FTU-Nguyen Thi Huynh Giao-KTQT_Luan an tien si.docx

cThngDng1 10 views 183 slides Nov 28, 2024
Slide 1
Slide 1 of 186
Slide 1
1
Slide 2
2
Slide 3
3
Slide 4
4
Slide 5
5
Slide 6
6
Slide 7
7
Slide 8
8
Slide 9
9
Slide 10
10
Slide 11
11
Slide 12
12
Slide 13
13
Slide 14
14
Slide 15
15
Slide 16
16
Slide 17
17
Slide 18
18
Slide 19
19
Slide 20
20
Slide 21
21
Slide 22
22
Slide 23
23
Slide 24
24
Slide 25
25
Slide 26
26
Slide 27
27
Slide 28
28
Slide 29
29
Slide 30
30
Slide 31
31
Slide 32
32
Slide 33
33
Slide 34
34
Slide 35
35
Slide 36
36
Slide 37
37
Slide 38
38
Slide 39
39
Slide 40
40
Slide 41
41
Slide 42
42
Slide 43
43
Slide 44
44
Slide 45
45
Slide 46
46
Slide 47
47
Slide 48
48
Slide 49
49
Slide 50
50
Slide 51
51
Slide 52
52
Slide 53
53
Slide 54
54
Slide 55
55
Slide 56
56
Slide 57
57
Slide 58
58
Slide 59
59
Slide 60
60
Slide 61
61
Slide 62
62
Slide 63
63
Slide 64
64
Slide 65
65
Slide 66
66
Slide 67
67
Slide 68
68
Slide 69
69
Slide 70
70
Slide 71
71
Slide 72
72
Slide 73
73
Slide 74
74
Slide 75
75
Slide 76
76
Slide 77
77
Slide 78
78
Slide 79
79
Slide 80
80
Slide 81
81
Slide 82
82
Slide 83
83
Slide 84
84
Slide 85
85
Slide 86
86
Slide 87
87
Slide 88
88
Slide 89
89
Slide 90
90
Slide 91
91
Slide 92
92
Slide 93
93
Slide 94
94
Slide 95
95
Slide 96
96
Slide 97
97
Slide 98
98
Slide 99
99
Slide 100
100
Slide 101
101
Slide 102
102
Slide 103
103
Slide 104
104
Slide 105
105
Slide 106
106
Slide 107
107
Slide 108
108
Slide 109
109
Slide 110
110
Slide 111
111
Slide 112
112
Slide 113
113
Slide 114
114
Slide 115
115
Slide 116
116
Slide 117
117
Slide 118
118
Slide 119
119
Slide 120
120
Slide 121
121
Slide 122
122
Slide 123
123
Slide 124
124
Slide 125
125
Slide 126
126
Slide 127
127
Slide 128
128
Slide 129
129
Slide 130
130
Slide 131
131
Slide 132
132
Slide 133
133
Slide 134
134
Slide 135
135
Slide 136
136
Slide 137
137
Slide 138
138
Slide 139
139
Slide 140
140
Slide 141
141
Slide 142
142
Slide 143
143
Slide 144
144
Slide 145
145
Slide 146
146
Slide 147
147
Slide 148
148
Slide 149
149
Slide 150
150
Slide 151
151
Slide 152
152
Slide 153
153
Slide 154
154
Slide 155
155
Slide 156
156
Slide 157
157
Slide 158
158
Slide 159
159
Slide 160
160
Slide 161
161
Slide 162
162
Slide 163
163
Slide 164
164
Slide 165
165
Slide 166
166
Slide 167
167
Slide 168
168
Slide 169
169
Slide 170
170
Slide 171
171
Slide 172
172
Slide 173
173
Slide 174
174
Slide 175
175
Slide 176
176
Slide 177
177
Slide 178
178
Slide 179
179
Slide 180
180
Slide 181
181
Slide 182
182
Slide 183
183
Slide 184
184
Slide 185
185
Slide 186
186

About This Presentation

Luận án tác động của FDI đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế


Slide Content

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI)
ĐỐI VỚI SỰ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ
CỦA VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Ngành: Kinh tế quốc tế
NGUYỄN THỊ HUỲNH GIAO
Hà Nội – 2023

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
-----o0o-----
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI)
ĐỐI VỚI SỰ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ
CỦA VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Ngành: Kinh tế quốc tế
Mã ngành: 9310106
Nghiên cứu sinh: Nguyễn Thị Huỳnh Giao
Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS Võ Khắc
Thường
Hà Nội– 2023

i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
số liệu nêu ra và trích dẫn trong luận án là trung thực. Toàn bộ kết quả nghiên cứu
của luận án chưa được bất cứ ai khác công bố tại bất cứ công trình nào.
TÁC GIẢ
Nguyễn Thị Huỳnh Giao

ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN.......................................................................................................i
MỤC LỤC..................................................................................................................ii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT.........................................................................vi
DANH MỤC BẢNG, BIỂU....................................................................................vii
DANH MỤC HÌNH................................................................................................viii
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................1
1.Tính cấp thiết của đề tài...................................................................................1
2.Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu.......................................................................4
2.1.Mục tiêu nghiên cứu.....................................................................................4
2.2.Câu hỏi nghiên cứu......................................................................................4
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu....................................................................5
3.1.Đối tượng nghiên cứu...................................................................................5
3.2.Phạm vi nghiên cứu......................................................................................5
4.Phương pháp nghiên cứu..................................................................................5
5.Nguồn số liệu......................................................................................................6
6.Đóng góp mới của luận án................................................................................6
7.Cấu trúc của luận án.........................................................................................7
CHƯƠNG 1 TỒNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN ĐẾN................................................................................................................8
CHỦ ĐỀ LUẬN ÁN..................................................................................................8
1.1.Các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài đến sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.................................................8
1.1.1.Các nghiên cứu ở nước ngoài....................................................................8
1.1.1.1.FDI tác động trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế..........8
1.1.1.2.FDI tác động gián tiếp đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế........10
1.1.2.Các nghiên cứu ở Việt Nam....................................................................13
1.1.2.1.FDI tác động trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế........13
1.1.2.2.FDI tác động gián tiếp đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế........15
1.2.Những điểm đã thống nhất và khoảng trống nghiên cứu.........................17
1.2.1Những điểm đã thống nhất........................................................................17

