi phản
biện lẫn nhau
giữa các
nhóm.
- GV trình
chiếu hình
ảnh thị Nở
đưa bát cháo
hành cho Chí
Phèo.
- GV nêu vấn
đề: Phân tích
ý nghĩa bát
cháo hành
đối với Chí
Phèo, thị Nở.

? Ý nghĩa chi
tiết bát cháo
hành.







- Nhận xét
quá trình làm
việc và hoạt
động của các
nhóm.

- GV phân
tích, giảng
giải, chốt ý.
- Tình yêu thương
mộc mạc, chân
thành của thị Nở-
người đàn bà xấu
như ma chê quỷ
hờn, lại dở hơi ấy
đã đánh thức bản
chất lương thiện
của Chí Phèo.




- Chi tiết bát cháo
hành là hình ảnh
độc đáo, chân thật
và giàu ý nghĩa:
+ Đó là bát
cháo hành do
người đàn bà xấu
xí dở hơi nấu, bát
cháo hành của thời
kỳ nghèo đói
mang đến cho Chí
vì lòng thương
người ốm, vì sự
rung động mới lạ
trong lòng người
đàn bà lần đầu tiên
thấy mình có được
một người đàn
ông.
+ Tâm trạng:
Hắn ngạc nhiên
xúc động, hắn
thấy mắt mình
ươn ướt, bâng
khuâng trong
lòng, cảm giác ăn
năn và hối lỗi về
những tội ác mà
mình đã làm.
+ Bát cháo
hành giúp hắn giải
Lop4.edu.vn

- 36 -


cảm, mồ hôi đầm
đìa, tỉnh hẳn
người. Và rồi tâm
hồn Chí cứ thế
thực sự hồi sinh:
. Hắn nhớ lại bà
Ba bắt hắn bóp
chân, hắn chỉ thấy
nhục, hắn nhận rõ
sự xấu xa của mụ.
. Hắn lại lo lắng
cho tương lai
“không thể sống
bằng liều lĩnh”.
Nghĩa là hắn bắt
đầu ý thức cần
phải thay đổi cuộc
sống của mình.Và
hắn bỗng khát
khao được làm
lương thiện. " Trời
ơi hắn thèm làm
lương thiện, hắn
muốn làm hoà với
mọi người biết
bao"
=> Chi tiết bát
cháo hành vừa là
chi tiết hiện thực
thúc đẩy biến cố
tâm hồn Chí đã
hoàn toàn thức
tỉnh, Chí đang
đứng trước tình
huống có lối thoát
là con đường trở
về với cuộc sống
của một con
người. vừa là chi
tiết thấm đẫm triết
lí trữ tình, giàu giá
trị nhân văn sâu
sắc.
Hoạt động - Giúp HS phát - HS nhớ và - Yêu cầu HS Các từ ngữ chỉ - Máy Lop4.edu.vn

- 37 -


3: Thảo
luận theo
nhóm: Bi
kịch bị cự
tuyệt quyền
làm người
của Chí
Phèo.
triển tư duy
ngôn ngữ
trong việc kể
lại nội dung
đoạn trích theo
yêu cầu của
GV.
- Giúp HS nắm
được sự phát
triển logic của
tác phẩm trong
diễn biến tâm
lí và hành
động của Chí.
- Giúp HS
phát triển tư
duy nội tâm,
bày tỏ cảm
xúc, quan
điểm của mình
về nhân vật
kể lại đoạn
kết thúc tác
phẩm.
- GV giao
nhiệm vụ
cho c ác
nhóm
- Trao đổi
theo nhóm.
- Đại diện
nhóm trình
bày s ản
phẩm và trao
đổi phản
biện lẫn nhau
giữa các
nhóm.

- Nhóm 1







- Nhóm 2

















kể lại đoạn
kết của tác
phẩm (bằng
lời của
mình).



- Tìm trong
văn bản
những từ ngữ
nào cho thấy
tâm trạng và
hành động
của Chí Phèo
sau khi bị
Thị Nở từ
chối? Những
từ ngữ đó
cho thấy tâm
trạng của Chí
Phèo như thế
nào?



? Sau khi bị
thị Nở từ
chối, chí
Phèo đã làm
gì? Vì sao
Chí Phèo lại
đến nhà Bá
Kiến mà
không rẽ vào
nhà thị Nở
để đâm chết
bà cô Thị
như ý định
ban đầu?




tâm trạng và hành
động:
“Hắn thú vị quá,
lắc lư cái đầu
cười” ->Tâm trạng
vui (vì chưa hiểu
chuyện gì đang
xảy ra).
“hình như hiểu,
hắn bỗng nhiên
ngẩn người”, “hắn
sửng sốt”
-> ngạc ngiên (sau
khi đã hiểu ra sự
việc).
“Hắn đuổi theo
thị, nắm lấy tay”,
“hắn lăn khoèo
xuống sân”->thất
vọng
“Hắn ôm mặt khóc
rưng rức..”
-> đau đớn.

