chuong-1-triet-hoc-triet-hoc-mac-lenin-dai-hoc-ton-duc-thang-127364.pdf

2421002254 73 views 29 slides Apr 11, 2025
Slide 1
Slide 1 of 29
Slide 1
1
Slide 2
2
Slide 3
3
Slide 4
4
Slide 5
5
Slide 6
6
Slide 7
7
Slide 8
8
Slide 9
9
Slide 10
10
Slide 11
11
Slide 12
12
Slide 13
13
Slide 14
14
Slide 15
15
Slide 16
16
Slide 17
17
Slide 18
18
Slide 19
19
Slide 20
20
Slide 21
21
Slide 22
22
Slide 23
23
Slide 24
24
Slide 25
25
Slide 26
26
Slide 27
27
Slide 28
28
Slide 29
29

About This Presentation

triết


Slide Content

Chương 1
TRIẾT HỌC VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
Mục tiêu
Về kiến thức
- Trình bày và phân tích được khái niệm triết học, nguồn gốc ra đời, vấn đề cơ
bản của triết học, hai trường phái lớn trong triết học và phương pháp nghiên cứu
của triết học.
- Luận giải sự ra đời của triết học Mác – Lênin là một tất yếu khách quan.
- Làm sáng tỏ đối tượng nghiên cứu, chức năng của triết học Mác – Lênin.
- Chứng minh được vai trò của triết học Mác - Lênin trong đời sống xã hội
nói chung, trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam nói riêng.
Về kỹ năng
- Chứng minh được đặc trưng của tri thức triết học.
- Phân tích được mối quan hệ giữa triết học và các khoa học cụ thể.
- Vận dụng những kiến thức triết học để bước đầu trả lời những câu hỏi mang
tính suy tư triết học.
Về thái độ
- Nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, khoa học về sự cần thiết phải học
tập và vận dụng tri thức của triết học Mác – Lênin trong công việc, trong cuộc
sống.
- Ý thức tự giác trong phản biện những luận điểm xuyên tạc, phủ nhận tri thức,
vai trò chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung và triết học Mác – Lênin nói riêng.
Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về
vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy. Triết học ra đời từ rất sớm trong
lịch sử nhân loại với hai nguồn gốc: nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.
Vấn đề cơ bản của triết học là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Việc giải
quyết vấn đề cơ bản của triết học đã hình thành hai trường phái triết học đối lập
nhau là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Haiphương pháp tư duy chung
nhất, đối lập nhau của triết học là phương pháp biện chứng và phương pháp siêu
hình.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và
1

phương pháp biện chứng. Với tư cách là một thế giới quan và phương pháp luận
khoa học, học thuyết Mác - Lênin vẫn không ngừng đổi mới và phát triển. Với
tư cách là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn của giai cấp
vô sản, đòi hỏi Đảng lãnh đạo của giai cấp này phải luôn biết vận dụng chủ
nghĩa Mác - Lênin một cách sáng tạo.
I. TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
1. Khái lược về triết học
1.1. Nguồn gốc của triết học
Triết học là dạng tri thức lý luâWn xuất hiện sớm nhất trong lịch sử nhân loại, ra
đời ở cả Phương Đông và Phương Tây khoảng từ thế kX VIII đến thế kX VI
tr.CN tại các trung tâm văn minh lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp.
Triết học ra đời từ thực tiễn, do nhu cầu của thực tiễn; nó có nguồn gốc nhận
thức và nguồn gốc xã hội.
* Nguồn gốc nhận thức
Trước khi triết học xuất hiện thế giới quan thần thoại đã chi phối hoạt động
nhận thức của con người.
Về măWt lịch sử, tư duy huyền thoại và tín ngưỡng nguyên thủy là loại hình
triết lý đầu tiên mà con người dùng để giải thích thế giới xung quanh. Triết học
chính là hình thức tư duy lý luận đầu tiên trong lịch sử tư tưởng nhân loại, thay
thế được cho tư duy huyền thoại và tôn giáo.
Nói đến nguồn gốc nhận thức của triết học là nói đến sự hình thành, phát triển
của tư duy trừu tượng, của năng lực khái quát trong nhận thức của con người.
Tri thức cụ thể, riêng lẻ về thế giới đến một giai đoạn nhất định phải được tổng
hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa thành những khái niệm, phạm trù, quan điểm,
quy luật, luận thuyết… đủ sức phổ quát để giải thích thế giới. Đó là lúc triết học
xuất hiện.
* Nguồn gốc xã hội
Triết học ra đời khi nền sản xuất xã hội đã có sự phân công lao động và xuất
hiện giai cấp. Khi lao động trí óc tách khỏi lao động chân tay thì đội ngũ trí thức
xuất hiện với tư cách là một tầng lớp xã hội, có vị thế xã hội xác định. Tầng lớp
này có điều kiện, năng lực và nhu cầu nghiên cứu. Những người xuất sắc trong
tầng lớp này đã hệ thống hóa tri thức thời đại dưới dạng các quan điểm, các học
thuyết lý luận; giải thích được sự vận động, quy luật hay các quan hệ nhân quả
của một đối tượng nhất định. Họ được xã hội công nhận là các nhà thông thái,
2
Hệ thống tri thức đó được diễn đạt = chữ viết
TH là sản phẩm của lao động trí óc

các triết gia.
1.2. Khái niệm Triết học
Ở Trung Quốc, chữ Triết có nghĩa là Trí, nhằm diễn đạt sự truy tìm bản chất
của đối tượng nhận thức, thường là con người, xã hội, vũ trụ và tư tưởng tinh
thần.
Ở Ấn Độ, thuật ngữ nghĩa gốc là hàm ý là conDar'sana chiêm ngươꄃng,
đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải, thấu đạt được chân lý về
vũ trụ và nhân sinh. Ở phương Tây, thuật ngữ triết học - Philosophia - vừa mang
nghĩa giải thích vũ trụ, định hướng nhận thức và hành vi, vừa nhấn mạnh đến
khát vọng tìm kiếm chân lý.
Như vậy, cả ở phương Đông và phương Tây, ngay từ đầu, triết học đã là hoạt
động tư duy lý luận có trình độ trừu tượng hóa và khái quát hóa rất cao.
Trên cơ sở khái quát đối tượng nhận thức và đặc trưng của tri thức triết học,
chủ nghĩa Mác – Lênin định nghĩa: Triết học là hệ thống quan điểm lí luận
chung nhất về thế giới và vị trí con người trong thế giới đó, là khoa học về
những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Triết học khác với các khoa học khác ở tính đặc thù của hệ thống tri thức và
phương pháp nghiên cứu. Tri thức triết học mang tính khái quát cao dựa trên sự
trừu tượng hóa sâu sắc về thế giới, về bản chất cuộc sống con người. Phương
pháp nghiên cứu của triết học là xem xét thế giới như một chỉnh thể trong mối
quan hệ giữa các yếu tố và tìm cách đưa lại một hệ thống các quan niệm về
chỉnh thể đó. Triết học là sự diễn tả thế giới quan bằng lí luận. Triết học chỉ có
thể thực hiện được điều đó bằng cách tổng kết toàn bộ lịch sử của khoa học và
lịch sử của bản thân tư tư
1.3. Vấn đề đối tượng của triết học trong lịch sử
Trong quá trình phát triển, đối tượng của triết học thay đổi theo từng giai đoạn
lịch sử.
Ngay từ khi mới ra đời, triết học được xem là hình thái cao nhất của tri thức,
bao hàm trong nó tri thức về tất cả các lĩnh vực không có đối tượng riêng. Đây
là nguyên nhân sâu xa làm nảy sinh quan niệm cho rằng, triết học là khoa học
của mọi khoa học, đặc biệt là ở Triết học tự nhiên của Hy Lạp cổ đại.
Nền triết học tự nhiên là khái niệm chỉ triết học ở phương Tây thời kỳ còn bao
gồm trong nó tất cả những tri thức mà con người có được, trước hết là các tri
thức thuộc khoa học tự nhiên.
Thời kỳ trung cổ, ở Tây Âu, khi quyền lực của Giáo hội bao trùm mọi lĩnh
3
TGQ: quan nim vềề thềế giiệ ớ

vực đời sống xã hội thì nền triết học tự nhiên đã bị thay bằng nền Triết học kinh
viện. Đối tượng của triết học kinh viện chỉ tập trung vào các chủ đề nhằm làm
sáng tỏ niềm tin tôn giáo.
Sự phát triển của các khoa học chuyên ngành trong thế kX XVII – XVIII, từng
bước xóa bỏ vai trò của triết học tự nhiên cũ, làm phá sản tham vọng của triết
học muốn đóng vai trò khoa học của các khoa học.
Hoàn cảnh kinh tế - xã hội và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học vào đầu thế
kX XIX đã dẫn đến sự ra đời của triết học Mác. Triết học Mác xác định đối
tượng nghiên cứu của mình, là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa tồn tại và tư
duy, giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật triệt để và nghiên cứu những
quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
1.4. Triết học - hạt nhân lý luận của thế giới quan
* Thế giới quan
Bằng trí tuệ, kinh nghiệm và sự mẫn cảm của mình, con người phải xác định
những quan điểm về toàn bộ thế giới làm cơ sở để định hướng cho nhận thức và
hành động của mình. Những quan điểm đó chính là sự thể hiện thế giới quan của
con người.
Thế giới quan là khái niệm triết học chỉ hệ thống các tri thức, quan điểm, tình
cảm, niềm tin, lý tưởng về thế giới và về vị trí của con người trong thế giới đó.
Thế giới quan quy định các nguyên tắc, thái độ, giá trị trong định hướng nhận
thức và hoạt động thực tiễn của con người. Một cách ngắn gọn, thế giới quan là
hệ thống quan điểm của con người về thế giới.
Thế giới quan thể hiện dưới nhiều hình thức đa dạng. Chẳng hạn, thế giới
quan tôn giáo, thế giới quan khoa học và thế giới quan triết học. Thế giới quan
chung nhất, phổ biến nhất, được sử dụng trong mọi ngành khoa học và trong
toàn bộ đời sống xã hội là thế giới quan triết học.
Những thành phần chủ yếu của thế giới quan là tri thức, niềm tin và lý tưởng.
Trong đó tri thức là cơ sở trực tiếp hình thành thế giới quan, nhưng tri thức chỉ
gia nhập thế giới quan khi đã được kiểm nghiệm trong thực tiễn và trở thành
niềm tin. Lý tưởng là trình độ phát triển cao nhất của thế giới quan của con
người.
* Hạt nhân lý luận của thế giới quan
Với phương thức tư duy đặc thù của mình, triết học đã tạo nên hệ thống lý
luận bao gồm những quan niệm chung nhất về thế giới, giữ vai trò định hướng
cho quá trình củng cố và phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng
4

