Bìa KTDT.docxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxx

NguynThnhVinh42 32 views 18 slides Nov 05, 2024
Slide 1
Slide 1 of 18
Slide 1
1
Slide 2
2
Slide 3
3
Slide 4
4
Slide 5
5
Slide 6
6
Slide 7
7
Slide 8
8
Slide 9
9
Slide 10
10
Slide 11
11
Slide 12
12
Slide 13
13
Slide 14
14
Slide 15
15
Slide 16
16
Slide 17
17
Slide 18
18

About This Presentation

adada


Slide Content

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-----**-----
BÀI TẬP LỚN
MÔN HỌC: KINH TẾ ĐÔ THỊ
Đề bài: Tác động của đô thị hóa đến tăng trưởng kinh tế ở Hà Nội
Nhóm: 6
Thành viên nhóm Mã sinh viên
1. Nguyễn hữu Hà
2. Nguyễn Hương Ly
3. Nguyễn Thành Vinh 11232267
4. Ngô Thùy Dương
5. Tạ Nhật Đức 11232184
6. Nguyễn Thị Phương Thảo
7. Lê Đức Mạnh
Lớp tín chỉ: MTDT1127(124)_01
Giảng viên: PGS.TS Nguyễn Thị Thanh Huyền
Hà Nội, ngày tháng năm 2024

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU......................................................................................................1
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CƠ CẤU KINH
TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM ................................................................2
1.1. Tính tất yếu khách quan phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở
nước ta......................................................................................................2
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:............................3
CHƯƠNG 2: Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh của...........................7
Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển kinh tế nước ta hiện
nay.................................................................................................................7
2.1. Sự vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng và Nhà nước trong
phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần:...............................................8
2.2. Sự vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng và Nhà nước trong
phát triển cơ cấu ngành kinh tế:..............................................................11
2.3. Sự vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng và Nhà nước trong
phát triển cơ cấu vùng kinh tế:................................................................13
III. KẾT LUẬN.........................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................16

MỞ ĐẦU
Gần 70 năm kể từ khi Việt Nam bước vào thời kỳ quá độ gián tiếp lên chủ
nghĩa xã hội theo quy luật khách quan của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng và Nhà
nước ta vẫn nỗ lực hướng tới một tương lai tốt đẹp và văn minh. Việc xây dựng
chủ nghĩa xã hội đồng nghĩa với việc phát triển một hình thái kinh tế - xã hội, do
đó, phát triển kinh tế là một bước vô cùng quan trọng. Để tiến gần hơn đến mục
tiêu quá độ lên xã hội chủ nghĩa, cần có một cơ sở lý luận vững chắc, như một
ngọn hải đăng dẫn đường cho Đảng và Nhà nước trong việc đưa ra những chỉ đạo
và đường lối đúng đắn, nhằm xây dựng nền kinh tế vững mạnh, phù hợp với nhu
cầu hiện tại. Lý luận này cần được xác thực bằng thực tiễn, tồn tại qua thời gian
mà vẫn giữ nguyên giá trị và tính đúng đắn. Điều này đòi hỏi lý luận phải vừa
gắn liền với chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa thực tiễn với bối cảnh Việt Nam. Tư
tưởng Hồ Chí Minh chính là kim chỉ nam cho Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt
Nam. Thông qua việc tiếp thu có phê phán và sáng tạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
xây dựng một hệ thống quan điểm toàn diện về mục tiêu xây dựng một nước Việt
Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Quan điểm của Người
về các thành phần kinh tế là một phần đặc sắc trong tư tưởng kinh tế của Hồ Chí
Minh. Trong vai trò lãnh đạo, Người đã đưa ra những chỉ đạo về phát triển kinh
tế cho một đất nước nông nghiệp chưa trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa, và những
quan điểm này vẫn có giá trị chỉ đạo trong công cuộc đổi mới hiện nay, khi chúng
ta xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển kinh tế phù hợp với
yêu cầu thời kỳ quá độ và tư tưởng Hồ Chí Minh, em quyết định viết bài tìm hiểu
và phân tích về quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu nền kinh tế trong thời kỳ
này. Em cũng muốn làm rõ cách Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng những quan
điểm đó trong xây dựng nền kinh tế hiện nay.
Với kiến thức còn hạn chế, em mong nhận được sự đánh giá, nhận xét và
góp ý của thầy để hoàn thiện bài viết và học hỏi thêm từ môn Tư tưởng Hồ Chí
Minh.
1

CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CƠ
CẤU KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN TRONG THỜI KỲ
QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1.1. Tính tất yếu khách quan phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở
nước ta
1.1.1. Khái niệm cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ
Kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội là
tổng thể các thành phần kinh tế cùng tồn tại trong một môi trường hợp tác và
cạnh tranh. Mỗi thành phần kinh tế tồn tại ở các hình thức tổ chức kinh tế với
quy mô và trình độ công nghệ quyết định. Các thành phần kinh tế được thể hiện ở
các hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng, đan xen hỗn hợp. Sự tồn tại nhiều
thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trước hết chịu sự
quy định của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất.
1.1.2. Tính tất yếu khách quan phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
cơ cấu ở nước ta:
Thành phần kinh tế là một kiểu quan hệ kinh tế được hình thành trên một
hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Sự tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần là đặc trưng trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội và là tất yếu
khách quan bởi vì:
Thứ nhất, do đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ
lịch sử có đan xen giữa các yếu tố của xã hội cũ và xã hội mới, nền kinh tế có
nhiều loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất. Các thành phần kinh tế cũ và các thành
phần kinh tế mới tồn tại khách quan, có quan hệ tác động qua lại, đan xen, bổ
sung cho nhau, tạo nên sự đa dạng các hình thức kinh tế và sản xuất kinh doanh.
Vì vậy trong thời kỳ quá độ ở nước ta có nhiều thành phần kinh tế.
2

Nguyên nhân chủ yếu của sự tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong
thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội là do yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất
phải phù hợp với tính chất là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Vì vậy,
trong thời kỳ quá độ, quá trình xây dựng quan hệ sản xuất Chủ nghĩa xã hội phải
dựa trên cơ sở phát triển lực lượng sản xuất. Trong thời kỳ quá độ ở nước ta, do
trình độ lực lượng sản xuất còn hạn chế và phân bố không đều nên tất yếu còn
tồn tại nhiều hình thức sở hữu tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế.
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong
thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác
Lênin vào tình hình cụ thể đất nước ta và khẳng định rằng: “Con đường cách
mạng Việt Nam là tiến hành giải phóng dân tộc, hoàn thành cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân, tiến dần lên Chủ nghĩa xã hội”. Người chỉ rõ về thời kỳ quá
độ: “Việt Nam quá độ từ một nước nông nghiệp lạc hậu, thuộc địa và phong kiến
lên Chủ nghĩa xã hội không kinh qua phát triển tư bản chủ nghĩa. Tính chất của
nó là cuộc đấu tranh một mất, một còn giữa Chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa tư
bản”. Yếu tố trên sẽ quyết định đến con đường, hình thức của quá trình tiến lên
Chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
1.2.1. Nền kinh tế nhiều thành phần theo quan điểm của chủ tịch Hồ
Chí Minh:
Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần theo tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện
rõ trong “Hồ Chi Minh toàn tập”, nhưng rõ nhất là trong hai tác phẩm là
“Thường thức chính trị” (năm 1953) và “Báo cáo Dự thảo Hiến pháp năm 1959”.
Theo đó, về cơ cấu các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam, Người cho rằng: “Có nước thì đi lên Chủ nghĩa xã hội (cộng sản)
như Liên Xô, có nước phải kinh qua chế độ dân chủ mới rồi tiến lên Chủ nghĩa
xã hội”. như các nước Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam.
Người xác định cơ cấu các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước
ta và chỉ ra các loại hình kinh tế, các hình thức sở hữu khác biệt, nhưng được cố
3

