Vai trò, trách nhiệm của xã hội trong phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay

dethivancom 9 views 93 slides Oct 30, 2024
Slide 1
Slide 1 of 93
Slide 1
1
Slide 2
2
Slide 3
3
Slide 4
4
Slide 5
5
Slide 6
6
Slide 7
7
Slide 8
8
Slide 9
9
Slide 10
10
Slide 11
11
Slide 12
12
Slide 13
13
Slide 14
14
Slide 15
15
Slide 16
16
Slide 17
17
Slide 18
18
Slide 19
19
Slide 20
20
Slide 21
21
Slide 22
22
Slide 23
23
Slide 24
24
Slide 25
25
Slide 26
26
Slide 27
27
Slide 28
28
Slide 29
29
Slide 30
30
Slide 31
31
Slide 32
32
Slide 33
33
Slide 34
34
Slide 35
35
Slide 36
36
Slide 37
37
Slide 38
38
Slide 39
39
Slide 40
40
Slide 41
41
Slide 42
42
Slide 43
43
Slide 44
44
Slide 45
45
Slide 46
46
Slide 47
47
Slide 48
48
Slide 49
49
Slide 50
50
Slide 51
51
Slide 52
52
Slide 53
53
Slide 54
54
Slide 55
55
Slide 56
56
Slide 57
57
Slide 58
58
Slide 59
59
Slide 60
60
Slide 61
61
Slide 62
62
Slide 63
63
Slide 64
64
Slide 65
65
Slide 66
66
Slide 67
67
Slide 68
68
Slide 69
69
Slide 70
70
Slide 71
71
Slide 72
72
Slide 73
73
Slide 74
74
Slide 75
75
Slide 76
76
Slide 77
77
Slide 78
78
Slide 79
79
Slide 80
80
Slide 81
81
Slide 82
82
Slide 83
83
Slide 84
84
Slide 85
85
Slide 86
86
Slide 87
87
Slide 88
88
Slide 89
89
Slide 90
90
Slide 91
91
Slide 92
92
Slide 93
93

About This Presentation

Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, tôi quyết định chọn đề tài “Vai trò, trách nhiệm của xã hội trong phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay” để làm đề tài Khoá luận tốt nghiệp cử nhân ngành Luật học với mong muốn nghiên cứ...


Slide Content

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT



PHẠM MINH HẢI




VAI TRÒ, TRÁCH NHIỆM CỦA XÃ HỘI TRONG PHÒNG
CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: LUẬT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-L






HÀ NỘI – 2019 https://dethivan.com/

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT




PHẠM MINH HẢI

VAI TRÒ, TRÁCH NHIỆM CỦA XÃ HỘI TRONG PHÒNG
CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: LUẬT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-L



NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS, TS VŨ CÔNG GIAO






HÀ NỘI – 2019 https://dethivan.com/

LỜI CAM ĐOAN




“Tôi xin cam đoan đây này là nghiên cứu của riêng tôi. Các tài liệu, tư liệu
được sử dụng trong báo cáo có nguồn dẫn rõ ràng, các kết quả nghiên cứu là
quá trình lao động trung thực của tôi”.
Tác giả



Phạm Minh Hải











https://dethivan.com/

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới
PGS,TS Vũ Công Giao, người hướng dẫn khoán luận tốt nghiệp của tôi. Sự
hướng dẫn, góp ý tận tình và những câu hỏi hóc búa của thầy đã giúp tôi định
hướng, quyết tâm và hoàn thành bản khoá luận tốt nghiệp.
Xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy cô giáo bộ môn hành
chính – hiến pháp đã giúp tôi lĩnh hội những kiến thức cơ bản về lĩnh vực
quan trọng này.
Xin trân trọng cảm ơn Khoa Luật - Đại học Quốc gia, ngôi trường đã
đào tạo cử nhân luật học giúp tôi có những kiến thức, ấp ủ hoài bão với nghề
nghiệp tương lai.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5/2019



Phạm Minh Hảihttps://dethivan.com/

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ VAI TRÒ TRÁCH NHI ỆM XÃ HỘI
TRONG PHÒNG CH ỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 6
1.1 Nhận thức chung về phòng, chống tham nhũng..................................... 6
1.1.1. Khái niệm tham nhũng ........................................................................ 6
1.1.1 Khái niệm phòng chống tham nhũng .................................................... 7
1.2 Sự tham gia của các chủ thể trong việc phòng chống tham nhũng ở
Việt Nam ........................................................................................................... 9
1.2.1 Cơ sở xã hội .......................................................................................... 9
1.2.2 Cở pháp lý ........................................................................................... 12
Tiểu kết chương 1 .......................................................................................... 28
CHƯƠNG 2. ĐƯỜNG LỐI, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG, PHÁP LUẬT
CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG Ở
VIỆT NAM ..................................................................................................... 29
2.1 Quan điểm của Đảng và Nhà nước ........................................................ 29
2.1.1 Tổng quan ........................................................................................... 29
2.1.2 Thực tiễn ............................................................................................. 30
2.2 Khung pháp luật cơ bản ......................................................................... 35
2.2.1 Tổng quan ........................................................................................... 35
2.2.2 Cơ sở pháp lý ...................................................................................... 37
Tiểu kết chương 2 .......................................................................................... 61
CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN CÔNG TÁC PHÒNG CH ỐNG THAM
NHŨNG Ở VIỆT NAM ................................................................................ 62
3.1 Hoạt động Ban chỉ đạo tw về phòng chống tham nhũng từ 2013 – 2018 62
3.1.1. Thuận lợi ............................................................................................ 63 https://dethivan.com/

3.1.2. Thách thức ......................................................................................... 67
3.2 Thúc đẩy “Xã hội” nhân tố quan trọng trong phòng, chống tham
nhũng tại Việt Nam ....................................................................................... 69
3.2.1 Thành công ......................................................................................... 69
3.2.2 Hạn chế, bất cập .................................................................................. 77
3.2.3 Đề xuất ................................................................................................ 79
Tiểu kết chương 3 .......................................................................................... 82
KẾT LUẬN .................................................................................................... 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 85
https://dethivan.com/

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

TỪ VIẾT TẮT TỪ ĐẦY ĐỦ
PCTN Phòng, chống tham nhũng
MTTQVN Mặt trận Tổ quốc Việt nam
MTTQ Mặt trận Tổ quốc
TTND Thanh tra nhân dân
GSĐTCCĐ Giám sát đầu tư của cộng đồng
UBND Uỷ Ban nhân dân
TW Trung ương




https://dethivan.com/

1

MỞ ĐẦU

I. Tính cấp thiết của đề tài
Tham nhũng đã bóp méo đi sự thật phá hoại liêm chính hoặc thông qua
công cụ là vật chất, lợi ích ban tặng để tác động tinh thần, tới các mối quan hệ
để làm lợi, làm giàu bất chính hoặc bất hợp pháp cho bản thân, cho những
người thân cận hoặc để tạo cơ hội cho những kẻ khác làm những hành vi sai
phạm. Tham nhũng có thể diễn ra ở khu vực công và khu vực tư do các quan
hệ lợi ích của các chủ thể có quyền lực tạo ra.
Do tính chất phổ biến và có xu hướng phát triển của nó, đấu tranh phòng
chống tham nhũng từ lâu đã là mỗi quan tâm hàng đầu của tất cả các quốc gia
trên thế giới và trong đó có Việt Nam. Việt Nam với tâm thế quan điểm rõ ràng
“Phòng, chống tham nhũng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh
đạo của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của các ngành, các cấp, nhấn mạnh
trách nhiệm người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị, đề cao vai trò của xã
hội, các tổ chức đoàn thể và quần chúng nhân dân”. Thực tiễn đã cho thấy Việt
Nam đã có một cơ sở pháp lý tốt để tạo nên các chủ thể đại diện cho xã hội tham
gia PCTN. Theo Chương V, Luật phòng, chống tham nhũng 2005, các chủ thể
xã hội trong phòng, chống tham nhũng bao gồm: Mặt trận tổ quốc Việt Nam;
Báo chí và truyền thông; Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng
đồng; Doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề; Người dân.
Đây là những chủ thể xã hội quan trọng được pháp luật trao quyền để
thực hiện PCTN, nhờ sự trao quyền đó các chủ thể này đã tạo nên một thế “
Vững mạnh” trên mặt trận phòng chống tham nhũng góp phần quan trọng
thực hiện “Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng”.
Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, tôi quyết định chọn đề tài “Vai trò,
trách nhiệm của xã hội trong phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay” https://dethivan.com/

2

để làm đề tài Khoá luận tốt nghiệp cử nhân ngành Luật học với mong muốn
nghiên cứu, tìm hiểu rõ hơn nữa về pháp luật phòng, chống tham nhũng ở
Việt Nam; cũng như làm rõ vai trò, trách nhiệm của xã hội trong phòng,
chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay; để có những đánh giá, kết quả khách
quan về công tác phòng chống tham nhũng của các chủ thể xã hội, từ đó chỉ ra
những hạn chế và có đề xuất phù hợp trong bối cảnh pháp luật của nước ta
hiện nay.
II. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, tài liệu khoa học,
các bài viết có đề cập các vấn đề liên quan đến nội dung này một cách trực
tiếp hoặc gián tiếp như:
-Về sách và giáo trình: Chu Hồng Thanh, Vũ Công Giao, Nguyễn Đăng
Dung, Phạm Hồng Thái, đồng chủ biên (2013), Giáo trình lý luận và pháp
luật về phòng, chống tham nhũng, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội;
Vũ Công Giao, Nguyễn Quốc Văn (2017), Phát huy vai trò của xã hội trong
phòng chống tham nhũng (sách chuyên khảo), Nhà xuất bản Hồng Đức; TS
Trần Hậu Thành, TS Nguyễn Thế Huấn (2006), Tìm hiểu Luật phòng, chống
tham nhũng và một số quy định của Bộ Luật Hình Sự hiện hành về xử lý tội
tham nhũng (dưới dạng hỏi và đáp), Nhà xuất bản lý luận chính trị;
-Về các đề tài, công trình nghiên cứu khoá học: Phan Thị Hiền (2008),
Dân biết, dân bàn, dân kiểm tra trong phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam
hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội,
Hà Nội; Nguyễn Thị Kim Ngân (2013), Phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở
trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật – Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; Bùi Quang Huy (2008), Tham nhũng và vấn đề
phòng, chống tham nhũng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở
nước ta hiện nay, Luận văn thạc sỹ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội… https://dethivan.com/

3

-Về các bài viết đăng trên: Tạp chí Nội Chính, Nghiên cứu lập pháp,
Báo nhân dân, Báo lao động…
Những nghiên cứu trên đã củng cố kiến thức, cung cấp một lượng
thông tin lớn về cả lý luận và thực tiễn về “Vai trò, trách nhiệm của xã hội
trong phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay”. Đó là cơ sở quan trọng
để giúp chúng ta nhìn nhận kết quả phòng chống tham nhũng trong thời gian
gần đây, để từ đó đưa ra một số giải pháp về nâng cao vai trò, trách nhiệm của
xã hội trong phòng, chống tham nhũng tại Việt Nam.
III. Mục đích nghiên cứu đề tài
Khoá luận này sẽ đề cập đến khía cạnh pháp lý cho việc thúc đẩy vai
trò, trách nhiệm của xã hội trong phòng chống tham nhũng ở Việt Nam. Với
mục đích đem lại nét tổng quan của pháp luật Viêt Nam về phòng, chống
tham nhũng. Đồng thời đưa ra tổng kết và một vài giải pháp cụ thể, trong việc
bảo đảm và nâng cao chất lượng thực hiện quyền và nghĩa vụ cho các chủ thể
xã hội. Giúp thúc đẩy tinh thần phòng, chống tham nhũng ở mỗi cá nhân và
nhấn mạnh nêu cao trách nhiệm của các chủ thể xã hội trong công cuộc
phòng, chống tham nhũng đầy gian nan hiện nay.
IV. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Khoá luận: Những vấn đề lý luận cơ bản về vai
trò, trách nhiệm xã hội trong phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay,
những chỉ đạo đường lối, chính sách của Đảng về công tác phòng, chống tham
nhũng, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể xã hội trong phòng, chống tham nhũng
ở Việt Nam được thể hiện trong pháp luật của nhà nước. Phân tích thực trạng,
đánh giá tình hình tham gia của xã hội trong việc phòng, chống tham nhũng ở Việt
Nam, những ưu điểm, bất cập còn tồn tại, đề xuất giải pháp.
Phạm vi nghiên cứu: Khoá luận tập trung nghiên cứu những nội dung
cơ bản: https://dethivan.com/

4

1.Đưa ra tầm quan trọng, sự cần thiết của các chủ thể xã hội trong
phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay.
2.Phân tích cơ sở, điều kiện pháp lý bảo đảm quyền, nghĩa vụ cho các
chủ thể xã hội trong việc phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam.
3.Đánh giá thực tiễn công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam,
trong thời gian gần đây.
Từ đó đưa ra ưu điểm, hạn chế, đề xuất một số giải pháp nhằm đảm bảo và
nâng cao vai trò xã hội trong phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.
V. Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu, tác giả sử dụng chủ yếu các biện
pháp nghiên cứu bao gồm:
- Tổng hợp – đánh giá.
- So sánh – đánh giá.
- Phân tích – đánh giá.
VI. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Khoá luận là công trình khoa học tốt nghiệp ở cấp độ Cử nhân đề cập
đến vấn đề “Vai trò, trách nhiệm của xã hội trong phòng chống tham nhũng ở
Việt Nam hiện nay”. Cung cấp những kiến thức, thông tin, luận điểm, kết quả
và đề xuất có giá trị tham khảo với các cơ quan nhà nước trong việc hoàn
thiện pháp luật nói chung và pháp luật phòng, chống tham nhũng nói riêng để
tiếp tục phòng, chống tham nhũng có hiệu quả hơn nữa trong những thời gian
tiếp theo.
VII. Cơ cấu của Khoá luận tốt nghiệp
Khoá luận này ngoài phần mở đầu, được chia thành 3 chương với nội
dung cơ bản như sau:
- Chương 1. Khái quát về vai trò trách nhiệm xã hội trong phòng chống
tham nhũng ở Việt Nam hiện nay. https://dethivan.com/

5

1.1 Nhận thức chung về phòng, chống tham nhũng
1.2 Sự tham gia của các chủ thể trong việc phòng chống tham nhũng ở Việt Nam
- Chương 2. Đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước
trong việc phòng chống tham nhũng ở Viêt Nam.
2.1 Quan điểm của Đảng và Nhà nước
2.2 Khung pháp luật cơ bản
- Chương 3. Đánh giá thực tiễn công tác phòng chống tham nhũng ở Việt Nam.
3.1 Hoạt động Ban chỉ đạo tw về phòng chống tham nhũng từ 2013 - 2018
3.2 Thúc đẩy “Xã hội” nhân tố quan trọng trong phòng, chống tham nhũng
tại Việt Nam




https://dethivan.com/

6

CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT V Ề VAI TRÒ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI
TRONG PHÒNG CH ỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1.1 Nhận thức chung về phòng, chống tham nhũng
1.1.1. Khái niệm tham nhũng
Tham nhũng vấn nạn hiện hữu của nhiều quốc gia trên thế giới, ở mỗi
quốc gia đều có biểu hiện riêng biệt theo nghĩa hẹp: Nước Đức tham nhũng là
hiện tượng mất phẩm chất, hối lộ, đút lót, thường xảy ra đối với công chức có
quyền hành; Nước áo tham nhũng là hiện tượng lừa đảo, hối lộ, bóc lột; Thụy
Sỹ tham nhũng là hậu quả nghiêm trọng của sự vô tổ chức của tầng lớp có
trách nhiệm trong bộ máy Nhà nước, đó là hành vi phạm pháp để phục vụ lợi
ích cá nhân (Từ điển Bách Khoa của Thụy Sỹ). Nước Pháp tham nhũng bao
gồm những hành vi lạm dụng quyền hạn để thu vén lợi ích vật chất (Từ điển
bách khoa)
1
.
Còn ở Việt Nam nhìn nhận ở nghĩa hẹp và khái niệm được pháp luật quy
định (tại Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005, sửa đổi và bổ sung một số
điều vào các năm 2007 và 2012): “Tham nhũng là hành vi của người có chức
vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi” (Khoản 2, Điều 1).
Theo Luật người có chức vụ, quyền hạn chỉ giới hạn ở những người làm việc
trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc hệ thống chính trị; nói cách khác là ở
các cơ quan, tổ chức, đơn vị có sử dụng ngân sách, vốn, tài sản của Nhà nước.
Được thể hiện bao gồm các quy định ở ( Khoản 2, Khoản 3, Điều 1): a) Cán bộ,
công chức, viên chức; b) Sĩ quan quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc
phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan
nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn – kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị

1
http://voer.edu.vn/m/khai-niem-ve-tham-nhung/96184e98 , truy cập 11/3/2019
https://dethivan.com/

7

thuộc Công an nhân dân; c) Cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của
Nhà nước tại doanh nghiệp; d) Người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ
có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó.
Việc giới hạn như vậy nhằm tập trung đấu tranh chống những hành vi
tham nhũng ở khu vực xảy ra phổ biến nhất, chống có trọng tâm, trọng điểm,
thích hợp với việc áp dụng các biện pháp phòng, chống tham nhũng như: kê
khai tài sản, công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn
vị, xử lý trách nhiệm của người đứng đầu.
Từ đó bao quát theo nghĩa rộng, tham nhũng không phải là một khái
niệm trừu tượng mà biểu hiện thông qua hành vi cụ thể mà theo pháp luật các
quốc gia, theo xác định Công ước phòng, chống tham nhũng sẽ bị coi là biểu
hiện tham nhũng. Tham nhũng là: bóp méo đi sự thật phá hoại liêm chính
hoặc thông qua công cụ là vật chất, lợi ích ban tặng để tác động tinh thần, tới
các mối quan hệ để làm lợi, làm giàu bất chính hoặc bất hợp pháp cho bản
thân, cho những người thân cận hoặc để tạo cơ hội cho những kẻ khác làm
những hành vi sai phạm. Tham nhũng có thể diễn ra ở khu vực công và khu
vực tư do các quan hệ lợi ích của các chủ thể có quyền lực tạo ra. Khái niệm
rộng này cho chúng ta thấy bản chất, biểu hiện dù tham nhũng có phân loại
“Tham nhũng lớn hay tham nhũng nhỏ” thì nó luôn mang đậm bản chất phi
nghĩa, phi pháp. Đó là những hành vi bị lên án được thể hiện ngay tại Luật ở
các quốc gia và Công ước quốc tế.
1.1.1 Khái niệm phòng chống tham nhũng
Tham nhũng là hiện tượng xã hội gắn liền với sự ra đời và tồn tại của
nhà nước. Nó xảy ra ở các quốc gia không phân biệt kinh tế giữa các vùng
lãnh thổ, không phân biệt chế độ chính trị, tôn giáo. Hành vi tham nhũng đang
len lỏi hàng ngày, hàng giờ thể hiện ở tất cả các lĩnh vực công việc và cuộc
sống của con người trên khắp hành tinh để pháp vỡ trật tự công bằng trong xã https://dethivan.com/

8

hội. Sự mất kiểm soát, buông lỏng để cho hành vi tham nhũng “ hoá phép” là
vô cùng nghiêm trọng, vì vậy phòng chống tham nhũng là quốc sách hàng đầu
của tất cả các quốc gia. Để xây dựng, bảo vệ pháp quyền và phát triển sự công
bằng lợi ích trong xã hội giữa các chủ thể. “Tham nhũng là hậu quả của sự
thiếu hụt ba yếu tốt gồm trách nhiệm giải trình, sự liêm chính và tính minh
bạch trong bối cảnh tồn tại sự chuyên quyền độc đoán và tuỳ ý hành động do
thiếu sự kiểm soát của các cơ quan và công chức nhà nước”
2
.
Do tính chất phổ biến và có xu hướng phát triển của nó, đấu tranh
phòng chống tham nhũng từ lâu đã là mỗi quan tâm hàng đầu của tất cả các
quốc gia trên thế giới và trong đó có Việt Nam. Việt Nam với tâm thế quan
điểm rõ ràng “Phòng, chống tham nhũng là trách nhiệm của cả hệ thống chính
trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của các ngành,
các cấp, nhấn mạnh trách nhiệm người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị,
đề cao vai trò của xã hội, các tổ chức đoàn thể và quần chúng nhân dân”
3
.
Chính vì vậy, “PCTN được hiểu là tổng thể các biện pháp của các cơ
quan có thẩm quyền tham gia vào quá trình phòng ngừa ngăn chặn, đấu
tranh đẩy lùi và xoá bỏ các chủ thể được cho là có các hành vi tham nhũng”.
Vấn đề phòng chống tham nhũng của Việt Nam được thể hiện thông qua hợp
tác quốc tế và thực thi cụ thể hoá pháp luật ở trong quốc gia.
Ở trong nước không thể không nhắc đến những chỉ đạo trực tiếp trong
chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các giai đoạn và trong Hiến
pháp. Từ đó được luật hoá đi sâu vào thực tiễn của đời sống với nhiều văn bản
pháp luật như: Luật phòng, chống tham nhũng 2005 (sửa đổi bổ sung các năm
2007 và 2012), Luật phòng chống tham nhũng 2018 sắp có hiệu lực T7/2018),