đồng trong lịch sử. Như vậy, triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan.
Nói triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, bởi , bản thân triếtthứ nhất
học chính là thế giới quan. , trong các thế giới quan khác, triết học baoThứ hai
giờ cũng là thành phần quan trọng, đóng vai trò là nhân tố cốt lõi. , so vớiThứ ba
các loại hình thế giới quan khác thì triết học luôn giữ sự ảnh hưởng và chi phối
thường xuyên. , thế giới quan triết học như thế nào sẽ quy định các thếThứ tư
giới quan và các quan niệm khác như thế đó.
Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế
giới quan phát triển như một quá trình tự giác, dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm
thực tiễn và tri thức do các khoa học đưa lại. Đó là chức năng thế giới quan của
triết học.
Hộp 1.1. Một số định nghĩa triết học
1. Triết học là học về Đạo đức và Chính trị (Xôcrát).
2. Triết học là học về Con Người, là con đường đi tới Chân, Thiện, Mỹ (Plato).
3. Triết học là khoa học tìm hiểu vạn vật bằng những nguyên lý tối thượng, là sự khôn
ngoan con người tìm hiểu chính mình và về thế giới (Aritxtốt).
4. Triết học là nhận thức về các lý do cao xa nhất của sự vật (Tôma Aquinô).
5. Triết học là sự hiểu biết hoàn toàn mọi sự mà con người có thể biết.
6. Triết học là khoa học về tinh thần (I. Kantơ).
7. Triết học mà trạng thái tạm thời và quá thời của tư tưởng con người (A. Côngtơ).
8. Triết học là học cách sống và sống một cuộc sống xứng đáng (H. Becxon).
9. Triết học là học cái biết nhờ kinh nghiệm khách quan và chủ quan (P. Valêry).
10. Triết học là đòi hỏi sự thỏa mãn về chân lý (E. Huxen).
11. Triết học là hiện tượng khủng hoảng của đời sống nhân loại (W. Jêm).
12. Triết học là sự mở rộng kiến thức về bốn phương để thu gọn vũ trụ và nhân sinh về
một mối (K. Jaxpơ).
13. Triết học chẳng qua chỉ là những suy tư của con người rốt cuộc không đi tới đâu
(J.P. Xactơrơ).
14. Triết học là suy nghĩ về cuộc sống và diễn tả ý nghĩ mình cho có hệ thống (Fung
Yu-Lan)
15. Triết học là hoạt động của tư duy mô xẻ cho đến tận cùng cái lý.
16. Triết học là khoa học của các khoa học.
17. Tiến sĩ Nguyễn Quang Điển định nghĩa: “Triết học là hình thái ý thức xã hội đặt
biệt; để hiểu triết học phải tiếp cận nó từ nhiều hướng, trong đó nổi lên là sự tổng hợp
của ba hướng cơ bản: Triết học là hệ thống phổ quát về thế giới và con ngườitri thức
cũng như quan hệ của con người với thế giới đó; triết học là hệ thống về mụcgiá trị
đích, ý nghĩa, lý tưởng mà con người vươn tới nhằm hoàn thiện nhân cách của mình;
triết học còn là hệ thống phổ biến hướng dẫn con người trong hoạtphương pháp luận
động thực tiễn nhằm tạo dựng cuộc sống tốt đẹp hơn, trong sự hòa hợp giữa con người
với con người, trong sự hòa hợp giữa con người với tự nhiên”.
Nguồn: Lê Văn Thiện (2005), Nhập môn triết học Tây phươngTheo quan điểm Thiên chúa giáo ( ),
Nxb Tôn giáo, Hà Nội.

2. Vấn đề cơ bản của triết học
2.1 Nội dung vấn đề cơ bản của triết học
Triết học, cũng như những khoa học khác, phải giải quyết nhiều vấn đề có
liên quan với nhau. Trong hệ thống các vấn đề đó, có vấn đề giữ vai trò nền
tảng, là điểm xuất phát để giải quyết những vấn đề còn lại. Vấn đề đó được gọi
là của triết học. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơvấn đề cơ bản
bản của triết học. Sở dĩ như vậy vì bất kỳ trường phái triết học nào cũng không
thể lảng tránh giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại
và tư duy.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt, trả lời hai câu hỏi lớn.
Mặt thứ nhất (gọi là mặt bản thể luận) trả lời câu hỏi: giữa ý thức và vật chất
thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào? Nói cách khác,
khi truy tìm nguyên nhân cuối cùng của hiện tượng, sự vật, hay sự vận động
đang cần phải giải thích, thì nguyên nhân vật chất hay nguyên nhân tinh thần
đóng vai trò là cái quyết định?
Mặt thứ hai (gọi là mặt nhận thức luận) trả lời câu hỏi: con người có khả năng
nhận thức được thế giới hay không? Nói cách khác, khi khám phá sự vật và hiện
tượng, con người có tin rằng, mình sẽ nhận thức được sự vật và hiện tượng hay
không?
Cách trả lời hai câu hỏi trên quy định lập trường của nhà triết học, liên quan
mật thiết đến việc hình thành các trường phái triết học và các học thuyết về nhận
thức của triết học.
Gia con ngi, tnh ữ ườ
thầền và gii t nhiềnớự
Hộp 1.2. Giá trị của 3 lần gõ búa
(Để giải quyết mâu thuẫn, cần tìm ra vấn đề cơ bản)
Nhà máy hoạt động bình thường thì bỗng xảy ra sự cố khiến toàn bộ hệ thống
không làm việc. Giám đốc nhà máy liền mời một chuyên gia tới khắc phục. Chuyên
gia xem xét hồi lâu, rồi nói: Mang cái búa nhỏ tới đây!
Chỉ bằng 3 nhát đập vào một chỗ nào đấy, toàn bộ hệ thống hoạt động lại bình
thường.
Xong việc, chuyên gia tính tiền công là 3.000 USD. Vị giám đốc kinh ngạc, hỏi:
– Gì vậy? Chỉ 3 cái gõ búa mà ông tính tiền 3.000 USD. Ông có thể ghi ra chi tiết
từng khoản được không?
– Được thôi! Chuyên gia ghi:
+ Sức gõ búa 3 lần: 3 USD
ếỗ ầ

2.2 Chủ nghSa duy vật và chủ nghSa duy tâm
Việc giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học đã chia các nhà
triết học thành hai trường phái lớn. Những người cho rằng vật chất, giới tự nhiên
là cái có trước và quyết định ý thức của con người được gọi là các .nhà duy vật
Học thuyết của họ hợp thành các phái khác nhau của . Ngượcchủ nghSa duy vật
lại, những người cho rằng ý thức, tinh thần, ý niệm, cảm giác là cái có trước giới
tự nhiên, được gọi là các . Các học thuyết của họ hợp thành các pháinhà duy tâm
khác nhau của .chủ nghSa duy tâm
Chủ nghSa duy vật được thể hiện dưới ba hình thức cơ bản: chủ nghĩa duy vật
chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Chủ nghSa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy
vật thời Cổ đại. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này thừa nhận tính thứ nhất của vật
chất, nhưng đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể và đưa ra những
kết luận mang tính trực quan, chất phác.
Chủ nghSa duy vật siêu hình thể hiện khá điển hình là ở thế kX thứ XVII,
XVIII. Đây là thời kỳ mà cơ học cổ điển đạt được những thành tựu rực rỡ.
Phương pháp tư duy siêu hình của cơ học cổ điển đã ảnh hưởng đến triết học,
làm cho chủ nghĩa duy vật mang hình thức siêu hình.
Chủ nghSa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy
vật, do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng, V.I.Lênin phát triển. Với sự kế thừa
tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và sử dụng khá triệt để thành tựu
của khoa học đương thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phục được hạn
chế của chủ nghĩa duy vật thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình. Chủ nghĩa
duy vật biện chứng không chỉ phản ánh hiện thực đúng như chính bản thân nó
tồn tại, mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp những lực lượng tiến bộ trong xã
hội cải tạo hiện thực ấy.
Chủ nghSa duy tâm gồm có hai phái: chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ
nghĩa duy tâm khách quan.
Chủ nghSa duy tâm chủ quan ý thức con ngườithừa nhận tính thứ nhất của .
Trong khi phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực, chủ nghĩa duy tâm chủ
7