kết lại thành một chỉnh thể kinh tế - xã hội quá độ trong quá trình vận động. Đặc
biệt, khi sự tồn tại của các thành phần kinh tế vẫn còn là một tất yếu khách quan
và có vai trò nhất định đối với sự phát triển của nền kinh tế, thì cần phải tiếp tục
sử dụng, phát triển chúng theo định hướng Xã hội chủ nghĩa.
Trong tác phẩm “Thường thức chính trị”, Người nhận định trong chế độ
dân chủ mới, có 5 loại kinh tế khác nhau:
- Kinh tế quốc doanh: Thuộc Chủ nghĩa xã hội, vì là của chung nhân dân,
phục vụ lợi ích chung của xã hội. Đây là thành phần kinh tế ra đời trong chế độ
dân chủ mới, đáp ứng yêu cầu của toàn xã hội. Theo Người, kinh tế quốc doanh
là “nền tảng và sức lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng ta phải ra
sức phát triển nó và nhân dân ta phải ủng hộ nó”.
- Kinh tế hợp tác xã: Đây là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao
động, Nhà nước cần đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ nó phát triển.
- Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ: Nhà nước bảo hộ
quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, ra sức hướng dẫn và giúp họ cải tiến làm ăn,
khuyến khích họ đi vào con đường hợp tác.
- Tư bản của tư nhân (tư bản công thương): Đây là thành phần kinh tế của
giai cấp tư sản dân tộc. Giai cấp tư sản nước ta mới ra đời, còn non yếu do bị tư
sản nước ngoài chèn ép. Tuy nhiên, “về mặt sản xuất so với chế độ phong kiến
thì chế độ tư bản là một tiến bộ to”. Họ có nhiều kinh nghiệm sản xuất, dùng vốn,
khoa học kỹ thuật, vì vậy “Chính phủ cần giúp họ phát triển. Nhưng họ phải phục
tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phải phù hợp với lợi ích của đại đa số nhân
dân”.
- Tư bản nhà nước: Là thành phần kinh tế do Nhà nước và nhà tư bản
cùng góp vốn để kinh doanh, Nhà nước lãnh đạo. Tư bản của tư nhân là tư bản
chủ nghĩa còn tư bản của Nhà nước là xã hội chủ nghĩa.
Trong suốt thời kỳ quá độ, 5 thành phần kinh tế trên luôn tồn tại khách
quan với nhau. Vì vậy, cần phải sử dụng chúng một cách triệt để nhằm phát triển
nền sản xuất xã hội mà không sợ khuynh hướng phát triển tự phát theo chủ nghĩa
tư bản của các thành phần kinh tế không phải xã hội chủ nghĩa.
4

1.2.2. Nguyên tắc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần theo quan
điểm của Người:
Đảng và Nhà nước ta đã khái quát chính sách phát triển đất nước theo thư
tưởng Hồ Chí Minh, đó là: “Công tư đều lợi – Chủ thợ đều lợi – Công nông giúp
nhau – Lưu thông trong ngoài”. Theo Người: “Bốn chính sách ấy là mấu chốt để
phát triển kinh tế của nước ta”. Dưới đây là tư tưởng sáng suốt về bốn nguyên tắc
trên:
Thứ nhất, nguyên tắc công tư đều lợi: “Kinh tế quốc doanh chính là công.
Nó là nền tảng và sức lãnh đạo của nền kinh tế dân chủ mới. Tư là những nhà tư
bản dân tộc và kinh tế cá nhân của nông dân và thủ công nghệ. Đó cũng là lực
lượng cần thiết cho cuộc xây dựng kinh tế nhà nước. Cho nên, Chính phủ cần
giúp họ phát triển. Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia,
phải hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân.”
Thứ hai, nguyên tắc chủ thợ đều lợi: “Nhà tư bản không khỏi bóc lột
nhưng Chính phủ bảo vệ quyền lợi của công nhân, ngăn cấm họ bóc lột công
nhân quá tay. Đồng thời, vì lợi ích lâu dài, thợ cũng không yêu cầu quá mức, để
cho chủ được số lợi hợp lý. Chủ và thợ đều tự giác, tự động, tăng gia sản xuất lợi
cả đôi bên.”
Thứ ba, nguyên tắc công nông giúp nhau. Người nêu rõ cần có sự kết hợp
chặt chẽ của hai nền nông nghiệp và công nghiệp để tăng hiệu quả lao động, tăng
năng suất bởi vì công nhân ra sức sản xuất nông cụ và các thứ cần dùng khác để
cung cấp cho nông dân, nông dân ra sức tăng gia sản xuất để cung cấp lương thực
và các thứ nguyên liệu cho công nhân.
Cuối cùng, nguyên tắc lưu thông trong ngoài. Người chỉ ra đất nước cần
phải phát triển thị trường trong nước cũng như đẩy mạnhh hợp tác quốc tế, đẩy
mạnh thương mại, kinh doanh buôn bán với nước ngoài.
Khi Hồ chủ tịch nêu quan điểm “công tư đều lợi”, “chủ thợ đều lợi” trong
thời kỳ quá độ và khi nhấn mạnh vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc doanh,
Người vẫn khẳng định rằng, thành phần kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế cá thể “là
lực lượng cần thiết cho xây dựng kinh tế nhà nước”.
5