2
UNDP ( 2004), Anti-corruption- Practice Note, tlđd, tr.2.
3
Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 12 tháng 05 năm 2009 của Chính Phủ, Ban hành chiến lược quốc
gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020
https://dethivan.com/

9

Luật thực hành tiết kiệm chống lãng phí 2013, Bộ luật hình sự 2015 ( sửa đổi
bổ dung năm 2017)…vv. Các chủ thể đại diện tham gia phòng, chống tham
nhũng được pháp luật trao quyền và được pháp luật bảo vệ. Từ đó thông qua
hoạt động tiến hành các biện pháp để ngăn chặn và đấu tranh mầm mống phát
sinh tham nhũng, các hành vi của người có chức vụ, quyền hạn nhằm chiếm đoạt
bất hợp pháp lợi ích vật chất hoặc lợi ích khác cho mình hoặc người thân cận.
1.2 Sự tham gia của các chủ thể trong việc phòng chống tham nhũng ở
Việt Nam
1.2.1 Cơ sở xã hội
Là một căn bệnh xuất phát từ lợi ích và gắn liền với quyền lực công,
tham nhũng xuất hiện từ rất sớm trong xã hội loài người. Nó đặc biệt trở
thành vấn nạn khi các nhà nước ra đời; Lịch sử Việt Nam cho thấy không phải
đợi đến thời kỳ hiện đại, tham nhũng xuất hiện ngay trong các nhà nước chủ
nô và phong kiến
4
.
Cho dù còn bị hạn chế nhiều tư tưởng phong kiến song nhìn chung các
triều đại đã có cách thức để phòng ngừa tham nhũng. Từ lịch sử nhìn ra chúng
ta càng khẳng định thêm vai trò của xã hội trong phòng chống tham nhũng
qua các giai đoạn lịch sử. Lịch sử còn cho thấy các triều đại phong kiến Việt
Nam cũng đã có những biện pháp quan trọng để phòng ngừa tham nhũng.
Pháp luật phong kiến Việt Nam xưa cũng quy định khá đầy đủ về xây dựng
bộ máy phong kiến tập quyền, không thể bỏ qua bộ luật tiêu biểu là luật Hồng
Đức đã có nhiều cải cách mạnh mẽ như giám sát lẫn nhau giữa các quan lại.
Bộ luật Hồng Đức còn phân công mỗi bộ phận phụ trách một việc, các bộ
phải chịu giám sát của các khoa, công việc của các Đạo do các hiến ty giám

4
Chu Hồng Thanh, Vũ Công Giao, Nguyễn Đăng Dung, Phạm Hồng Thái, đồng chủ biên (2013),
Giáo trình lý luận và pháp luật về phòng, chống tham nhũng, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà
Nội, trang 108.
https://dethivan.com/

10

sát, các quan lại chịu sự giám sát lẫn nhau, quan trên giám sát quan dưới
5
.
Dưới thời đó họ còn phát huy vai trò xã hội, trong đó có nhân dân, đặc biệt
coi trọng vai trò của nhân dân trong việc tố cáo hành vi tham nhũng. Các triều
đại còn tạo ra cơ chế khuyến khích và bảo vệ người tố giác hành vi tham
nhũng, như tố giác việc biển thủ tiền thuế sẽ được miễn lao dịch 3 năm, rồi
trọng thưởng biểu dương.
Còn ở Việt Nam hiện nay, khái niệm “xã hội” được hiểu theo rất nhiều
nghĩa khác nhau. Theo nghĩa đơn giản nhất đó là một tập thể hay một nhóm
người được phân biệt với các nhóm người khác bằng các lợi ích, mối quan hệ
đặc trưng, chia sẻ cùng một thể chế và có cùng văn hoá. Chủ nghĩa Mác –
Lênin nhìn nhận xã hội không phải là tập hợp giản đơn các cá nhân, mà là
biểu hiện tổng số những mối liên hệ và những quan hệ của các cá nhân đối
với nhau
6
. Theo nghĩa rộng, “xã hội” là toàn bộ các hình thức hoạt động
chung của con người đã hình thành trong lịch sử. “xã hội” thường được dùng
để chỉ một tập đoàn người được hiểu như một hiện thực của các thành viên
của nó, hoặc là chỉ một môi trường của con người mà cá nhân được hoà nhập
vào, môi trường đó được xem như là toàn bộ các lực lượng có tổ chức và có
hệ thống tôn ti trật tự tác động lên cá nhân
7
.
Các lý thuyết về sự kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía xã hội đã và
đang ảnh hưởng tích cực đến nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Theo đó,
trong PCTN, sự giám sát từ phía xã hội có vai trò hạn chế tối đa sự lạm dụng
quyền lực nhà nước vì mục đích cá nhân. Theo triết lý Phật giáo về bản ngã
nhân sinh thì con người có bản tính tham, sân, si. Một trong những biểu hiện

5
Chương v, Giáo trình lý luận và pháp luật phòng, chống tham nhũng, trang 109.

6
C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hn, 1998, Tr.46, ph.I,tr.355.

7
Từ điển bách khoa Việt Nam, Nxb. Từ điển bách khoa, Hn, 2005, Tập 4, Tr.965.
https://dethivan.com/

11

của nó là tham lam, đam mê quyền lực. Điều này dẫn đến khó kiểm soát, gây
nên tổn thất cho người khác và cho xã hội
8
.
Từ những nhận định trên ta thấy việc tổ chức vận hành bộ máy quyền
lực quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phượng nếu không có “Kiếm soát
quyền lực” thì sẽ bị thao túng. Vì vậy kiểm soát quyền lực nhà nước là một
việc làm luôn được đặt song song, gắn với nó là xây dựng xã hội dân chủ. Khi
nhà nước vận hành mọi hoạt động của nhà nước đều phải công khai và nằm
trong tầm kiểm soát của xã hội, mọi lạm quyền, tuỳ tiện của những người
thực thi công vụ sẽ ít có cơ hội diễn ra và do đó, tham nhũng khó nảy sinh. Từ
góc độ này cho thấy rằng tất cả các quốc gia trong đó có việt nam, sự giám sát
nhà nước từ phái xã hội là đương nhiên, tất yếu, xuất phát từ chính nguồn gốc
tạo lập cho sự ra đời và hoàn thiện của nhà nước.
Từ lúc Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Người đã nhấn mạnh “Tất cả mọi người
đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể
xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc”. Từ những tư tưởng về một xã hội bình đẳng đã
tạo ra sự nghiệp“Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” kế thừa của chủ
nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh để phát triển qua từng năm
tháng. Tới nay tư tưởng nhà nước pháp quyền trong hiện đại ngày nay được
ghi nhận ở Điều 2 Hiến pháp năm 2013: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân”. Qua đó, chúng ta càng khẳng định vai trò xã hội
trong đấu tranh và PCTN theo dòng lịch sử. PCTN không chỉ xuất phát từ lý

8
PGS.TS. Nguyễn Đăng Dung (2005), Sự hạn chế quyền lực Nhà nước, Nxb. Đại học Quốc Gia
HN, Hà Nội
https://dethivan.com/

12

thuyết kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía xã hội mà còn xuất phát từ bản
chất của Nhà nước Việt Nam theo ghi nhận của Hiến pháp “Là Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”
9
. PTCN là nhiệm vụ của toàn xã hội,
khoản 2, Điều 8 Hiến pháp 2013 quy định “Các cơ quan nhà nước, cán bộ,
công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tuỵ phục vụ Nhân dân, liên
hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân;
kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu,
hách dịch cửa quyền”. Có một cơ sở xã hội khá toàn diện với các chủ thể từ
Trung ương tới địa phương. Các chủ thể này đại diện cho quyền, lợi ích chính
đáng của nhân dân và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong PTCN.
1.2.2 Cở pháp lý
Thực tiễn đã cho thấy Việt Nam đã có một cơ sở pháp lý tốt để tạo nên
các chủ thể đại diện cho xã hội tham gia PCTN. Theo Chương V, Luật phòng,
chống tham nhũng 2005, các chủ thể xã hội trong phòng, chống tham nhũng
bao gồm: Mặt trận tổ quốc Việt Nam; Báo chí và truyền thông; Ban thanh tra
nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng; Doanh nghiệp, hiệp hội doanh
nghiệp, hiệp hội ngành nghề; Người dân. Đây là những chủ thể xã hội quan
trọng được pháp luật trao quyền để thực hiện PCTN, nhờ sự trao quyền đó các
chủ thể này đã tạo nên một thế “Vững mạnh” trên mặt trận phòng chống tham
nhũng góp phần quan trọng thực hiện “Chiến lược quốc gia phòng, chống
tham nhũng”.
* Mặt trận Tổ quốc Việt Nam:
“Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có trách nhiệm vận động nhân dân tích
cực tham gia thực hiện Luật PCTN là tham gia vào cuộc đấu tranh đầy cam

9
Vũ Công Giao, Nguyễn Quốc Văn (2017), Phát huy vai trò của xã hội trong phòng chống tham
nhũng (sách chuyên khảo), Nxb Hồng Đức, Hà Nội, trang 16
https://dethivan.com/

13

go, phức tạp và gian khổ; đòi hỏi phải có quyết tâm cao, bản lĩnh vững vàng,
có giải pháp phù hợp, thực hiện kiên trì bền bỉ và lâu dài” (theo Hội nghị lần
thứ 3, Uỷ ban TW MTTQVN tham gia thực hiện Luật PTCN và Luật Thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí).
Với việc ban hành Luật MTTQVN 2015 với căn cứ theo Hiến pháp
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với 8 chương và 41 điều đã củng
cố và thể hiện rõ chức năng nhiệm vụ của MTTQVN.
Điều 23, Luật MTTQVN 2015 nêu rõ sự tham gia phòng, chống tham
nhũng, lãng phí
1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia phòng, chống tham nhũng, lãng
phí với các nội dung sau đây:
a) Tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện pháp luật về phòng,
chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí;
b) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng biện pháp
phòng ngừa tham nhũng, lãng phí; xác minh vụ việc tham nhũng, lãng phí; xử
lý người có hành vi tham nhũng, lãng phí;
c) Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ, khen thưởng đối
với người có công phát hiện, tố cáo hành vi tham nhũng, lãng phí.
2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải xem xét, trả lời yêu
cầu, kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo quy định của pháp luật.
Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, với 44 tổ chức thành viên của Mặt
trận và 7 Hội đồng tư vấn đã phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với các cơ quan
chính quyền nhà nước để tăng cường đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao
đạo đức trong xã hội, trách nhiệm công vụ với những người làm công tác nhà
nước, nhất là giáo dục đông đảo thanh thiếu niên, đoàn viên, đảng viên… để
học tập tư tưởng Hồ Chí Minh và tuyên truyền phát huy các tầng lớp nhân dân
về Luật PCTN, tạo nên một thế trân mạnh mẽ trong xã hội, để kiên quyết đấu https://dethivan.com/

14

tranh đẩy lùi tư tưởng xấu và lên án phòng, chống hành vi tham nhũng trong
xã hội. Nhân dân tham gia MTTQVN thông qua các tổ chức thành viên; thông
qua tổ chức thành viên có thể tham gia ý kiến, phản ánh, kiến nghị MTTQVN
để phản ánh và kiến nghị với Đảng, Nhà nước.
Với mạng lưới tổ chức MTTQVN ở TW, ở địa phương (cấp tỉnh, cấp
huyện, cấp xã), đã góp phần thực hiện giám sát và phản biện xã hội, thực hiện
tốt công tác giám sát PCTN ở các cấp trên địa bàn. Từ đó động viên “phong
trào” thúc đẩy các tầng lớp nhân dân thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ;
phát hiện tố cáo những hành vi tham nhũng, có biện pháp bảo vệ và hình thức
khen thưởng xứng đáng đối với những người đã có hành động dũng cảm phát
hiện và tố giác tham nhũng. Uỷ ban MTTQ các cấp, các thành viên tuân thủ
khuân khổ Hiến pháp, pháp luật, phối hợp, hành động hiệu quả và phải
nghiêm chỉnh thực hiện kiểm điểm, kiểm tra công việc nội bộ, trong đó có
hoạt động các ban, đơn vị kinh tế, các quỹ, các chương trình dự án do Uỷ ban
MTTQ các cấp, các tổ chức thành viên quản lý và công tác tài sản, tài chính
các cơ quan. Không được để xảy ra tham nhũng trong nội bộ, tổ chức MTTQ
và các thành viên của Mặt trận. Người đứng đầu MTTQ hoặc tổ chức Mặt
trận phải có trách nhiệm nếu để xảy ra vi phạm tham nhũng nơi mình quản lý
điều hành.
Độc lập hoặc phối hợp có hiệu quả với các cơ quan Đảng, Nhà nước;
thúc đẩy minh bạch “Phát huy dân chủ, sáng tạo”. Trong thời gian vừa qua
Trung ương MTTQ đã phối hợp hiệu quả với Ban chỉ đạo Trung ương về
PCTN đã ban hành văn bản và tuyên truyền, giáo dục nhân dân và các tổ chức
thành viên MTTQ khắp mọi nơi. Hành động hiệu quả với Chính phủ, điển
hình như: (Thông qua Chương trình hành động Quốc gia phổ biến, giáo dục
pháp luật và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã
phường, thị trấn từ năm 2005 đến năm 2010. Chương trình đã cụ thể 4 đề án https://dethivan.com/

15

(i) Đưa thông tin pháp luật đến cán bộ, nhân dân thông qua phương tiện thông
tin đại chúng và các thiết chế văn hoá thông tin ở xã, phường, thị trấn; (ii)
Xây dựng và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động chấp hành pháp luật
trong cộng đồng dân cư; (iii) Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật về khiếu nại tố cáo ở xã, phường, thị trấn; (iv) Phát huy vai trò của cơ
quan và cán bộ tư pháp trong phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức
chấp hành luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn). MTTQ đã thực
hiện giám sát, phát hiện, tố cáo tham nhũng và phản biện xã hội. MTTQ thực
hiện qua 03 hình thức nền tảng:
- Thực hiện giám sát thông qua việc giải quyết đơn thư kiếu nại, tố cáo
của công dân, công khai độc lập không lệ thuộc về nhân sự và thủ tục vào các
cơ quan Nhà nước.
- Động viên, hướng dẫn nhân dân thực hiện quyền giám sát, qua đó,
tổng hợp phản ánh, kiến nghị của nhân dân và có ý kiến chính thức với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.
- Tham gia một số hoạt động của cơ quan nhà nước để qua đó giám sát
hoạt động của cơ quan này.
* Báo chí và truyền thông Việt Nam
Báo chí là sản phẩm thông tin về các sự kiện, vấn đề trong đời sống xã
hội thể hiện bằng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được sáng tạo, xuất bản định
kỳ và phát hành, truyền dẫn tới đông đảo công chúng thông qua các loại hình
báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử (khoản 1, Điều 3 Luật Báo chí 2016).
Báo chí là người bạn đồng hành cùng xã hội mọi lúc mọi nơi trong mọi vấn
đề, báo chí cơ quan ngôn luận và phản biện cho toàn xã hội thúc đẩy nỗ lực
vào công cuộc thay đổi cuộc sống. Cùng với đó truyền thông sẽ làm lan toả
hoạt động chia sẻ, truyền đạt thông tin thông qua trao đổi ý tưởng, cảm xúc, ý
định thái độ… thông qua các phương tiện khác như thông qua điện tử, cử chỉ https://dethivan.com/

16

ngôn ngữ và hành vi; truyền thông giúp lan tỏa thông tin một cách nhanh
tróng, thuận lợi mà không bị trở ngại về địa lý.
Báo chí và truyền thông Việt Nam trong thời gian vừa qua đã phát triển
mạnh mẽ và song hành cùng toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị
trong công tác phòng chống tham nhũng. Thông qua báo cáo đánh giá công
tác báo chí năm 2018; tính đến tháng 11/2018, cả nước có khoảng 19.000 nhà
báo được cấp Thẻ Nhà báo; số lượng Hội viên Hội Nhà báo là 23.893. Cả
nước hiện có 844 cơ quan báo chí in với 184 báo in, 660 tạp chí và 24 cơ quan
báo chí điện tử độc lập
10
. Nhờ sự chuyển biến đó mà nhiều vụ án tham nhũng
đã bị phát hiện và đưa ra xét xử công khai, thu hút sự chú ý của đông đảo dư
luận xã hội. Theo chiến lược Quốc gia về PCTN đến năm 2020 đã chỉ rõ một
trong những phương pháp nhầm nâng cao nhận thức và phát huy vai trò của
toàn xã hội trong PCTN là: Đẩy mạnh và đa dạng hoá các hình thức tuyên
truyền nhằm nâng cao nhận thức cho nhân dân về biểu hiện, tác hại của tham
nhũng; phát huy vai trò của báo chí trong công tác PCTN; bảo đảm việc cung
cấp thông tin kịp thời, chính xác về các vụ việc tham nhũng cho các cơ quan
báo chí
11
. Luật PCTN đã cụ thể hoá quy định về vai trò trách nhiệm của báo
chí trong công tác PCTN tại Điều 75 Luật PCTN 2018: (i) Cơ quan báo chí,
nhà báo có trách nhiệm đấu tranh chống tham nhũng, đưa tin về hoạt động
phòng, chống tham nhũng và vụ việc tham nhũng; (ii) Cơ quan báo chí, nhà
báo có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền cung
cấp thông tin liên quan đến hành vi tham nhũng; (iii) Cơ quan, tổ chức, đơn

10 (2018) Hội nghị Báo chí toàn quốc tổng kết công tác năm 2018, triển khai nhiệm vụ năm 2019
http://congly.vn/thoi-su/hoi-nghi-bao-chi-toan-quoc-tong-ket-cong-tac-nam-2018-trien-khai-
nhiem-vu-nam-2019-281918.html, truy cập 18/3/2019
11
Vũ Công Giao, Nguyễn Quốc Văn (2017), Phát huy vai trò của xã hội trong phòng chống tham
nhũng (sách chuyên khảo), Nxb Hồng Đức, Hà Nội, trang 101
https://dethivan.com/

17

vị, cá nhân được yêu cầu có trách nhiệm cung cấp thông tin theo quy định của
pháp luật về báo chí và quy định khác của pháp luật có liên quan; (iv) Cơ quan
báo chí, nhà báo có trách nhiệm phản ánh khách quan, trung thực và chấp hành
các quy định khác của pháp luật về báo chí, quy tắc đạo đức nghề nghiệp khi đưa
tin về hoạt động phòng, chống tham nhũng và vụ việc tham nhũng.
Nghị định số 47/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007 của Chính Phủ quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật PCTN về vai trò, trách
nhiệm của Xã hội trong PCTN đã quy định cụ thể tại chương 3, trách nhiệm
của báo chí:
Một là, Tuyên truyền, động viên nhân dân tham gia phòng, chống tham
nhũng; Cơ quan báo chí, nhà báo thông qua hoạt động nghề nghiệp của mình
có trách nhiệm:
(i) Tuyên truyền về chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước về phòng, chống tham nhũng; tuyên truyền về công tác phòng,
chống tham nhũng của các cơ quan, tổ chức.
(ii) Phản ánh và hướng dẫn dư luận xã hội, động viên nhân dân tích cực
tham gia đấu tranh chống tham những.
(iii) Biểu dương tinh thần và những việc làm tích cực của tập thể, cá
nhân trong công tác phòng, chống tham nhũng; bảo vệ người tố cáo hành vi
tham nhũng.
(iv) Lên án, đấu tranh với người có hành vi tham nhũng.
Hai là, Việc thu thập, cung cấp thông tin về vụ việc có dấu hiệu
tham nhũng:
(i) Khi nhận được kiến nghị, phản ánh, tin, bài của công dân về vụ việc
có dấu hiệu tham nhũng hoặc thông qua hoạt động nghề nghiệp của mình phát
hiện vụ việc có dấu hiệu tham nhũng, cơ quan báo chí, nhà báo có quyền: Thu
thập thông tin, tài liệu theo quy định của pháp luật để làm rõ về vụ việc có https://dethivan.com/