quan khẳng định mọi sự vật, hiện tượng chỉ là phức hợp của cảm giác.
Chủ nghSa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức
nhưng coi đó là thứ có trước và tồn tại độc lập với continh thần khách quan
người. Thực thể tinh thần này thường được gọi bằng những cái tên khác nhau
như , , Đấng sáng tạoThượng đếTinh thần tuyệt đối, Lý tính thế giới…
Do thừa nhận ý thức, tinh thần là cái có trước và sản sinh ra giới tự nhiên, chủ
nghĩa duy tâm khách quan đã thừa nhận sự sáng tạo của một lực lượng siêu
nhiên đối với toàn bộ thế giới. Vì vậy, tôn giáo thường sử dụng các học thuyết
duy tâm làm cơ sở lý luận, luận chứng cho các quan điểm của mình.
Trong lịch sử triết học cũng có những nhà triết học giải thích thế giới bằng cả
hai bản nguyên vật chất và tinh thần. Học thuyết triết học như vậy được gọi là
nhị nguyên luận. Thường thì trong trường hợp giải quyết một vấn đề nào đó, ở
vào một thời điểm nhất định, những người nhị nguyên luận là người duy vật,
nhưng ở vào một thời điểm khác, và khi giải quyết một vấn đề khác, lại là người
duy tâm. Song, xét đến cùng, nhị nguyên luận thuộc về chủ nghĩa duy tâm.
Như vậy, trong lịch sử, tuy những quan điểm triết học biểu hiện đa dạng
nhưng suy cho cùng, triết học chia thành hai trường phái chính: chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm.
2.3. Thuyết có thể biết (Khả tri) và thuyết không thể biết (Bất khả tri)
Thuyết có thể biết và thuyết không thể biết như là kết quả của cách giải quyết
mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học. Với câu hỏi Con người có thể nhận thức
được thế giới hay không? học thuyết triết học khẳng định khả năng nhận thức
của con người được gọi là thuyết . Học thuyết triết học phủ nhận khảcó thể biết
năng nhận thức của con người được gọi là thuyết . không thể biết
Ít nhiều liên quan đến thuyết bất khả tri là sự ra đời của trào lưu hoài nghi
luận từ triết học Hy Lạp cổ đại. Những người theo trào lưu này, nâng sự hoài
nghi lên thành nguyên tắc trong việc xem xét tri thức đã đạt được và cho rằng
con người không thể đạt đến chân lý khách quan.
3. Biện chứng và siêu hình
3.1. Khái niệm biện chứng và siêu hình
Khái niệm “biện chứng” và “siêu hình” trong triết học Mác - Lênin được
dùng, trước hết, để chỉ hai phương pháp tư duy chung nhất, đối lập nhau. Sự đối
8
Hộp 1.3. Duy vật hay duy tâm?
Giả sử bạn không tin vào Đấng tối cao, liệu bạn có nghĩ mình sẽ cầu nguyện khi ở
trong tình huống mà bạn cho rằng bản thân đang đối diện cái chết?
Nguồn: Nhóm tác giả biên soạn, 2020

lập giữa hai phương pháp tư duy thể hiện ở đặc trưng của chúng.
* Đặc trưng của phương pháp siêu hình
Nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời đối tượng ra khỏi các quan
hệ được xem xét và cho rằng giữa các mặt đối lập có một ranh giới tuyệt đối.
Nhận thức đối tượng ở trạng thái tĩnh tại; đồng nhất đối tượng với trạng thái
tĩnh nhất thời đó; Thừa nhận sự biến đổi chỉ là sự biến đổi về số lượng, về các
hiện tượng bề ngoài; Nguyên nhân của sự biến đổi nằm ở bên ngoài đối tượng.
Kết quả của việc sử dụng phương pháp siêu hình sẽ cho chủ thể biết sự vật hiện
tượng là gì, nhưng không cho biết được bản chất của sự vật đó như thế nào khi
đặt trong mối quan hệ, tác động với sự vật hiện tượng khác.
* Đặc trưng của phương pháp biện chứng
Nhận thức đối tượng trong các mối liên hệ phổ biến vốn có của nó. Đối tượng
và các thành phần của nó luôn trong sự lệ thuộc, ảnh hưởng, ràng buộc, quy định
lẫn nhau.
Nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi, nằm trong khuynh hướng
phổ quát là phát triển.
Nhờ phản ánh hiện thực đúng như nó tồn tại, nên phương pháp biện chứng trở
thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới và là
phương pháp luận tối ưu của nhiều khoa học. Kết quả của việc sử dụng phương
pháp biện chứng sẽ cho biết sự vật hiện tượng là gì, và như thế nào khi đặt trong
mối quan hệ, tác động với sự vật hiện tượng khác.
3.2. Các hình thức của phép biện chứng trong lịch sử
Hình thức thứ nhất là thời cổ đại. Các nhà biệnphép biện chứng tự phát
chứng thời cổ đại đã thấy được các sự vật, hiện tượng vận động trong sự sinh
thành, biến hóa vô cùng vô tận. Tuy nhiên, những gì họ thấy được chỉ là trực
kiến, chưa có các kết quả của nghiên cứu và thực nghiệm khoa học minh chứng.
Hình thức thứ hai là mà đỉnh cao được thể hiệnphép biện chứng duy tâm
trong triết học cổ điển Đức. Biện chứng theo các nhà triết học duy tâm, bắt đầu
từ tinh thần và kết thúc ở tinh thần. Thế giới hiện thực chỉ là sự phản ánh biện
chứng của ý niệm nên phép biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức là biện
chứng duy tâm.
Hình thức thứ ba là . Phép biện chứng duy vật đượcphép biện chứng duy vật
thể hiện trong triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng, sau đó được
V.I.Lênin và các nhà triết học thế hệ sau phát triển.
9
Hộp 1.4. Đâu chỉ là cái cây
Khi nghĩ đến cái cây, ta ưa nghĩ đến một sự vật được xác định rõ rệt, và ở một bình
diện, nó quả như vậy. Nhưng khi kỹ hơn, ta sẽ thấy nó tan biến vào một mạng lướinhìn
tương quan vô cùng vi tế trải dài suốt vũ trụ. Cơn mưa rơi trên lá, gió lay cành, đất nuôi
dưỡng và nâng đỡ, bốn mùa và thời tiết, trăng sao và ánh mặt trời - tất cả đều là một
ầ ề ề

II. TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG ĐỜI
SỐNG XÃ HỘI
1. Sự ra đời và phát triển của triết học Mác - Lênin
1.1. Những điều kiện lịch sử của sự ra đời triết học Mác
* Điều kiện kinh tế - xã hội
Sự hình thành và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, trong
điều kiện cách mạng công nghiệp đã xuất hiện mâu thuẫn giữa tính chất xã hội
của lực lượng sản xuất với hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu
sản xuất. Biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, giữa
giai cấp tư sản và gia cấp công nhân.
Sự xuất hiện của giai cấp công nhân trên vũ đài lịch sử với tính cách một lực
lượng chính trị - xã hội độc lập, đặt ra nhu cầu khách quan đòi hỏi phải giải
thích một cách khoa học về mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công
nhân, về vai trò, vị trí của giai cấp công nhân đối với sự phát triển của lịch sử;
làm cho phong trào công nhân từ tự phát chuyển thành tự giác. Đây là nhân tố
chính trị - xã hội quan trọng, là cơ sở chủ yếu nhất cho sự ra đời triết học Mác.
* Nguồn gốc lý luận và tiền đề khoa học tự nhiên
Nguồn gốc lý luận
Cùng với những điều kiện kinh tế - xã hội, thì sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác
còn là sự kế thừa những tinh hoa trong toàn bộ lịch sử tư tưởng nhân loại, trong
đó trực tiếp nhất là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị cổ điển Anh, chủ
nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
Triết học cổ điển Đức, đặc biệt với hai triết gia Hêghen và Phoiơbắc là nguồn
gốc lý luận trực tiếp của triết học Mác.
Hêghen là người đầu tiên, trên lập trường duy tâm khách quan, trình bày một
cách hệ thống, rõ ràng những quy luật và phạm trù của phép biện chứng như là
lý luận sâu sắc về sự phát triển. Trên cơ sở phê phán chủ nghĩa nghĩa duy tâm,
giải phóng phép biện chứng của Hêghen khỏi tính chất duy tâm thần bí, C.Mác
10

và Ph.Ăngghen đã xây dựng nên phép biện chứng duy vật – hình thức cao nhất
của phép biện chứng.
Với triết gia Phoiơbắc, C.Mác và Ph.Ăngghen tiếp thu những nguyên lý cơ
bản thuộc chủ nghĩa duy vật của ông, cải tạo và phát triển những tư tưởng đó,
bằng cách gắn nó với phạm trù thực tiễn nhằm khắc phục tính duy tâm, trực
quan và siêu hình khi giải thích xã hội. Thành quả có được là quan điểm duy vật
và phương pháp biện chứng thống nhất với nhau, gọi là duy vật biện chứng.
Kinh tế chính trị cổ điển Anh. Việc kế thừa và cải tạo tư tưởng của những đại
biểu xuất sắc như A.Xmit và Đ. Ricacđô, không những là nguồn gốc để chủ
nghĩa Mác xây dựng học thuyết kinh tế, mà còn là cơ sở để phát triển quan niệm
duy vật về lịch sử.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp là nguồn gốc lý luận trực tiếp về chủ
nghĩa xã hội khoa học. Những đại biểu nổi tiếng như Xanh Ximông, Sáclơ
Phuriê tuy vạch ra những mâu thuẫn xã hội của chủ nghĩa tư bản, sự đối lập giữa
tư bản và lao động… nhưng họ lại không phát hiện được các quy luật phát triển
của xã hội; về vị trí, vai trò của giai cấp công nhân. Nhưng những tư tưởng của
họ ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành thế giới quan duy vật, phép biện
chứng, những quan điểm cộng sản chủ nghĩa của triết học Mác.
Tiền đề khoa học tự nhiên
Ba phát minh lớn đối với sự hình thành triết học duy vật biện chứng: định luật
bảo toàn và chuyển hóa năng lượng (chứng minh các hình thức vận động của vật
chất liên hệ và chuyển hoá lẫn nhau), thuyết tế bào (chứng minh cơ thể động vật
và thực vật đều do tế bào cấu tạo thành, phát triển bằng cách nhân lên và phân
hoá của tế bào theo những quy luật nhất định) và thuyết tiến hóa của Đácuyn
(chứng minh giới hữu sinh là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài). Với
những phát minh đó, khoa học đã vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa những
dạng tồn tại khác nhau, các hình thức vận động khác nhau trong tính thống nhất
vật chất của thế giới, vạch ra tính biện chứng của sự vận động và phát triển của
nó.
* Nhân tố chủ quan trong sự hình thành triết học Mác
Triết học Mác xuất hiện không chỉ là kết quả của sự vận động và phát triển có
tính quy luật của các nhân tố khách quan mà còn được hình thành thông qua vai
11