- Bị cự tuyệt-
uống rượu -càng
uống càng tỉnh -
đau khổ, tuyệt
vọng - khóc rưng
rức - xách dao ra
đi - vừa đi vừa
chửi. Nhưng Chí
đã quên rẽ vào nhà
thị Nở mà đi thẳng
đến nhà Bá Kiến
bởi lúc này “hơi
rượu không sặc
sụa, hắn cứ thoang
thoảng thấy hơi
cháo hành”, chính
hơi cháo hành đã
giúp Chí nhận ra
kẻ thù thật sự của
cuộc đời mình và
chiếu. Lop4.edu.vn

- 38 -













- Nhóm 3










































- Hãy nêu ý
nghĩa 3 câu
nói của Chí
Phèo khi
đứng trước
Bá Kiến?
- Tao muốn
làm người
lương thiện!
- Ai cho tao
lương thiện?
- Tao không
thể là người
lương thiện
nữa.



















chính hơi cháo
hành đã dẫn
đường cho Chí
đến nhà Bá Kiến.

- Đứng trước Bá
Chí dõng dạc chỉ
thẳng tay vào mặt
Bá đòi quyền
lương thiện. Chí
nói 3 câu rất gọn
và rõ:
+ Một câu khẳng
định quyết liệt:
Tao muốn làm
người lương thiện.
Tiếng kêu tuyệt
vọng của người
cùng đường, đó
cũng là lời cầu
cứu của con người
bị cự tuyệt quyền
làm người.
+ Một câu hỏi uất
ức: Ai cho tao
lương thiện? Một
sự thật phũ phàng
và vô cùng đớn
đau của một Con
Người mà lại
không được làm
người.
+ Một câu khẳng
định xót xa: Tao
không thể là người
lương thiện nữa.
Lời xác nhận sự
thật.
=> Chí Phèo
muốn, Chí Phèo
hỏi và Chí phèo
hiểu. Sự chuyển
đổi cảm xúc ấy
diễn ra đầy tự Lop4.edu.vn

- 39 -



- Nhóm 4





















- Ý kiến của
em về hành
động đâm
chết Bá Kiến
rồi tự sát của
Chí Phèo?


GV tổng
hợp, khái
quát và rút ra
nội dung
trọng tâm
của bài học
- Nhận xét
quá trình làm
việc và hoạt
động của các
nhóm.

nhiên không gò bó
là nhờ ngòi bút
nhân đạo tài tình
của Nam Cao.

- Chí giết kẻ thù
và tự giết mình - ý
thức nhân phẩm
đã trở về - không
bằng với cuộc
sống thú vật nữa.
Chí giết Bá Kiến
không phải là
hành động lưu
manh giết người,
mà đó chính là
hành động lấy
máu rửa thù của
người nông dân
lao động cùng khổ
đã vùng lên manh
động tự phát. =>
Đó là hệ quả tất
yếu của sự khủng
hoảng và bế tắc,
của cơn phẫn uất
đang dâng trào và
lên tới đỉnh điểm
trong tâm hồn Chí.
C. LUYỆN TẬP
Hoạt động
1:
Viết sơ đồ
thể hiện
diễn biến
tâm trạng
của Chí
Phèo sau
khi gặp thị
Nở
- Giúp học
sinh nắm vững
kiến thức của
bài học.
- Phát triển tư
duy ngôn ngữ,
giao tiếp.

Hoạt động
nhóm.
- Học sinh
thảo luận
theo nhóm và
viết lại ý kiến
ra giấy.
- Trình bày
trao đổi phản
biện giữa các
nhóm.
Giáo viên
giao việc và
gợi ý cho
học sinh
trình bày
theo các nội
dung:
+ Tâm trạng
của Chí Phèo
sáng hôm
sau (1)
+ Tâm trạng
Chí Phèo khi
ăn bát cháo
Ý kiến của các
nhóm:
+(1): Tỉnh táo
→cảm nhận âm
thanh cuộc sống
→ ước mơ thuở
xưa→ hiện tại: già
nua, cô độc.
+(2)Ngạc nhiên→
Mắt ươn ướt →
Bâng khuâng→ Độc
thoại nội tâm+Ăn
năn → Vui như trẻ
con→ Khát khao
Lop4.edu.vn