iii
1.2.2Khoảng trống nghiên cứu..........................................................................18
1.3.Những hướng nghiên cứu tiếp theo trong luận án....................................19
CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU
TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐẾN SỰ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH
KINH TẾ CỦA VÙNG CỦA MỘT QUỐC GIA..................................................21
2.1.Khái quát một số vấn đề lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài.............21
2.1.1.Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài....................................................21
2.1.2.Phân loại mục đích đầu tư trực tiếp nước ngoài......................................23
2.1.3.Nguyên nhân hình thành đầu tư trực tiếp nước ngoài.............................25
2.1.4.Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với phát triển các ngành và
tăng trưởng kinh tế............................................................................................27
2.2.Khái luận về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế........................................33
2.2.1.Khái niệm về cơ cấu ngành kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
..........................................................................................................................34
2.2.2.Các tiêu chí đánh giá chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế........................38
2.2.3.Một số lý thuyết về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế...........................39
2.3.Một số vấn đề về tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế...................................................................................43
2.3.1.Tác động của FDI đối với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.................43
2.3.1.1.Tác động tích cực.............................................................................43
2.3.1.2.Tác động tiêu cực.............................................................................44
2.3.2.Lý thuyết về tác động của FDI đối với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
..........................................................................................................................45
2.4.Cơ sở thực tiễn của chủ đề nghiên cứu – Lợi thế và khó khăn của Vùng
Đồng bằng sông Cửu Long trong thu hút FDI và trong chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế.......................................................................................................51
2.4.1.Thuận lợi.................................................................................................51
2.4.2.Khó khăn.................................................................................................53
2.5.Khung phân tích...........................................................................................58
CHƯƠNG 3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU....................................................62
3.1.Quy trình nghiên cứu...................................................................................62

iv
3.2.Mô hình thực nghiệm...................................................................................63
3.3.Kỹ thuật ước lượng......................................................................................65
3.3.1.Kỹ thuật hồi quy dữ liệu bảng.................................................................66
3.3.2.Khắc phục khuyết tật của mô hình nghiên cứu.......................................69
3.3.3.Dữ liệu nghiên cứu..................................................................................70
CHƯƠNG 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU..............................................................74
4.1.Thực trạng thu hút FDI của vùng đồng bằng sông Cửu Long................74
4.2.Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng đồng bằng sông Cửu Long
giai đoạn 2010 – 2019..........................................................................................81
4.3.Thực trạng vai trò của FDI thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long 2010 - 2019..................................................88
4.4.Kết quả đo lường tác động của FDI đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh
tế ở Vùng đồng bằng sông Cửu Long................................................................94
4.4.1.Tốc độ chuyển dịch.................................................................................94
4.4.2.Xu hướng chuyển dịch............................................................................98
4.4.2.1.Xu hướng chuyển dịch từ Nông nghiệp sang Công nghiệp.............99
4.4.2.2.Xu hướng chuyển dịch từ Nông nghiệp sang Dịch vụ....................104
4.5.Thảo luận kết quả nghiên cứu...................................................................108
CHƯƠNG 5 MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH CHUYỂN
DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU
LONG TRONG THỜI GIAN TỚI......................................................................125
5.1.Bối cảnh hiện nay ảnh hưởng đến thu hút FDI và chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế tại Vùng đồng bằng sông Cửu Long.......................................125
5.1.1.Bối cảnh quốc tế....................................................................................125
5.1.2.Bối cảnh trong nước..............................................................................127
5.1.3.Mục tiêu, quan điểm về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở vùng
ĐBSCL trong giai đoạn 2021-2030 tầm nhìn đến năm 2050.........................132
5.1.4.Định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở vùng ĐBSCL đến năm
2030 giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.......................................133
5.2.Một số khuyến nghị nhằm phát huy vai trò của đầu tư trực tiếp nước

v
ngoài đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế vùng Đồng bằng
sông Cửu Long..................................................................................................135
5.2.1.Đổi mới tư duy trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Vùng ĐBSCL.....................................135
5.2.2.Chính sách tính đến yếu tố đặc thù của từng tỉnh trong Vùng..............136
5.2.3.Xây dựng chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Vùng ĐBSCL.....................................140
5.2.4.Hoàn thiện cơ chế chính sách để khuyến khích thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài nhằm thúc đẩy hơn nữa chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của
Vùng ĐBSCL..................................................................................................143
5.2.5.Đổi mới công tác xúc tiến đầu tư để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Vùng....................................145
5.2.6.Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính của Vùng ĐBSCL...................147
KẾT LUẬN............................................................................................................149
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ............................................................151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................152
PHỤ LỤC...............................................................................................................162