trò của nhân tố chủ quan. Đó là tài năng và hoạt động thực tiễn, chiều sâu của tư
duy triết học, chiều rộng của nhãn quan khoa học, quan điểm sáng tạo trong việc
giải quyết những nhiệm vụ do thực tiễn đặt ra hoà quyện với tình bạn của hai
nhà cách mạng là phẩm chất đặc biệt nổi bật của của C.Mác và Ph.Ăngghen.
1.2. Những thời kỳ chủ yếu trong sự hình thành và phát triển của Triết học
Mác
* Thời kỳ hình thành tư tưởng triết học với bước quá độ từ chủ nghSa duy tâm
và dân chủ cách mạng sang chủ nghSa duy vật và chủ nghSa cộng sản (1841 -
1844)
Tháng 4 năm 1841, sau khi nhận bằng tiễn sĩ triết học, C.Mác tham gia hoạt
động chính trị, trực tiếp chống chủ nghĩa chuyên chế Phổ, giành quyền tự do dân
chủ. Vào đầu năm 1842, tờ báo ra đời. Sự chuyển biến bước đầu vềSông Ranh
tư tưởng của C.Mác diễn ra trong thời kỳ ông làm việc ở báo này. Thời kỳ này,
thế giới quan triết học của ông, nhìn chung, vẫn đứng trên lập trường duy tâm,
nhưng chính thông qua cuộc đấu tranh chống chính quyền nhà nước đương thời,
ông cũng đã nhận ra rằng, các quan hệ khách quan quyết định hoạt động của nhà
nước là những lợi ích.
Sự phê phán sâu rộng triết học của Hêghen, việc khái quát những kinh
nghiệm lịch sử phong phú, cùng với ảnh hưởng to lớn của quan điểm duy vật và
nhân văn trong triết học Phoiơbắc đã tăng thêm xu hướng duy vật trong thế giới
quan của C.Mác.
Cuối tháng 10-1843, C.Mác sang Pháp. Ở đây, không khí chính trị và sự tiếp
xúc với các đại biểu của giai cấp vô sản đã dẫn đến bước chuyển dứt khoát của
ông sang lập trường của chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản. Quá trình
hình thành và phát triển tư tưởng triết học duy vật biện chứng và triết học duy
vật lịch sử cũng đồng thời là quá trình hình thành chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Cũng trong thời gian ấy, thế giới quan cách mạng của Ph.Ăngghen đã hình
thành một cách độc lập với C.Mác. Thời gian gần 2 năm sống ở Manchester
(Anh), từ mùa thu năm 1842, với việc tập trung nghiên cứu đời sống kinh tế và
sự phát triển chính trị của nước Anh, nhất là việc trực tiếp tham gia vào phong
trào công nhân mới dẫn đến bước chuyển căn bản trong thế giới quan của ông
sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản.
12

Năm 1844, thông qua nhiều bài viết, Ph.Ăngghen đã thể hiện quá trình
chuyển từ chủ nghĩa duy tâm và dân chủ - cách mạng sang chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa cộng sản. Sự nhất trí về tư tưởng đã dẫn đến tình bạn vĩ
đại của C.Mác và Ph.Ăngghen, gắn liền tên tuổi của hai ông với sự ra đời và
phát triển một thế giới quan mới mang tên Mác - thế giới quan cách mạng của
giai cấp vô sản.
Mặc dù C.Mác và Ph.Ăngghen hoạt động chính trị - xã hội và khoa học trong
những điều kiện khác nhau, nhưng những kinh nghiệm thực tiễn và kết luận rút
ra từ nghiên cứu khoa học của hai ông lại thống nhất, đều gặp nhau ở phát hiện
sứ mệnh lịch sử giai cấp vô sản, từ đó hình thành quan điểm duy vật biện chứng
và tư tưởng cộng sản chủ nghĩa.
* Thời kỳ đề xuất những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử (1844 - 1848)
Đây là thời kỳ C.Mác và Ph.Ăngghen, sau khi đã tự giải phóng mình khỏi hệ
thống triết học cũ, bắt tay vào xây dựng những nguyên lý nền tảng cho một triết
học mới.
Mùa hè 1844, C.Mác viết . Trong tác phẩmBản thảo kinh tế - triết học 1844
này, C.Mác đã trình bày khái lược những quan điểm kinh tế và triết học của
mình. Lần đầu tiên, C.Mác đã vạch ra mặt tích cực trong phép biện chứng của
triết học Hêghen. Ông phân tích sự tha hóa của lao động và những vấn đề có liên
quan đến phạm trù cơ bản này. Việc khắc phục sự tha hóa ấy chính là sự xoá bỏ
chế độ sở hữu tư nhân, giải phóng người công nhân khỏi "lao động bị tha hóa"
dưới chủ nghĩa tư bản, cũng là sự giải phóng con người nói chung.
Tác phẩm là công trình của C.Mác và Ph.Ăngghen, đượcGia đình thần thánh
xuất bản tháng 2-1845 đã phê phán quan điểm duy tâm về lịch sử và đề xuất một
số nguyên lý cơ bản của triết học Mácxít và chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Năm1845, ra đời. Trong văn kiện này, C.Mác đã vậnLuận cương về Phoiơbắc
dụng quan điểm duy vật biện chứng để chỉ ra mặt xã hội của bản chất con người,
với luận điểm trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tdng hoà
những quan hệ xã hội.
Cuối năm 1845 đầu năm 1846, C.Mác và Ph.Ăngghen viết tác phẩm Hệ tư
tưởng Đức, trình bày quan điểm duy vật lịch sử một cách hệ thống và nhiều
13

nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa cộng sản khoa học. Bằng việc thừa nhận sản
xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, hai ông nghiên cứu biện chứng giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, phát hiện ra quy luật vận động và phát
triển nền sản xuất vật chất của xã hội. Triết học Mác đã đi tới nhận thức đời
sống xã hội bằng một hệ thống các quan điểm lí luận thực sự khoa học; đã hình
thành, tạo cơ sở lí luận khoa học vững chắc cho sự phát triển tư tưởng cộng sản
chủ nghĩa.
Năm 1847, C.Mác viết tác phẩm , tiếp tục đề xuấtSự khốn cùng của triết học
các nguyên lý triết học và chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Năm 1848, C.Mác cùng với Ph.Ăngghen viết tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản. Đây là văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa Mác,
trong đó, cơ sở triết học của chủ nghĩa Mác được trình bày một cách thống nhất
hữu cơ với các quan điểm kinh tế và các quan điểm chính trị - xã hội.
* Thời kỳ C.Mác và Ph.Ăngghen bd sung và phát triển toàn diện lí luận triết
học (1848 - 1895)
Bằng hoạt động lí luận của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa phong trào
công nhân từ tự phát thành phong trào tự giác và phát triển ngày càng mạnh mẽ.
Và chính trong quá trình đó, học thuyết của các ông không ngừng được phát
triển một cách hoàn bị.
Sau năm 1848, C.Mác cho ra đời hai tác phẩm: vàĐấu tranh giai cấp ở Pháp
Ngày 18 tháng Sương mù của Lui Bônapáctơ để tổng kết cuộc cách mạng Pháp
(1848-1849). Các năm sau, cùng với những hoạt động tích cực để thành lập
Quốc tế I, C.Mác đã tập trung viết bộ (Tập 1 xuất bản 9/1867), Tư bản Góp
phần phê phán kinh tế chính trị học (1859).
Bộ không chỉ là công trình đồ sộ của C.Mác về kinh tế chính trị học,Tư bản
mà còn là bổ sung, phát triển của triết học Mác nói riêng, của học thuyết Mác
nói chung.
Năm 1871, C.Mác viết , phân tích sâu sắc kinh nghiệm củaNội chiến ở Pháp
Công xã Paris. Năm 1875, C.Mác cho ra đời một tác phẩm quan trọng về con
đường và mô hình của xã hội tương lai, xã hội cộng sản chủ nghĩa - tác phẩm
Phê phán Cương lSnh Gô ta.
14