- 40 -


hành do thị
Nở nấu. (2)
+Tâm trạng
của Chí Phèo
khi bị thị Nở
cự tuyệt (3)
hạnh phúc gia đình
+(3)Ngạc nhiên +
sửng sốt→ Đuổi
theo, níu kéo→ Bị
cự tuyệt-khóc →
Tuyệt vong → Uất
hận, đi trả thù
Hoạt động
2:
Theo em,
thông điệp
mà Nam
Cao muốn
gửi gắm
trong tác
phẩm là gì?
Khắc sâu ý
nghĩa tư tưởng
của tác phẩm
Hoạt động
nhóm
-Học sinh
thảo luận
theo nhóm
- Trình bày
trao đổi phản
biện giữa các
nhóm.
Giáo viên
định hướng
cho học sinh
thảo luận
theo gợi ý:
+ Dựa vào
đâu để tìm ra
thông điệp
đó?
+ Thông điệp
đó là gì?
+ Thông điệp
đó còn có ý
nghĩa trong
c/s hôm nay?
Ý kiến của các
nhóm:
- Dựa vào những
lời nói cuối cùng
của Chí Phèo :
"Tao muốn làm
người lương
thiện”. “Không
được! Ai cho tao
lương thiện? Làm
thế nào cho mất
những vết mảnh
chai trên mặt này?
Tao không thể là
người lương thiện
nữa! Biết không!
Chỉ có một cách...
biết không... Chỉ
còn một cách là...
cái này! Biết
không!...’’
- Con người, đặc
biệt là người nông
dân trong xã hội
cũ, dù bị chà đạp,
bị đẩy vào con
đường lưu manh,
tội lỗi thì ẩn sâu
trong tâm hồn họ
vẫn ánh lên những
tia sáng của bản
tính lương thiện,
bản chất người.

Hoạt động
3:
Dựa vào
những hiểu
- Giúp học
sinh mở rộng
kiến thức về
quan điểm, nội
- Học sinh
nhớ lại kiến
thức đã học
để tổng hợp.
- Hướng dẫn
học sinh tự
học ở nhà.
Văn bản so sánh:
- Giống nhau:
+ Đều khai thác đề
tài số phận người
Lop4.edu.vn

- 41 -


biết, em hãy
so sánh 2 tác
phẩm Lão
Hạc và Chí
Phèo để
thấy nội
dung hiện
thực và nhân
đạo trong
tác phẩm
của Nam
Cao?


dung sáng tác
của Nam Cao.
- Tăng cường
củng cố cách
đọc.
nông dân nghèo ở
vùng nông thôn
Việt Nam dưới
ách chế độ thực
dân phong kiến.
+ Nhà văn phản
ánh chân thực và
sâu sắc nông thôn
Việt Nam trước
Cách mạng tháng
Tám, tố cáo tội ác
của giai cấp thống
trị.
+ Thể hiện sự
đồng cảm của nhà
văn đối với bi kịch
của người nông
dân nghèo và phát
hiện ca ng ợi
những phẩm chất
tốt đẹp ở họ.
- Khác nhau: Mỗi
tác phẩm nhà văn
có sáng tạo riêng:
+ Lão Hạc là một
người nông dân có
bản chất lương
thiện. Lão đã chọn
cái chết để giữ
được mảnh vườn
cho con trai.
+ Chí Phèo khốn
cùng hơn Lão
Hạc. Bất hạnh từ
khi sinh ra đến lúc
kết thúc cuộc đời.
Bị tha hóa, lưu
manh hóa và bị từ
chối quyền làm
người những vẫn
khát khao cuộc
sống lương thiện.
D. VẬN DỤNG, MỞ RỘNG SÁNG TẠO Lop4.edu.vn

- 42 -


Hoạt động
1:
Nếu được
thay đổi
phần kết
truyện “Chí
Phèo”, em
muốn một
kết thúc
truyện như
thế nào? Vì
sao?
- Giúp học
sinh cảm nhận
sâu hơn ý đồ
nghệ thuật, tư
tưởng của
Nam Cao,
đồng thời
khơi gợi ở học
sinh khả năng
phản biện,
sáng tạo.
Học sinh trả
lời câu hỏi ở
nhà và có thể
trình bày trên
lớp.

Hướng dẫn
học sinh tự
học ở nhà và
kiểm tra
- Hoàn thành câu
trả lời trong vở.
- Viết được đoạn
kết theo mong
muốn/trí tưởng
tượng của học
sinh.