18

dấu hiệu tham nhũng; Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền cung
cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến vụ việc có dấu hiệu tham nhũng theo
quy định của pháp luật.
(ii) Khi nhận được yêu cầu của cơ quan báo chí, nhà báo quy định tại
điểm b khoản 1 Điều này, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có trách
nhiệm cung cấp thông tin, tài liệu cho cơ quan báo chí, nhà báo, giúp cho báo
chí thông tin chính xác, kịp thời. Việc yêu cầu cung cấp thông tin của cơ quan
báo chí, nhà báo về vụ việc tham nhũng và trách nhiệm cung cấp thông tin
của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền được thực hiện theo quy
định tại Điều31 Luật Phòng, chống tham nhũng và Nghị định
số 120/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 20 tháng 10 năm 2006 quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng và
các quy định khác của pháp luật.
Ba là, Việc đưa tin của cơ quan báo chí, nhà báo về phòng, chống
tham nhũng:
(i) Cơ quan báo chí, nhà báo có quyền đưa tin phản ánh về vụ việc tham
nhũng và hoạt động phòng, chống tham nhũng. Khi đưa tin về vụ việc tham
nhũng, người có hành vi tham nhũng, cơ quan báo chí, nhà báo phải đưa tin
trung thực, khách quan và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc đưa tin đó.
Cơ quan báo chí phát hiện hoặc nhận dược tố cáo của công dân về vụ việc có
dấu hiệu tham nhũng thì phải báo ngay cho cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm
sát nhân dân bằng văn bản. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân có trách
nhiệm thụ lý và trả lời cho báo chí cách giải quyết. Cơ quan báo chí có quyền
đưa tin về vụ việc có dấu hiệu tham những từ các thông tin, tài liệu mà mình
có được và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực của
thông tin được đăng tải trên báo chí. Trường hợp có căn cứ cho rằng kiến
nghị, phản ánh, tin, bài, tố cáo của công dân về vụ việc tham nhũng không có https://dethivan.com/

19

cơ sở thì cơ quan báo chí thông báo cho công dân về việc không đưa tin và
nêu rõ lý do.
(ii). Tổng biên tập, nhà báo chịu trách nhiệm về việc đưa tin và chấp
hành pháp luật về báo chí, đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động báo chí.
(iii). Cơ quan báo chí, nhà báo không được đưa tin về những vụ việc
không có căn cứ rõ ràng; đưa tin sai sự thật; phương hại đến lợi ích quốc gia,
lợi ích của tổ chức, cá nhân, ảnh hưởng đến uy tín, danh dự, nhân phẩm của
công dân; không được tiết lộ bí mật nhà nước, bí mật quân sự, an ninh, kinh
tế, đối ngoại và các thông tin khác theo quy định của pháp luật.
(iv). Cơ quan báo chí, nhà báo có quyền và nghĩa vụ từ chối tiết lộ họ
tên, địa chỉ, bút tích của người tố cáo, người cung cấp thông tin về vụ việc
tham những, về người có hành vi tham nhũng nếu có hại cho người đó, trừ
trường hợp có yêu cầu của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân hoặc Chánh
án Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc tương đương trở lên để phục vụ cho việc
điều tra, truy tố, xét xử.
(v). Khi đưa tin trên báo chí về vụ việc có dấu hiệu tham những, cơ
quan báo chí, nhà báo đưa tin sai sự thật phải cải chính, xin lỗi theo quy định
của pháp luật về báo chí. Nếu lợi dụng quyền thông tin báo chí để xuyên tạc,
vu khống thì tuỳ theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm mà bị xử lý theo
quy định của pháp luật; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường, bồi hoàn theo
quy định của pháp luật.
Trong đó trách nhiệm của Hội Nhà báo Trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình, Hội Nhà báo các cấp có trách nhiệm:
(i) Tuyên truyền, động viên cơ quan báo chí, nhà báo là hội viên của
mình tham gia phòng, chống tham nhũng. https://dethivan.com/

20

(ii) Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung,
ban hành mới các quy định của pháp luật để hoàn thiện cơ chế, chính sách
quản lý nhằm phòng, chống tham nhũng.
(iii) Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan báo chí, nhà báo là hội
viên của mình bị đe doạ trả thù, trù dập khi đưa tin về phòng, chống tham nhũng;
(iv) Phối hợp với Bộ Văn hoá - Thông tin xây đựng quy định về đạo
đức, quy tắc nghề nghiệp của nhà báo.
(v) Trong quá trình tác nghiệp, khi có căn cứ cho rằng việc thông tin về
vụ việc tham nhũng có thể dẫn đến nguy hại đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự,
nhân phẩm của mình, nhà báo có quyền đề nghị cơ quan báo chí và cơ quan nhà
nước có thẩm quyền áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ mình.
(vi) Khi nhận được đề nghị được bảo vệ của nhà báo, cơ quan báo chí
có trách nhiệm áp dụng ngay các biện pháp cần thiết theo thẩm quyền hoặc đề
nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cần thiết bảo vệ
nhà báo đó. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm áp dụng ngay
các biện pháp cần thiết để bảo vệ cơ quan báo chí, nhà báo.
* Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng
Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng là những cánh
tay nối dài giám sát tại xã, phường, thị trấn, trong cơ quan nhà nước, đơn vị
sự nghiệp, doanh nghiệp của nhà nước trong pham vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình giám sát thiệc thực hiện các quy định pháp luật về PCTN. Theo
Thông tư hướng dẫn về tổ chức và hoạt động của Ban thanh tra nhân dân,
Ban giám sát đầu tư của cộng đồng tại xã, phường, thị trấn, năm 2017:
Ban thanh tra nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn sau: (i) Giám sát cơ
quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm ở xã, phường, thị trấn trong việc thực
hiện chính sách, pháp luật; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản
ánh; việc thực hiện dân chủ ở cơ sở. Khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp https://dethivan.com/

21

luật, thì kiến nghị người có thẩm quyền xem xét, xử lý theo quy định của pháp
luật và giám sát việc thực hiện kiến nghị đó; (ii) xác minh những vụ việc do
Chủ tịch UBND cấp xã giao; (iii) tham gia việc thanh tra, kiểm tra tại xã,
phường, thị trấn theo đề nghị của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; cung cấp
thông tin, tài liệu, cử người tham gia khi được yêu cầu; (iv) kiến nghị Chủ
tịch UBND cấp xã xử lý vi phạm theo thẩm quyền và khắc phục sơ hở, thiếu
sót được phát hiện qua hoạt động giám sát, bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, cơ quan, tổ chức, đơn vị; (v) kiến nghị Chủ tịch UBND và
Ủy ban MTTQ Việt Nam cấp xã các hình thức động viên, biểu dương, khen
thưởng tập thể, cá nhân phát hiện sai phạm và có thành tích trong công tác;
(vi) tiếp nhận kiến nghị, phản ánh của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có
liên quan đến phạm vi giám sát của Ban TTND;(vii) thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn khác do pháp luật quy định.
Ban giám sát đầu tư của cộng đồng tại xã, phường, thị trấn có nhiệm vụ:
(i) Trong quá trình giám sát, nếu Ban GSĐTCCĐ phát hiện thấy dấu
hiệu vi phạm pháp luật trong quá trình thực hiện dự án gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến sản xuất, an ninh, văn hóa-xã hội, môi trường sinh sống của cộng
đồng; không công khai thông tin về chương trình, dự án đầu tư theo quy định
của pháp luật thì kiến nghị các cấp có thẩm quyền đình chỉ thực hiện đầu tư,
vận hành dự án; (ii) phản ánh với các cơ quan quản lý nhà nước về kết quả
giám sát và kiến nghị biện pháp xử lý.
(Theo Nghị định số 47 – 2007 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng về vai trò, trách nhiệm của xã
hội trong phòng, chống tham nhũng được nêu rõ): (i) Việc giám sát của Ban
thanh tra nhân dân thông qua tiếp nhận các ý kiến phản ánh của nhân dân, cán
bộ, người lao động về vụ việc có dấu hiệu tham nhũng; trực tiếp thu thập các
thông tin, tài liệu trong việc thực hiện các quy định pháp luật về phòng, chống https://dethivan.com/

22

tham nhũng của cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm ở xã, phường, thị
trấn, của cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước; (ii)
phát hiện hành vi tham nhũng, vụ việc tham nhũng của cơ quan, tổ chức, cá
nhân ở xã, phường, thị trấn, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh
nghiệp nhà nước; (iii) trực tiếp hoặc thông qua Ban Thường trực Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc xã, phường, thị trấn, Ban chấp hành công đoàn cơ sở kiến nghị
với Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, Người đứng đầu cơ quan
nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền xem xét, giải quyết vụ việc có dấu hiệu tham nhũng, hành vi tham
nhũng và giám sát việc giải quyết đó.
Quyền hạn của Ban thanh tra nhân dân trong quá trình giám sát việc
thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng: (i) Trong quá trình giám sát
việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng, Ban Thanh tra nhân
dân có quyền đề nghị Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân
xã, phường, thị trấn, Người đứng đầu cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp,
doanh nghiệp nhà nước cung cấp các thông tin, tài liệu liên quan đến việc
giám sát. (ii) Trường hợp phát hiện vụ việc có dấu hiệu tham nhũng, người có
hành vi tham nhũng thì Ban Thanh tra nhân dân kiến nghị Chủ tịch Hội đồng
nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, Người đứng đầu cơ
quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước hoặc cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét, giải quyết. (iii) Trong thời hạn mười
lăm (15) ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị, cơ quan, tổ chức, cá nhân có
trách nhiệm xem xét, giải quyết và thông báo kết quả giải quyết cho Ban
Thanh tra nhân dân. Trường hợp kiến nghị không được xem xét, giải quyết
hoặc thực hiện không đầy đủ thì Ban Thanh tra nhân dân có quyền kiến nghị
Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân huyện, quận, thị xã thuộc
tỉnh hoặc kiến nghị cấp trên trực tiếp của Người đứng đầu cơ quan nhà nước, https://dethivan.com/

23

đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền khác xem xét, giải quyết.
Các Ban công tác Mặt trận, Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu
tư cộng đồng các tổ chức đoàn thể đã phối hợp hiệu quả. Thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở, pháp luật về khiếu nại, tố cáo, các ban thanh tra nhân dân
qua giám sat đã phát hiện nhiều vụ việc tham nhũng, tiêu cực; đã đề xuất
Đảng, chính quyền giải quyết kịp thời những bức xúc nảy sinh, xử lý sai
phạm của cán bộ, đảng viên khi thực hiện các chương trình, dự án phát triển
kinh tế - xã hội ở địa phương
12
.
* Người dân
Người dân có vai trò quan trọng trong việc phát triển đất nước nói
chung và PCTN nói riêng. Suy cho cùng theo Hiến pháp Việt Nam 2013
“Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân – Nhà nước bảo đảm và pháy huy
quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền
con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”. Pháp luật tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích của
người dân.
Nhắc lại phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về công tác
phòng chống tham nhũng (PCTN), là muốn thành công, hiệu quả cao, phải có
sự tham gia tích cực của nhân dân; trong những năm vừa qua pháp luật nước
ta đã có hướng thay đổi và hoàn thiện hơn nữa để thúc đẩy phát huy vai trò
của người dân trong PCTN. Như cụ thể hoá lợi ích của nhân dân trong các Bộ
luật, luật…; đặc biệt đó là Pháp lệnh khiếu nại tố cáo của công dân năm 1991;

12
Vũ Công Giao, Nguyễn Quốc Văn (2017), Phát huy vai trò của xã hội trong phòng chống tham
nhũng (sách chuyên khảo), Nxb Hồng Đức, Hà Nội, trang 133
https://dethivan.com/

24

Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 ( sửa đổi, bổ sung các năm 2004 và 2005) kế
thừa là Luật tố cáo năm 2018…Trong những năm gần đây đặc biệt khi Quốc
hội đã thông qua và thay đổi Luật tố cáo năm 2018, Luật tiếp công dân năm
2013, Luật phòng chống tham nhũng năm 2018 mới thay đổi và sắp có hiệu
lực vào 1/7/2019. Có thể thấy rằng trong những thời gian qua pháp luật Việt
Nam đã nâng cao vị thế vai trò của người dân, chủ thể quan trọng trong tố cáo
và phát hiện hành vi tham nhũng, người dân sống và làm việc theo pháp luật
trong cuộc sống hoạt động hàng ngày, vì vậy họ sẽ rất dễ để phát hiện và bắt
gặp những hành vi lệch chuẩn của cán bộ, công chức viên chức nhà nước
trong việc thực nhiệm nhiệm vụ. Chính vì vậy người dân có quyền khiếu nại,
tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái
pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân; người dân được bảo vệ và pháp luật
nghiêm cấm trả thù người khiếu nại tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố
cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác.
Ngoài những luật cơ sở trên các bộ ban ngành, cơ quan ngang bộ còn
ban hành nhiều văn bản pháp luật khác để hướng dẫn thực hiện luật giúp người
dân có thể tiếp cận một cách dễ dàng và những người thực thi công quyền nhà
nước hiểu rõ hơn để làm đúng trách nhiệm của mình trước công dân và xử lý
khiếu nại, tố cáo của công dân một cách thuận lợi và đúng nhất. Như ngày
31/10/2014, Thanh tra Chính phủ đã ban hành Thông tư 07/2014/TT-TTCP quy
định quy trình xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh; người
gửi khiếu nại, tố cáo, khiến nghị tới các quan: hành chính nhà nước, người có
thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập,
doanh nghiệp nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang.
Luật tiếp công dân năm 2013, nêu rõ quy định trách nhiệm tiếp công
dân và nghĩa vũ của người đến khiếu nại, tố cáo, khiến nghị, phản ánh, quy
định tổ chức hoạt động tiếp công dân tại Trự sở tiếp công dân, địa điểm tiếp https://dethivan.com/

25

công dân, tổ chức hoạt động tiếp công dân. Luật cũng nên rõ trách nhiệm tiếp
công dân từ các cơ quan TW tới các cơ quan địa phương, cơ quan hành chính các
cấp và cơ quan dân cử đại diện các cấp. Việc tiếp công dân tuân thủ Điều 3,
nguyên tắc tiếp công dân: (i) việc tiếp công dân phải được tiến hành tại nơi tiếp
công dân của cơ quan, tổ chức, đơn vị; (ii) việc tiếp công dân phải bảo đảm công
khai, dân chủ, kịp thời; thủ tục đơn giản, thuận tiện; giữ bí mật và bảo đảm an toàn
cho người tố cáo theo quy định của pháp luật; bảo đảm khách quan, bình đẳng,
không phân biệt đối xử trong khi tiếp công dân; (iii) tôn trọng, tạo điều kiện thuận
lợi cho công dân thực hiện việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo quy
định của pháp luật. Công dân có thể đề đạt, uỷ quyền thông qua các cơ quan đại
diện dân cử như: MTTQ xã, phường, Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư
của cộng đồng. Điều 77, Luật phòng chống tham nhũng: Công dân tự mình hoặc
thông qua Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng hoặc thông
qua tổ chức mà mình là thành viên tham gia phòng, chống tham nhũng; Ban thanh
tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình, giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
Còn về bảo vệ người tố cáo, Luật tố cáo năm 2018 đã dành chương VI
bảo vệ người tố cáo. Trong đó nghi nhận trách nhiệm của nhà nước trong việc
bảo vệ người tố cáo, nhằm đảm bảo và kêu gọi tinh thần tố cáo phát huy trong
nhân dân và toàn xã hội. ( Điều 47. Người được bảo vệ, phạm vi bảo vệ); (i)
bảo vệ người tố cáo là việc bảo vệ bí mật thông tin của người tố cáo; bảo vệ vị
trí công tác, việc làm, tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của
người tố cáo, vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi
của người tố cáo (gọi chung là người được bảo vệ); (ii) người tố cáo được bảo
vệ bí mật thông tin cá nhân, trừ trường hợp người tố cáo tự tiết lộ.
Bên cạnh việc thúc đẩy tham gia PCTN thì người dân cũng cần phải
nâng cao tinh thần để nhận biết đúng sai trước những biểu hiện hành vi tham https://dethivan.com/

26

nhũng, tránh tình trạng người dân bị kẻ xấu lợi dụng, dẫn tới “hoả mù đơn
thư” bằng những thủ đoạn đơn, thư, tố cáo nặc danh không đủ bằng chứng
dẫn tới thực hiện sai quyền và nghĩa vụ tố cáo của công dân và có thể dẫn tới
hành vi, vi phạm pháp luật cho cá nhân mình.
*Doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề
Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp là nạn nhân của tệ tham nhũng, sách
nhiễu từ những người có chức vụ, quyền hạn, nhưng không ít doanh nghiệp
đã tìm cách móc nối với những kẻ thoái hoá, biến chất trong bộ máy nhà
nước, tiếp tay cho hành vi tham nhũng để mưu lợi; điều đó ảnh hưởng đến
những doanh nghiệp làm ăn đứng đắn, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, làm
xấu đi môi trường kinh doanh và tạo xa sự bất bình đẳng trong xã hội; Chính
vì vậy, tham gia PCTN là trách nhiệm tất yếu của doanh nghiệp và những
người tham gia hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh
13
. Pháp luật
nói chung và Pháp luật PCTN nói riêng đã quy định: Điều 87, doanh nghiệp
có trách nhiệm thông báo về hành vi tham nhũng và phối hợp với cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc xác minh, kết luận về hành vi tham
nhũng; trong bản thân mỗi doanh nghiệp cần có cơ chế kiểm soát nội bộ nhằm
ngăn ngừa tham ô, đưa hối lộ; các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề
có trách nhiệm tổ chức, động viên, khuyến khích hội viên cuả mình xây dựng
văn hoá kinh doanh lành mạnh, phi tham nhũng và kiến nghị với nhà nước
hoàn thiện cơ chế chính sách quản lý nhằm PCTN.
Từ Pháp luật PCTN đã cụ thể hoá các quy định của Luật PCTN, tại
Nghị định 47/2007:

13
Chu Hồng Thanh, Vũ Công Giao, Nguyễn Đăng Dung, Phạm Hồng Thái, đồng chủ biên (2013),
Giáo trình lý luận và pháp luật về phòng, chống tham nhũng, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội, trang 290
https://dethivan.com/

27

(i) Doanh nghiệp có trách nhiệm tuyên truyền pháp luật về phòng,
chống tham nhũng cho cán bộ, người lao động trong doanh nghiệp; vận động
cán bộ, người lao động thực hiện các quy định của Luật Phòng, chống tham
nhũng; tổ chức các hình thức động viên, giáo dục cán bộ, người lao động
trong doanh nghiệp thực hiện quy tắc ứng xử trong hoạt động của doanh
nghiệp để phòng ngừa tham nhũng;
(ii) Hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề có trách nhiệm tổ chức
tuyên truyền pháp luật về phòng, chống tham nhũng cho các hội viên của hiệp
hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề; vận động hội viên thực hiện các quy
định của Luật Phòng, chống tham những; động viên, khuyến khích các hội
viên xây dựng văn hoá kinh doanh lành mạnh, phi tham nhũng; xây dựng, ban
hành và tổ chức thực hiện quy tắc ứng xử của cán bộ, người lao động trong
doanh nghiệp để phòng ngừa tham nhũng;
(iii) Các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, ngành nghề thực hiện áp
dụng các biện pháp phòng ngừa tham nhũng thông qua việc thực hiện cạnh
tranh lành mạnh trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; thực
hiện đầy đủ nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với Nhà nước và người lao động
trong doanh nghiệp; thực hiện chế độ thống kê theo quy định của pháp luật;
thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp;
xây dựng và thực hiện các quy định về kiểm soát nội bộ nhằm phòng, chống
tham nhũng; khuyến khích việc phát hiện, tố cáo các hành vi tham nhũng.
Nghiêm cấm đưa hối lộ cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
dưới mọi hình thức;
(iv) Các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, ngành nghề có trách
nhiệm ban hành và tổ chức thực hiện các quy định về kiểm soát nội bộ trong
doanh nghiệp nhằm phòng ngừa tham nhũng, kịp thời phát hiện và xử lý theo https://dethivan.com/

28

thẩm quyền các hành vi tham nhũng phát sinh trong nội bộ hoặc kiến nghị cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý;
(v) Khi phát hiện có hành vi tham những thì doanh nghiệp, hiệp hội
doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề có trách nhiệm thông báo cho cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền về hành vi tham nhũng đó; khi nhận được yêu
cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền, doanh nghiệp, hiệp hội
doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề có trách nhiệm cung cấp thông tin mà
mình có được về vụ việc có dấu hiệu tham nhũng, đồng thời áp dựng các biện
pháp cần thiết trong phạm vi quyền và trách nhiệm của mình để phối hợp với
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xác minh, làm rõ vụ việc tham
nhũng, người có hành vi tham nhũng;
(vi) Doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề có
quyền kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc
hủy bỏ các văn bản pháp luật không phù hợp, làm phát sinh tham nhũng, góp
phần hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật, nâng cao hiệu lực quản lý nhà
nước, hiệu quả công tác đấu tranh chống tham nhũng.
Tiểu kết chương 1
Qua chương 1, khái quát về vai trò trách nhiệm xã hội trong phòng
chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, đã giúp chúng ta có thêm nhận thức,
hiểu rõ được hiện tượng “tham nhũng” dưới một vài góc nhìn ở Việt Nam. Từ
nhiều cách nhìn nhận để thấy được sự phi nghĩa của “tham nhũng” và tính cấp
bách phải phòng ngừa. Xác định giải pháp phòng chống tham nhũng toàn diện
nhất ở Việt Nam hiện nay là có sự tham gia đồng thuận của các chủ thể trong
xã hội. Từ cơ sở xã hội, cơ sở pháp lý đã chỉ ra những điều kiện tiên quyết
cho các chủ thể xã hội tham gia phòng chống tham nhũng tại Việt Nam.
https://dethivan.com/