1.2.3. Chính sách để phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo quan
điểm của Người:
Mục tiêu xuyên suốt của đất nước ta là xóa bỏ các hình thức không xã hội
chủ nghĩa, làm cho nền kinh tế gồm nhiều thành phần phức tạp trở nên một nền
kinh tế thuần nhất, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.
Để đi đến mục tiêu này, chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra phương châm sau:
Thứ nhất, với kinh tế quốc doanh: phải phát triển để tạo ra nền tảng vật
chất cho chủ nghĩa xã hội và thúc đẩy việc cải tạo Xã hội chủ nghĩa. Kinh tế quốc
doanh sẽ đáp ứng nhu cầu to lớn và quan trọng của đất nước, trong quá khứ là
của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Giữ vai trò chủ đạo, nó là
một công cụ có sức mạnh vật chất mang ; tính quyết định để Nhà nước điều tiết
và hướng dẫn nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phát triển theo hướng Xã
hội chủ nghĩa. Cụ thể hiện nay, kinh tế quốc doanh ngày càng thể hiện được rõ
vai trò điều tiết nền kinh tế của đất nước, ngoài ra cũng tạo điều kiện cho các
thành phần kinh tế khác ở Việt Nam có cơ hội phát triển và môi trường cạnh
tranh từng bước được trong sạch, lành mạnh hơn.
Thứ hai, với kinh tế hợp tác xã: cần phải đặc biệt khuyếnh khích, giúp đỡ
và hướng dẫn để nó phát triển. Về tổ chức hợp tác xã, Hồ Chí Minh nhấn mạnh
nguyên tắc dần dần, từ thấp đến cao, tự nguyện, cùng có lợi, chống chủ quan, gò
ép và hình thức. Kinh tế hợp tác xã sẽ đóng góp quan trọng trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh đó, nó cũng giữ vai trò nền tảng đối với nền
kinh tế non trẻ của nước ta. Hiện nay, thành phần kinh tế này đang được cải thiện
cả về cách thức lẫn phương thức hoạt động để có thể phù hợp với cơ chế thị
trường cũng như gia tăng sản xuất. Đồng thời, kinh tế hợp tác xã cũng được liên
doanh với nhiều thành phần kinh tế khác, tạo nên sự phát triển đồng đều, hài hòa
và bền vững.
Thứ ba, đối với người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác: Nhà
nước cần tạo được việc làm cho người lao động với lượng vốn rất ít và bảo hộ
quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của họ, ra sức hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến
cách làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất theo nguyên tắc tự
nguyện. Bên cạnh đó, có thể kết hợp kinh tế cá thể với hợp tác xã để tận dụng
6

được các nguồn vốn trong xã hội, tạo công ăn việc làm, giải quyết được các nhu
cầu việc làm, huy động các nguồn lực nhàn rỗi trong nhân dân.
Thứ tư, đối với kinh tế tư bản công thương: vì đây là thành phần kinh tế
nắm tiềm năng rất lớn về vốn, kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm và trình độ quản
lý nên có vai trò lớn trong việc phát triển lực lượng sản xuất, giải quyết việc làm,
tăng thu nhập quốc dân và nâng cao đời sống. Kinh tế tư bản công thương góp
phần đẩy nhanh hiện đại hóa – công nghiệp hóa của đất nước thông qua việc
nâng cao tỉ lệ tích lũy và đầu tư, phân phối và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
kinh tế, tăng sức cạnh tranh bà tạo động lực thúc đẩy tiến bộ khoa học công nghệ
để hội nhập kinh tế quốc tế. Nhà nước không xóa bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản
xuất và của cải khác của họ; mà ra sức hướng dẫn họ hoạt động nhằm làm lợi cho
quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của Nhà nước. Đồng thời Nhà
nước khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo theo Chủ nghĩa xã hội bằng hình thức
công tư hợp doanh và những hình thức cảo tạo.
Cuối cùng, đối với thành phần kinh tế tư bản Nhà nước: Nhà nước cần hùn
vốn với tư nhân để kinh doanh, và do Nhà nước lãnh đạo. Đây là nấc thang, bước
trung gian để một nước đang phát triển như chúng ta bước lên Chủ nghĩa xã hội.
Văn kiện Đại hội X (năm 2006) nhất quán: “Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hưởng và điều tiết nền
kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát
triển”. Kinh tế nhà nước đóng vai trò hàng đầu trong việc khắc phục, hạn chế
những bất cập của cơ chế thị trường và là “công cụ” để thúc đẩy các thành phần
kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân cùng với sự phát triển theo định hướng
Xã hội chủ nghĩa.
CHƯƠNG 2: Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển kinh tế nước ta hiện
nay
7