Trong khi đó, Ph.Ăngghen đã phát triển triết học Mác thông qua cuộc đấu
tranh chống lại những kẻ thù của chủ nghĩa Mác và bằng việc khái quát những
thành tựu của khoa học. và lần lượt raBiện chứng của tự nhiênChống Đuyrinh
đời trong thời kỳ này. Sau đó Ph.Ăngghen viết tiếp các tác phẩm Nguồn gốc của
gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước Lútvích Phoiơbắc và sự (1884) và
cáo chung của triết học cd điển Đức (1886)... Với những tác phẩm trên,
Ph.Ăngghen đã trình bày học thuyết Mác nói chung, triết học Mác nói riêng
dưới dạng một hệ thống lí luận tương đối độc lập và hoàn chỉnh.
1.3. Thực chất và ý nghSa cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác và
Ph.Ăngghen thực hiện
Mác và Ph.Ăngghenđã khắc phục tính chất trực quan, siêu hình của chủ
nghSa duy vật cũ và khắc phục tính chất duy tâm, thần bí của phép biện chứng
duy tâm, sáng tạo ra chủ nghSa duy vật triết học hoàn bị, đó là chủ nghSa duy
vật biện chứng
Trước C.Mác, do sự hạn chế của điều kiện xã hội và của trình độ phát triển
khoa học nên tính chất siêu hình vẫn là một nhược điểm chung của chủ nghĩa
duy vật. Chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc xem xét con người gắn với tộc loài, phi
lịch sử, phi giai cấp; không nhìn thấy con người vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm
của lịch sử, gắn liền với thực tiễn của mình. Trong khi đó, phép biện chứng lại
được phát triển trong cái vỏ duy tâm thần bí của một số đại biểu triết học cổ điền
Đức, đặc biệt trong triết học Hêghen, nên đã bất lực trước sự phân tích thực tiễn,
phân tích sự phát triển của nền sản xuất vật chất và đặc biệt là bất lực trước sự
phân tích các sự kiện chính trị. Triết học Mác khắc phục sự tách rời giữa chủ
nghĩa duy vật và phép biện chứng trong các hệ thống triết học trước đó. Đây là
sự chuyển biến về chất của cả chủ nghĩa duy vật và của phép biện chứng.
C.Mác và Ph.Ăngghenđã vận dụng và mở rộng quan điểm duy vật biện
chứng vào nghiên cứu lịch sử xã hội, sáng tạo ra chủ nghSa duy vật lịch sử - nội
dung chủ yếu của bước ngoặt cách mạng trong triết học
Những nhà triết học trước C.Mác tuyệt đối hoá vai trò của hoạt động chính trị,
khoa học, nghệ thuật, tôn giáo; xem nhẹ hoạt động sản xuất ra các sản phẩm vật
chất cũng như vai trò của người quần chúng lao động. Do vậy, họ đã giải thích
lịch sử trước hết từ hoạt động “làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo”,
15

chứ không phải xuất phát từ hoạt động sản xuất ra của cải vật chất. Nói cách
khác, họ đã giải thích lịch sử xã hội theo quan điểm duy tâm chứ không theo
quan điểm duy vật.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử chính là sự vận dụng triệt để những nguyên lý của
chủ nghĩa duy vật để xem xét lĩnh vực các hiện tượng xã hội. Điều đó được thể
hiện ở chỗ, chủ nghĩa duy vật lịch sử đã vận dụng quan điểm về mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức để nghiên cứu và giải thích sự phát triển xã hội, các
nguyên lý của phép biện chứng cũng được áp dụng triệt để vào việc xem xét và
lý giải sự phát triển của xã hội.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã sáng tạo ra một triết học chân chính khoa học, với
những đặc tính mới của triết học duy vật biện chứng
Hệ thống triết học trước Mác không thấy được vai trò của thực tiễn trong sự
phát triển của khoa học và triết học. Do vậy, nó không có ý nghĩa cách mạng để
cải tạo thế giới, mà chủ yếu nhấn mạnh đến vai trò quyết định của hoạt động
tinh thần đối với tự nhiên, xã hội và bản thân con người, cũng như là sự quan
sát, giải thích thế giới bằng cách này hay cách khác.
Sự khách nhau căn bản giữa triết học Mác với các hệ thống triết học trước đây
ở chỗ, không chỉ giải thích thế giới mà chủ yếu vạch ra con đường cải tạo hiện
thực khách quan, định hướng cho sự vận động và phát triển của xã hội. Với quan
điểm về sự thống nhất giữa lí luận và thực tiễn, C.Mác xác định nhiệm vụ của
triết học là phải cải tạo thế giới; chứng minh vai trò của quần chúng nhân dân,
của giai cấp vô sản đối với sự phát triển của lịch sử.
Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, C.Mác
và Ph.Ăngghen đã biến đổi và hoàn thiện tính chất, đối tượng và mối quan hệ
giữa triết học với các khoa học khác. Đó là mối quan hệ giữa việc nghiên cứu
những quy luật chung nhất của thế giới và các quy luật đặc thù trong các khoa
học cụ thể. Triết học không có tham vọng giải quyết những vấn đề chuyên biệt
thuộc phạm vi giải quyết của các khoa học cụ thể.
1.4. Giai đoạn V.I.Lênin trong sự phát triển Triết học Mác
Giai đoạn V.I.Lênin sống và hoạt động, khoa học tự nhiên đã đạt được những
thành tựu mới đặc biệt, nhất là trong nghiên cứu thế giới vi mô. Những phát
minh khoa học về vật lý học, hóa học đã làm cho nhiều quan niệm siêu hình
16

trong triết học bị đánh đổ. Đồng thời, về chính trị - xã hội là sự xuất hiện chủ
nghĩa đế quốc. Bước sang thế kX XX, phong trào cách mạng ở nước Nga trở nên
sôi động, đỉnh cao là cuộc Cách mạng Tháng mười năm 1917. Trong bối cảnh
ấy, trên thế giới cũng như ở nước Nga, đã xuất hiện một số khuynh hướng tư
tưởng không khoa học nhằm chống lại chủ nghĩa Mác. Đồng thời, sau Cách
mạng Tháng mười, nước Nga bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tất cả những
điều kiện đó đã thôi thúc, đòi hỏi V.I.Lênin phải bảo vệ sự trong sáng, khoa học,
cách mạng cũng như phát triển chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói
riêng đáp ứng yêu cầu của thời đại mới.
Toàn bộ giai đoạn V.I.Lênin trong sự phát triển Triết học Mác được chia làm 3
thời kỳ lớn:
- Từ 1893 - 1907, là thời kỳ V.I.Lênin bảo vệ và phát triển triết học Mác,
nhằm thành lập đảng Mácxít ở Nga và chuẩn bị cho cuộc cách mạng dân chủ tư
sản lần thứ nhất
- Từ 1907 – 1917, là thời kỳ V.I.Lênin phát triển toàn diện triết học Mác và
lãnh đạo phong trào công nhân Nga, chuẩn bị cho cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Từ 1917 – 1924, là thời kỳ V.I.Lênin tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách
mạng, bổ sung, hoàn thiện triết học Mác, gắn liền với việc nghiên cứu các vấn
đề xây dựng chủ nghĩa xã hội
Trong 3 thời kỳ trên, V.I.Lênin bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Ăngghen
thể hiện qua các cuộc đấu tranh lý luận của ông chống lại chủ nghĩa dân túy, chủ
nghĩa kinh nghiệm phê phán, chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét lại gắn liền với các
tác phẩm và bài báo nổi tiếng.
Tác phẩm Những người bạn dân là thế nào và họ đấu tranh chống những
người dân chủ - xã hội ra sao? (xuất bản năm 1894), V.I.Lênin vừa phê phán
tính chất duy tâm và những sai lầm nghiêm trọng của phái dân túy khi nhận thức
những vấn đề về lịch sử - xã hội, vừa vạch ra ý đồ của họ khi muốn xuyên tạc
chủ nghĩa Mác bằng cách xóa nhòa ranh giới giữa phép biện chứng duy vật của
chủ nghĩa Mác với phép biện chứng duy tâm của Hêghen.
Trong tác phẩm (xuất bản năm 1902), V.I.Lênin phê phán tính tự phátLàm gì
của phong trào công nhân. Ông lập luận khoa học về ý nghĩa của lý luận cách
mạng. Không có lý luận cách mạng thì không có hành động cách mạng.
17

Trong tác phẩm (xuấtChủ nghSa duy vật và chủ nghSa kinh nghiệm phê phán
bản năm 1909), V.I.Lênin phân tích cuộc cách mạng khoa học tự nhiên cuối thế
kX XIX, đầu thế kX XX, đặc biệt trong vật lý học. Ông chống lại những kết luận
duy tâm rút ra từ các phát minh vật lý mới nhất, phát triển quan niệm duy vật
biện chứng về vật chất.
Trong tác phẩm (xuất bản năm 1916), V.I.Lênin đã tạo raBút ký triết học
những mẫu mực về sự nghiên cứu các quy luật và phạm trù của phép biện chứng
duy vật; nguyên tắc về sự thống nhất giữa phép biện chứng, logic học và lý luận
nhận thức; các nguồn gốc nhận thức của chủ nghĩa duy tâm, tính chất mâu thuẫn
của sự phản ánh trong những sự trừu tượng khoa học, đường lối tiếp tục phát
triển lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Trong bài báo (xuất bản nămVề tác dụng của chủ nghSa duy vật chiến đấu
1922), V.I.Lênin trình bày khoa học nhiệm vụ xây dựng và củng cố sự liên minh
giữa các nhà triết học Mácxít và các nhà khoa học tự nhiên; chỉ ra sự cần thiết
kế thừa biện chứng những truyền thống duy vật biện chứng trước đây.
Trong tác phẩm Chủ nghSa đế quốc – giai đoạn tột cùng của chủ nghSa tư bản
(xuất bản năm 1916) và các tác phẩm có mối liên hệ như , Về vấn đề dân tộcVề
sự phá sản của Quốc tế II… chứa đựng sự phân tích sâu sắc thời đại mới, vạch
ra những quy luật và khuynh hướng phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
* Sự phát triển của Triết học Mác – Lênin trong giai đoạn từ 1924 đến nay
Sau chiến tranh thế giới thứ II, với sự ra đời của hệ thống các nước xã hội chủ
nghĩa, triết học Mác – Lênin được truyền bá một cách rộng rãi, ảnh hưởng sâu
rộng trong quần chúng. Triết học Mác – Lênin đóng vai trò quan trọng trong sự
phát triển của thực tiễn xây dựng xã hội mới với những thành tựu to lớn không
thể phủ nhận.
Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề cần
được giải đáp về mặt lý luận. Chẳng hạn xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất, xác lập chế độ công hữu, hoặc vấn đề vai trò của nhà nước trong việc quản
lý nền sản xuất xã hội theo một kế hoạch thống nhất trong phạm vi toàn xã hội,
về xây dựng nhà nước trong thời kỳ quá độ, về vai trò của đảng cộng sản trong
quản lý xã hội, về quyền làm chủ của quần chúng lao động... Chính sự lạc hậu
về tư duy lý luận của đội ngũ lãnh đạo các đảng cộng sản, đã trở thành một trong
18

những nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội.
Sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội, sự phát triển của xã hội trong điều kiện
mới làm cho yêu cầu phát triển triết học Mác – Lênin càng trở nên cấp bách.
Một mặt bảo vệ những giá trị và thành quả của việc vận dụng triết học Mác –
Lênin trong đời sống thực tiễn, đồng thời khái quát, bổ sung, phát triển lý luận
những vấn đề thực tiễn đặt ra. Mặt khác, khắc phục bệnh giáo điều, chống lại
những tư tưởng, quan điểm xuyên tạc bản chất cách mạng, khoa học của triết
học Mác. Nếu không đáp ứng các yêu cầu quan trọng đó, thì không thể hiểu
được biện chứng của sự vận động phát triển xã hội; không thể xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội.
2. Đối tượng và chức năng của triết học Mác – Lênin
2.1. Khái niệm triết học Mác – Lênin
Triết học Mác – Lênin là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về tự nhiên,
xã hội và tư duy, là thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các lực lượng xã hội tiến bộ trong
nhận thức và cải tạo thế giới.
2.2. Đối tượng của triết học Mác – Lênin
Giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật biện
chứng và nghiên cứu những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự
nhiên, xã hội và tư duy.
Với triết học Mác – Lênin thì đối tượng của triết học và đối tượng của các
khoa học cụ thể đã được phân biệt rõ ràng. Các khoa học cụ thể nghiên cứu
những quy luật trong các lĩnh vực riêng biệt về tự nhiên, xã hội hoặc tư duy.
19
Hộp 1.5. Chủ nghĩa Mác và triết học Mác qua sự đánh giá của các học giả phương Tây
Nhà triết học người Pháp, Jean Paul Sartre cho rằng: “Chủ nghĩa Mác không những
không già nua đi, trái lại vẫn đang ở độ phát triển của tuổi thanh xuân. Do vậy, nó vẫn là
triết học của thời đại chúng ta”. Cũng đánh giá về tương lai của chủ nghĩa Mác, nhà triết học
người Pháp là Derrida cho rằng: “Luôn luôn sẽ là một sai lầm, nếu không đọc đi đọc lại và
tranh luận những tác phẩm của Mác... không có tương lai mà lại không có Mác. Nếu không
có ký ức về Mác và không có di sản của Mác”.
Ở một khía cạnh khác, khi đánh giá về giá trị phương pháp luận của chủ nghĩa Mác như
một định hướng cho cách nhìn về lịch sử xã hội, Martin Heidegger, nhà triết học người Đức
cho rằng, chủ nghĩa Mác thâm nhập vào bản chất lịch sử mà sự thể hiện của nó ứng với
những giai đoạn lịch sử khác nhau, đã cho thấy quan điểm lịch sử trong tư tưởng của chủ
nghĩa Mác vượt trội hơn so với các quan điểm sử học khác.
Nguồn: PGS, TS Nguyễn Minh Hoàn (2016): Chủ nghSa Mác và triết học Mác qua sự đánh giá
của các học giả phương Tây
<http://www.lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/1549-chu-nghia-mac-
va-triet-hoc-mac-qua-su-danh-gia-cua-cac-hoc-gia-phuong-tay.html>, 22/7/2016.

Triết học nghiên cứu những quy luật chung nhất, tác động trong cả ba lĩnh vực
này.
Triết học Mác – Lênin có với các khoa học cụmối quan hệ gắn bó chặt chẽ
thể. Các khoa học cụ thể cung cấp những dữ liệu, đặt ra những vấn đề khoa học
mới, làm tiền đề, cơ sở cho sự phát triển triết học. Các khoa học cụ thể tuy có
đối tượng và chức năng riêng của mình nhưng đều phải dựa vào một thế giới
quan và phương pháp luận triết học nhất định. Quan hệ giữa quy luật của triết
học và quy luật của khoa học cụ thể .là quan hệ giữa cái chung và cái riêng
2.3. Chức năng của triết học Mác – Lênin
* Chức năng thế giới quan
Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm về thế giới và về vị trí của con
người trong thế giới đó. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan. Triết học
Mác – Lênin đem lại thế giới quan duy vật biện chứng, là hạt nhân thế giới quan
cộng sản.
* Chức năng phương pháp luận
Phương pháp luận là hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát
có vai trò chỉ đạo việc sử dụng các phương pháp trong hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn nhằm đạt kết quả tối ưu. Phương pháp luận cũng có nghĩa là
lý luận về hệ thống phương pháp. Triết học Mác – Lênin thực hiện chức năng
phương pháp luận chung nhất, phổ biến nhất cho nhận thức và hoạt động thực
tiễn.
3. Vai trò của triết học Mác – Lênin trong đời sống xã hội và trong sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay
3.1. Triết học Mác – Lêninlà cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa
học và cách mạng để phân tích xu hướng phát triển của xã hội trong điều kiện
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ
Trong điều kiện phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, đã và
đang đặt ra những vấn đề quan trọng, bức thiết đòi hỏi và thúc đẩy chủ nghĩa
Mác – Lênin phải vượt lên để giải đáp. Mặt khác, nó cũng tạo ra những điều
kiện cần thiết để chủ nghĩa Mác – Lênin có thể thực hiện được vai trò của mình.
Vai trò của chủ nghĩa Mác – Lênin được thể hiện tập trung ở những điểm chủ
yếu sau:
Thứ nhất, nhận thức một cách toàn diện, sâu sắc cuộc khủng hoảng của chủ
nghĩa xã hội hiện thực về thành tựu và khuyết tật, nguyên nhân của khủng
hoảng; phân tích, đánh giá xu hướng vận động theo con đường xã hội chủ nghĩa
20

của một số nước trên thế giới. Trên cơ sở đó, tìm ra con đường, giải pháp thoát
khỏi khủng hoảng và đưa ra dự báo một cách khoa học, thực tế về tương lai của
chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, nhận thức một cách khách quan, toàn diện, sâu sắc chủ nghĩa tư bản
hiện đại, nhất là chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa, về bản chất, quy luật, khả năng
điều chỉnh và thích ứng của nó với hoàn cảnh mới; những mâu thuẫn, khuyết tật,
xu hướng vận động và quá trình phát triển
Thứ ba, nhận thức cuộc cách công nghiệp lần thứ 4 với nguyên nhân, bản
chất, quy luật, thành tựu hạn chế và dự báo xu hướng phát triển, cùng tác động,
ảnh hưởng của nó đến con người và xã hội. Đồng thời, nhận thức sâu sắc quá
trình toàn cầu hóa về bản chất, quy luật, mâu thuẫn, xung đột, mặt tích cực, mặt
tiêu cực và xu hướng tương lai của nó. Trên cơ sở đó, khái quát lý luận, bổ sung
và phát triển các phạm trù, nguyên lý, quy luật của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Thứ tư, nghiên cứu các học thuyết xã hội hiện đại, những vấn đề lý luận và
thực tiễn mới của thời đại để tiếp thu tinh hoa văn hóa, trí tuệ của nhân loại, bổ
sung và làm giàu thêm hệ giá trị của chủ nghĩa Mác – Lênin; đồng thời, đấu
tranh với mọi quan điểm thù địch, bảo vệ bản chất khoa học, cách mạng và nhân
văn của chủ nghĩa Mác – Lênin, góp phần thúc đẩy khoa học và thực tiễn phát
triển theo hướng văn minh, tiến bộ.
Quá trình hình thành, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin đồng thời cũng là quá
trình đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, chủ nghĩa giáo điều, chủ
nghĩa bè phái, chủ nghĩa xét lại và chủ nghĩa cơ hội dưới nhiều màu sắc. Đó
cũng là động lực phát triển và bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin.
3.2. Triết học Mác – Lênin là cơ sở lý luận khoa học của công cuộc xây dựng
chủ nghSa xã hội trên thế giới và sự nghiệp đdi mới theo định hướng xã hội chủ
nghSa ở Việt Nam
Hiện nay, chủ nghĩa Mác – Lênin đang đứng trước những cơ hội và thách
thức to lớn với nhu cầu cấp bách là phải đổi mới để phát triển. Vì vậy, việc tiếp
tục nghiên cứu, làm sáng tỏ bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn của chủ
nghĩa Mác – Lênin có ý nghĩa sống còn đối với những người cộng sản, đối với
tương lai của chủ nghĩa xã hội và đối với sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Việt Nam đã vượt qua được sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội những năm
cuối thập niên 80 đầu thập niên 90 của thế kX XX, đạt được thành tựu to lớn suốt
hơn 30 năm tiến hành đổi mới. Vì sao chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và
21