vi
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Ký hiệu Tiếng Anh Tiếng Việt
CCKT Cơ cấu kinh tế
CDCC Chuyển dịch cơ cấu
CDCCKT Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
CDCCNKT Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long
FDI Foreign Direct InvestmentĐầu tư trực tiếp nước ngoài
ICOR Incremental Capital RatioHệ số sử dụng vốn
GDP Gross Domestic ProductTổng sản phẩm quốc nội
GRDP
Gross Regional Domestic
Product
Tổng sản phẩm trên địa bàn
MNCs Multinational corporationCông ty đa quốc gia
OECD Organization for
Economic Cooperation and
Development
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
TFP Total Factor ProductivityNăng suất nhân tố tổng hợp
UNCTAD United Nations Conference
on Trade and Development
Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại
và Phát triển
VAR Vector autorewardsionMô hình tự hồi quy

vii
DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Bảng 2.1. Khu vực kinh tế và loại FDI.....................................................................23
Bảng 2.2. Phân ngành cấp 1 tại Việt Nam................................................................35
Bảng 3.1. Danh sách các biến sử dụng trong nghiên cứu.........................................64
Bảng 3.2. Một số đặc tính của mô hình FEM và REM.............................................68
Bảng 3.3. Thống kê mô tả giá trị các biến trong mô hình.........................................71
Bảng 3.4. Kiểm định tương quan các biến trong mô hình.......................................73
Bảng 4.1. FDI lũy kế đến năm 2019 theo cơ cấu ngành ở ĐBSCL..........................76
Bảng 4.2. Tỷ lệ vốn FDI giữa các vùng kinh tế (lũy kế đến 2019)...........................77
Bảng 4.3.. Tỷ lệ vốn FDI vào các tỉnh ở vùng ĐBSCL (lũy kế đến 2019)...............78
Bảng 4.4. Cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội ở ĐBSCL 2010-2019...............................79
Bảng 4.5. Tỷ trọng các ngành trong nhóm công nghiệp ở ĐBSCL 2010-2019........83
Bảng 4.6. Tỷ trọng các ngành trong lĩnh vực dịch vụ ở ĐBSCL 2010-2019...........83
Bảng 4.7. Tỷ trọng đóng góp vào GRDP vùng ĐBSCL 2010-2019.........................86
Bảng 4.8. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế mất cân đối ở ĐBSCL..................................87
Bảng 4.9. Tỷ trọng GRDP ở ĐBSCL (lũy kế đến năm 2019)...................................90
Bảng 4.10. Tỷ trọng vốn FDI đăng ký ở ĐBSCL (lũy kế đến năm 2019)................92
Bảng 4.11. Cơ cấu kinh tế ĐBSCL giai đoạn 2012-2019.........................................95
Bảng 4.12. Kết quả mô hình đo lường tác động của FDI đến quá trình chuyển dịch
cơ cấu ngành kinh tế của Vùng thông qua hệ số cos(φ)............................................97
Bảng 4.13. Ước lượng mô hình chuyển dịch NN-CN ban đầu.................................99
Bảng 4.14. Kết quả kiểm tra đa cộng tuyến mô hình NN-CN................................100
Bảng 4.15. Mô hình NN-CN theo ước lượng sai số chuẩn mạnh...........................101
Bảng 4.16. Ước lượng mô hình chuyển dịch NN-DV ban đầu...............................104
Bảng 4.17. Kết quả kiểm tra đa cộng tuyến mô hình NN-DV...............................105
Bảng 4.18. Mô hình NN-DV theo ước lượng sai số chuẩn mạnh...........................106
Bảng 4.19. Kết luận tổng hợp từ các mô hình đo lường tác động của FDI đến
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế vùng Đồng bằng sông Cửu Long......................109

viii
DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1. Đường sản xuất khu vực nông nghiệp.......................................................40
Hình 2.2. Khung phân tích của đề tài........................................................................59
Hình 3.1. Quy trình nghiên cứu.................................................................................62
Hình 4.1. Các đơn vị hành chính thuộc Đồng bằng sông Cửu Long........................52
Hình 4.2. Tỷ trọng các ngành trong cơ cấu GRDP năm 2019..................................54
Hình 4.3. Cơ cấu GRDP vùng ĐBSCL theo tỉnh..............................................54
Hình 4.4. GRDP đầu người và tỷ trọng ngành công nghiệp ở ĐBSCL 2018...........55
Hình 4.5. Thực trạng thu HÚT FDI vào ĐBSCL giai đoạn 2010 - 2019..................74
Hình 4.6. Giá trị GRDP của ĐBSCL giai đoạn 2010 – 2019....................................81
Hình 4.7. Cơ cấu GRDP phân theo nhóm ngành của ĐBSCL 2010-2019...............82
Hình 5.1. Gợi ý chính sách phát triển vùng ĐBSCL...............................................137