Đảng và Nhà nước ta từ trước đến nay, chưa bao giờ rời xa khỏi chủ nghĩa
MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh khi xem xét và hình thành những chủ
trương, đường lối lãnh đạo đất nước, cũng như các chính sách để quản lý đất
nước. Đại hội VII của Đảng khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động.”. Điều
này cũng được ghi nhận một lần nữa trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991), được bổ sung, phát triển năm 2011 và
trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, sửa đổi
bổ sung năm 2013. Trong toàn bộ sự nghiệp phát triển đất nước nói chung và
phát triển kinh tế đất nước nói riêng, Đảng và Chính phủ đã học tập và làm theo
lời Bác, thực hiện phát triển nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
có cơ cấu hiện đại và phù hợp trên cơ sở: cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, cơ cấu
ngành kinh tế và cơ cấu vùng kinh tế.
2.1. Sự vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng và Nhà nước trong phát
triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần:
Nhận thức được sự tồn tại tất yếu, khách quan của nền kinh tế nhiều thành
phần qua quan điểm tổng quát của chủ nghĩa Mác – Lênin và trong hoàn cảnh
thực tế, cụ thể tại Việt Nam thông qua tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và nhà nước
ta đã có những chỉ đạo chính thức xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước xuyên suốt
một thời kỳ tính cho tới nay đã 35 năm. Dấu mốc quan trọng trong thời kỳ đó là
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, tháng 12 năm 1996 của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Đại hội đã quyết định chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ nền kinh tế
kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, mở ra thời kỳ đổi mới đất nước, phê phán sâu sắc các
quan điểm chủ trương giáo điều, chủ quan, nóng vội, duy y chí, không tôn trọng
quy luật khách quan trong đường lối phát triển kinh tế đất nước nhiều năm trước.
Đảng xác định 5 thành phần kinh tế chủ yếu: Kinh tế XHCN (Quốc doanh, tập
thể, gia đình), Kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ, Kinh tế tự túc, tự cấp, Kinh tế tư
bản nhà nước và kinh tế tư bản tư nhân. Tiếp theo, Đại hội VII của Đảng (1991)
8

đã hình thành quan điểm về phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng ta tiếp tục định 5 thành phần kinh tế:
Kinh tế quốc doanh, Kinh tế tập thể, Kinh tế cá thể, Kinh tế tư nhân, và Kinh tế
tư bản nhà nước. Về phương hướng, Đại hội xác định “Tiếp tục xây dựng nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế”, “phát huy
thế mạnh của các thành phần kinh tế, vừa cạnh tranh, vừa hợp tác, bổ sung cho
nhau trong nền kinh tế quốc dân thống nhất”, “cơ chế vận hành nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có
sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ
khác” Đại hội VIII của Đảng (1996) tiếp tục khẳng định chủ trương “phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa” và khẳng định “sản xuất
hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền
văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội”. Đại hội chủ trương đổi mới kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác xã,
huy động thêm vốn và thúc đẩy doanh nghiệp bằng cách cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước. Đến thời điểm này, vai trò của nhà nước và quan hệ phân phối
được thể hiện rõ ràng và cụ thể hơn. Thị trường được quản lý bằng những công
cụ khác nhau như pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ đòn bẩy kinh tế
khác và bằng chính sức mạnh của khu vực kinh tế nhà nước. Bên cạnh việc tiếp
túc phát triển đồng bộ các loại thị trường, Đại hội còn chủ trương phát triển một
nền kinh tế hội nhập với khu vực và thế giới. Đại hội IX của Đảng (2001) khẳng
định nền kinh tế gồm có 6 thành phần kinh tế: Thành phần kinh tế nhà nước,
Thành phần kinh tế hợp tác xã, Thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ, Thành phần
kinh tế tư bản tư nhân, Thành phần kinh tế tư bản nhà nước, và Thành phần kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài; Kinh tế hỗn hợp (thuộc sở hữu cổ phần). Đại hội lần
đầu tiên xác định “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa chính là
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” và đồng thời cũng khẳng
định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng
quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội khẳng định
9

