70
dưỡng để nuôi con nhiều hơn so với các nái ở nhóm 2 làm cho tỷ lệ hao mòn cơ thể
của các nái ở nhóm 1 cao hơn so với các nái ở nhóm 2.
Khối lượng giảm trọng của đàn heo nái được theo dõi bởi Đặng Hoài Tâm
(2003) là 8,60 kg, của Lê Minh Nghĩa (2004) là 13,8 kg và của Trần Nhân Lễ Tuyệt
(2004) là 18,0 kg đều thấp hơn so với kết quả của khóa luận theo dõi là 21,3 kg.
Nguyên nhân là do ở trại heo Hồ Văn Châu số heo con trên mỗi nái nhiều hơn so
với các trại khác. Hơn nữa, sau khi heo nái sinh xong thì trại Hồ Văn Châu mới thay
đổi thức ăn cho heo nái (từ thức ăn cho nái mang thai sang thức ăn cho nái nuôi
con) nên có một số heo nái ăn ít dẫn đến cơ thể heo bị thiếu hụt về chất dinh dưỡng
bù đắp trong quá trình tạo sữa nuôi con, hao mòn cơ thể nhiều.
3.1.2 Các chỉ tiêu khảo sát trên heo con
Kết quả khảo sát các chỉ tiêu trên heo con được trình bày qua Bảng 3.2.
Bảng 3.2: Các chỉ tiêu khảo sát trên heo con
CTTD Nhóm 1 Nhóm 2 Trung bình P
TLSSBQ (kg/con) 1,53 1,42 1,48 P < 0,05
SCCSBQ (con/ổ) 11,8 13,5 12,7 P < 0,05
TLCSBQ (kg/con) 7,38 5,78 6,58 P < 0,05
TLMBBQ (%) 63,5 39,5 51,5 P < 0,05
TLHH (%) 4,05 4,71 4,38 P > 0,05
TLNS (%) 95,6 95,3 95,5 P > 0,05
TTBQS1TT (kg) 1,34 1,22 1,28 P > 0,05
TTBQS2TT (kg) 1,89 1,19 1,54 P < 0,05
TTBQS3TT (kg) 1,82 1,46 1,64 P > 0,05
TTBQS4TT (kg) 0,71 0,50 0,61 P > 0,05
Qua xử lý thống kê cho thấy sự khác biệt về trọng lượng heo sơ sinh ở hai
nhóm nái là có ý nghĩa với P < 0,05.
Trọng lượng heo sơ sinh trung bình chung của đàn heo nái khảo sát là 1,48 kg,
trong đó heo sơ sinh ở nhóm 1 là 1,53 kg cao hơn heo sơ sinh ở nhóm 2 là 1,42 kg.
Do số heo con đẻ ra trên ổ ở nhóm 1 ít hơn so với nhóm 2 nên trọng lượng heo con