1
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) không chỉ đóng góp vào sự tăng trưởng
và phát triển kinh tế của các nước đang phát triển thông qua hình thành vốn, tạo
việc làm, chuyển giao công nghệ, mà còn ảnh hưởng đến quá trình đô thị hóa (Wu
và Chen, 2016). Thông qua việc thu hút FDI, nước tiếp nhận có cơ hội được tiếp thu
kỹ thuật và công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý kinh doanh tiên tiến của đối
tác nước ngoài (Ridzuan và cộng sự, 2017). Đối với các nước đang phát triển,
nguồn nhân lực dồi dào, đặc biệt là số lượng lớn lao động phổ thông, nên nguồn vốn
FDI có xu hướng tập trung vào các lĩnh vực sử dụng nhiều lao động. Vì vậy, FDI
không chỉ đóng góp vào phát triển kinh tế mà còn tạo điều kiện thúc đẩy thay đổi cơ
cấu kinh tế thông qua việc góp phần mở rộng khu vực công nghiệp, dịch vụ của các
nước này. Trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, sự suy giảm của khu vực nông
nghiệp sẽ tạo ra một số lượng lớn lao động dư thừa ở nông thôn, và việc mở rộng
các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ do FDI đóng góp sẽ thu hút một lượng lớn trong
số họ đổ vào các khu đô thị. Theo đó, FDI sẽ góp phần vào chuyển đổi cơ cấu
ngành kinh tế, hấp thụ lao động dư thừa ở nông thôn và tăng tốc độ đô thị ở những
quốc gia đang phát triển (Wu và Chen, 2016).
Tuy nhiên, cũng có nhiều nghiên cứu đưa ra những kết luận khác nhau về tác
động của FDI đối với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Blomstrom và các cộng sự
(2000) xem xét ảnh hưởng của FDI đến cơ cấu kinh tế Nhật Bản, cho rằng CDCC
kinh tế bị ảnh hưởng bởi vốn nội địa hơn so với FDI. Trong khi Jude và Silaghiex
(2016) đã xác định vai trò của FDI như một yếu tố quyết định việc làm bằng cách sử
dụng mô hình nhu cầu lao động áp dụng cho Trung và Đông Âu, cho thấy dòng vốn
FDI đã ảnh hưởng đến vấn đề lực lượng lao động và cơ cấu kinh tế một số quốc gia.
Bên cạnh đó, một số nhà nghiên cứu cho rằng FDI ảnh hưởng đến các ngành trong
cơ cấu kinh tế cũng không giống nhau, hay mức độ tác động ở ngắn hạn và dài hạn
khác nhau. Khi xem xét mối quan hệ giữa độ mở và hiệu suất nông nghiệp, Djokoto
(2013) cho rằng không có mối quan hệ lâu dài giữa FDI, độ mở thương mại, và hiệu
suất nông nghiệp. Còn trong ngắn hạn, độ mở thương mại và FDI tạo ra ảnh hưởng
tiêu cực đến hiệu suất nông nghiệp. Kết quả này góp phần thu hút FDI vào lĩnh vực
công nghiệp. Đồng thời, các doanh nghiệp FDI cũng biết cách nắm bắt cơ hội khai
thác hiệu quả nguồn lao động giá rẻ tại nước đầu tư, đặc biệt các nước đang phát triển
(Pazienza, 2015). Theo đó, các ngành công nghiệp

2
như công nghiệp chế tạo, gia công, chế biến, dịch vụ,…là các ngành mà phần lớn
các doanh nghiệp FDI chủ yếu đầu tư vào, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động
tương xứng, phù hợp với xu hướng chung của thế giới (Pao và Tsai, 2011).
Đối với Việt Nam, FDI là nguồn lực đóng góp lớn vào tổng vốn đầu tư phát
triển xã hội, mở rộng thị trường xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, theo
đúng định hướng mà Chính phủ đặt ra trong việc tạo điều kiện liên kết giữa các
vùng, phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương (Nguyễn Tiến Long,
2019). Tuy nhiên, xét trong phạm vi từng vùng, có nhiều nghiên cứu liên quan đến
tác động của FDI đối với nền kinh tế và cho thấy cả mặt tích cực lẫn tiêu cực.
Chẳng hạn, Nguyễn Tiến Long (2010, 2016) cho rằng FDI tác động tích cực đến
quá trình tái cơ cấu của Thái Nguyên trong giai đoạn 1993 – 2009. Bên cạnh những
ảnh hưởng tích cực mà FDI mang lại, nếu không có biện pháp kiểm soát chặt chẽ có
thể dẫn đến những hướng đi sai trong chiến lược phát triển kinh tế. Hay nghiên cứu
của Phạm Đức Minh (2013) về thu hút FDI vào phát triển kinh tế ở phía Bắc, cho
thấy vai trò của FDI đối với hiệu quả sản xuất, doanh thu của chính phủ, kinh
nghiệm làm việc cho lực lượng lao động, ... nhưng khi mất cân đối trong thu hút
FDI, định hướng sai lệch về cơ cấu kinh tế dẫn đến suy giảm trong sự phát triển của
khu vực…
Riêng đối với khu vực Đồng bằng sông Cửu Long thì đây là một trong những
khu vực thu hút FDI sớm nhất cả nước kể từ khi Luật đầu tư nước ngoài có hiệu lực.
Trong giai đoạn đầu thực hiện đường lối của Đảng với chính sách mở rộng thu hút
đầu tư nước ngoài, ĐBSCL đóng vai trò quan trọng cho quá trình thu hút với nhiều
lợi thế hơn so với các khu vực khác trong nước như nguồn lao động dồi dào với giá
nhân công rẻ, đặc biệt là vùng nguyên liệu nông sản lớn ở Việt Nam. Cùng với xu
hướng chung của cả nước, vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã có những chuyển đổi
mạnh mẽ, đặc biệt về cơ cấu kinh tế giai đoạn 2009-2019. Tỷ trọng khu vực I đã
giảm từ 39,6% năm 2010 xuống còn 28,3% trong năm 2019, nhanh hơn tốc độ dịch
chuyển cơ cấu trong 2 thập niên trước đó (Nguyễn Phương Lam và Vũ Thành Tự
Anh, 2020). Trong đó, cơ cấu công nghiệp-xây dựng và thương mại dịch vụ cũng
thay đổi mạnh mẽ, ngày càng gần hơn với cơ cấu kinh tế của cả nước. Tuy nhiên,
trong những năm gần đây, các vùng khác trên cả nước đã phát triển vượt bậc và trở
nên đứng đầu trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài như Đông Nam Bộ và Đồng
bằng Sông Hồng thì ĐBSCL lại gặp nhiều khó khăn trong việc thu hút vốn đầu tư
nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Thế giới, 2018).