mục đích của mô hình kinh tế này là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh
tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống
nhân dân. Phương hướng này đúng như tư tưởng của Hồ Chí Minh, quan tâm chú
trọng phát triển vật chất – kỹ thuật chủ nghĩa xã hội đồng thời nó còn phát huy
cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế để phát triển nhanh theo chủ trương của đại hội VIII. Đại hội X
của Đảng (2006) nêu rõ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là để “thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”. Các thành phần kinh tế tại Đại hội X được xác định gồm có 5 thành
phần kinh tế: Thành phần kinh tế nhà nước, Thành phần kinh tế tập thể, Thành
phần kinh tế tư nhân (bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư bản tư nhân ),
Thành phần kinh tế tư bản nhà nước, và Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài. Như vậy Đại hội X chỉ khác Đại hội IX ở chỗ đã sát nhập hai thành phần
kinh tế kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư bản tư nhân thành một thành
phần đó là kinh tế tư nhân, là vì hai thành phần này có điểm chung giống nhau là
đều dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Đại hội cũng lần đầu tiên
xác định “kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của
nền kinh tế. Doanh nghiệp cổ phần ngày càng phát triển, trở thành hình thức tổ
chức kinh tế phổ biến, thúc đẩy xã hội hóa sản xuất kinh doanh và sở hữu”. Để
nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước, Đại hôi yêu cầu “Tách chức năng quản
lý hành chính nhà nước khỏi chức năng quản lý kinh doanh của doanh nghiệp,
xóa bỏ “chế độ chủ quản”; tách hệ thống cơ quan hành chính công khỏi hệ thống
cơ quan sự nghiệp”. Tại Đại hội XI (năm 2011) và Đại hội XII (năm 2016), Đại
hội đều xác định nền kinh tế nước ta gồm 4 thành phần: Thành phần kinh tế nhà
nước; Thành phần kinh tế tập thể; Thành phần kinh tế tư nhân (gồm kinh tế cá
thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân) và Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Nổi bật ở Đại hội XI, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội được Đại hội XI thông qua và xác định “Phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức
10

phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu”
Gần đây nhất, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (năm 2021), nổi
bật nhất trong những chủ trương của Đảng là nội dung trong Văn kiện của Đại
hội nêu rõ: "Xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát
triển kinh tế tư nhân; hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa công
nghệ và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động. Khuyến khích
hình thành, phát triển những tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, tiềm lực mạnh, có khả
năng cạnh tranh khu vực, quốc tế. Phấn đấu đến năm 2030, có ít nhất 2 triệu
doanh nghiệp với tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP đạt
60% - 65%". Như vậy có thể thấy, xuyên suốt thời gian qua, trong thời kỳ xây
dựng phát triển đất nước, được thể hiện rõ nhất thông qua các Văn kiện của các
kì Đại hội Đảng, đất nước ta đã áp dụng sáng tạo là linh hoạt tư tưởng Hồ Chí
Minh để xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam
có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố,
phát triển; kinh tế tư nhân là động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài ngày càng được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy
hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
2.2. Sự vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng và Nhà nước trong phát
triển cơ cấu ngành kinh tế:
Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, bắt đầu được hình thành từ Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ III (năm 1960), với nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá
độ ở miền Bắc nước ta, là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Chủ trương chính
của thời kỳ này là: “Xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện
đại, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng,
ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển
nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp
lạc hậu thành một nước có công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại". Chủ
trường trên không bám sát với tư tưởng của Hồ Chí Minh về thứ tự ưu tiên, phải
ưu tiên phát triển nông nghiệp, sau đó từ từ phát triển từ công nghiệp nhẹ, sau đó
11