29

CHƯƠNG 2. ĐƯỜNG LỐI, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG, PHÁP LUẬT
CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG Ở
VIỆT NAM

2.1 Quan điểm của Đảng và Nhà nước
2.1.1 Tổng quan
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Nhà nước là công cụ, phương tiện
thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, đưa đường lối, chính sách của
Đảng vào cuộc sống, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội. Trong
quá trình lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chăm
lo lãnh đạo xây dựng bộ máy nhà nước, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
trong bộ máy nhà nước, cùng với đó kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham
ô, tham nhũng và đạt kết quả quan trọng, được nhân dân đồng tình, ủng hộ.
Từ trước đến nay, Đảng ta đã ban hành rất nhiều chỉ thị, nghị quyết để
lãnh đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Nghị quyết số 14/NQ/TW ngày
15-5-1996 về quan điểm chỉ đạo và một số giải pháp để đấu tranh chống tham
nhũng của Bộ Chính trị khóa VII đã chỉ rõ: Đấu tranh chống tham nhũng là
một bộ phận cấu thành quan trọng trong toàn bộ sự nghiệp đấu tranh cách
mạng của Đảng và nhân dân ta hiện nay. Nó góp phần nâng cao vai trò lãnh
đạo của Đảng, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước, xây dựng Đảng và kiện
toàn bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền dân chủ của
nhân dân… Đấu tranh chống tham nhũng phải gắn liền và phục vụ cho đổi
mới kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường đại đoàn kết toàn
dân, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chống tham nhũng là cuộc
đấu tranh hết sức phức tạp, đòi hỏi có sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của
Đảng, quan điểm, nguyên tắc xây dựng Luật phòng, chống tham nhũng chủ https://dethivan.com/

30

yếu dựa trên các quan điểm lớn đã được chỉ ra tại Nghị quyết số 14-NQ/TW
ngày 15-5-1996 và trong một số văn kiện khác của Đảng như sau:
- Đấu tranh chống tham nhũng phải gắn chặt với đổi mới kinh tế - xã
hội, nâng cao đời sống của nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường
đại đoàn kết toàn dân;
- Đấu tranh chống tham nhũng phải gắn liền và phục vụ cho đổi mới hệ
thống chính trị, xây dựng Đảng và kiện toàn, tăng cường đoàn kết nội bộ;
- Chống tham nhũng phải gắn liền với chống quan liêu, lãng phí;
- Đấu tranh chống tham nhũng phải kết hợp giữa xây, phòng và chống.
Vừa tích cực phòng ngừa, vừa xử lý nghiêm mọi hành vi tham nhũng;
- Đẩy mạnh phòng và chống tham nhũng một cách chủ động, huy động
và phối hợp chặt chẽ mọi lực lượng đấu tranh chống tham nhũng, thực hiện
chống tham nhũng ở mọi cấp, mọi ngành;
- Đấu tranh chống tham nhũng là nhiệm vụ lâu dài, phải tiến hành
kiên quyết, kiên trì và thận trọng, không nóng vội, không chủ quan; phải có
kế hoạch cụ thể, có bước đi vững chắc; sử dụng nhiều biện pháp, trong đó
lấy giáo dục làm cơ sở, lấy pháp chế làm đảm bảo
14
.
2.1.2 Thực tiễn
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn nhận tệ nạn tham nhũng là
loại kẻ thù cực nguy hiểm, kẻ thù ở bên trong “nội xâm” , “kín đáo”. Chúng
là kẻ thù của nhân dân, làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào tổ chức Đảng.
Chính vì vậy ngay thừ khi thành lập Đảng, Chủ tịch luôn đề cao tư cách và
đạo đức, “phải cần, kiệm, nói thì phải làm, phải biết hy sinh, ít lòng tham
muốn về vật chất”. Bất cứ hành vi lấy “của công” làm “của tư” nào cũng đều

14
Tài liệu bồi dưỡng về phòng chống tham nhũng, dành cho giảng viên các trường đại học, cao
đẳng
https://dethivan.com/

31

bị Chủ tịch Hồ Chí Minh coi là hành vi tham ô, cần phải nghiêm trị; ngày 17-
3-1952, Người viết bài về chống quan liêu, tham ô, lãng phí: “Quan liêu, tham
ô, lãng phí là tội ác. Phải tẩy sạch nó để thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, để
đẩy mạnh thi đua sản xuất và tiết kiệm, để đưa kháng chiến đến thắng lợi,
kiến quốc đến thành công, để xây dựng thuần phong mỹ tục trong toàn dân,
toàn quốc”; Chúng ta từng biết, năm 1950 khi Trần Dụ Châu, nguyên Giám
đốc Nha Quân nhu can tội ăn cắp công quỹ và làm nhiều điều bỉ ổi bị tuyên
phạt với mức án cao nhất - tử hình, thì Hồ Chủ tịch sau khi cân nhắc kỹ đã
quyết định bác đơn xin giảm tội của Trần Dụ Châu.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng “Tham ô, lãng phí, quan liêu là một thứ
giặc ở trong lòng”. Tác hại do tham nhũng gây ra cực kỳ to lớn về mọi mặt.
Nó không những làm thiệt hại về kinh tế mà còn làm xói mòn lòng tin của
nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, với chế độ; làm rối loạn kỷ cương phép
nước, làm hư hỏng cán bộ... Người nhắc nhở, chống loại kẻ địch này (tức nạn
tham nhũng) khó khăn, phức tạp hơn so với đánh giặc ngoại xâm. Nhân kỷ
niệm 39 năm Ngày thành lập Đảng (03-02-1930 - 03-02-1969), Bác viết bài
báo “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, nêu: “Do
cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng
phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành. Họ tự cao, tự đại,
coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền. “Chủ
nghĩa cá nhân là kẻ thù nguy hiểm mà mỗi người chúng ta phải luôn luôn tỉnh
táo đề phòng và kiên quyết tiêu diệt”. Trước lúc đi vào cõi vĩnh hằng, trong
Di chúc, Người căn dặn: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và
cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư...”
15
.

15
PGS, TS Nguyễn Thế Kỷ (2018), Phòng chống tham nhũng - Bài học hôm qua, hành động hôm nay.
https://dethivan.com/

32

Sau sự chuyển đổi mô hình Nhà nước quan liêu bao cấp, sang thể chế
chính trị theo mô hình nhà nước “pháp quyền”, bên cạnh thành tự to lớn
chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều thách thức thậm chí mắc phải một số
yếu kém, khuyết điểm, trong đó, nạn tham nhũng có chiều hướng càng phức
tạp, nặng nề. Để khắc phục Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết,
chỉ thị, văn bản quy phạm pháp luật để phát huy vai trò xã hội trong công tác
đấu tranh và phòng chống tham nhũng như:
- Nghị quyết chuyên đề số 14-NQ/TW ngày 15/5/1996 được coi là biện
pháp quan trọng; Trong đó Bộ Chính Trị có nêu tuyên bố về lãnh đạo cuộc
đấu tranh PCTN: “Đấu tranh chống tham nhũng là bộ phận cấu thành quan
trọng của toàn bộ sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Đảng và nhân dân ta
hiện nay, nó góp phần nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường hiệu
lực quản lý của Nhà nước, xây dựng Đảng và kiện toàn bộ máy nhà nước
trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân”; Đồng thời
nghị quyết đã chỉ ra rõ vai trò của các tổ chức chính trị xã hội, quần chúng
nhân dân và báo chí trong đấu tranh PCTN: “Huy động và phối hợp chặt chẽ
mọi lực lượng đấu tranh chống tham nhũng. Xác định rõ trách nhiệm của tổ
chức đảng và thủ trưởng chính quyền, xây dựng, kiện toàn các cơ quan bảo vệ
pháp luật làm nòng cốt; nêu cao trách nhiệm của tổ chức chính trị - xã hội,
động viên tích cực của nhân dân, phát huy vai trò của các phương tiện thông
tin đại chúng phải có kế hoạch giáo dục, động viên và tổ chức cho nhân dân
tham gia tích cực đấu tranh chống tham nhũng”.
- Nghị quyết TW 6 ( lần 2 ) khoá VIII tiếp tục khẳng định vai trò của
nhân dân, của báo chí trong PCTN: “Sử dụng đồng bộ hệ thống giám sát cán
bộ, đảng viên, nhất là sự giám sát của tổ chức đảng, trước hết là từ chi bộ, sự
giám sát của nhân dân, sự giám sát của công luận… Chỉ đạo các cơ quan
thông tin đại chúng nêu gương “người tốt, việc tốt” giới thiệu kinh nghiệm https://dethivan.com/

33

của các điển hình tiên tiến; lên án cái xấu, cái ác, tích cực đấu tranh chống
tham nhũng lãng phí…”.
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành TW khoá IX chỉ rõ “xây
dựng cơ chế để phát huy quyền làm chủ, quyền giám sát của nhân dân đối với
tổ chức đảng, đảng viên”; “thực hiện khẩn trương cải cách hành chính, đẩy lùi
quan liêu, tham nhũng, lãng phí, nhũng nhiễu nhân dân. Quan tâm đặc biệt
đến đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa,…”.
- Tại Đại hội X của Đảng đã đặt ra nhiệm vụ đấu tranh PCTN là một
nhiệm vụ trọng tâm của các hệ thống chính trị, trong đó đặc biệt nêu cao vai
trò của các tổ chức đoàn thể, của quần chúng nhân dân, các tổ chức mặt trận,
các hiệp hội ngành nghề và báo chí, truyền thông. Qua đó khẳng định PCTN
không phải là nhiệm vụ riêng của các cơ quan thanh tra, kiểm sát, điều tra,
kiểm toán…mà là nhiệm vụ chung của toàn xã hội.
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành TW đảng khoá X về
“tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, lãng phí” đã đề ra
5 quan điểm chỉ đạo đối với công tác PCTN, lãng phí, trong đó, vai trò của xã
hội được coi là định hướng quan trọng: “PCTN, lãng phí đạt được mục tiêu đề
ra cần phải có sự tham gia của cả hệ thống chính trị và của toàn dân. Được sự
lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, với sự tham gia tích cực của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên và của các tầng lớp
nhân dân, công tác PCTN được triển khai từ TW đến cơ sở, từ trong Đảng,
trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị cho đến toàn xã hội”.
- Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành TW Đảng khoá X đã kiểm điểm,
đánh giá hai năm thực hiện Nghị quyết TW 3, khoá X. Nghị quyết Hội nghị
này đã đưa ra phương hướng, nhiệm vụ công tác PCTN trong thời gian tới là:
“Các cấp uỷ cần xác định công tác PCTN, lãng phí là một trong những trọng https://dethivan.com/

34

tâm công tác lớn, thường xuyên để tập trung chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc và
đánh giá việc thực hiện; tang cường trách nhiệm của người đứng đầu; phát
huy vai trò, trách nhiệm các cơ quan giám sát của Đảng, Nhà nước, Mặt trận
tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên”.
- Nghị quyết Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định lại quan điểm “Phát
huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và các cơ quan thông tin
đại chúng trong việc phát hiện, đấu tranh, phòng, chông tham nhũng”
16
.
- Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị về việc
ban hành “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội” đã nêu rõ mục đích của giám sát là
nhằm, “Góp phần xây dựng và thực hiện đúng các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn
hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại; kịp thời phát hiện những sai
sót, khuyết điểm, yếu kém và kiến nghị sửa đổi, bổ sung các chính sách cho
phù hợp; phát hiện, phổ biến những nhân tố mới, những mặt tích cực; phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước trong
sạch, vững mạnh”. Quy chế xác định chủ thể giám sát là Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội từ TW đến cơ sở, bao gồm Công
đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam và Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh; đối tượng giám sát là các cơ quan, tổ chức từ Trung ương đến cơ
sở; cán bộ, đảng viên, đại biểu dân cử, công chức, viên chức nhà nước.
Như vậy có thể thấy:
(i) Theo chiều dài lịch sử, với các văn kiện và Nghị quyết nêu trên,
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định nhất quán vai trò quan

16
Vũ Công Giao, Nguyễn Quốc Văn (2017), Phát huy vai trò của xã hội trong phòng chống tham
nhũng (sách chuyên khảo), Nhà xuất bản Hồng Đức, Hà Nội, trang 23,24
https://dethivan.com/

35

trọng của phía xã hội trong PCTN, coi phát huy vai trò của xã hội là
giải pháp quan trọng hàng đầu trong PCTN.
(ii) Phát huy vai trò của phía xã hội trong PCTN là quan điểm tích cực
của Đảng Cộng sản Việt Nam, kế thừa và vận dụng tư tưởng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”
trong thực tiễn PCTN.(1)
(iii) Tuy nhiên, đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam chưa ban hành Nghị
quyết chuyên đề về phát huy vai trò của xã hội trong PCTN; các văn
kiện và Nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam đều chưa đề cập
đến vai trò của xã hội dân sự trong PCTN
17
.
2.2 Khung pháp luật cơ bản
2.2.1 Tổng quan
Tinh thần thượng tôn pháp luật là nển tảng vững chắc xây dựng Nhà
nước pháp quyền do dân và vì dân; Hợp tác quốc tế và thực thi trách nhiệm
quốc tế trong PCTN được thể hiện năm 2009 Việt Nam phê chuẩn chính thức
Công ước Liên hợp quốc về phòng chống tham nhũng (UNCAC); Từ đó cụ
thể hoá cao trong hệ thống văn bản pháp luật về PCTN, công tác xây dựng đã
gắn với nhưng vấn đề thực tiễn của thế giới cũng như của Việt Nam song
hành quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân và tập thể. Vai trò xã hội trong
PCTN đã thể hiện rõ nét trong các văn bản pháp luật, quy định pháp luật ngày
càng được minh bạch, công khai, sát thực tiễn đối với yêu cầu xã hội, ý thức
trách nhiệm công vụ được nâng lên.

17
Vũ Công Giao, Nguyễn Quốc Văn (2017), Phát huy vai trò của xã hội trong phòng chống tham
nhũng (sách chuyên khảo), Nhà xuất bản Hồng Đức, Hà Nội, trang 27

https://dethivan.com/

36

Trong những năm gần đây không thể không nhắc tới sự vào cuộc của
cả Hệ thống chính trị với “Không có vùng cấm, không có ngoại lệ” và “Chiến
lược Quốc gia về PCTN” được ban hành theo Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày
12/5/2009 của Chính phủ. Với một quan điểm và tinh thần nhất quán: “PTCN
là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy
sức mạnh tổng hợp của các ngành, các cấp, nhấn mạnh trách nhiệm người
đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị, đề cao vai trò xã hội, các tổ chức
đoàn thể và quần chúng nhân dân”. Cụ thể hoá đi vào nề nấp với nhiều văn
bản pháp luật được Quốc hội thông qua, với nội dung và hình thức đã đề cập
tương đối toàn diện những vấn đề liên quan vai trò của xã hội trong PCTN,
mang lại niềm tin cho nhân dân và cử tri trên cả nước. Vấn đề PCTN được
chuyên môn cao thông qua Luật PCTN 2005, sửa đổi các năm 2007 và 2012
và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật PCTN. Sắp tới tháng 7/2019 Luật
PCTN 2018 có hiệu lực với nhiều điểm mới quan trọng như: Tăng lên 10
chương, trong đó mở rộng đối tượng kê khai tài sản, thu nhập, thêm một số tài
sản, thu nhập cần phải kê khai và nêu cao hơn nữa tinh thần dân chủ xã hội.
Vai trò PCTN của xã hội được nêu cao trong Luật Mặt trận tổ quốc Việt Nam
năm 1999 và năm 2015, khẳng định MTTQ là cơ quan tuyên truyền, vận động
nhân dân thực hiện quyền làm chủ, thực hiện đường lối, chủ trưởng của Đảng,
Nhà nước; thực hiện giám sát và phản biện xã hội; MTTQ đã và đang là cơ
quan đại diện cho nhiều tổ chức xã hội, các tầng lớp xã hội thúc đẩy phong
trào phòng, chống tham nhũng trong xã hội. Bằng nhiều cách thể hiện, PCTN
còn được thể hiện trực tiếp qua Luật thanh tra năm 2004, 2010, Luật tiếp công
dân năm 2013, Luật khiếu nại năm 2011, Luật tố cáo năm 2018 và nhiều nghị
định cụ thể hướng dẫn thi hành luật; thể hiện chuyên môn hoá đa dạng trong
từng vấn đề, vụ việc PCTN hiện nay nắm bắt được nhu cầu và chiều hướng
thay đổi của các ngành nghê và xã hội. PCTN thể hiện gián tiếp qua nhiều văn https://dethivan.com/

37

bản quy pháp luật như: Luật Công đoàn năm 2013, Luật An ninh mạng, Luật
Báo chí năm 2016, Luật tiếp cận thông tin năm 2016 và nhiều nghị định
hướng dẫn thi hành luật… Việc lồng ghép thể hiện tính cập nhật và vô cùng
cấp bách trong nhiều lĩnh vực đời sống, xã hội đã thúc đẩy mạnh mẽ, tăng
cường vai trò xã hội, hệ thống chính trị trong công cuộc đẩy lùi suy thoái
tham nhũng.
Kết quả thi hành pháp luật đã có nhiều vụ việc suy thoái được xử lý
nghiêm minh với hình sự hoá các tội danh được quy định Bộ luật hình sự
2015 ( sửa đổi, bổ sung năm 2017), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ
luật hình sự 2015 ( Luật số 12/2017/QH14), Bộ luật đã có thay đổi cập nhật
tạo thành sợi dây kết nối với các Luật khác để kịp thời xử lý tội phạm về tham
nhũng. Qua đó phát huy được vai trò xã hội trong PCTN rất phong phú, đa
dạng, với nhiều hình thức pháp lý và hiệu lực khác nhau, tạo nên sự nghiêm
minh và thượng tôn pháp luật !
2.2.2 Cơ sở pháp lý
Bảng: Khung pháp luật về phòng, chống tham nhũng của Việt Nam
hiện nay

Tên văn bản Nội dung Tóm tắt
1. Công ước quốc
tế

Công ước Liên hợp
quốc về phòng,
chống tham nhũng
(UNCAC)

Công ước Liên hợp quốc
về phòng chống tham
nhũng

Các quy định của Công ước đề
cập đến 05 vấn đề về tham
nhũng, bao gồm: (i) các biện
pháp phòng ngừa; (ii) hình sự
hóa và thực thi pháp luật; (iii)
hợp tác quốc tế; (iv) thu hồi tài https://dethivan.com/

38

sản; (v) hỗ trợ kỹ thuật và trao
đổi thông tin. Việt Nam chính
thức phê chuẩn Công ước này
năm 2009.

2. Luật Phòng,
chống tham nhũng

Luật Phòng, chống
tham nhũng năm
2018
Luật số
36/2018/QH14

Luật này quy định về
phòng ngừa, phát hiện
tham nhũng; xử lý tham
nhũng và hành vi khác vi
phạm pháp luật về phòng,
chống tham nhũng.

Gồm 10 chương, 96 điều
Chương 1: Những quy định
chung
Chương 2: Phòng ngừa tham
nhũng trong cơ quan, tổ chức,
đơn vị
Chương 3: Phát hiện tham
nhũng trong cơ quan, tổ chức,
đơn vị
Chương 4: Chế độ trách nhiệm
của người đứng đầu cơ quan tổ
chức, đơn vị trong phòng
chống tham nhũng
Chương 5: trách nhiệm của xã
hội trong phòng, chống tham
nhũng
Chương 6: Phòng, chống tham
nhũng trong doanh nghiệp, tổ
chức khu vực ngoài nhà nước
Chương 7: Trách nhiệm của cơ https://dethivan.com/

39

quan nhà nước trpng phòng,
chống tham nhũng
Chương 8: Hợp tác quốc tế về
phòng, chống tham nhũng
Chương 9: Xử lý tham nhũng
và hành vi khác vi phạm pháp
luật về phòng chống tham
nhũng
Chương 10: Điều khoản thi
hành
Luật Phòng, chống
tham nhũng năm
2005
Luật số
55/2005/QH11
Ban hành các quy định cụ
thể về phòng, chống tham
nhũng trong khu vực Nhà
nước. Ngoài ra, luật này
đề cập đến vai trò của xã
hội (Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức
thành viên, báo chí, doanh
nghiệp, công dân và Ban
thanh tra nhân dân) trong
phòng, chống tham nhũng.