3
Nhìn chung, có thể nói rằng ĐBSCL đã tạo được bước ngoặt trong thời kỳ đầu
mở cửa thu hút đầu tư nhưng trong thời gian qua vẫn chưa tạo bước đột phá trong
quá trình phát triển cũng như việc phân tán phát triển đã tạo môi trường chưa thực
sự tốt cho các nhà đầu tư. Đặc biệt, năng suất lao động của Đồng bằng sông Cửu
Long khá thấp do thiếu đầu tư của khu vực FDI, các hoạt động sản xuất công nghiệp
còn trầm lắng do hệ thống cơ sở hạ tầng còn hạn chế (Nguyễn Phương Lam và Vũ
Thành Tự Anh, 2020). Đồng thời, bên cạnh những mặt tích cực, lợi ích thu được,
FDI cũng đã dần bộc lộ những hạn chế, như sự mất cân đối trong đầu tư giữa các
ngành nghề, các địa phương, rõ nét nhất là sự sụt giảm đáng kể trong khu vực nông
nghiệp, trong khi khu vực công nghiệp - xây dựng tăng mạnh (Nguyễn Xuân Hùng
và các cộng sự, 2020). Ở Việt Nam, vai trò kinh tế của vùng Đồng bằng sông Cửu
Long đang giảm dần so với các vùng khác trong cả nước, đóng góp của Đồng bằng
sông Cửu Long vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trong 3 thập kỷ qua giảm mạnh
(Nguyễn Phương Lam và Vũ Thành Tự Anh, 2021).
Có thể thấy, mặc dù đã có rất nhiều nghiên cứu liên quan đến FDI và chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế, nhưng chưa có sự thống nhất về mức độ tác động. Có
nghiên cứu cho rằng (1) tác động tích cực (Blomstrom và các cộng sự, 2000; Jiang,
2014; Jude và Silaghiex, 2016; Nguyễn Tiến Long, 2010, 2016; Ssozi và Bbaale,
2019; …), nhưng cũng có nghiên cứu cho rằng tác động tiêu cực (Phạm Đức Minh,
2013) hay không tác động (Djokoto, 2013; Gui-Diby và Renard, 2015). Hơn nữa,
(2) mức độ tác động không thống nhất giữa các ngành trong cơ cấu kinh tế (Nicolas,
2003; Pao và Tsai, 2011; Djokoto, 2013; Pazienza, 2015; Mijiyawa, 2017; Nguyễn
Xuân Hùng và các cộng sự, 2020; Adejumo, 2020; …), và (3) cả mức độ tác động
theo thời gian, trong đó phần lớn các nghiên cứu nhấn mạnh tác động trong dài hạn
(Djokoto, 2013; Jie và Shamshedin, 2019; Okoli và Agu, 2015; Hoàng Mạnh Hùng,
2018; …). Về nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam, tác động của FDI đến chuyển
dịch cơ cấu đến vùng kinh tế đặc thù vẫn còn hạn chế, đặc biệt vùng Đồng bằng
sông Cửu Long – khu vực quan trọng trong phát triển kinh tế ở phía nam. Trong khi
đó, FDI đóng vai trò quan trọng trong chuyển dịch CCKT nước ta theo hướng CNH,
HĐH, và vùng Đồng bằng sông Cửu Long cũng không ngoại lệ. Tuy nhiên, việc
tiếp nhận nguồn vốn này một cách thiếu chọn lọc, hoặc phân bổ nguồn vốn vào các
khu vực kinh tế thiếu hợp lý có thể dẫn đến những hệ lụy khôn lường, gây mất cân

4
đối trong nền kinh tế. Do vậy, nghiên cứu ảnh hưởng của FDI đến quá trình chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế ở đặc thù Vùng là một yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn, góp phần xác định mức độ tác động của FDI đến CDCCNKT của
vùng kinh tế đặc trưng tại Việt Nam, cũng như thay đổi nhận thức và hành động của
các cơ quan quản lý lẫn các doanh nghiệp trong việc thu hút FDI. Với ý nghĩa đó,
tác giả lựa chọn “Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đối với sự
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của vùng Đồng bằng sông Cửu Long” làm đề
tài nghiên cứu cho luận án.
2.Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
2.1.Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát: Xác định mức độ tác động của FDI đến quá trình chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế vùng Đồng bằng sông Cửu Long, từ đó tìm ra các giải
pháp có tính khuyến nghị nhằm phát huy vai trò tích cực của FDI trong việc thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Vùng đồng bằng sông Cửu Long
Mục tiêu cụ thể: Từ mục tiêu tổng quát, đề tài chi tiết thành ba mục tiêu cụ thể
như sau:
-Hệ thống các lý thuyết nền và các nghiên cứu thực nghiệm, xây dựng khung
phân tích, đo lường chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
-Xác định tác động của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
-Đề xuất các khuyến nghị nhằm phát huy vai trò của FDI, góp phần đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Vùng
2.2.Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt mục tiêu nghiên cứu và dựa trên cơ sở phân tích tình hình nghiên cứu,
tác giả xác định một số câu hỏi nghiên cứu như sau:
-Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là gì? Tiêu chí nào đo lường chuyển dịch
cơ cấu ngành kinh tế?
-Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tại vùng ĐBSCL giai đoạn
2010 – 2019 diễn ra như thế nào?
-Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tác động đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh
tế vùng Đồng bằng sông Cửu Long như thế nào?
-Những chính sách nào cần được chú trọng để phát huy vai trò của FDI đến
quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của vùng ĐBSCL.