Hoạt động
2:
Nếu ở hoàn
cảnh của
nhân vật
Chí Phèo
khi bị mọi
người xa
lánh, ruồng
bỏ em sẽ
xử sự như
thế nào?
- Giúp học
sinh biết xử lý
tình huống
trong cuộc
sống.
- Viết đoạn
văn.
Học sinh trả
lời ở nhà và
có thể trình
bày trên lớp.
Hướng dẫn
học sinh tự
học và bổ
sung góp ý
cho nhau.
- Hoàn thành câu
trả lời trong vở.
- Viết được đoạn
văn.


8. NHỮNG THÔNG TIN CẦN ĐƯỢC BẢO MẬT (nếu có)
9. CÁC ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT ĐỂ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
- Đối với lãnh đạo cấp cơ sở: Cần quan tâm, sát sao trước những vấn đề
đổi mới của ngành giáo dục; trang bị đầy đủ các phương tiện, thiết bị, đồ dùng
dạy học…để giáo viên tích cực lĩnh hội và áp dụng những đổi mới cả về hình
thức và nội dung dạy học.
- Đối với giáo viên: Trước hết giáo viên cần phải nắm vững nội dung
chương trình; các kiến thức kĩ năng, nâng cao và phần liên hệ thực tế, liên môn.
Chủ động tìm hiểu và lĩnh hội những vấn đề mới nhằm đáp ứng yêu cầu về giáo
dục trong tình hình mới của đất nước. Đồng thời để dạy học theo phương pháp
tích cực thì giáo viên phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động,
giáo viên phải có cách dẫn dắt và xử lý tình huống linh hoạt.
Giáo viên cần có thời gian để xây dựng nội dung chuyên đề thảo luận và
định hướng các hoạt động. Lop4.edu.vn

- 43 -


- Đối với học sinh: Cần chủ động, linh hoạt sáng tạo, luôn tư duy nhanh
nhạy để phát hiện vấn đề, luôn biết thể hiện được quan điểm cá nhân của bản
thân mình trong việc xử lý tình huống.
10. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM
* Bảng kết quả khảo sát
Các lĩnh vực
Đồng ý
Không đồng
ý
Không có ý
kiến
Số HS % Số HS % Số HS %
Học sinh thích giáo viên sử dụng
phương pháp TLN trong giờ dạy
TPVC.
30 80 8 20 0 0
Sử dụng phương pháp TLN là cần
thiết trong việc phân tích TPVC.
31 82 7 18 0 0
Việc vận dụng phương pháp TLN
phát huy được tính tích cực, chủ
động, sáng tạo và tinh thần tự học của
học sinh.
32 84 6 16 0 0
Phương pháp TLN giúp phát huy
năng lực cộng tác, năng lực giao tiếp
cho học sinh.
29 76 9 24 0 0
TLN giúp học sinh nhớ kiến thức lâu
hơn.
32 84 6 16 0 0
Việc áp dụng phương pháp TLN rất
mất thời gian làm cho giáo viên ít có
thời gian bình giảng sâu.
30 80 8 20 0 0

*Bảng thống kê điểm kiểm tra với đề bài: Phân tích nhân vật Chí Phèo trong
truyện ngắn cùng tên của Nam Cao?
Lớp Số
HS
Điểm/số học sinh đạt điểm Tổng
số
điểm
Điểm
trung
bình
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Lớp thực
nghiệm
38 0 0 0 0 4 8 12 10 4 0 268 7.05 Lop4.edu.vn

- 44 -


11A7
Lớp đối
chứng 11A6
37 0 0 2 5 11 10 7 2 0 0 206 5.5
Từ kết quả thực nghiệm trên, chúng ta có thể kết luận rằng đa số học
sinh thích giờ học có vận dụng phương pháp TLN. Dạy TPVC có sử dụng
phương pháp TLN thì bài làm của học sinh đạt kết quả cao hơn. Phương pháp
này phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh. Tuy nhiên, nó cũng có
những hạn chế nhất định.
11. DANH SÁCH CÁC TỔ CHỨC, CÁ NHÂN THAM GIA ÁP DỤNG
THỬ NGHIỆM HOẶC ĐÃ ÁP DỤNG LẦN ĐẦU .
Số
TT
Tên tổ
chức/cá nhân
Địa chỉ Phạm vi/Lĩnh vực
áp dụng sáng kiến
1 Lớp 11 A7 Trường THPT Đồng Đậu Môn Ngữ Văn
2 Lớp 11 A6 Trường THPT Đồng Đậu Môn Ngữ Văn