Gồm 8 chương, 92 điều
Chương 1: Những quy định
chung
Chương 2: Phòng ngừa tham
nhũng
Chương 3: Phát hiện tham
nhũng
Chương 4: Xử lý hành vi tham
nhũng và các hành vi vi phạm
pháp luật khác
Chương 5: Tổ chức, trách
nhiệm và hoạt động phối hợp
của các cơ quan Thanh tra,
Kiểm toán nhà nước, Điều tra,
Viện kiểm sát, Toà án và của
cơ quan, đơn vị hữu quan
trong phòng chống tham nhũng https://dethivan.com/

40

Chương 6: Vai trò và trách
nhiệm của xã hội trong phòng,
chống tham nhũng
Chương 7: Hợp tác quốc tế về
phòng, chống tham nhũng
Chương 8: Điều khoản thi
hành

Luật Phòng, chống
tham nhũng sửa
đổi năm 2007
Luật số
01/2007/QH12
Bổ sung vào Luật năm
2005 quy định thành lập
Ban chỉ đạo tỉnh, thành
phố trực thuộc TW về
phòng, chống tham nhũng.
Sửa đổi, bổ sung một số điều
của luật phòng, chống tham
nhũng : Điều 73 và Điều 74
được sửa đổi, bổ sung.
Luật Phòng, chống
tham nhũng sửa đổi
năm 2012
Luật số
27/2012/QH13

Làm rõ Luật năm 2005,
2007 về các quy định liên
quan đến (i) công khai
minh bạch trong một số
lĩnh vực cụ thể, (ii) trách
nhiệm giải trình, (iii) bãi
bỏ quy định về Ban chỉ
đạo phòng chống tham
nhũng.

Sửa đổi, bổ sung của luật
phòng, chống tham nhũng;
khoản a, điểm b của Điều 12,
Điều 14, Điều 18, Điều 21,
Điều 26a, Điều 26b, Điều 26c,
Điều 26d, Điều 30, Điều 32a,
Điều 46a, Điều 46b, Điều 47,
Điều 47a, Điều 53a, Điều 77.
Nghị định Chính
phủ ban hành số
47/2007/NĐ-CP
Hướng dẫn Luật Phòng,
chống tham nhũng về vai
trò, trách nhiệm của xã hội
trong phòng, chống tham
Gồm 7 chương và 28 điều:
Chương 1: Những quy định
chung
Chương 2: Trách nhiệm của https://dethivan.com/

41

nhũng cơ quan Nhà nước trong việc
phối hợp với Uỷ ban Mặt trận
tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức thành viên trong phòng,
chống tham nhũng
Chương 3: Vai trò và trách
nhiệm của báo chí trong
phòng, chống tham nhũng
Chương 4: Vai trò trách nhiệm
của Doanh nghiệp, Hiệp hội
doanh nghiệp, Hiệp hội ngành
nghề trong phòng chống tham
nhũng.
Chương 5: Trách nhiệm của
Ban thanh tra nhân dân trong
phòng, chống tham nhũng
Chương 6: Trách nhiệm của
công dân trong phòng, chống
tham những
Chương 7: Điều khoản thi
hành
Nghị định Chính
phủ ban hành số
59/2013/NĐ-CP

Quy định chi tiết một số
điều của Luật phòng,
chống tham nhũng

Gồm 9 chương và 64 điều
Chương 1: Những quy định
chung
Chương 2: Công khai, minh
bạch trong hoạt động của cơ
quan, tổ chức, đơn vị https://dethivan.com/

42

Chương 3: Tạm đình chỉ, tạm
thời chuyển vị trí công tác
khác đối với cán bộ, công
chức, viên chức có hành vi vi
phạm pháp luật liên quan đến
tham nhũng
Chương 4: Chế độ thông tin,
báo cáo về phòng, chống tham
nhũng
Chương 5: Chế độ kiểm tra,
thanh tra việc thực hiên pháp
luật về phòng, chống tham
nhũng
Chương 6: Tố cáo hành vi
tham nhũng
Chương 7: Xậy dựng và thực
hiện các chế độ, định mức, tiêu
chuẩn
Chương 8: Những quy định
khác
Chương 9: Điều khoản thi
hành
Nghị định Chính
phủ ban hành số
78/2013/NĐ-CP
Quy định về về minh bạch
tài sản, thu nhập

Gồm 6 chương và 35 điều
Chương 1: Những quy định
chung
Chương 2: Kê khai tài sản, thu
nhập https://dethivan.com/

43

Chương 3: Công khai bản kê
khai và giải trình việc kê khai
tài sản, thu nhập
Chương 4: Xác minh tài sản,
thu nhập
Chương 5: Xử lý vi phạm các
quy định về minh bạch tài sản,
thu nhập
Chương 6: Tố chức thực hiện
Nghị định Chính
phủ ban hành số
107/2006/NĐ-CP

Quy định xử lý trách
nhiệm của người đứng đầu
cơ quan, tổ chức, đơn vị
khi để xảy ra tham nhũng
trong cơ quan, tổ chức,
đơn vị do mình quản lý,
phụ trách

Gồm 4 chương và 18 điều
Chương 1: Những quy định
chung
Chương 2: Xử lý kỷ luật đối
với người đứng đầu cơ quan tổ
chức, đơn vị
Chương 3: Thẩm quyền, quy
trình, thủ tục xử lý kỷ luật
Chương 4: Điều khoản thi
hành
Nghị định Chính
phủ ban hành số
211/2013/NĐ-CP

Sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số
107/2006/NĐ-CP về xử lý
trách nhiệm của người
đứng đầu cơ quan, tổ
chức, đơn vị khi để xảy ra
tham nhũng trong cơ quan,
tổ chức, đơn vị do mình
Sửa đổi bổ sung một số điều:
Điều 6, Điều 7, Điều 11, Điều
12, Điều 13, Điều 14, Điều 15,
Điều 17, https://dethivan.com/

44

quản lý, phụ trách

Quyết định của
Thủ Tướng Chính
Phủ ban hành số
64/2007/QĐ-TTg

Ban hành Quy chế về việc
tặng quà, nhận quà và nộp
lại quà tặng của cơ quan,
tổ chức, đơn vị có sử dụng
ngân sách nhà nước và của
cán bộ, công chức, viên
chức

Quyết định căn cứ Luật Tổ
chức Chính phủ, Luật Phòng,
chống tham nhũng, Luật ngân
sách nhà nước, Luật thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí.
Quyết định gồm 3 Điều.
3. Bộ luật Hình sự


Bộ luật số
100/2015/QH13

Bộ luật Hình sự 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017

Chương XXIII Bộ luật này quy
định một số tội phạm về tham
nhũng. Trong đó, có một số
quy định điều chỉnh tham
nhũng trong khu vực tư, bao
gồm: tội tham ô, đưa hối lộ,
nhận hối lộ và môi giới hối lộ.

Luật số
12/2017/QH14

Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Bộ luật Hình
sự 2015
Luật này sửa đổi, bổ sung, bãi
bỏ một số điều của Bộ luật
Hình sự 2015. Các quy định
liên quan đến tội phạm về
tham nhũng vẫn giữ nguyên.

4. Luật tiếp cận https://dethivan.com/

45

thông tin
Luật số
104/2016/QH13
Luật tiếp cận thông
tin năm 2016
Quy định về quy định về
việc thực hiện quyền tiếp
cận thông tin của công
dân, nguyên tắc, trình tự,
thủ tục thực hiện quyền
tiếp cận thông tin, trách
nhiệm, nghĩa vụ của cơ
quan nhà nước trong việc
bảo đảm quyền tiếp cận
thông tin của công dân.

Gồm 5 chương và 36 điều
Chương 1: Những quy định
chung
Chương 2: Công khai tông tin
Chương 3: Cung cấp thông tin
theo yêu cầu
Chương 4: Trách nhiệm bảo
đảm thực hiện quyền tiếp cận
thông tin của công dân
Chương 5: Điều khoản thi
hảnh
Nghị định số
13/2018/NĐ-CP
Quy định chi tiết và biện
pháp thi hành
Luật tiếp cận thông tin
năm 2006

Gồm 15 điều và Phụ lục hướng
dẫn
Quyết định số
1301/QĐ-BTP

Ban hành Quy chế cung
cấp thông tin cho công
dân của Bộ Tư pháp

Căn cứ Luật Tiếp cận thông tin
ngày 06 tháng 4 năm 2016;
Căn cứ Nghị định
số 13/2018/NĐ-CP ngày 23
tháng 01 năm 2018 của Chính
phủ quy định chi tiết và biện
pháp thi hành Luật Tiếp cận
thông tin;
Căn cứ Nghị định
số 96/2017/NĐ-CP ngày 16 https://dethivan.com/

46

tháng 8 năm 2017 của Chính
phủ quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu
tổ chức của Bộ Tư pháp;
Quy chế gồm 5 chương và 24
Điều, 4 phụ lục
5. Luật tố cáo
Luật số
25/2018/QH2014
Luật tố cáo năm
2018

Quy định về tố cáo và giải
quyết tố cáo đối với hành
vi vi phạm pháp luật trong
việc thực hiện nhiệm vụ,
công vụ và hành vi vi
phạm pháp luật khác về
quản lý nhà nước trong
các lĩnh vực; bảo vệ người
tố cáo; trách nhiệm của cơ
quan, tổ chức trong việc
quản lý công tác giải
quyết tố cáo.

Gồm chương và 67 Điều
Chương 1: Những quy định
chung
Chương 2: Quyền và nghĩa vụ
cuả người tố cáo, người bị tố
cáo, người giải quyết tố cáo
Chương 3: Giải quyết tố cáo
đối với hành vi vi phạm pháp
luật trong việc thực hiện nhiệm
vụ, công vụ
Chương 4: Giải quyết tố cáo
đối với hành vi vi phạm pháp
luật về quản lý nhà nước trong
các lĩnh vực
Chương 5: Trách nhiệm tổ
chức thực hiện kết luận nội
dung tố cáo
Chương 6: Bảo vệ người tố
cáo
Chương 7: Trách nhiệm của cơ https://dethivan.com/

47

quan, tổ chức trong việc quản
lý công tác giải quyết tố cáo
Chương 8: Khen thưởng và xử
lý vi phạm
Chương 9: Điều khoản thi
hành
6 Luật khiếu nại
Luật khiếu nại năm
2011
Luật số
02/2011/QH13
Quy định về khiếu nại và
giải quyết khiếu nại đối
với quyết định hành chính,
hành vi hành chính của cơ
quan hành chính nhà
nước, của người có thẩm
quyền trong cơ quan hành
chính nhà nước; khiếu nại
và giải quyết khiếu nại
quyết định kỷ luật cán bộ,
công chức; tiếp công dân;
quản lý và giám sát công
tác giải quyết khiếu nại.

Gồm 8 chương và 70 Điều
Chương 1: Những quy định
chung
Chương 2: Khiếu nại quyết
định hành chính, hành vi hành
chính
Chương 3: Giải quyết khiếu
nại
Chương 4: Khiếu nại, giải
quyết khiếu nại quyết định kỷ
luật cán bộ, công chức
Chương 5: Tiếp công dân
Chương 6: Trách nhiệm của cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền trong việc quản lý công
tác giải quyết khiếu nại
Chương 7: Xử lý vi phạm
Chương 8: Điều khoản thi
hành https://dethivan.com/

48

Nghị định Chính
phủ ban hành
số 75/2012/NĐ-CP

Quy định chi tiết một số
điều của Luật Khiếu nại
năm 2011

Gồm 6 chương và 35 Điều
Chương 1: Quy định chung
Chương 2: Khiếu nại, giải
quyết khiếu nại trong đơn vị sự
nghiệp công lập, Doanh nghiệp
Nhà nước
Chương 3: Nhiều người cùng
khiếu nại về một nội dung
Chương 4: Công khai quyết
định giải quyết khiếu nại; Thi
hành quyết định giải quyết
khiếu nại có hiệu lực pháp luật
Chương 5: Tiếp công dân
Chương 6: Điều khoản thi
hành
7. Luật báo chí
Luật báo chí năm
2016
Luật s ố
103/2016/QH13
Quy định về quyền tự do
báo chí, quyền tự do ngôn
luận trên báo chí của công
dân; tổ chức và hoạt động
báo chí; quyền và nghĩa
vụ của cơ quan, tổ chức,
cá nhân tham gia và có
liên quan đến hoạt động
báo chí; quản lý nhà nước
về báo chí

Gồm 9 chương và 61 Điều
Chương 1: Những quy định
chung
Chương 2: Quyền tự do báo
chí, quyền tự do ngôn luận trên
báo chí của công dân
Chương 3: Tổ chức báo chí
Chương 4: Hoạt động báo chí
Chương 5: Khen thưởng, thanh
tra và xử lý vi phạm trong hoạt
động báo chí https://dethivan.com/

49

Chương 6: Điều khoản thi
hành
Nghị định số
09/2017/NĐ-CP

Quy định về người phát
ngôn, chế độ phát ngôn và
cung cấp thông tin cho
báo chí của các cơ quan
hành chính nhà nước.

Gồm 3 chương và 12 Điều
Chương 1: Quy định chung
Chương 2: Phát ngôn và cung
cấp thông tin cho báo chí
Chương 3: Điều khoản thi
hành
8. Luật tiếp công
dân

Luật tiếp công dân
năm 2013
Luật s ố
42/2013/QH13
Quy định về trách nhiệm
tiếp công dân; quyền và
nghĩa vụ của người đến
khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị, phản ánh; việc tổ
chức hoạt động tiếp công
dân tại Trụ sở tiếp công
dân, địa điểm tiếp công
dân của cơ quan, tổ chức,
đơn vị và điều kiện bảo
đảm cho hoạt động tiếp
công dân
Gồm 9 chương và 36 Điều
Chương 1: Những quy định
chung
Chương 2: Quyền và nghĩa vụ
của người đến khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị, phản ánh;
Trách nhiệm của người tiếp
công dân
Chương 3: Tiếp công dân tại
trụ sở tiếp công dân ở TW, trụ
sở tiếp công dân cấp tỉnh, trụ ở
tiếp công dân cấp huyện; việc
tiếp công dân ở cấp xã
Chương 4: Tiếp công dân tại
cơ quan Hành chính nhà nước;
tại Toà án nhân dân, Viện
kiểm sát nhân dân, Kiểm toán https://dethivan.com/

50

nhà nước.
Chương 5: Tiếp công dân của
các cơ quan của Quốc hội, Đại
biểu Quốc hội, của Hội đồng
nhân dân và Đại biểu Hội đồng
nhân dân các cấp
Chương 6: Hoạt động tiếp
công dân của cơ quan, tổ chức,
đơn vị cá nhân
Chương 7: Trách nhiệm tiếp và
xử lý trường hợp nhiều người
cùng khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị, phản ánh về một nội
dung
Chương 8: Điều kiện bảo đảm
cho hoạt động tiếp công dân
Chương 9 : Điều khoản thi
hành
Nghị định Chính
phủ ban hành số
64/2014/NĐ-CP

Quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Tiếp
công dân 2013.

Gồm 6 chương và 23 Điều
Chương 1: Những quy định
chung
Chương 2: Tiếp công dân tại
các cơ quan thuộc chính phủ,
đơn vị sự nghiệp công lập
Chương 3: Nhiệm vụ, quyền
hạn, cơ cấu, tổ chức của các
ban tiếp công dân; Việc bố trí https://dethivan.com/

51

cơ sở vật chất của trụ sở tiếp
công dân, địa điểm tiếp công
dân.
Chương 4: Quy chế phối hợp
hoạt động tiếp công dân tại trụ
sở tiếp công dân.
Chương 5: Điều kiện bảo đảm
hoạt động tiếp công dân
Chương 6: Điều khoản thi
hành

9. Luật thanh tra
Luật thanh tra năm
2004 - Luật số
22/2004/QH11
Luật này quy định về tổ
chức, hoạt động thanh tra
nhà nước và thanh tra
nhân dân

Gồm 5 chương và 70 Điều
Chương 1: Những quy định
chung
Chương 2: Tổ chức, nhiệm vụ,
quyền hạn của các cơ quan
thanh tra nhà nước
Chương 3: Hoạt động thanh tra
Chương 4: Thanh tra nhân dân
Chương 5: Điều khoản thi
hành
Nghị định Chính
phủ ban hành số
99/2005/NĐ-CP
Quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều
của Luật thanh tra năm
2004
Gồm 5 chương và 41 Điều
Chương 1: Những quy định
chung
Chương 2: Tổ chức và hoạt
động của ban TTND ở xã, https://dethivan.com/

52

phường, thị trấn
Chương 3: Tổ chức và hoạt
động của ban TTND ở cơ quan
nhà nước, đơn vị sự nghiệp,
doanh nghiệp nhà nước
Chương 4: Khen thưởng và xử
lý vi phạm
Chương 5: Điều khoản cuối
cùng
Luật thanh tra năm
2010 - Luật số
56/2010/QH12
Quy định rõ ràng tổ chức,
hoạt động của Ban thanh
tra nhân dân và hoạt động
thanh tra

Gồm 7 chương và 78 điều
Chương 1: Những quy định
chung
Chương 2: Tổ chức, nhiệm vụ,
quyền hạn của cơ quan thanh
tra nhà nước; cơ quan được
giao thục hiện chức năng thanh
tra chuyên ngành
Chương 3: Thanh tra viên,
người được giao thực hiện
nhiệm vụ thanh tra chuyên
ngành, công tác viên thanh tra
Chương 4: Hoạt động thanh tra
Chương 5: Điều kiện bảo đảm
hoạt động của cơ quan thanh
tra nhà nước
Chương 6: Thanh tra nhân dân
Chương 7: Điều khoản thi https://dethivan.com/

53

hành
Nghị định số
86/2011/NĐ-CP
Quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều
của luật thanh tra 2010
Gồm 9 chương và 80 điều
Chương 1: Quy định chung
Chương 2: Nhiệm vụ, quyền
hạn, cơ cấu tổ chức của cơ
quan Thanh tra Nhà nước
Chương 3: Hoạt động thanh tra
Chương 4: Thanh tra lại
Chương 5: Trách nhiệm thực
hiện, theo dõi, kiểm tra, đôn
đốc việc thực hiện kêt luận
quyết định xử lý về thanh tra
Chương 6: Quản lý nhà nước
về công tác thanh tra
Chương 7: Trách nhiệm của
thủ trưởng cơ quan quản lý nhà
nước trong việc bảo đảm công
tác thanh tra
Chương 8: Xử lý vi phạm
Chương 9: Điều khoản thi
hành
10 Luật Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam

Luật Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam
1999
Luật số
Để nâng cao vai trò của
Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam trong sự nghiệp đổi
mới đất nước, góp phần
Gồm 4 chương và 18 điều
Chương 1: Những quy định
chung
Chương 2: Trách nhiệm và https://dethivan.com/

54

14/1999/QH10 thực hiện dân chủ xã hội
chủ nghĩa, tăng cường mối
liên hệ mật thiết giữa nhân
dân với Đảng và Nhà
nước, phát huy tinh thần
yêu nước, truyền thống đại
đoàn kết toàn dân - một
nhân tố quyết định thắng
lợi của cách mạng Việt
Nam;

quyền của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam.
Chương 3: Những bảo đảm
hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam.
Chương 4: Điều khoản thi
hành.
Luật Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam
2015- Luật số:
75/2015/QH13

Luật đã cụ thể hoá cao và
mở rộng vai trò, các quyền
và trách nhiệm của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam
trong hoạt động giám sát
và phối hợp các cơ cơ
quan khác để phát huy dân
chủ trong PCTN
Gồm 8 chương và 41 Điều
Chương 1: Những quy định
chung
Chương 2: Tập hợp, xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Chương 3: Đại diện, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đang của nhân dân
Chương 4: Tham gia xây dựng
nhà nước
Chương 5: Hoạt động giám sát
Chương 6: Hoạt động phản
biện xã hội
Chương 7: Điều kiện bảo đảm
hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc https://dethivan.com/

55

Chương 8: Điều khoản thi
hành
11 Luật công đoàn
Luật Công đoàn
năm 1990 -Luật số:
40-LCT/HĐNN8
Luật cụ thể vai trò của
công đoàn trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm quyền dân chủ và
lợi ích của người lao động

Gồm 4 chương và 19 điều
Chương 1: Những quy định
chung
Chương 2: Quyền và trách
nhiệm của công đoàn
Chương 3: Những bảo đảm
hoạt công của công đoàn
Chương 4: Điều khoản cuối
cùng
Luật Công đoàn
năm 2012- Luật số:
12/2012/QH13
Bổ sung “ Công đoàn
tham gia thanh tra hoạt
động của cơ quan nhà
nước “
Gồm 4 chương và 33 điều
Chương 1: Những quy định
chung.
Chương 2: Quyền và trách
nhiệm của Công đoàn và Đoàn
viên công đoàn.
Chương 3: Trách nhiệm của
Nhà nước, cơ quan, tổ chức,
doanh nghiệp đối với công
đoàn.
Chương 4: Những bảo đảm
hoạt động của công đoàn.
Chương 5: Giải quyết tranh
chấp, xử lý vi phạm pháp luật
về công đoàn. https://dethivan.com/

56

Chương 6: Điều khoản thi
hành.
12. Chiến lược
Quốc gia về
phòng, chống
tham nhũng đến
năm 2020