5
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về tác động của đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) đối với sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của vùng,
của một quốc gia.
3.2.Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Cơ cấu kinh tế là một phạm trù rộng gồm nhiều bộ phận của nền
kinh tế như thành phần kinh tế, hoạt động kinh tế, khu vực kinh tế, vùng kinh tế…
và mối tương quan giữa các bộ phận đó. Quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở
Việt Nam nói chung, ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng gắn liền với sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành. Do đó, để đánh giá tác động về mặt kinh tế
của FDI đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Đồng bằng sông Cửu Long, đề tài phân
tích ở cấp độ ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ của Vùng trong giai đoạn
2010-2019, bỏ qua tác động của FDI đến cơ cấu các quan hệ sản xuất, cơ cấu tái sản
xuất xã hội, cơ cấu quản lý, tổ chức, cơ cấu vùng, lãnh thổ.
Về không gian: nghiên cứu tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đối
với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của vùng Đồng bằng sông Cửu Long
Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) đối với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của vùng Đồng bằng sông Cửu
Long giai đoạn 2010 – 2019 và kiến nghị nhằm tận dụng tác động tích cực, hạn chế
tác động tiêu của đầu tư trực tiếp ngoài (FDI) đối với chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế của Vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm
2045.
Về chủ thể nghiên cứu (góc độ tiếp cận): Hội đồng vùng và chính quyền các
tỉnh trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
4.Phương pháp nghiên cứu
Luận án nghiên cứu kết hợp cả hai phương pháp: nghiên cứu định tính và định
lượng, trong đó nghiên cứu định lượng làm chính. Với phương pháp định tính, luận
án tiến hành thu thập các tài liệu, chắt lọc thông tin từ các văn bản như báo cáo của
Tổng cục Thống kê, Ngân hàng thế giới, báo cáo của các cơ quan, ban ngành. Bên
cạnh đó, luận án xây dựng hệ số chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế cos(φ) thể hiện
mức độ khác biệt giữa các cơ cấu kinh tế của vùng ĐBSCL ở các thời điểm khác

6
nhau.
Tiếp theo, luận án sử dụng nghiên cứu định lượng để đo lường và đánh giá
mức độ tác động của FDI đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở vùng Đồng bằng
sông Cửu Long giai đoạn 2010 – 2019 thông qua các mô hình dữ liệu bảng. Bên
cạnh đó, nghiên cứu sử dụng phương pháp thống kê mô tả để xem xét giá trị trung
bình của FDI, thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở vùng Đồng bằng sông
Cửu Long giai đoạn 2010 – 2019.
5.Nguồn số liệu
Luận án khai thác bộ dữ liệu niên giám thống kê của 13 tỉnh, thành phố của
vùng Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2010 - 2019. Tất cả dữ liệu của nghiên
cứu đều được tiếp cận thông qua Niên giám Thống kê của Tổng cục Thống kê Việt
Nam được công bố vào các năm 2015, 2017 và 2019.
6.Đóng góp mới của luận án
Luận án sẽ đóng góp ở những khía cạnh sau đây:
-Đóng góp về mặt lý luận: luận án hệ thống cơ sở lý thuyết liên quan đến đầu
tư trực tiếp nước ngoài, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và tác động của FDI đến
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Trong đó, luận án tập trung phân tích cơ chế ảnh
hưởng của FDI đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế được đo lường theo tốc độ
chuyển dịch thông qua hệ số cos φ và xu hướng chuyển dịch thông qua tỷ trọng của
ngành dịch vụ và ngành công nghiệp so với nông nghiệp.
-Đóng góp về mặt thực tiễn
Một là, nghiên cứu phân tích thực trạng FDI của vùng Đồng bằng sông Cửu Long
- một trong những đồng bằng lớn, phì nhiêu nhất Đông Nam Á và thế giới, nhưng
lượng vốn FDI vào các tỉnh trong vùng còn hạn chế. Để thấy được mức độ phát
triển của Vùng, nghiên cứu cũng phân tích quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh
tế của Vùng giai đoạn 2010 – 2019.
Hai là, luận án phân tích chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thông qua hệ số
cos(φ) thể hiện mức độ khác biệt giữa các cơ cấu kinh tế của vùng ĐBSCL ở các
thời điểm khác nhau; cũng như đánh giá xu hướng chuyển dịch từ nông nghiệp sang
công nghiệp và từ nông nghiệp sang dịch vụ. Đặc biệt là đánh giá mức độ chênh
lệch trong tác động của vốn FDI đến cả tốc độ và xu hướng chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế giữa các tỉnh trong Vùng thông qua các biến tương tác giữa FDI và
các tỉnh của Vùng.