mới đến công nghiệp nặng. Do đó, tiến hành công nghiệp hóa từ một nền kinh tế
lạc hậu, nghèo nàn, những tiền đề cần thiết cho phát triển hạn chế, lại trong điều
kiện có chiến tranh và cùng nhiều nguyên nhân chủ quan khác, nên nền kinh tế
Việt Nam đã không đạt được những mục tiêu đã đặt ra, đất nước vẫn trong tình
trạng nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển và rơi vào khủng hoảng kinh tế-xã hội.
Phải đến Đại hội Đảng lần thứ V và dấu mốc thay đổi toàn diện trong văn kiện
của Đại hội Đảng lần thứ VI thì chúng ta mới bước vào thời kỳ đổi mới, đặt trọng
tâm vào nền nông nghiệp theo lời dạy của Hồ Chủ tịch và từ đó nền kinh tế- xã
hội mới bước đầu có sự khởi sắc. Sau khi nền kinh tế được khôi phục, Việt Nam
đã hoàn thành nhiệm vụ chặng đầu của công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa, thì
Đại hội VII đã có những bước đột phá mới về công nghiệp hóa. Lần đầu tiên,
phạm trù “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa” (CNH, HĐH) được xác định chính
thức trong Văn kiện của Đảng. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996):
Tổng kết sau 10 năm đổi mới, Đại hội Đảng VIII đã nhận định: Nước ta đã thoát
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời
kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành cho
phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại
hội cũng xác định các ngành công nghiệp được chú trọng phát triển từ nhẹ đến
nặng trước hết là công nghiệp chế biến, công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu; xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng về dầu khí, than, xi
măng, cơ khí, điện tử, thép, phân bón, hoá chất, một số cơ sở công nghiệp quốc
phòng. Trong các văn kiện của Đại hội Đảng gần đây, nội dung công nghiệp hóa,
hiện đại hóa cũng được xác định là nội dung quan trọng nhằm thực hiện quá trình
công nghiệp hóa rút ngắn để đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại, mục tiêu hiện tại là đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam
trở thành nước công nghiệp phát triển hiện đại. Bên cạnh đó, Đảng cũng chủ
trương xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chiến lược và lộ trình phù hợp
trong hội nhập kinh tế quốc tế. Điều này giúp đất nước ta mở rộng thương mại,
xuất khẩu hàng hóa tới các thị trường, quốc gia và vùng lãnh thổ, ký kết trên 90
hiệp định thương mại song phương. Đồng thời, còn giúp nước ta giao lưu, học
hỏi, nâng cao trình độ khoa học, kĩ thuật để phát triển nông nghiệp và công
12

nghiệp hiện đại. Nhờ những đường lối nêu trên, nước ta đã thu được kết quả khá
khả quan: GDP nông nghiệp chiếm khoảng 24,53% tổng GDP năm 2000; 18,83%
tổng GDP năm 2010; 14,85% tổng GDP năm 2020. Tuy nhiên, những con số này
phản ánh mức giảm đều từ 38,06% năm 1986. Trong khi đó, tỷ trọng công nghiệp
trong GDP tăng liên tục từ 27,1% năm 2016 lên 28,5% vào năm 2019. Năm 2020
tỷ trọng thấp hơn năm 2019 (đạt 27,54%) do ảnh hưởng của dịch Covid-19.
Những con số này đã cho thấy, công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của
nước ta dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh đang thực sự có hiệu quả.
2.3. Sự vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng và Nhà nước trong phát
triển cơ cấu vùng kinh tế:
Đảng và Nhà nước ta vẫn luôn quan tâm sát sao trong việc xây dựng các
vùng kinh tế trọng điểm. Trước đây là 04 vùng kinh tế trọng điểm, rồi đến 06
vùng kinh tế trọng điểm. Giai đoạn năm 2020 đến nay, Chính phủ đã mở nhiều
cuộc thảo luận để xem xét 2 phương án phân chia vùng kinh tế thành 07 hoặc 06
vùng kinh tế và đã đi đến kết quả cuối cùng. Hiện nay, Chính phủ đã chỉ đạo sử
dụng phương án phân thành 06 vùng kinh tế - xã hội như hiện hành để thực hiện
Luật Quy hoạch. Cụ thể, 06 vùng kinh tế - xã hội, gồm:
1. Vùng trung du và miền núi phía bắc gồm 14 tỉnh: Hà Giang, Cao Bằng,
Lạng Sơn, Bắc Giang, Phú Thọ, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Lào Cai,
Yên Bái, Lai Châu, Sơn La, Điện Biên và Hoà Bình.
2. Vùng Đồng bằng sông Hồng gồm 11 tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải
Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Thái Bình, Nam Định, Hà
Nam, Ninh Bình và Quảng Ninh. (phương án cũ không có Hòa Bình, Phú Thọ,
Bắc Giang, Thái Nguyên)
3. Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung gồm 14 tỉnh, thành phố:
Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Đà
Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận
và Bình Thuận.
4. Vùng Tây Nguyên gồm 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông
và LâmĐồng.
13