Chính phủ ban
hành - Số: 21/NQ-
CP ( 21/5/2019)
Chiến lược Quốc gia
phòng, chống tham nhũng
đến năm 2020
“ PCTN là trách nhiệm
của cả hệ thống chính trị
dưới sự lãnh đạo của
Đảng, phát huy sức mạnh
tổng hợp của các ngành, tổ
chức, đơn vị, đề cao vai
trò của xã hội, các tổ chức
đoàn thể và quần chúng
nhân dân”.
Căn cứ Luật Tổ chức Chính
phủ ngày 25 tháng 12 năm
2001;
Căn cứ Luật Phòng, chống
tham nhũng ngày 29 tháng 11
năm 2005;
Căn cứ Nghị quyết số 04-
NQ/TW ngày 21 tháng 08 năm
2006 của Hội nghị lần thứ ba
Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa X về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với
công tác phòng, chống tham
nhũng, lãng phí;
Căn cứ Nghị quyết số
27/2008/NQ-CP ngày 28 tháng
11 năm 2008 của Chính phủ;
Xét đề nghị của Tổng Thanh
tra,
Nghị quyết gồm 3 điều thi https://dethivan.com/

57

hành


* Thuận lợi của khung pháp luật PCTN của Việt Nam:
- Trong những năm vừa qua Việt Nam đã xây dựng được số lượng văn
bản pháp lớn và đồng thời không ngừng hoàn thiện các văn bản, các quy định
liên quan đến phát huy vai trò xã hội trong PCTN. Điều này được thể hiện
sâu, rộng và sự tích cực hưởng hứng của toàn thể nhân dân trong xã hội.
- Về nội dung, các văn bản pháp luật đã đề cập tương đối toàn diện
những vấn đề liên quan đến phát huy vai trò của xã hội trong PCTN; Trong
đó, có những quy định mới như: công khai minh bạch, trách nhiệm giải trình
của công chức và cơ quan nhà nước, quyền của người tố cáo, tố giác (bảo vệ
người tố cáo, tố giác tham nhũng) và hành vi vi phạm pháp luật, khen thưởng
người tố cáo tham nhũng, tiếp công dân…
- Trong các Luật có liên quan PCTN đa số cách thể hiện câu từ và nội
dung đã khoa học, dễ hiểu; Các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành luật đã
cập nhật nhanh chóng giúp cho việc áp dụng luật được thuận lợi hơn, tốt hơn.
Các Bộ, ban ngành, cơ quan, hệ thống thông tin truyền thông đã tuyền tải tốt
về chính sách pháp luật, vận dụng có hiệu quả và đưa vào thực công việc
nhanh chóng, giúp các cá nhân và tổ chức hiểu rõ quyền và trách nhiệm của
mình với các luật mới ban hành.
* Hạn chế, bất cập của khung khổ pháp luật PCTN của Viêt Nam:
- Hình thức văn bản: Việt Nam chưa có văn bản chính trị hoặc pháp lý
chuyên biệt, tập trung về phát huy vai trò của xã hội trong PCTN; Các quy https://dethivan.com/

58

định về vấn đề này hiện tồn tại tản mát, khu biệt trong nhiều Nghị quyết của
Đảng và văn bản quy phạm pháp luật
18
.
- Về nội dung văn bản:
+ Các quy định về công khai, minh bạch còn chưa mang tính bao quát
và chưa thực chất, đặc biệt là chưa làm rõ về nguyên tắc, hình thức, nội dung,
thời gian thực hiện công khai, minh bạch trên cơ sở trả lời các câu hỏi: Ai
công khai, minh bạch với ai? Công khai, minh bạch cái gì? Công khai, minh
bạch như thế nào? Khi nào công khai, minh bạch? Xử lý vi phạm quy định về
công khai, minh bạch như thế nào?
19
.
+ Việc phát huy vai trò xã hội trong PCTN còn mang tính nguyên tắc,
thiếu nhiều liên kết và mới chỉ ghi nhận ở quan điểm chính trị, các văn bản
pháp luật còn chưa nhiều quyết tâm cao trong việc khẳng định vai trò thứ yếu
của phĩa xã hội trong PCTN; cũng như còn khoảng cách xã hội thứ bậc quan
hệ nhà nước với công dân.
+ Xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi
để xảy ra hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức đơn vị mình còn thiếu rõ
ràng, chưa thực chất và không khuyến khích được tính chủ động của người
đứng đầu trong phòng ngừa, phát hiện hành vi tham nhũng. Các quy định hiện
hành còn thụ động và bỏ ngỏ trong việc trao quyền cho tổ chức xã hội trong
cuộc chiến chống tham nhũng.
+ Luật PCTN các tiến bộ mới chỉ nhất định dừng lại ở việc dành một
chương riêng để quy định vai trò xã hội trong PCTN; Còn cụ thể hơn các quy

18
Vũ Công Giao, Nguyễn Quốc Văn (2017), Phát huy vai trò của xã hội trong phòng, chống tham
nhũng (sách chuyên khảo), Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, trang 77
19
Thanh tra Việt Nam (2016) Một số bất cập chính khi thực thi Luật PCTN trong 10 năm qua


https://dethivan.com/

59

định ở chương đó còn rất khái quát. Các chủ thể xã hội tham gia phòng chống
tham nhũng đã mở rộng tuy nhiên vẫn còn thiếu chủ thể tổ chức phi chính
phủ, tổ chức quốc tế; Nhiều lần sửa đổi, bổ sung Luật PCTN vẫn chưa được
hoàn thiện dù đã được quốc tế và nhiều tổ chức khuyến nghị bổ sung.
+ Các biện pháp bảo vệ người trong tố cáo tham nhũng, còn thiếu linh
hoạt và chủ động. Chưa thể hiện được biện pháp bảo vệ hiệu quả, chưa đề cao
được sự đãi ngộ và tri ân tốt đối với người đã tình nguyện hy sinh để bảo vệ
công lý. Pháp luật PCTN còn thiếu nhiều công cụ bảo vệ hữu hiệu cho người
tố cáo, khen thưởng còn chưa kịp thời.
+ Việc quy định hành vi tham nhũng trong Luật PCTN và tội phạm về
tham nhũng trong Bộ luật hình sự chưa hợp lý cũng dẫn đến hiệu quả xử lý
hành vi tham nhũng và thu hồi tài sản tham nhũng còn thấp; Các quy định về
minh bạch tài sản, thu nhập chưa giúp kiểm soát biến động về thu nhập, còn
phức tạp về trình tự, thủ tục công khai bản kê khai, giải trình, xác minh tài
sản, thu nhập khi có yêu cầu; thiếu quy định về việc xử lý các tài sản, thu
nhập không được giải trình một cách hợp lý và thời hạn người kê khai tài sản,
thu nhập có nghĩa vụ giải trình về tài sản, thu nhập.
- Về kỹ thuật xây dựng văn bản:
+ Việc thiếu một khái niệm tổng thể làm cho các quy định cụ thể thiếu
tính hệ thống, dễ bị sót. Hơn thế, quy định của Luật PCTN và trong các văn
bản pháp luật chưa có đồng bộ, thiếu cụ thể, thiếu biện pháp đảm bảo để thực
thi có hiệu quả. Trên thực tế và theo kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế
giới, kiểm soát xung đột lợi ích không chỉ liên quan đến mỗi cá nhân cán bộ,
công chức mà cần phải đặt họ trong các mối quan hệ khác nhau, đặc biệt là
trong quan hệ công vụ, quan hệ gia đình, quan hệ thân thích và các quan hện
xã hội nói chung. Lợi ích cá nhân mà cán bộ, công chức hướng tới có thể là
hữu hình (tài sản và các lợi ích vật chất khác) hoặc vô hình (giá trị tinh thần https://dethivan.com/

60

hoặc các lợi ích phi vật chất khác); lợi ích cá nhân đó có thể trực tiếp mang lại
cho cán bộ, công chức, vợ/ chồng, con, gia đình của cán bộ, công chức hoặc
những người thân khác; lợi ích cá nhân có thể xuất hiện trước, trong hoặc sau
khi có quyết định hoặc hành vi quản lý
20
.
+ Luật PCTN và các văn bản pháp luật hiện hành chưa đưa ra một khái
niệm chính thức về xung đột lợi ích, kiểm soát xung đột lợi ích mà bước đầu
chỉ ghi nhận và đưa ra các biện pháp giải quyết các tình huống xung đột lợi
ích cụ thể, liên quan đến việc tặng quà và nhận quà tặng (lợi ích vật chất); có
hành vi hoặc ra quyết định (hoặc gây ảnh hưởng) có lợi cho cá nhân hoặc
người thân của người thực hiện hành vi, ra quyết định; đầu tư và chia sẻ lợi
ích với doanh nghiệp và sử dụng lợi thế thông tin có được từ vị trí công tác.
Việc thiếu một khái niệm tổng thể làm cho các quy định cụ thể thiếu tính hệ
thống, dễ bị sót. Hơn thế, quy định của Luật PCTN và trong các văn bản pháp
luật chưa có đồng bộ, thiếu cụ thể, thiếu biện pháp đảm bảo để thực thi có
hiệu quả. Trên thực tế và theo kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới,
kiểm soát xung đột lợi ích không chỉ liên quan đến mỗi cá nhân cán bộ, công
chức mà cần phải đặt họ trong các mối quan hệ khác nhau, đặc biệt là trong
quan hệ công vụ, quan hệ gia đình, quan hệ thân thích và các quan hệ xã hội
nói chung. Lợi ích cá nhân mà cán bộ, công chức hướng tới có thể là hữu hình
(tài sản và các lợi ích vật chất khác) hoặc vô hình (giá trị tinh thần hoặc các
lợi ích phi vật chất khác); lợi ích cá nhân đó có thể trực tiếp mang lại cho cán
bộ, công chức, vợ/ chồng, con, gia đình của cán bộ, công chức hoặc những
người thân khác; lợi ích cá nhân có thể xuất hiện trước, trong hoặc sau khi có
quyết định hoặc hành vi quản lý.

20
Thanh tra Việt Nam (2016) Một số bất cập chính khi thực thi Luật PCTN trong 10 năm qua
http://mt.gov.vn/thanhtra/tin-tuc/1108/41849/mot-so-bat-cap-chinh-khi-thuc-thi-luat-pctn-trong-10-
nam-qua.aspx , truy cập 30/3/2019
https://dethivan.com/

61

+ Còn nhiều quy định về trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền
trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giải quyết tố cáo nhằm nâng
cao hiệu quả phát hiện tham nhũng chưa có sự phân định rõ ràng nhằm tăng
cường tính chủ động và điều phối trong hoạt động phối hợp giữa các cơ quan.
Cụ thể Thanh tra nhân dân thực chất không phải là hoạt động thanh tra Nhà
nước mà chỉ là phương thức giám sát dân cử của nhân dân đối với hoạt động
của cơ quan; Tuy nhiên Ban thanh tra nhân dân vẫn được chế định trong Luật
Thanh tra năm 2004, năm 2010 chưa quy định rõ giữa hoạt động thanh tra của
Nhà nước và hoạt động giám sát của nhân dân gây nhiều hiểu lầm giữa hai
hoạt động này.
+ Quy định của Luật PCTN còn những “khoảng trống”/ sự “ngắt
quãng” quá trình phát hiện, xử lý hành vi tham nhũng bởi các cơ quan có
thẩm quyền. Qua đánh giá về cơ chế phối hợp trong phát hiện, xử lý tham
nhũng thì việc tồn tại các “khoảng trống”, thiếu tính kế thừa giữa các cơ quan
có thẩm quyền chính là nguyên nhân dẫn đến hiệu quả phối hợp còn nhiều
hạn chế
21
.
Tiểu kết chương 2
Tiếp nối chương 1, tại chương 2 đã đi sâu tới “Đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của nhà nước trong việc phòng chống tham nhũng ở Việt
Nam”. Đề cập tới tổng quan lịch sử song song với thực tiễn hiện tại, để thấy
được sự nhất quán của Đảng đối với PCTN. Nêu rõ khung chính sách pháp
luật của Nhà nước trong việc PCTN, từ đó đưa ra được thuận lợi và hạn chế
bất cập của khung pháp Luật PCTN Việt Nam.


21
Thanh tra Việt Nam (2016) Một số bất cập chính khi thực thi Luật PCTN trong 10 năm qua
http://mt.gov.vn/thanhtra/tin-tuc/1108/41849/mot-so-bat-cap-chinh-khi-thuc-thi-luat-pctn-trong-
10-nam-qua.aspx , truy cập 30/3/2019
https://dethivan.com/

62

CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN CÔNG TÁC PHÒNG CH ỐNG THAM
NHŨNG Ở VIỆT NAM

3.1 Hoạt động Ban chỉ đạo tw về phòng chống tham nhũng từ 2013 – 2018
Trước tình hình tham nhũng ngày càng ra tăng từ trung ương tới địa
phương, gây nhũng nhiễu và bức xúc trong nhân dân cả nước. Bối cảnh đó
ngày 1/2/2013, Bộ Chính trị ban hành Quyết định 162-QĐ/TW thành lập Ban
Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng chịu trách nhiệm trước Bộ
Chính trị, Ban Bí thư trong việc chỉ đạo, phối hợp, kiểm tra, đôn đốc công tác
phòng, chống tham nhũng phạm vi cả nước.
Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng có quyền hạn
(theo Điều 3 Chương 1 tại Quy định số 163-QĐ/TW): (i) Yêu cầu các đảng
đoàn, ban cán sự đảng, tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương, cơ
quan, tổ chức, đơn vị, người có thẩm quyền báo cáo về công tác lãnh đạo, chỉ
đạo và kết quả thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng; việc xử lý một
số vụ, việc tham nhũng; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý thông tin về
hành vi tham nhũng; thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng tại cơ
quan, tổ chức, đơn vị; (ii) Yêu cầu các đảng đoàn, ban cán sự đảng, tỉnh ủy,
thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương lãnh đạo, chỉ đạo cơ quan, tổ chức
và người có thẩm quyền kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra làm rõ các vụ,
việc có dấu hiệu tiêu cực, tham nhũng; chỉ đạo việc phúc tra khi cần thiết; (iii)
Chỉ đạo, phối hợp các cơ quan kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố,
xét xử đối với các vụ, việc tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp hoặc dư luận
xã hội đặc biệt quan tâm. Trong trường hợp cần thiết, trực tiếp chỉ đạo về chủ
trương xử lý đối với một số vụ, việc cụ thể hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức và
người có thẩm quyền giải quyết lại nhằm bảo đảm việc xử lý nghiêm minh,
đúng pháp luật; (iv) Kiến nghị với Bộ Chính trị, Ban Bí thư xem xét, quyết https://dethivan.com/

63

định hoặc trực tiếp chỉ đạo các cơ quan có thẩm quyền tạm đình chỉ công tác,
sinh hoạt đảng, sinh hoạt cấp ủy theo phân cấp quản lý khi cán bộ, đảng viên
có dấu hiệu tham nhũng hoặc có hành vi cản trở, gây khó khăn đối với hoạt
động phòng, chống tham nhũng; (v) Chỉ đạo Ủy ban Kiểm tra Trung ương,
cấp ủy các cấp xem xét, xử lý kỷ luật đối với đảng viên thuộc phạm vi quản
lý; yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị và người có thẩm quyền xử lý kỷ luật về
chính quyền đối với cán bộ, công chức có hành vi tham nhũng nhưng chưa
đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự; (vi) Được sử dụng bộ máy tổ
chức, cán bộ, công chức, viên chức của các cơ quan, tổ chức có liên quan để
phục vụ nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng khi cần thiết.
Nhìn lại sau 5 năm Ban Chỉ đạo được thành lập (ngày 1-2-2013), nhất
là từ Đại hội XII của Đảng đến nay, cuộc đấu tranh PCTN đã có một bước
tiến mạnh, đạt được nhiều kết quả toàn diện, tích cực, rõ rệt, để lại dấu ấn tốt,
tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội, như đồng chí Tổng
Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định “Công tác PCTN, lãng phí, tiêu cực
đã trở thành phong trào, xu thế” được nhân dân đồng tình, đánh giá cao,
được các tổ chức quốc tế ghi nhận. Tham nhũng đang từng bước được kiềm
chế, ngăn chặn, đẩy lùi và có chiều hướng thuyên giảm, góp phần giữ vững ổn
định chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, củng cố niềm tin của cán
bộ, đảng viên và nhân dân, tạo động lực mới, khí thế mới để toàn Đảng, toàn
dân thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng.
3.1.1. Thuận lợi
Một là, quyết liệt chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ điều tra, truy tố, xét xử
nghiêm minh, kịp thời nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng, kinh tế đặc biệt
nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm, với mức án nghiêm khắc và
nhân văn; thực hiện đúng quan điểm chỉ đạo của Đảng và đồng chí Tổng Bí
thư “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, không có đặc quyền, bất kể https://dethivan.com/

64

người đó là ai”, tạo bước đột phá trong công tác PCTN. Ban Chấp hành
Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chỉ đạo đã lãnh đạo, chỉ đạo kiên
quyết; xử lý nghiêm minh, có lý, có tình một số cán bộ cao cấp cả đương chức
và đã nghỉ hưu, có vi phạm liên quan các vụ án tham nhũng, kinh tế đặc biệt
nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm. Từ khi thành lập đến nay,
Ban Chỉ đạo đã đưa 68 vụ án, 57 vụ việc tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng,
phức tạp vào diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo, đến nay đã kết thúc điều tra,
truy tố, xét xử sơ thẩm 40 vụ án với 500 bị cáo với các mức án (10 bị cáo với
11 án tử hình, 19 bị cáo với 20 án tù chung thân, 459 bị cáo tù có thời hạn từ
12 tháng đến 30 năm,...). Tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng đạt trên 31%; việc
kê biên, thu giữ tài sản trong các vụ án, vụ việc thuộc diện Ban Chỉ đạo theo
dõi, chỉ đạo đạt hơn 35 nghìn tỷ đồng, điển hình như: vụ án xảy ra tại Ngân
hàng TMCP Đại Tín hơn 10.000 tỷ đồng, vụ án xảy ra tại Ngân hàng TMCP
Xây dựng (giai đoạn I) hơn 6.000 tỷ đồng, vụ AVG hơn 8.500 tỷ đồng, vụ án
đánh bạc, tổ chức đánh bạc xảy ra tại Phú Thọ hơn 1.400 tỷ đồng... Một số vụ
án, vụ việc đặc biệt nghiêm trọng, mà lâu nay được cho là “vùng cấm, nhạy
cảm”, và nhiều vụ, việc kéo dài từ những năm trước đã được chỉ đạo xử lý dứt
điểm, nghiêm minh, có tác dụng cảnh tỉnh, răn đe, phòng ngừa tham nhũng có
hiệu quả. Đây là điểm sáng trong cuộc đấu tranh PCTN, thể hiện quyết tâm
của Đảng, Nhà nước cũng như hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo trong
cuộc đấu tranh PCTN vừa qua, được nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá
cao
22
.