7
Ba là, luận án đề xuất các gợi ý chính sách để tìm ra cách thức thúc đẩy quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Vùng theo hướng tăng dần tỷ trọng dịch vụ, công
nghiệp – xây dựng và giảm tỷ trọng nông nghiệp thông qua tận dụng nguồn vốn từ
FDI.
7.Cấu trúc của luận án
Luận án dự kiến gồm Phần mở đầu và 5 chương như sau:
Phần mở đầu: Khái quát lý do chọn đề tài, mục tiêu, đối tượng, phạm vi, dữ
liệu, phương pháp nghiên cứu, ý nghĩa, điểm mới và kết cấu của luận án.
Chương 1: Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến chủ đề luận án
Chương này hệ thống phân tích các nghiên cứu thực nghiệm liên quan và rút ra
khoảng trống nghiên cứu.
Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn về tác động của đầu tư trực tiếp nước
ngoài đến sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của vùng của một quốc gia. Chương
này tổng hợp và phân tích các lý thuyết về FDI, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế,
về vai trò của FDI đối với phát triển ngành và tăng trưởng kinh tế và vai trò của FDI
đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, cơ sở thực tiễn là những thuận lợi và thách
thức của Vùng Đồng bằng sông Cửu Long, từ đó tác giả đưa ra khung phân tích của
luận án.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu. Chương 3 xây dựng quy trình nghiên cứu
của đề tài, mô hình thực nghiệm và các kỹ thuật ước lượng cũng như khắc phục
khuyết tật của mô hình và dữ liệu nghiên cứu được sử dụng trong luận án
Chương 4: Kết quả nghiên cứu. Chương này phân tích kết quả nghiên cứu về
tác động của FDI đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Tác giả trình bày mẫu
nghiên cứu, đặc điểm dòng vốn FDI, quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của
vùng Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2010 – 2019, ma trận tương quan và kết
quả hồi quy, cũng như rút ra kết luận từ những mô hình đo lường tác động của FDI
đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Vùng giai đoạn 2010 – 2019.
Chương 5: Một số khuyến nghị nhằm phát huy vai trò của đầu tư trực tiếp
nước ngoài đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Vùng đồng bằng
sông Cửu Long trong thời gian tới. Chương này phân tích bối cảnh trong nước và
thế giới, hệ thống các mục tiêu, quan điểm và định hướng của chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế của Vùng. Từ đó, tác giả đề xuất một số khuyến nghị nhằm phát huy
vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế Vùng đồng bằng sông Cửu Long.

8
CHƯƠNG 1
TỒNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
CHỦ ĐỀ LUẬN ÁN
1.1.Các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài đến sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Các nghiên cứu nước ngoài và trong nước về tác động của FDI đến chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế khá đa dạng. Một số công trình nghiên cứu đánh giá tác
động gián tiếp của FDI tới chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thông qua tác động của
FDI tới tăng trưởng kinh tế, dựa trên những đóng góp của FDI vào GDP, chuyển
dịch cơ cấu. Một số nghiên cứu khác tập trung phân tích tác động trực tiếp của FDI
tới chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Tổng quan nghiên cứu dưới đây được chia
thành các nghiên cứu nước ngoài và các nghiên cứu trong nước về tác động trực
tiếp và tác động gián tiếp của FDI tới chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
1.1.1.Các nghiên cứu ở nước ngoài
1.1.1.1.FDI tác động trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Các nghiên cứu đánh giá tác động trực tiếp của FDI tới chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế tại một nước hay một nhóm nước, cụ thể như sau:
Trong phân tích 29 quốc gia thuộc nhóm các quốc gia châu Phi hạ Sahara giai
đoạn 2000 – 2015, Ssozi và Bbaale (2019) phát hiện ở các quốc gia này, cơ chế bắt
kịp là rất quan trọng để có được công nghệ hiện đại. Thay đổi cơ cấu đòi hỏi công
nghệ hiện đại, vốn vật chất, vốn con người và môi trường kinh doanh thuận lợi. Cơ
chế này cho phép các nước thu nhập thấp tăng năng suất bằng cách tận dụng kiến
thức và công nghệ hiện có ở các nền kinh tế hiện đại. Do hầu hết các tài sản hữu
hình thể hiện qua công nghệ trong các nước này đều được nhập khẩu, nên các động
lực bắt kịp của thương mại và đầu tư quốc tế cũng như khả năng hấp thụ trong nước
là mấu chốt cho sự thay đổi cơ cấu. Nghiên cứu sử dụng GMM hai bước để kiểm tra
tác động của các yếu tố (gồm nhập khẩu, FDI, vốn con người và chỉ số tự do kinh
tế) đối với sự thay đổi cơ cấu được đo lường bởi tỷ trọng lao động và GDP của các
khu vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Bằng chứng cho thấy FDI có tác
động dương đối với tỷ trọng lao động khu vực công nghiệp và tỷ trọng GDP khu
vực nông nghiệp, các trường hợp còn lại là tác động âm và có ý nghĩa thống kê.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do dòng vốn FDI vào các nước này bị chi phối