5. Vùng Đông Nam Bộ gồm 6 tỉnh, thành phố: TP.HCM, Đồng Nai, Bà
Rịa - VũngTàu, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh.
6. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long gồm 13 tỉnh, thành phố: Thành phố
Cần Thơ,Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, An Giang, Đồng
Tháp, Kiên Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau.
Theo Bộ KH&ĐT, với phương án phân vùng như hiện nay, các địa
phương trong mỗi vùng cơ bản tương đồng về điều kiện tự nhiên, lịch sử, văn
hóa, dân cư… Đồng thời, có mối liên kết khá chặt chẽ về kinh tế, văn hóa, xã hội,
kết cấu hạ tầng... Như vậy có thể thấy, vấn đề cơ cấu vùng kinh tế được Đảng và
Nhà nước hết sức chú trọng, cân nhắc, xem xét kĩ lưỡng. Từ đó ta cũng thấy
được Đảng và Nhà nước đã tiếp thu quan điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh về tầm
quan trọng của việc phát triển vùng kinh tế trọng điểm, phù hợp giữa các vùng
thành thị và nông thôn, miền xuôi và miền ngược, biên giới hải đảo. Văn kiện
Đại hội XIII của Đảng cũng nhấn mạnh nội dung cơ cấu lại kinh tế vùng, đổi mới
thể chế liên kết giữa các địa phương trong vùng và giữa các vùng, phát huy vai
trò các vùng kinh tế động lực, quan tâm phát triển các vùng còn khó khăn, thu
hẹp chênh lệch phát triển giữa các vùng. Theo đó, cần xác định rõ vùng kinh tế
cụ thể phải phát triển theo hướng kinh tế tri thức và đón nhận cuộc Cách mạng
công nghiệp 4.0 để làm tăng hàm lượng công nghệ cao, tạo giá trị gia tăng lớn,
thúc đẩy sự năng động của các khu công nghiệp theo chiến lược tăng trưởng mới;
phát triển dịch vụ chất lượng cao; tăng cường quan hệ hợp tác, trao đổi thương
mại, nghiên cứu và phát triển ứng dụng quốc tế. Đối với các vùng điều kiện KT-
XH còn khó khăn, cần có chính sách nhằm hướng việc thu hút đầu tư vào các
ngành khai thác lợi thế phù hợp, làm rõ tiềm năng, thế mạnh của từng vùng để
xây dựng chính sách tích hợp phát triển tổng thể.
14

III. KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần hiện nay vẫn
có ý nghĩa thời sự và ý nghĩa phương pháp luận cần được quán triệt và vận dụng
sáng tạo để định hướng cho sự nghiệp tiếp tục đổi mới nền kinh tế đất nước. Dự
thảo văn kiện trình Đại hội X đã rút ra một trong những bài học lớn của quá trình
20 năm đổi mới là "Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, đồng thời luôn nhạy bén với cái mới, với những phát triển mới của thực
tiễn". Về phát triển các thành phần kinh tế, dự thảo nêu rõ: "nước ta có ba chế độ
sở hữu là: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân; thể hiện dưới bốn
hình thức cơ bản: sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn
hợp" và "tương ứng với bốn hình thức sở hữu cơ bản trên, nền kinh tế nước ta có
bốn thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và kinh tế hỗn hợp.
Như vậy, phát triển kinh tế nhiều thành phần vẫn là “vấn đề có ý nghĩa
chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH". Một lần nữa,
chúng ta lại thấy sáng ngời tư duy sáng tạo của Hồ Chí Minh và của Đảng ta
trong tư tưởng về sự phát triển nền kinh tế - xã hội theo phép biện chứng khách
quan của lịch sử trong những hoàn cảnh cụ thể nhất định. Với đường lối lãnh đạo
của Đảng, dưới ánh sáng tư tưởng của Người, chúng ta có quyền hy vọng trong
tương lai không xa, nền kinh tế Việt Nam sẽ phát triển lên một tầm cao mới, thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
15

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (Dành cho bậc đại học hệ không
chuyên lý luận chính trị), 2023, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật
2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật, 2021
3) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới - Phần I - (Đại hội VI, VII,
VIII, IX) - Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật – 2019
4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X- Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia Sự thật – 2006
5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI - Nhà xuất bản Chính
trị Quốc gia Sự thật – 2011
6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII - Nhà xuất bản Chính
trị Quốc giaSự thật – 2016
7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII - Nhà xuất bản Chính
trị Quốc giaSự thật – 2021
16
Tags