22
Phan Đình Trạc – Bí thư T.Ư Đảng, Trưởng Ban Nội chính T.Ư (2018), Cuộc đấu tranh phòng,
chống tham nhũng 5 năm nhìn lại
http://tuyengiao.vn/dua-nghi-quyet-cua-dang-vao-cuoc-song/cuoc-dau-tranh-phong-chong-tham-
nhung-5-nam-nhin-lai-114311 , truy cập 31/3/2019
https://dethivan.com/

65

Hai là, chỉ đạo tăng cường kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, kịp
thời phát hiện và xử lý nghiêm minh các sai phạm, siết chặt kỷ luật, kỷ cương
góp phần đắc lực nâng cao hiệu quả công tác PCTN. Trong 5 năm qua, cấp
ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật Đảng 77.662 đảng viên vi
phạm, trong đó hơn 4.300 cán bộ, đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng, cố ý
làm trái. Riêng từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay đã thi hành kỷ luật hơn
500 tổ chức đảng và 35 nghìn đảng viên vi phạm, trong đó 1.300 đảng viên bị
kỷ luật do tham nhũng, cố ý làm trái; nhất là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật 56 cán
bộ, đảng viên thuộc diện Trung ương quản lý, trong đó có 11 đồng chí là Ủy
viên Trung ương, nguyên Ủy viên Trung ương, khai trừ Đảng 1 đồng chí Ủy
viên Trung ương - nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nhiều đồng chí là tướng lĩnh
trong lực lượng vũ trang. Đây là bước đột phá trong công tác kiểm tra, kỷ luật
của Đảng, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và bộ máy Nhà nước. Các
cơ quan thanh tra, kiểm toán tăng cường thanh tra, kiểm toán các lĩnh vực có
nhiều dư luận tiêu cực, tham nhũng; các dự án gây thất thoát, thua lỗ lớn, kéo
dài, dư luận xã hội quan tâm để phát hiện và xử lý nghiêm các sai phạm. Từ
năm 2013 đến nay, qua thanh tra, kiểm toán đã kiến nghị thu hồi, xử lý hơn
400 nghìn tỷ đồng và 18.525 ha đất, chuyển 515 vụ việc có dấu hiệu vi phạm
pháp luật hình sự sang cơ quan có thẩm quyền để điều tra, xử lý theo quy định
của pháp luật
23
.
Ba là, công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế về kinh tế - xã hội và
PCTN từng bước nâng cao “lấy lại công bằng trong xã hội”, từng bước hoàn

23
Phan Đình Trạc – Bí thư T.Ư Đảng, Trưởng Ban Nội chính T.Ư (2018), Cuộc đấu tranh phòng,
chống tham nhũng 5 năm nhìn lại
http://tuyengiao.vn/dua-nghi-quyet-cua-dang-vao-cuoc-song/cuoc-dau-tranh-phong-chong-tham-
nhung-5-nam-nhin-lai-114311 , truy cập 31/3/2019
https://dethivan.com/

66

thiện cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để “không thể tham nhũng”. Nhiều quy
định Đảng, Pháp luật được nêu cao, đi đôi với đó là giáo dục, phòng ngừa,
ngăn chặn, vừa là căn cứ để phát hiện và xử lý các sai phạm, tham nhũng.
Bốn là, công tác cán bộ; cải cách hành chính, công khai, minh bạch
trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị. Trung ương, Bộ Chính trị,
Ban Bí thư đã có nhiều đổi mới, nhất quán, rõ ràng, chỉ đạo giải quyết được
nhiều vấn đề tồn đọng trước đây trong công tác cán bộ, nhiều vụ việc bổ
nhiệm không đúng tiêu chuẩn, không đúng quy trình bị xử lý nghiêm; Các cấp
uỷ, chính quyền đã có sự quan tâm, giải quyết nhiều bức xúc và vướng mắc
trong thủ tục hành chính, tăng cường công khai minh bạch (tăng cường hành
chính điện tử), loại bỏ “giấy phép con”, cắt giảm nhiều thủ tục phiền hà cho
người dân và doanh nghiệp, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao
năng lực cạnh tranh quốc gia. Thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế,
phòng ngừa tiêu cực.
Năm là, tăng cường công tác thông tin tuyên truyền xã hội, phát huy
vai trò của Mặt trận Tổ quốc, nhân dân và báo chí trong PCTN. Các cơ quan
thông tấn, báo chí hợp tác, đồng hành cùng các cơ quan chức năng trong
PCTN để có những tin bài kịp thời và khách quan nhất, đấu tranh phản bác
luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch về công tác PCTN của Đảng và
chính quyền nhân dân.
Tăng cường thông tin truyền thông, giáo dục về PCTN tới đông đảo
tầng lớp trong xã hội để nâng cao nhận thức và phát huy hiệu quả vai trò của
toàn xã hội. Truyền thông phải định hướng tốt dư luận, song song với đó phải
công khai kết quả kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, xử lý các vụ việc, vụ án
tham nhũng, kinh tế; chủ động cung cấp thông tin về những vấn đề nhạy cảm,
dư luận xã hội quan tâm. https://dethivan.com/

67

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các tổ chức thành viên tăng
cường giám sát các lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng, gây nhiều bức
xúc trong nhân dân; tích cực tham gia phản biện xã hội, góp ý xây dựng đảng,
xây dựng chính quyền; phối hợp tổ chức thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ
sở, phát huy vai trò của các Ban Thanh tra nhân dân, ban giám sát đầu tư cộng
đồng góp phần hạn chế tiêu cực, tham nhũng ở cơ sở.
3.1.2. Thách thức
Một là, tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền,
giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm, xây dựng văn hóa tiết kiệm, không
tham nhũng; các cơ quan từ Trung ương đến địa phương phải thực hành đưa
pháp luật đi vào thực tiễn cuộc sống, đẩy lùi tham nhũng; bám sát nhân dân,
làm gương cho nhân dân, mẫu mực tiên phong thực hành văn hoá tiết kiệm,
chống lãng phí. Tuyên truyền giáo dục nhận thức cho cán bộ, phát huy vai trò
làm chủ của nhân dân.
Hai là, rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định về xây dựng, chỉnh đốn
Đảng và PCTN trong nội bộ Đảng, bảo đảm chặt chẽ, đồng bộ. Xây dựng,
hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật, khắc phục những sơ hở trong quản
lý kinh tế - xã hội và PCTN. Các quy định về Đảng ban hành phải tăng cường
tính nghiêm minh, kỷ luật, hình thành hệ thống các nguyên tắc và chuẩn mực
đạo đức áp dụng đối với cán bộ, đảng viên để xây dựng Đảng Cộng sản Việt
Nam ngày càng trong sạch vững mạnh. Cùng với đó là Định hướng xây dựng
hoàn thiện pháp luật của nhà nước khắc phục sơ hở trong quản lý kinh tế - xã
hội và PCTN, nhất là các lĩnh vực “nóng” dễ xảy ra tham nhũng như: đầu tư
công, xây dựng cơ sở hạ tầng…, tăng cường những giải pháp PCTN mới có
hiệu quả cao.
Ba là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng, siết
chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và bộ máy Nhà nước; tăng cường và nâng https://dethivan.com/

68

cao hiệu quả công tác giám sát, kiểm soát quyền lực để PCTN; Đổi mới bộ
máy tổ chức, nhất là người đứng đầu, chọn bộ phận tham mưu đủ phẩm chất
năng lực; Các cấp uỷ, tổ chức Đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải nêu
gương đi đầu, quản lý, giảm sát để kịp thời phát hiện, có biện pháp ngăn chặn
kịp thời các biểu hiện suy thoái trong cán bộ, công chức, đảng viên. Xử lý
nghiêm minh đúng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với các
trường hợp cụ thể, công khai minh bạch “không có vùng cấm – không có
ngoại lệ”; Khuyến khích toàn thể Đảng viên trong từng chi bộ của từng đơn vị
phát huy dân chủ bài chừ tham nhũng, có chính sách khuyến khích, bảo vệ
người tố giác tham nhũng hiệu quả, nhanh chóng và kịp thời.
Bốn là, thực hiện đúng các quy định về công khai, minh bạch, trách
nhiệm giải trình, hoàn thiện quy định để kiểm soát có hiệu quả tài sản, thu
nhập của người có chức vụ, quyền hạn, nhất là quản lý, kiểm tra, giám sát,
xác minh bản kê khai tài sản đối với cán bộ, công chức, viên chức.
Năm là, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát hiện sớm, xử lý kịp thời,
nghiêm minh các vụ việc, vụ án tham nhũng; nâng cao hiệu quả thu hồi tài
sản tham nhũng. Các cơ quan tư pháp, cơ quan bảo vệ tư pháp, cơ quan
chuyên môn PCTN… đẩy nhanh hơn nữa tiến độ điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án các vụ án tham nhũng. Thực hiện áp dụng có hiệu quả các biện pháp
phong toả tài sản và thu hồi tài sản từ các vụ án tham nhũng, kinh tế.
Sáu là, tiếp tục kiện toàn tổ chức, bộ máy, cán bộ nâng cao hiệu quả
hoạt động và sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong PCTN. Các cơ
quan bộ máy Nhà nước thực hiện có hiệu quả tinh giảm bộ máy nhà nước,
chọn lọc con người có đầy đủ phẩm chất (có đức, có tài) tham gia làm việc ở
các cơ quan bộ máy nhà nước. Xây dựng cán bộ có chiến lược theo đúng tiêu
chuẩn. Tăng cường kiểm soát quyền lực, thực hiện liêm chính ở cơ quan, đơn
vị công tác. https://dethivan.com/

69


3.2 Thúc đẩy “Xã hội” nhân tố quan trọng trong phòng, chống tham
nhũng tại Việt Nam
3.2.1 Thành công
Một là, Công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế PCTN:
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành tăng cường
xây dựng, trình Quốc hội ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan đến
công tác PCTN, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ hơn để PCTN có hiệu quả như:
Luật Tố cáo (sửa đổi), Luật Quy hoạch, Luật Quản lý nợ công... khẩn trương
hoàn thiện và đi vào áp dụng Luật PCTN (sửa đổi), Luật Bảo vệ bí mật nhà
nước, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư công; rà soát, đề
xuất sửa đổi các luật liên quan đến đất đai, xây dựng, đầu tư, kiểm tra chuyên
ngành; xây dựng chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường ngăn chặn,
xử lý có hiệu quả tình trạng “tham nhũng vặt”, nhũng nhiễu, gây phiền hà cho
người dân, doanh nghiệp trong giải quyết công việc. Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ đã tập trung chỉ đạo các bộ, ngành sửa đổi, bổ sung các văn bản
quy phạm pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh trong đó tập trung cải
cách toàn diện hoạt động kiểm tra chuyên ngành, bảo đảm cắt giảm, đơn giản
hóa 50% danh mục hàng hóa, sản phẩm và thủ tục kiểm tra chuyên ngành; cắt
giảm, đơn giản hóa 50% điều kiện đầu tư kinh doanh

giúp giảm chi phí không
chính thức, hạn chế nhũng nhiễu doanh nghiệp; góp phần làm tăng niềm tin
của doanh nghiệp vào bộ máy chính quyền, thúc đẩy cạnh tranh, khuyến
khích doanh nghiệp phát triển. Trên cơ sở Nghị quyết số 10/NQ-CP ngày
03/02/2018 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị
quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XII, Nghị quyết số 56/2017/QH14 ngày 24/11/2017
của Quốc hội về việc tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước https://dethivan.com/

70

tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; các bộ, cơ quan ngang bộ và các địa
phương đã ban hành kế hoạch để triển khai các nhiệm vụ rà soát, ban hành
hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm
khắc phục những bất cập, chồng chéo chức năng, nhiệm vụ; sắp xếp, tinh gọn
và giảm đầu mối tổ chức bên trong; giảm tối đa các tổ chức liên ngành; giảm
số lượng cấp phó của các cơ quan, đơn vị thuộc phạm vi quản lý. Nhiều bộ,
ngành, địa phương đã triển khai tích cực như: Bộ Công an (giảm 6 tổng cục
và 60 đơn vị cấp cục), Bộ Tài chính (giải thể 43 phòng giao dịch của Kho bạc
Nhà nước cấp tỉnh), Thanh tra Chính phủ, Bộ Nội vụ, Bộ Thông tin và Truyền
thông và nhiều bộ, ngành khác (thực hiện giảm đơn vị đầu mối, giảm cấp
phòng trong các vụ, cục); các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn...
Hai là, công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức,
đơn vị sẽ tạo điều kiện cho “xã hội” tham gia giám sát hoạt động của cơ
quan, tổ chức nhà nước. Công khai minh bạch sẽ tạo điều kiện cho người dân
cũng như toàn xã hội tham gia giám sát hoạt động của nhà nước một cách
hiệu quả; công khai minh bách có nhiều hình thức như: công bố tại cuộc họp
của đơn vị, niêm yết văn bản thông báo tại trụ sở làm việc, thông báo bằng
văn bản tới cá nhân và tổ chức liên quan, phát hành ấn phẩm, thông báo bằng
phương tiện thông tin đại chúng, đưa thông tin lên trang điện tử, cung cấp
thông tin yêu cầu theo quy định pháp luật. Trong thời gian vừa qua không thể
không nhắc tới cải cách hành chính công khai, minh bạch hoạt động làm việc
tiếp công dân, giải quyết giấy tờ cho công dân của các cơ quan ban ngành
khiến cho sự hài lòng của người dân tăng lên khi đến trụ sở tiếp công nhân;
nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số địa phương còn thiếu sự công khai minh
bạch khiến cho sự hài lòng của người dân còn thấp.
https://dethivan.com/

71

Bảng 2: Điểm thành phần chỉ số nội dung “Công khai, minh bạch” năm 2018;

Nguồn: Báo cáo PAPI cấp Tỉnh năm 2018
https://dethivan.com/

72

Ba là, Pháy huy việc tố cáo của công dân trên mọi “mặt trận” đấu
tranh tham nhũng. Công dân với vai trò là chủ thể của quyền lực nhà nước,
công dân uỷ quyền cho các cơ quan nhà nước thực hiện quyền lực của mình
thì sẽ luôn quan tâm và chủ động giám sát thực hiện nhiệm vụ, quyền han của
cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước đó. Trong xã hội hiện đại để xây
dựng nhà nước pháp quyền thì việc nâng cao nhận thức của công dân đối với
việc kiểm soát quyền lực nhà nước có tác động rất lớn đến hoạt động phòng,
chống tham nhũng. Thực tế vừa qua cho thấy nhiều vụ việc tham nhũng đất
đai được các cấp quản lý địa phương buông lỏng nhưng chính từ tố cáo của
công dân đến các cơ quan giải quyết có thẩm quyền mà vụ việc đã bị phát
giác, bị xử lý (hàng năm các vụ việc khiếu nại tham nhũng đất đai chiếm tới
gần 80% tổng số khiếu nại tố cáo) và các vụ việc tố cáo của công dân đều
được bảo vệ giữ kín theo đúng quy định của pháp.
Chất lượng các vụ khiếu nại đạt được kết quả tốt có sở luôn đạt 50-
60%, qua đó tạo tiền đề cho phần xử lý hành vi tham nhũng đúng người đúng
tội và thu hồi tài sản tham nhũng hiệu quả. Năm 2013, cơ quan nhà nước đã
kiến nghị thu hồi cho nhà nước 95 tỷ đồng; 89 hd đất; trả lại cho tập thể, công
dân 1.083 tỷ đồng, 93ha đất; kiến nghị xử lý hành chính 675 người; chuyển
cơ quan điều tra trách nhiệm hình sự 28 vụ việc với 89 người; Năm 2014,
kiến nghị thu hồi cho nhà nước 41 tỷ đồng; 182,7 ha đất; trả lại cho tập thể,
công dân 198,8 tỷ đồng, 85,3ha; kiến nghị xử lý hành chính 552 người;
chuyển cơ quan điều tra trách nhiệm hình sự 39 vụ việc 36 người. Điều đáng
lưu ý là nội dung tố cáo đúng của công dân cũng ngày một tăng, cho thấy
người dân ngày càng có ý thức và trách nhiệm trong việc đưa ra nội dung tố
cáo của mình
24
.

24
Bảo vệ người tố cáo trong pháp luật Việt Nam (sách chuyên khảo), Nxb Hồng Đức,Hà Nội, trang
140 https://dethivan.com/

73

Việc thúc đẩy người dân phát hiện, tố cáo hành vi tham nhũng góp
phần quan trọng vào việc giải quyết, xử lý hành vi tham nhũng; Công dân có
thể lên án, đấu tranh với các hành vi tham nhũng bằng nhiều phương thức,
cách thức phù hợp với chuẩn mực về pháp lý và đạo lý. Như vậy, vai trò xã
hội của công dân trong phòng, chống tham nhũng chỉ có thể trở thành hiện
thực khi và chỉ khi thông qua quan hệ pháp luật. Chỉ có thông qua hành vi
pháp luật mà quan hệ pháp luật được hình thành và đến lượt mình nó trở
thành phương tiện để chuyển hóa, làm cho quyền và nghĩa vụ pháp lý trở
thành hiện thực. Vì vậy bản thân người dân cần chủ động nâng cao ý thức làm
chủ của mình, tích cực tìm hiểu quy định pháp luật để xây dựng ý thức tôn
trọng pháp luật, hành động trên cơ sở tuân thủ pháp luật (hành xử hành vi
pháp luật không cấm) tích cực tố giác hành vi sai trái, tuyệt đối không tiếp tay
cho những hành vi có biểu hiện tham nhũng.
Bốn là, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về PCTN:
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã tổ chức, chỉ đạo các Bộ, ngành,
địa phương, các cơ quan truyền thông tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, phổ
biến pháp luật về PCTN và đưa nội dung PCTN vào chương trình giáo dục,
đào tạo, bồi dưỡng; thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Quy định số 65-
QĐ/TW ngày 03/02/2017 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về chỉ đạo, định
hướng cung cấp thông tin tuyên truyền phòng, chống tham nhũng, Hướng dẫn
số 27-HD/BTGTW ngày 20/02/2017 của ban Tuyên giáo Trung ương về
hướng dẫn công tác tuyên truyền về PCTN, lãng phí.
Kết quả năm 2018, hơn 3,7 triệu lượt cán bộ, công chức, viên chức,
người dân được phổ biến, giới thiệu, giáo dục pháp luật về PCTN với hơn 74
nghìn lớp tuyên truyền, quán triệt pháp luật về PCTN được tổ chức và trên 277
nghìn cuốn sách, tài liệu về PCTN được phát hành. Nhiều hình thức tuyên
truyền phong phú được triển khai, gắn với tuyên truyền thực hiện Nghị quyết https://dethivan.com/

74

Trung ương 4 khóa XI, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng Đảng;
Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh.
Công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục đã có nhiều chuyển biến tích
cực. Các ngành, các cấp đã chủ động thông tin, công khai cho báo chí về kết
quả thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, xử lý các vụ việc, khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử các vụ án tham nhũng, kinh tế; những vấn đề dư luận xã hội quan tâm trong
xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng, giúp định hướng tốt dư luận xã hội để
người dân hiểu rõ hơn về những khó khăn, phức tạp, cũng như khẳng định quyết
tâm của Đảng và Nhà nước trong PCTN. Các cơ quan thông tấn, báo chí đã đưa
nhiều tin, bài phản ánh về công tác PCTN; đấu tranh phản bác luận điệu của các
thế lực thù địch xuyên tạc những nỗ lực trong PCTN. Nội dung thông tin về
PCTN đảm bảo khách quan, chính xác, khắc phục cơ bản tình trạng đưa thông
tin thiếu kiểm chứng, góp phần quan trọng trong công tác PCTN.
Chính phủ đã phối hợp chặt chẽ với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt nam
và các tổ chức thành viên trong việc thực hiện các góp ý, phản biện xã hội,
góp phần hoàn thiện cơ chế, pháp luật về PCTN; tích cực thực hiện các
chương trình phối hợp giám sát, chú trọng những nội dung, lĩnh vực nhạy
cảm, dễ phát sinh tham nhũng, lãng phí, gây sách nhiễu, phiền hà đối với
người dân và doanh nghiệp. Các bộ, ngành, cơ quan của Chính phủ cũng đã
phối hợp tiếp nhận, xử lý các kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc các cấp, các
đoàn thể, cơ quan báo chí, truyền thông; phối hợp triển khai Quy trình tiếp
nhận và xử lý thông tin phản ánh, tố cáo về tham nhũng, lãng phí, Quy chế
dân chủ ở cơ sở; phổ biến, giáo dục pháp luật về PCTN; hưởng ứng Cuộc thi
báo chí toàn quốc “Báo chí với công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
lãng phí” do Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Hội Nhà báo
Việt Nam phối hợp tổ chức; tham gia hội thảo “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam https://dethivan.com/

75

thực hiện công tác PCTN, lãng phí” do Ban Thường trực Ủy ban Trung ương
MTTQ Việt Nam tổ chức...
Năm là, hợp tác quốc tế trong phòng chống tham nhũng; Hợp tác quốc
tế về PCTN tiếp tục được đẩy mạnh; thực hiện đầy đủ trách nhiệm của Việt
Nam trong việc thực thi Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng; cơ
bản hoàn thành việc xây dựng Báo cáo quốc gia đánh giá việc thực thi Công
ước và triển khai các bước chuẩn bị cho hoạt động đánh giá theo Chu trình
2
25
. Các bộ, ngành, cơ quan, tổ chức của Việt Nam đã tham gia nhiều diễn
đàn, làm việc, trao đổi với nhiều cơ quan, tổ chức quốc tế, tổ chức nhiều hội
nghị, hội thảo quốc tế về PCTN. Qua đó đã thể hiện được quyết tâm chính trị
và nỗ lực thực tế của Việt Nam trong PCTN; chọn lọc, tiếp thu được nhiều
kinh nghiệm tốt của các quốc gia, tổ chức quốc tế; tranh thủ sự hỗ trợ cho
công tác PCTN; góp phần nâng cao hiệu quả phối hợp trong công tác PCTN
giữa Việt Nam với các nước và tăng cường vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế.
Sáu là, vai trò của xã hội trong phòng, chống tham nhũng từng bước
đạt hiệu quả hơn:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã đóng vai trò quan trọng trong việc tuyên
truyền, vận động nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật về PCTN thông
qua các tổ chức thành viên của Mặt trận với nhiều phương thức đa dạng. Từ
đó Hoạt động có hiệu quả trong việc giám sát thực hiện pháp luật về PCTN và
giải quyết khiếu nại, tố cáo và giám sát việc xử lý các vụ việc tham nhũng.
Mặt trận Tổ quốc Viêt Nam đã phát hiện và kiến nghị nhiều vụ việc tham
nhũng với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để giải quyết.
Báo chí và truyền thông ngày càng chủ động, phát triển về số lượng và
chất lượng, kịp thời và ngày càng hiệu quả. Qua đó góp phần nâng cao nhận

25


Việt Nam được các chuyên gia của Indonesia và Hondurass đánh giá thực thi Công ước chu trình thứ 2. https://dethivan.com/

