6
đối tượng nuôi có một điểm đẳng áp và khả năng nhất định về điều hòa nồng độ
muối trong cơ thể, từ đó mà tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống cũng biến đổi theo các
độ mặn khác nhau khi ương.
2.2.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nƣớc
Nghiên cứu “Ảnh hưởng của độ mặn đến sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của giống
Pangasius” được 40 ngày tuổi có khối lượng tương ứng là 1,1 g và được bố trí trong
bể composite với mật độ 9 cá thể trên bể 50 lít và độ mặn bố trí thí nghiệm là 3, 5,7,
9, 11 và 13 ‰, sau 27 ngày bố trí độ mặn đã được nâng lên với các nghiệm thức
tương đương với độ mặn như sau: 3, 13, 18, 20, 22, 24 ‰. Kết quả thí nghiệm cho
thấy, tỷ lệ sống 100% sau 63 ngày ương ở nghiệm thức 3 ‰, 100% sau 51 ngày
ương ở nghiệm thức 13 ‰ và 100 % sau 22 ngày ương ở nghiệm thức 18 và 20 ‰
và 80% cá chết sau 3 ngày ương ở độ mặn 24 ‰, 60% cá chết sau 9 ngày ương ở
nghiệm thức 22 ‰. Thí nghiệm cho thấy không có sự khác biệt về khối lượng ở
nghiệm thức 3 và 13 ‰. Kết quả thí nghiệm cho thấy rằng cá tăng trưởng tốt ở 13
‰ và cá bị ảnh hưởng xấu khi ương ở độ mặn trên 13 ‰ (Raquel Castañeda,
Michael McGee, Mario Velases, 2010).
Một nghiên cứu khác “Ảnh hưởng của độ mặn ở các giai đoạn phát triển của cá
Heterobranchus longifilis”sự thích nghi độ mặn của trứng thụ tinh, giai đoạn noãn
hoàng, cuối thời kỳ noãn hoàng, cá hương và cuối thời kỳ cá hương. Thí nghiệm
được bố trí ở các độ mặn như sau: 0, 1,5; 3,0; 4,5; 6; 7,5; 9,0; 10,5; 12; 13,5 và 15
‰. Kết quả thí nghiệm cho thấy tỷ lệ khả năng nở tại thời điểm đầu khi bắt đầu nở
cao nhất (75%) ở nghiệm thức 3 ‰. Tuy nhiên khác biệt không có ý nghĩa so với
nghiệm thức 0 ‰ (71%) và 1,5 ‰ (74%). Ở thời điểm cuối ở giai đoạn cá nở, thí
nghiệm cho thấy tỷ lệ nở cao nhất ở nghiệm thức 0 ‰ với (88%) và theo sau là các
nghiệm thức 1,5, 3, 4,5, 6 và 7,5 ‰ với phần trăm theo thứ tự là 81%, 78%, 73%,
69% và 53%. Trứng thụ tinh, cá bột, cá hương, giai đoạn cuối của cá hương khả
năng chịu đựng được độ mặn thấp, ở giai đoạn cá hương và cuối giai đoạn cá hương
có sức chịu đựng là trên 6 ‰. Ngoài ra, khi ương ở độ mặn này giúp cá phòng ngừa
được một số bệnh (H.A. Fashina-Bombataa và A.N. Busarib, 2003).
Một thí nghiệm tương tự “Độc chất của đồng thông qua độ mặn” Thí nghiệm 1
được tiến hành trong 30 ngày với cá loài Fundulus heteroclitus ở các độ mặn 0 ‰
(nghiệm thức đối chứng), 5, 11, 22 và 28 ‰ với 3 nồng độ đồng như sau: 0, 30 và
150 g/đồng/lít. Tỷ lệ chết giảm ở độ mặn trung bình và tăng cao ở nghiệm đối
chứng và nghiệm thức cao 28 ‰. Khi thu mẫu kiểm tra cho thấy Na
+
/ K
+
adenosine
triphosphatase (Na
+
/K
+
ATPase) and carbonic anhydrase (CA) hiện ở trong mang,
ruột cũng như Na
+
và Cl
-
hiện diện trong toàn bộ cơ thể. Ở nghiệm thức có hàm
lượng đồng cao ghi nhận được hàm lượng Na
+
giảm sau 4 ngày, ở nghiệm thức FW
chỉ ảnh hưởng đến thông số sinh lí. Thí nghiệm 2 đánh giá tác hại của đồng trong
24 giờ ở các nghiệm FW, 5, 13 và 29 ‰ (SW) với 2 nồng độ đồng như sau: 0 và
110 g/đồng/lít. Thêm vào đó, amonia thay đổi liên tục được đo ở tất cả các nghiệm
thức độ mặn và Na
+
biến đổi ở nghiệm thức FW. Như vậy, đồng đã ảnh hưởng đến https://tailieu.xyz/