Lop4.edu.vn

- 45 -


PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Qua việc tìm hiểu cách vận dụng phương pháp thảo luận nhóm vào giờ dạy
TPVC, chúng tôi nhận thấy:
Phương pháp thảo luận nhóm là một phương pháp dạy học hiện đại, phát
huy tính tích cực, chủ động, tự lực của học sinh, là một trong những phương
pháp thích hợp để vận dụng vào dạy TPVC. Phương pháp này có thể giúp học
sinh tự giác, hứng thú tìm hiểu hiểu tác phẩm, từng bước tri giác ngôn ngữ đế
tưởng tượng, phân tích, khái quát theo con đường cảm xúc hóa phù hợp với quy
luật cảm thụ văn chương
Dựa vào cơ sở lí luận của phương pháp thảo luận nhóm, chúng tôi đi sâu
vào nghiên cứu, đưa ra những nguyên tắc vận dung phương pháp thảo luận
nhóm nhằm nâng cao hiệu quả dạy học TPVC là: khi vận dụng phương pháp này
cần chú trọng vào các khâu như xây dựng câu hỏi thảo luận, thành lập nhóm và
quan sát, hỗ trợ cũng như tổng kết đánh giá của giáo viên. Câu hỏi thảo luận
phải là câu hỏi mang tính vấn đề, có chứa đựng mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái
chưa biết. Câu hỏi phải được đặt ra từ bản thân của tác phẩm văn chương có
nhiều ẩn số cần được giải mã về nội dung và hình thức và từ vấn đề khó khăn,
vướng mắc nảy sinh từ tầm đón nhận của học sinh trong quá trình tiếp nhận tác
phẩm. Việc thành lập nhóm dựa trên số lượng học sinh trong lớp và nội dung bài
học. Giáo viên cần phải quan sát học sinh trong quá trình thảo luận và gợi mở
khi học sinh gặp phải bế tắc. Do sự thành công khi vận dung phương pháp này
nằm ở khâu đưa ra vấn đề thảo luận nên chúng tôi tiến hành xây dựng các dạng
bài tập có thể vận dụng với phương pháp này.
Cần lưu ý là phương pháp thảo luận nhóm không phải là phương pháp sư
phạm độc tôn. Nó cũng có những hạn chế nhất định. Trong quá trình dạy TPVC,
giáo viên cần vận dụng phối hợp nhiều phương pháp khác thì bài dạy mới mang
lại hiệu quả cao.
Áp dụng phương pháp TLN trong giảng dạy tác phẩm văn chương theo tôi
nghĩ là cần thiết trong hướng đổi mới phương pháp dạy và học hiện nay. Chính Lop4.edu.vn

- 46 -


vì vậy tôi rất mong nó được áp dụng rộng rãi, để mỗi tiết học không khô khan
cứng nhắc, một chiều.
Trên đây chỉ là những sáng kiến của riêng cá nhân tôi. Rất mong có sự
đóng góp ý kiến của đồng nghiệp để đề tài nghiên cứu của tôi được hoàn chỉnh
hơn. Trân trọng!


......., ngày.....tháng......năm......
Thủ trưởng đơn vị/
Chính quyền địa phương
(Ký tên, đóng dấu)

........, ngày.....tháng......năm......
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG
SÁNG KIẾN CẤP CƠ SỞ
(Ký tên, đóng dấu)


Yên Lạc, ngày 10 tháng 02 năm 2020
Tác giả sáng kiến
(Ký, ghi rõ họ tên)



Phạm Thị Phượng




Lop4.edu.vn

- 47 -


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Cường (2010), Một số vấn đề chung về đổi mới phương
pháp dạy học ở trường trung học phổ thông, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội.
2. Đặng Thành Hưng (2000), Dạy học hiện đại. Lí luận - biện pháp- kĩ thuật,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
3. Nguyễn Thị Thanh Hương (2001), Dạy học văn trường phổ thông, Nxb
Đại học quốc gia Hà Nội, 2000.
4. Phan Trọng Luận, Trương Dĩnh (2003), Phương pháp dạy văn, tập 1, Nxb
Giáo dục.
5. Phan Trọng Luận, Trương Dĩnh, Nguyễn Thanh Hùng, Trần Thế Phiệt
(2005), Phương pháp dạy học văn, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội
6. Phan Trọng Ngọ (2005), Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà
trường, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
7. Nguyễn Trọng Sửu (2008), ‘Dạy học nhóm, phương pháp dạy học tích
cực’, Tạp chí giáo dục số 171.
8. Đổi mới phương pháp dạy môn ngữ văn, Gs Trần Đình Sử, Bài viết trên
báo điện tử online. Lop4.edu.vn