Liên Xô lại sụp đổ, trong khi đó ở Việt Nam chế độ xã hội chủ nghĩa vẫn tồn tại,
hơn nữa Việt Nam lại thoát ra khỏi khủng hoảng và đạt được thành tựu to lớn?
Điều đó có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó có nguyên
nhân Đảng Cộng sản Việt Nam đã kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác – Lênin.
Nếu không nhận thức đúng cũng như không vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác
– Lênin trong điều kiện lịch sử cụ thể, thì việc khủng hoảng và sụp đổ của chủ
nghĩa xã hội là một tất yếu. Nói cách khác, tình trạng khủng hoảng và sụp đổ
chủ nghĩa xã hội như đã diễn ra ở một số nước, có nguyên nhân ở sự không kiên
định và không vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin. Sở dĩ sự nghiệp đổi
mới ở nước ta từ Đại hội VI đạt được thành quả to lớn trước hết là do Đảng
Cộng sản Việt Nam kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin.
Muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì phải kiên định chủ nghĩa
Mác – Lênin, đồng thời phải vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin một cách sáng tạo
trong những hoàn cảnh thực tiễn cụ thể. Kiên định và vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác – Lênin là nguyên nhân cơ bản dẫn đến thành công trong quá trình
đổi mới ở Việt Nam.
VĂN BẢN VÀ CÂU HỎI KẾT CHƯƠNG
Văn bản 1: TRIẾT HỌC LÀ GÌ?
Thưa tiến sĩ Adler,
Tôi không hiểu thuật ngữ bao hàm nghĩa gì. Hình như nó không cótriết học
một chủ đề xác định nào như trong các khoa học và các nghiên cứu kinh viện.
Phải chăng triết học bao hàm nhiều lĩnh vực tri thức? Hay nó chỉ đơn thuần là tư
tưởng, không có một đối tượng riêng biệt nào? Triết học có phải là một khoa học
22
Hộp 1.6. Sức sống của chủ nghĩa Mác
Thực tiễn xã hội ngày nay cũng như sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ
không đưa ra được bất cứ bằng chứng xác thực nào để bác bỏ các nguyên lý căn bản
của triết học Mác, vì vậy việc cho rằng thời đại thay đổi thì triết học Mác nói riêng và
chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung đã lỗi thời là hoàn toàn sai lầm.
Có thể thấy rõ ràng là không phải học thuyết càng mới thì càng có giá trị. Một học
thuyết trong lịch sử đối với đương thời có hay không có giá trị không phải chỗ học
thuyết đó ra đời ở thời đại nào mà căn bản nhất ở chỗ tự bản thân học thuyết đó có
tính chân lý hay không, có cung cấp đủ tri thức và trí tuệ hay không.
Nguồn: Nguyễn Quang Thuấn (2017), Sức sống của Chủ nghSa Mác - Lênin trong thời đại mới
<http://cand.com.vn/Chong-dien-bien-hoa-binh/Suc-song-cua-Chu-nghia-Mac-Lenin-
trong-thoi-dai-moi-428159/>, 13/2/2017

mang đến cho ta tri thức chắc chắn và chính xác, hay chỉ là nghệ thuật suy nghĩ?
Tại sao chúng ta không thể đồng thuận với nhau về mục đích của một nỗ lực mà
nhân loại theo đuổi hàng ngàn năm nay? J.P
J.P thân mến,
Sở dĩ khó định nghĩa triết học là vì có quá nhiều cái nhìn khác nhau về nội
dung và sứ mệnh của triết học. Một mặt, nó được trình bày như tri thức nền tảng
về tự nhiên và xã hội; mặt khác như là sự hướng dẫn đến một đời sống tốt đẹp.
Thời Trung cổ triết học được xem như là con sen của thần học; thời nay, nhiều
người vẫn xem nó như một trợ thủ cho khoa học xã hội và khoa học tự nhiên.
Thuật ngữ theo nghĩa đen là lòng yêu mến sự thông thái, theo đó triếttriết học
học là một tham vọng tìm kiếm hơn là một cái kho chứa đựng tri thức tìm được
và có thể truyền giao được. Xôcrát chỉ rõ rằng triết gia là người yêu mến sự
thông thái, chứ không sở hữu nó.
Xôcrát còn làm cho cung cách của triết gia thêm cụ thể khi nói rằng một đời
sống không được khảo chứng thì không đáng sống và chúng ta nên theo đuổi
mọi chứng lý đến cùng khi chưa ngã ngũ. Luôn luôn tìm kiếm, luôn luôn nghi
vấn là thái độ căn bản trong sinh hoạt triết học. Nó cũng cho thấy một ý hướng
luân lý của một đời sống tốt đẹp vốn là điều cần nhấn mạnh luôn mãi trong triết
học.
Arixtốt trình bày nội dung của triết học bằng một khối lượng tác phẩm phong
phú, đồ sộ. Ông phân chia triết học thành những phân ngành khác nhau. Đứng
trên tất cả là “đệ nhất triết học”, hay Siêu hình học, vốn là tri thức về nguyên lý
và những nguyên nhân tối hậu. Sự nhấn mạnh Siêu hình học như vậy cũng đóng
vai trò chính yếu trong triết học.
Vào thời hiện đại, bản chất của tri thức và cơ cấu của tâm lý được coi là quan
trọng hàng đầu. I. Kant, người đi đầu trong đường hướng này, phân biệt một bên
là tri thức thuần lý chỉ có thể đạt được bằng triết học. Hiện nay người ta bàn cải
rất nhiều về vai trò tương đối của triết học và khoa học. Chính là với khoa học,
chứ không phải triết học, mà người ta đi tìm tri thức căn bản. Một trong những
trường phái triết học mạnh mẽ nhất, , cho rằng chỉ cóChủ nghSa thực chứng
khoa học thực nghiệm mới là tri thức thực sự, và rằng triết học chỉ còn đóng vai
trò giải nghĩa và phê phán các khoa học này.
23

Quan điểm của tôi là, triết học là một loại tri thức đặc biệt có tính minh triết.
Nó đem đến cho ta minh triết về bản chất con người, về thế giới, về Thượng đế,
về đời sống tốt đẹp và xã hội tốt đẹp. Nó đem ra ánh sáng thắc mắc căn bản về
yếu tính của vạn vật và cứu cánh cuộc đời. Do đó, nó đứng trên khoa học, cả về
lý thuyết lẫn thực hành, vì khoa học chỉ đề cập đến những vấn đề bên ngoài và
kém quan trọng hơn.
Theo quan điểm này, triết học là mối bận tâm của tất cả mọi người. Nó không
phải là một ngành học đặc biệt, đòi hỏi phải tinh thông một phương pháp luận
phức tạp, toán học cao cấp, hoặc máy móc tinh vi. Triết gia đích thực là một con
chim lạ hiếm, đó là vì ông ta đã dâng hiến hết mình và suốt đời cho việc theo
đuổi minh triết giữa một thế giới đầy sự xao lãng. Tuy nhiên, mọi người có thể
đáp lại tiếng gọi này, thì chỉ có hai điều duy nhất mà một người cần có để trở
thành triết gia, đó là trí tuệ được Thượng Đế ban cho và một niềm khát khao
muốn biết chân lý tối hậu.
Những gì tôi vừa trình bày trên đây gợi lên những giải đáp cho tất cả câu hỏi
của bạn. Triết học không phải là một khoa học thực nghiệm theo nghĩa của Vật
lý học, Hóa học và Sinh học; mà nó là một khoa học thuần lý, và như Toán học,
nó phát triển bằng suy tư và phân tích có hệ thống. Nhà toán học lẫn nhà triết
học không viện dẫn bất kỳ một sự kiện nào đã được quan sát cả, ngoại trừ những
sự kiện đã được quan sát của mọi người. Cả hai đều tiến hành những khám phá
của mình ngay tại bàn giấy; cả hai đều là những nhà tư tưởng salon.
Triết học không phải là một nghệ thuật, nhưng nó sử dụng các môn học lý
thuyết, đặc biệt là nghệ thuật suy luận biện chứng. Nó không phải là thần học, vì
trong khi thần học lấy niềm tin tôn giáo làm khởi điểm của mình, thì triết học lại
bắt đầu bằng sự phán đoán thực tế, nó nỗ lực làm rõ và đào sâu sự hiểu biết về
một thế giới còn ẩn tàng trong phán đoán thực tế đó.
Hoàn toàn không đến trước khoa học, triết học đến sau khoa học. Mặc dù,
như lịch sử cho thấy, sự tra hỏi triết lý bắt đầu từ rất lâu trước thí nghiệm khoa
học, nó cũng sẽ tiếp tục lâu dài sau khi chúng ta đã đạt đến những giới hạn của
tri thức thực nghiệm. Các khoa học thực nghiệm đã hoàn thiện rồi, và có những
biểu hiện cho thấy ở những thời điểm nào đó chúng ta đã đi xa đến mức có thể.
24

Nhưng triết học vẫn còn ở tuổi ấu thơ của nó. Sự phát triển đầy đủ của nó nằm ở
nhiều thiên niên kX phía trước.
1
Câu hỏi
1. Anh /Chị cho biết văn bản đã trình bày những cách nhìn khác nhau nào về
nội dung và sứ mệnh của triết học?
2. Tri thức triết học có những đặc trưng gì?
3. So với các nhà khoa học khác, nhà triết học có sứ mệnh gì?
Văn bản 2: TRIẾT HỌC TRONG KỶ NGUYÊN KHOA HỌC
Thưa tiến sĩ Adler,
Khoa học đã cung cấp tri thức và công cụ để tạo ra một kX nguyên công
nghiệp hiện đại. Nhưng triết học có thể giúp gì chúng ta trong thời đại khủng
hoảng ngày nay không? Hay triết học đã lỗi thời trong kX nguyên khoa học này?
W.L.
W.L. thân mến,
Trước hết chúng ta có thể xem xét những gì khoa học có thể làm và những gì
khoa học không thể làm – phạm vi và chức năng đích thực của nó.
Khoa học nghiên cứu những hiện tượng xã hội và vật lý nhằm mục đích đạt
tới một mô tả chính xác về chúng. Có thể đó là sự vận động của các thiên thể,
những cấu trúc bên trong của nguyên tử, những tiến trình tâm lý, những trào lưu
xã hội, hoặc hành vi của con người.
Vậy lợi ích của tri thức khoa học là gì? Bacon trả lời câu hỏi đó bằng lời
khẳng định: khoa học mang lại cho chúng ta quyền lực. Nó cho phép chúng ta, ở
một mức độ nào đó, thực hiện việc kiểm soát và làm chủ những hiện tượng vật
lý và xã hội trong thế giới mà chúng ta đang sống. Một câu trả lời khác nói rằng
khoa học cho phép chúng ta tạo ra đủ thứ vật chất. Áp dụng khoa học, người kỹ
sư xây dựng những chiếc cầu, vị bác sĩ phục hồi sức khỏe cho người bệnh.
Nhưng một tri thức như thế, như mọi người đều biết, cũng đã được sử dụng để
hủy diệt tất cả, để làm tàn tật và giết hại con người.
1 J. Adler (2004), , Dịch giả: Phạm Viêm Phương, Mai Sơn, Nxb. Những tư tưởng lớn từ những tác phẩm vS đại
Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
25