76

thức của công chúng về tầm quan trọng, tính chất khó khăn, phức tạp của
cuộc đấu tranh PCTN. Báo chí đã công khai minh bạch theo yêu cầu của Luật
PCTN, giúp hỗ trợ hiệu quả cho tầng lớp nhân dân thực hiện quyền tố cáo,
phát hiện hành vi tham nhũng, đồng thời hỗ trợ các tầng lớp nhân dân, các tổ
chức xã hội giám sát quá trình thực thi pháp luật về PCTN. Chính vì vậy, báo
chí và truyền thông luôn là “thấu kính” của mọi vấn đề xã hội, luôn mang tính
thời sự và đang thu hút sự quan tâm và chia sẻ của toàn xã hội.
Doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề đã và đang
đóng góp quan trọng vào công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế đất nước,
song hành với đó là đã từng bước khẳng định vai trò quan trọng trong PCTN.
Nhiều doanh nghiệp đã nêu gương thực hiện nghiêm các quy định pháp luật
nói chung và pháp luật về PCTN nói riêng, góp phần to lớn vào cải cách thủ
tục hành chính, xoá bỏ cơ chế “xin cho” và “giấy phép con”… Từ nhiều việc
làm thay đổi từ chính nhận thức các doanh nghiệp, mà nhiều doanh nghiệp đã
ngày một phát triển có lợi thế trong kinh doanh và thay đổi trong nhận thức
của cộng đồng.
Ban thanh tra nhân dân đã góp phần tích cực trong PCTN, thúc đẩy
pháp triển kinh tế - xã hội ở địa phương, khởi dạy tính dân chủ và đoàn kết,
phát huy quyền làm chủ của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và
trực tiếp tham gia giải quyết kịp thời những bức xúc trong nhân dân. Sau 10
năm thực hiện Luật PCTN (2005) và hơn 11 năm thực hiện luật thanh tra
(2004), Ban thanh tra nhân dân đã được tổ chức tại 100% xã, phường, thị trấn,
cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp nhà nước; hoạt động của
các Ban thanh tra nhân dân trên phạm vi cả nước đã đi vào nề nếp; Ở nhiều
nơi, Ban thanh tra nhân dân được tổ chức tốt, điều kiện hoạt động được đảm
bảo, công tác giám sát và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đạt kết quả tốt đã
trở thành chỗ dựa tin cậy của chính quyền và các đoàn thể cơ sở. https://dethivan.com/

77

Nhận thức về pháp luât PCTN được nâng cao ở đại bộ phận người dân,
qua đó làm cơ sở cho hành động chống tham nhũng trong toàn xã hội. Sau 10
năm thi hành Luật PCTN, hầu hết người dân đã dễ dàng nhận biết các quyền
và nghĩa vụ của mình, để chủ động thực hiện. Cùng với sự dân chủ hoá đời
sống kinh tế - xã hội, người dân như là trụ cột của xã hội dân sự có những
đóng góp quan trọng, lên án đấu tranh hành vi tham nhũng…; Tích cực dân
chủ tham gia xây dựng chính sách pháp luật, tạo nên sự đồng thuận trong
nhân dân, cử chi cả nước, thúc đẩy tinh thần thượng tôn pháp luật và chung
tay cả xã hội PCTN.
3.2.2 Hạn chế, bất cập
Một là, Công tác tuyên truyền, giáo dục và PCTN hiệu quả chưa cao:
Các công tác chưa tạo được sự chuyển biến căn bản về nhận thức và hành động
của cán bộ, đảng viên, công chức và người dân về PCTN; trong một số trường
hợp, việc cung cấp thông tin về các vụ án, vụ việc tham nhũng chưa đầy đủ, kịp
thời. Công tác xây dựng hoàn thiện thể chế trong một số trường hợp còn chậm,
chưa đáp ứng yêu cầu. Cơ chế, chính sách về quản lý kinh tế - xã hội trên một
số lĩnh vực vẫn còn thiếu chặt chẽ, chưa phù hợp với thực tiễn.
Hai là, Mối quan hệ phối hợp giữa Mặt trận tổ quốc và các cơ quan
chuyên trách về PCTN còn hạn chế. Các quy chế phối hợp chưa được ban hành
đầy đủ nhằm tạo cơ chế rõ ràng, công khai giúp cho công tác PCTN đạt hiệu
quả cao hơn. Hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về PCTN của Mặt
trận Tổ quốc còn nặng về hình thức, phương thức chưa phù hợp, hoạt động
giám sát còn mang tính hình thức, hầu hết chỉ dừng lại ở việc ban hành văn bản
mà chưa chú trọng đến hiệu quả thực tế. Thực tiễn cho thấy, khi được mời
tham gia các đoàn giám sát, vai trò của Mặt trận bị hạn chế, tiếng nói của Mặt
trận chưa thực sự được lắng nghe, chức năng phản biện xã hội trong những
năm qua chưa đạt hiệu quả cao, nội dung phản biện bị bó hẹp, chưa thể hiện https://dethivan.com/

78

được tiếng nói, sự bức xúc của người dân đối với chính quyền, chính sách hay
các vấn đề lớn của xã hội liên quan đến PCTN.
Ba là, Công tác báo chí còn nhiều hạn chế: Thời gian qua vẫn còn tồn
tại trong công tác quản lý báo chí, hiện tượng báo chí phản ánh chưa khách
quan, chưa chính xác, thậm chí sai lệch so với bản chất vụ việc, hoặc phản ánh
chắp vá, thiếu hệ thống vụ việc. Trong nhiều trường hợp, có báo đã đưa ra
những nhận định, bình luận, phán quyết vượt quá phạm vi thẩm quyền của báo
chí, trong khi chỉ nên dừng lại ở việc đưa tin, phản ánh. Điều này làm cho dư
luận hiểu sai bản chất sự việc, nguy hiểm hơn là làm xâm phạm vào chức năng
của các cơ quan tư pháp, làm lộ thông tin, gây ảnh hưởng hoặc thậm chí vô
hiệu hoá công tác điều tra.
Trong tác nghiệp, có nhiều cơ quan báo chí, nhiều phóng viên chưa chủ
động, độc lập trong việc giám sát, phát hiện và đưa tin, bài về các vụ việc tham
nhũng mà tổng hợp từ các nguồn tin báo chí, phương tiện truyền thông khác;
Điều này dẫn đến sự sai lệch trong việc đưa tin làm giảm vai trò của báo chí
trong công tác này.
Bốn là, Vai trò của doanh nghiệp, hiệp hội, doanh nghiệp, hiệp hội
ngành nghề trong công tác PCTN còn thụ động, chưa thực sự có trách nhiệm
với nhà nước, xã hội và chính mình trong PCTN: Hầu hết các doanh nghiệp
vẫn hối lộ trong quan hệ khu vực công để hưởng lợi, các doanh nghiệp coi chi
phí bôi trơn như một khoản chi đầu vào tất yếu trong kinh doanh, hoặc làm
tăng hiệu quả trong các quan hệ với chủ thể nhà nước. Theo số liệu điều tra từ
9890 doanh nghiệp của VCCI gần đây cho thấy việc chi trả thêm các khoản
chi phí không chính thức khá phổ biến, có 59% doanh nghiệp cho biết phải
mất “phí bôi trơn”, số doanh nghiệp tin rằng cán bộ tỉnh sử dụng các quy định
riêng của địa phương với mục đích trục lợi tăng 37%... và có đến 61,6% số
doanh nghiệp được hỏi thừa nhận, phải có “mối quan hệ” với cán bộ tỉnh mới https://dethivan.com/

79

tiếp cận được các tài liệu liên quan đến hoạt động kinh doanh như quy hoạch,
sử dụng đất, kết hoạch phát triển hạ tầng… 41% doanh nghiệp thừa nhận phải
thương lượng với cán bộ thuế địa phương thì mới làm ăn suôn sẻ, tuy nhiên
đáng buồn là nhiều doanh nghiệp coi đó là “mặc định là nghĩa vụ” và không
cho rằng điều này không ảnh hưởng, trở ngại lớn đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình
26
.
Năm là, Ban thanh tra nhân dân vẫn còn rất khó thực hiện đúng đắn quyền
giám sát: Thực tế cho thấy, do tâm lý “e ngại” cấp trên. Bởi đối tượng chịu giám
sát của Ban thanh tra nhân dân chính là thủ trưởng cơ quan, đơn vị, ban lãnh đạo
doanh nghiệp nhà nước. Hầu hết hoạt động của Ban thanh tra nhân dân ở các cơ
quan, đơn vị hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước còn hình thức, kém
hiệu quả, mờ nhạt, chưa thể hiện được vai trò giám sát, nhiều trường hợp Ban
thanh tra nhân dân còn bị lợi dụng phải đi theo các cơ quan, cá nhân, có thẩm
quyền. Nhiều nơi quy chế hoạt động còn lúng túng, chất lượng kém hiệu quả.
3.2.3 Đề xuất
Một là, Hoàn thiện chính sách, pháp luật nhằm phát huy vai trò của xã
hội trong phòng, chống tham nhũng:
+ Cần sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật để trực tiếp quy định về
vai trò của xã hội trong PCTN nhằm tăng tính chủ động của các chủ thể xã
hội trong công tác này.
+ Xoá bỏ mọi rào cản, khơi dạy mọi tiềm năng, trí tuệ của nhân dân
trong PCTN, các cơ quan nhà nước cần bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện và ban
hành những quy định bảo đảm cơ sở pháp lý và điều kiện cần thiết để người

26
Viện Khoa học Thanh tra, Thanh tra Chính Phủ (2010), “Vai trò của xã hội trong phòng, chống
tham nhũng”, Đề tài khoa học cấp Bộ.

https://dethivan.com/

80

dân có thể kiểm tra, giám sát hoạt động của nhà nước. Các chính sách, pháp
luật cần trao quyền nhiều hơn để đảm bảo tính dân chủ và công bằng giúp
người dân có thể tiếp cận, thực thi một cách dễ dàng.
+ Tiếp tục hoàn thiện cơ chế tiếp nhận, giải quyết tố cáo và bảo vệ người tố
cáo, làm được như vậy sẽ tạo điều kiện cho người dân tránh được tình trạng không
biết gửi ý kiến của mình đến đơn vị nào, cấp nào, tránh tình trạng vượt cấp, trùng
lặp, qua đó giúp người dân có lòng tin đối với cơ quan quan nhà nước.
+ Thu hẹp phạm vi danh mục bí mật nhà nước, đảm bảo quyền được
thông tin của người dân trong PCTN. Cần khắc phục tình trạng cơ quan, tổ
chức, cá nhân lạm dụng các quy định về danh mục bí mật nhà nước để từ chối
việc công khai hoạt động nhằm tránh sự kiểm soát, giám sát của người dân và
xã hội. Quyền được tiếp cận thông tin là quyền hiến định, đảm bảo quyền
được này là điều kiện tiên quyết để công dân có thể thực hiện quyền giám sát
hoạt động của bộ máy nhà nước, nâng cao tính công khai minh bạch. Do đó,
việc sửa đổi theo hướng thu hẹp danh mục bí mật của nhà nước, chỉ nên bó
hẹp ở phạm vi tài liệu bí mật an ninh, quốc phòng, bí mật đời tư và thương
mại. Còn lại thì cần thu hẹp bí mật nhà nước để tạo ra cơ sở thông tin, phát
huy vai trò giám sát của xã hội đối với các cơ quan nhà nước.
Hai là, cần hoàn thiện, mở rộng công nhận vai trò của các tổ chức phi
chính phủ trong việc góp phần tham gia phòng chống tham nhũng ở Việt
Nam: Trong thời gian vừa qua các tổ chức phi chính phủ đã có những hoạt
động quan trọng trong phòng chống tham nhũng như thông qua các hoạt động
truyền thông nâng cáo dân trí, điều tra thông tin, cung cấp thông tin PCTN;
không thể không nhắc đến độ chính xác thông tin của các khảo sát PCTN của các
tổ chức phi chính phủ, nhiều kết quả điều tra của các tổ chức phi chính phủ rất
đúng bám sát với thực tế ở Việt Nam (ví dụ, kết quả của CODE cũng gần với kết
quả khảo sát và điều tra xã hội học các hành vi ẩn chứa nguy cơ tham nhũng trong https://dethivan.com/

81

lĩnh vực khai thác khoáng sản của Cục Phòng, chống tham nhũng - Thanh tra
Chính phủ; Trong đó chỉ ra chi phí doanh nghiệp phải trả cho tiếp cận thông tin
khá lớn với mức chi phí trung bình là 178 triệu đồng và tối đa 5 tỷ đồng; 91% số
cơ sở phải trả chi phí, 25% phải chi từ 100 triệu đồng trở lên).
Tuy nhiên pháp luật phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện hành
chưa quy định về vài trò và trách nhiệm của các tổ chức phi chính phủ trong
luật PCTN, vì vẫn còn thiếu khung pháp lý để hoạt động. Cũng có rất nhiều ý
kiến cần bổ sung vấn đề này, hiện nay Luật PCTN đang được các cơ quan
chức năng nghiên cứu sửa đổi, tuy nhiên chắc phải khá lâu nữa thì vấn đề này
mới được xem xét lại vì tháng 7/2019 tới đây Luật PCTN năm 2018 sẽ có
hiệu lực thi hành mà vấn đề về “vai trò trách nhiệm xã hội của tổ chức phi
chính phủ trong phòng trống tham nhũng vẫn bị bỏ ngỏ”. Vì vậy mong rằng
các cơ quan chức năng soạn thảo luật sớm luật hoá vai trò của tổ chức Phi
chính phủ và thừa nhận vai trò của chủ thể này trong việc góp phần thúc đẩy
và giải quyết tham nhũng ở Việt Nam trong thời gian vừa qua.
Ba là, nâng cao vai trò các tổ chức xã hội để phát huy tính dân chủ: Ủy
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức xã hội, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề, cơ quan báo chí,
truyền thông và nhân dân tiếp tục thường xuyên phối hợp chặt chẽ cùng
Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương, cơ quan chức năng để thực hiện tốt
công tác PCTN; kiên quyết, kiên trì thực hiện bằng được mục tiêu ngăn chặn,
đẩy lùi tham nhũng, lãng phí; xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững
mạnh và phát huy mạnh mẽ vai trò làm chủ của nhân dân
27
.
Bốn là, tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về PCTN: Giáo
dục hiệu quả, đưa nội dung PCTN vào chương trình giáo dục, đào tạo, bồi
dưỡng; tích cực phát huy vai trò của báo chí trong phát hiện tham nhũng; chủ

27
Chính phủ (2015), Báo cáo của Chính phủ về Tổng kết 10 năm thực hiện Luật PCTN.
https://dethivan.com/

82

động cung cấp, định hướng thông tin tuyên truyền về PCTN theo Quy định số
65-QĐ/TW ngày 03/02/2017 của Ban Bí thư Trung ương Đảng.
Năm là, đẩy mạnh cải cách hành chính: hoàn thiện các quy định xây dựng
nền công vụ minh bạch, liêm chính, phục vụ; tăng cường chỉ đạo, tạo sự chuyển
biến mạnh mẽ, hiệu quả hơn nữa trong công tác PCTN ở địa phương, cơ sở; tập
trung xử lý, ngăn chặn có hiệu quả tình trạng “tham nhũng vặt”, nhũng nhiễu,
gây phiền hà cho người dân và doanh nghiệp trong giải quyết công việc; kiên
quyết loại bỏ những cán bộ hư hỏng, tham nhũng ra khỏi bộ máy của Đảng và
Nhà nước, trước hết là trong các cơ quan PCTN.
Sáu là, tăng cường hợp tác giữa nhà nước và xã hội trong phòng,
chống tham nhũng, từ đó nâng cao năng lực của các tổ chức xã hội trong
phòng chống tham nhũng: công cuộc PCTN đòi hỏi phải có sự nỗ lực và tích
cực từ cả hai phía, các cơ quan nhà nước và xã hội. Bản thân các cơ quan cần
nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của xã hội trong công tác này. Từ đó
có nhưng đảm bảo pháp lý cho hoạt động của xã hội, tạo điều kiện để khuyến
khích, động viên sự tham gia của xã hội, tạo điều kiện để khuyến khích, động
viên sự tham gia của xã hội cũng như trách nhiệm của công dân của các tổ
chức, các thành viên trong việc tham gia. Ngược lại, mỗi tổ chức xã hội và
người dân cũng cần thấy rõ trách nhiệm, vai trò của mình trong công tác
PCTN, thực thi có trách nhiệm với quyền và nghĩa vụ của mình.
Tiểu kết chương 3
Chương 3, đã đánh giá thực tiễn về hoạt động PCTN, trong đó có hoạt
động 5 năm trở lại đây của Ban chỉ đạo tw về phòng, chống tham nhũng.
Cùng thấy được sự chỉ đạo, đúng đắn, kịp thời trong công tác PCTN của các
cấp chính quyền từ tw xuống địa phương và sự vào cuộc của cả xã hội. Từ đó
đã để lại những thành công, thuận lợi. Bên cạnh đó cũng thẳng thắn nhìn https://dethivan.com/

83

nhận, chỉ ra những khuyết điểm, thiếu sót và đề xuất những thay đổi để làm
tốt hơn nữa công tác phòng, chống tham nhũng trong thời gian tới.


https://dethivan.com/

84

KẾT LUẬN

Cùng với việc thực thi Luật PCTN, trong những năm qua công tác
PCTN đã đạt được nhiều chuyển biến thay đổi, như xử lý nhiều vụ đại án lớn,
xử lý vi phạm Đảng viên và kỷ luật nhiều lãnh đạo, các cán bộ cấp cao. Qua
đó lấy lại lòng tin cho quần chúng nhân dân và toàn xã hội. Để có được những
kết quả to lớn như ngày hôm nay là do có sự quyết tâm chính trị cao của Đảng
và Nhà nước trong đấu tranh PCTN; sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, quyết liệt,
ráo riết với nhiều quyết sách đúng đắn, kịp thời của Bộ Chính trị, Ban Bí thư,
Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, Quốc hội, Chính phủ. Sự đồng thuận, sự
nỗ lực, cố gắng của các chủ thể xã hội như: Mặt trận tổ quốc Viêt Nam, Báo
chí và truyền thông, doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành
nghề, Ban thanh tra nhân dân và người dân, được trao quyền trong PCTN.
Tuy nhiên chúng cũng cần nhìn lại để có những thay đổi cấp bách trong thời
gian tới, khi vẫn còn nhiều khuyết điểm tồn động trong công tác PCTN và
tham nhũng vẫn còn diễn ra ở nhiều mặt trong cuộc sống hàng ngày, trong các
lĩnh vực liên quan tới kinh tế - xã hội, phạm vi ngày càng rộng, gây ảnh
hưởng tới lòng tin của nhân dân.








https://dethivan.com/

85

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

(1) Chu Hồng Thanh, Vũ Công Giao, Nguyễn Đăng Dung, Phạm Hồng Thái,
đồng chủ biên (2013), Giáo trình lý luận và pháp luật về phòng, chống tham
nhũng, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
(2) Vũ Công Giao, Nguyễn Quốc Văn (2017), Phát huy vai trò của xã hội
trong phòng chống tham nhũng (sách chuyên khảo), Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
(3) Vũ Công Giao, Nguyễn Quốc Văn (2017), Bảo vệ người tố cáo trong
pháp luật Việt Nam (sách chuyên khảo), Nxb Hồng Đức,Hà Nội,
(4) Chính phủ (2015), Báo cáo của Chính phủ về Tổng kết 10 năm thực hiện
Luật PCTN.
(5) Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005, sửa đổi và bổ sung một số điều
vào các năm 2007 và 2012)
(6) Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015
(7) Luật tiếp công dân năm 2013
(8) Luật Báo chí 2016
(9) Luật khiếu nại năm 2011
(10) Nghị định số 47/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007 của Chính Phủ quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật PCTN.
(11) Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 12/5/2009 của Chính phủ “ Chiến lược
Quốc gia về PCTN”
(12) Nghị định số 120/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 20 tháng 10 năm
2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng,
chống tham nhũng và các quy định khác của pháp luật.

https://dethivan.com/

86

(13) PGS, TS Nguyễn Thế Kỷ (2018), Phòng chống tham nhũng - Bài học
hôm qua, hành động hôm nay
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Binh-luan/2018/52163/Phong-chong-
tham-nhung-Bai-hoc-hom-qua-hanh-dong-hom.aspx , truy cập 20/3/2019
(14) Phan Đình Trạc – Bí thư T.Ư Đảng, Trưởng Ban Nội chính T.Ư (2018),
Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng 5 năm nhìn lại
http://tuyengiao.vn/dua-nghi-quyet-cua-dang-vao-cuoc-song/cuoc-dau-tranh-
phong-chong-tham-nhung-5-nam-nhin-lai-114311 , truy cập 31/3/2019
(15) Tài liệu bồi dưỡng về phòng chống tham nhũng, dành cho giảng viên
các trường đại học, cao đẳng
http://thanhtra.gov.vn/ct137/Lists/LTaiLieu/View_Detail.aspx?CatID=1&Ite
mId=12&LVC=7&CapChaId=4 , Truy cập 19/3/2019
(16) Thanh tra Việt Nam (2016) Một số bất cập chính khi thực thi Luật PCTN
trong 10 năm qua
http://mt.gov.vn/thanhtra/tin-tuc/1108/41849/mot-so-bat-cap-chinh-khi-thuc-
thi-luat-pctn-trong-10-nam-qua.aspx , truy cập 30/3/2019

https://dethivan.com/