Nói một cách khác, khoa học mang đến cho chúng ta thứ quyền lực vừa có
tính kiến tạo vừa có tính phá hủy. Nó cung cấp cho chúng ta những phương tiện
theo đuổi những mục đích xấu xa lẫn những cứu cánh tốt đẹp. Tự nó, khoa học
không thể trung tính về mặt đạo đức, nghĩa là nó không tốt không xấu đối với
những giá trị của những cứu cánh mà vì nó các phương tiện được đem ra sử
dụng; nó còn hoàn toàn không thể chỉ cho chúng ta một đường hướng đạo đức
nào, vì nó chẳng cung cấp cho chúng ta những tri thức cần thiết về hệ thống
những điều kiện và hệ thống những cứu cánh.
Do vậy, bạn rất có lý khi đề xuất ý tưởng rằng khoa học cần có triết học hỗ trợ
nếu mong muốn những phương tiện mà khoa học tạo ra được sử dụng cho
những mục đích xứng đáng.
Ngày nay nhiều người nghĩ rằng triết học là vô ích so sánh với khoa học, bởi
vì người ta không áp dụng nó để tạo ra mọi thứ hoặc để kiểm soát các phương
tiện. Tuy nhiên, tri thức triết học, theo tôi, lại hữu dụng một cách khác, cao quý
hơn. Sự hữu dụng và ứng dụng của nó có tính đạo đức và giáo dục, chứ không
có tính kỹ thuật và chế tác. Trong khi khoa học trang bị cho chúng ta phương
tiện để sử dụng, thì triết học hướng dẫn chúng ta đến những cứu cánh mà chúng
ta mong đạt tới.
Tôi xin nói rõ điểm cuối cùng này. Cách xử sự của con người và các thiết chế
xã hội tùy thuộc vào những giải đáp của chúng ta trước những câu hỏi như hạnh
phúc phụ thuộc vào cái gì, bổn phận của chúng ta là gì, tổ chức nhà nước nào là
công bằng nhất, điều gì làm cho cái thiện phổ quát trong xã hội, con người cần
có những tự do gì, và vân vân. Bây giờ và mãi mãi, khoa học không thể trả lời
một câu hỏi nào vừa kể, hoặc bất kỳ câu hỏi khác có liên quan đến cái đúng cái
sai, cái tốt và cái xấu, .bây giờ và mãi mãi
Không trả lời được những câu hỏi này, chúng ta như con thuyền không có la
bàn và bánh lái trôi dạt giữa biển sóng cuộc đời. Chừng nào chiếc thuyền cá
nhân hoặc con tàu nhà nước sử dụng công suất nhỏ, chúng ta có thể không gặp
nguy hiểm. Nhưng, bạn đã chỉ ra, trong kX nguyên hạt nhân này, khi chúng ta di
chuyển với tốc độ lớn và với công suất lớn, tai họa đe dọa chúng ta ở mọi khúc
quanh nếu chúng ta không biết định hướng đúng.
26

Chính là triết học, chứ không phải khoa học, sẽ dạy cho chúng ta thấy sự khác
biệt giữa cái đúng và cái sai, đồng thời hướng dẫn chúng ta đi tới những điều
thiện phù hợp với bản chất của chúng ta. Nếu như lợi ích chế tác của khoa học
phát sinh từ sự diễn tả chính xác của nó về cách thức mọi sự vận động, thì lợi
ích đạo đức của triết học lại có nguồn gốc từ những hiểu biết nền tảng về những
thực tại tối hậu đằng sau những hiện tượng mà khoa học nghiên cứu. Mỗi loại tri
thức trả lời những câu hỏi mà loại kia không thể, và vì thế, mỗi loại đều hữu ích
theo cách riêng của nó.
Theo tôi, chính là triết học, chứ không phải khoa học, là bậc cao nhất trong
mọi nền văn minh, đơn giản vì những câu hỏi mà nó có thể giải đáp lúc nào
cũng khẩn thiết cho nhân sinh. Một điều chắc chắn là, chúng ta càng chiếm lĩnh
được khoa học, chúng ta càng cần đến triết học, bởi vì càng có nhiều sức mạnh
chúng ta . càng cần đến phương hướng
1
Câu hỏi
1. Một số sinh viên nghĩ rằng môn triết học chẳng ích lợi gì nếu so sánh nó
với các môn học thuộc chuyên ngành đào tạo (kế toán, tài chính, marketing, kinh
doanh quốc tế…) bởi vì không thể trực tiếp hành nghề đã chọn bằng kiến thức
triết học. Anh/Chị cho biết suy nghĩ của mình về ý kiến trên.
2. Xuất phát từ chuyên ngành mà Anh/ Chị đã chọn, hãy chứng minh nhận
định: Khoa học và triết học, mỗi loại tri thức trả lời những câu hỏi mà loại kia
không thể và vì thế đối với bạn mỗi loại đều hữu ích theo cách riêng của nó.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Triết học là gì? Triết học xuất hiện trong những điều kiện nào? Sự biến đổi
đối tượng của triết học qua các giai đoạn lịch sử?
2. Chức năng thế giới quan của triết học là gì?
3. Vấn đề cơ bản của triết học. Cơ sở để phân biệt chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm trong triết học?
4. Trình bày sự ra đời và phát triển của Triết học Mác - Lênin.
5. Cho biết đối tượng và chức năng của Triết học Mác - Lênin.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
(Các câu hỏi suy tư triết học có các đặc điểm: [i] Đề cập đến những vấn đề
1 J. Adler (2004), , Dịch giả: Phạm Viêm Phương, Mai Sơn, Nxb Những tư tưởng lớn từ những tác phẩm vS đại
Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
27

khái quát, có thể áp dụng trong nhiều tình huống khác nhau. [ii] Hàm chứa ý
nghSa sâu sắc trong đời sống. [iii] Không có phương pháp trả lời thống nhất;
mỗi người đều có thể tự đề xuất phương hướng trả lời cho riêng mình)
1. Anh/ Chị có chấp nhận rời xa tổ quốc và không bao giờ quay lại để có được
khoản tiền theo đúng mong muốn của mình không? Vì sao? Hãy rút ra ý nghĩa
từ nội dung câu hỏi.
2. Nếu sống ở năm 1900 và biết xe hơi sẽ cướp đi sinh mạng của 20 triệu
người trong thế kỉ XX, khi đó Anh/ Chị có muốn ngừng việc phát triển xe hơi
không? Vì sao? Theo Anh/ Chị, công nghệ nào trong hiện tại là quá nguy hiểm
để được phát triển, biết rằng hàng năm xe hơi cướp đi 500.000 mạng người và
thuốc lá cướp đi 5 triệu mạng người? Hãy rút ra ý nghĩa từ nội dung câu hỏi.
3. Anh/ Chị nghĩ phương án nào hiệu quả hơn trong 2 phương án sau. Tại sao?
Hãy rút ra ý nghĩa từ nội dung câu hỏi.
Để được đảm bảo về tài chính, Anh/ Chị hoặc sẽ chọn phương án tích cực
lường trước rủi ro để tránh xa hoặc lập phương án phòng bị để vượt qua những
nguy cơ bất ngờ?
4. Công nghệ đã trở thành một phần trong cuộc sống. Nếu buộc phải chọn
hoặc từ bỏ việc sử dụng các phương tiện, động cơ, các thiết bị viễn thông và
máy vi tính, hoặc từ bỏ đi một cánh tay của mình thì Anh/ Chị chọn bỏ cái nào?
Vì sao? Hãy rút ra ý nghĩa từ nội dung câu hỏi.
5. Anh/ Chị nghĩ khó khăn lớn nhất của việc sống hàng trăm năm nhưng vẫn
giữ trạng thái của tuổi thanh xuân là gì? Hãy rút ra ý nghĩa từ nội dung câu hỏi.
6. Cách Anh/ Chị sử dụng Internet và giao tiếp với người khác sẽ thay đổi thế
nào nếu phải dùng tên thật trong mọi tương tác trực tuyến và tra cứu thông tin,
đồng thời mọi hoạt động trực tuyến sẽ được lưu trữ? Hãy rút ra ý nghĩa từ nội
dung câu hỏi.
7. Giả sử có hai dạng mất trí nhớ: một dạng mất đi kí ức quá khứ, một dạng
ngăn lưu giữ thêm những kí ức mới. Nếu Anh/ Chị đột nhiên rơi vào tình trạng
mất trí nhớ, theo Anh/ Chị dạng mất trí nhớ nào đáng sợ hơn? Vì sao? Hãy rút ra
ý nghĩa từ nội dung câu hỏi.
8. Anh/ Chị sẽ cảm thấy thế nào nếu biết được rằng trong vòng một thế kX tới,
những cỗ máy thông minh sẽ có ý thức, thông minh và sáng tạo hơn con người?
28

Vì sao Anh/ Chị cảm nhận như vậy? Hãy rút ra ý nghĩa từ nội dung câu hỏi.
29
Tags