9
bởi các hoạt động dựa trên tài nguyên thiên nhiên, như dầu mỏ, khoáng sản và sản
xuất nông nghiệp. Các hoạt động này thâm dụng vốn do đó không tạo ra nhiều sự
dịch chuyển trong việc làm.
Tương đồng với nghiên cứu trên, Jiang (2014) kiểm tra thực nghiệm mối quan
hệ giữa độ mở thương mại, FDI và thay đổi cơ cấu của 31 tỉnh ở Trung Quốc, thông
qua mô hình dữ liệu bảng giai đoạn 1982 – 2011. Biến phụ thuộc đại diện cho thay
đổi cơ cấu là sự thay đổi lao động qua các năm của từng khu vực nông nghiệp, công
nghiệp và dịch vụ. Kết quả hồi quy ủng hộ tính hữu dụng của mô hình Lewis cho
việc phân tích quá trình công nghiệp hóa ở Trung Quốc. Nghiên cứu cho thấy độ
mở thương mại và FDI đóng vai trò quan trọng trong quá trình CDCC ở Trung
Quốc. Bằng chứng thu được cho thấy các yếu tố đó đã thúc đẩy CDCC các vùng bởi
việc chuyển dịch lao động từ khi vực nông nghiệp sang công nghiệp chế biến chế
tạo và sự CDCC ở các vùng nghèo hơn có xu hướng nhanh hơn.
Bên cạnh đó, một số nghiên cứu về tác động của FDI đến CNH của các nước
tiếp nhận đầu tư, cơ cấu ngành kinh tế thay đổi theo hướng CNH, điển hình như
nghiên cứu của Gui-Diby và Renard (2015). Với chỉ số đo lường mức độ công
nghiệp hóa là giá trị gia tăng của ngành công nghiệp hay tỷ trọng việc làm khu vực
công nghiệp trong tổng thể, Gui-Diby và Renard (2015) xem xét tác động của FDI
đến CDCC nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa ở 49 nước châu Phi giai đoạn
1980-2009. Kết quả nghiên cứu cho thấy FDI không tác động đáng kể đến quá trình
công nghiệp hóa của các nước này. Nguyên nhân của tình trạng trên là do sự thất bại
của chính phủ trong việc thiết lập môi trường thuận lợi cho FDI thúc đẩy công
nghiệp hóa, không tạo ra sự liên kết hoặc liên kết yếu giữa MNCs và các doanh
nghiệp địa phương. Hạn chế của nghiên cứu này do dựa trên giả định tất cả các
nước có chung định hướng phát triển thông qua công nghiệp hóa, giới hạn về số liệu
đối với việc làm trong khu vực công nghiệp và sự phá vỡ cấu trúc của FDI theo
ngành trong giai đoạn này.
Mặc dù có rất nhiều nghiên cứu đã được thực hiện về tác động của FDI và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sử dụng nhiều phương pháp và nghiên cứu ở các khía
cạnh, phạm vi khác nhau. Một số nghiên cứu tập trung vào việc đưa ra kết luận về
vai trò, bản chất và tác động của FDI đối với nền kinh tế, một số nghiên cứu khác
tập trung vào việc xem xét cụ thể tác động của nó trên phạm vi rộng của các khía
cạnh ở mọi quốc gia, mọi khu vực.

10
1.1.1.2.FDI tác động gián tiếp đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Các nghiên cứu đánh giá tác động gián tiếp của FDI tới chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế tại một nước hay một nhóm nước, điển hình như Nicolas (2003) nhận
định FDI là nhân tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Hàn Quốc. Kết quả
cho thấy FDI đóng góp có chọn lọc vào việc phát triển năng lực công nghệ của Hàn
Quốc và đóng góp vào sự thành công của chiến lược hướng vào xuất khẩu của nước
này. Quan trọng hơn, bằng cách chuyển nguồn vốn FDI vào các ngành cụ thể, các
chính sách công đã góp phần nâng cao lợi thế cạnh tranh của các nhà sản xuất Hàn
Quốc.
Adejumo (2020) cho thấy FDI chỉ tác động đến sản xuất xuất khẩu, ảnh hưởng
không đáng kể đến giá trị gia tăng của ngành sản xuất do phần lớn các công ty sản
xuất xuất khẩu là thuộc doanh nghiệp nước ngoài không phải doanh nghiệp trong
nước. Phát triển công nghiệp đóng vai trò quan trọng để đạt được các mục tiêu phát
triển của Nigeria và nhiệm vụ đa dạng hóa kinh tế thông qua thay đổi cơ cấu. Kết
quả của nghiên cứu này đã chỉ ra rằng Nigeria có thể sử dụng đầu tư trực tiếp nước
ngoài như một nấc thang để phát triển công nghiệp nếu chính phủ thu hút đúng loại
vốn FDI vào lĩnh vực sản xuất.
Đối với ngành công nghiệp, sản xuất, nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng vốn FDI có
xu hướng tác động mạnh đến lĩnh vực này cả trực tiếp lẫn gián tiếp qua các nhân tố
khác. Vốn FDI tác động dương, trực tiếp đến lĩnh vực CNH, từ đó tác động lên quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành trong các nghiên cứu của Jie và
Shamshedin (2019) về công cuộc công nghiệp hóa tại Ethiopia từ năm 1992 - 2017
trong cả ngắn hạn và dài hạn, trong đó, tác động trong dài hạn mạnh mẽ và rõ nét
hơn. Hay FDI trong dài hạn tác động tích cực đến giá trị gia tăng của ngành sản
xuất tại Nigeria từ 1970 - 2013 (nghiên cứu qua giá trị gia tăng của các công ty)
(Okoli & Agu, 2015). Mặt khác, FDI có tác động gián tiếp đến lĩnh vực công nghiệp
thông qua các nhân tố như sự phân bổ lao động giữa các ngành, chuyển giao công
nghệ - tri thức, tiền lương. Những yếu tố này được xem là những nhân tố chính của
quá trình công nghiệp hóa (Shujie Yao & Kailei Wei, 2006).
M¨uhlen và Escobar (2020) cho thấy FDI tác động đến sự phân bổ lao động
giữa các ngành, nhất là lĩnh vực công nghiệp, từ đó tác động đến quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của Mexico theo hướng CNH từ năm 2006 - 2016. Nghiên cứu
của Pineli và các cộng sự (2019) cũng cho thấy FDI thúc đẩy tỷ trọng lao động
trong các lĩnh vực công nghệ cao, từ đó tác động đến quá trình chuyển dịch CCKT.

11
Đối với thúc đẩy nền kinh tế theo hướng CNH qua chuyển giao công nghệ - tri thức,
Shujie Yao và Kailei Wei (2006) cho rằng, qua chuyển giao công nghệ, FDI đã góp
phần nâng cao hiệu quả sản xuất khi xem xét nền kinh tế công nghiệp mới nổi -
Trung Quốc từ năm 1979 – 2003.
Ngoài ra, FDI, nợ nước ngoài và giá trị xuất khẩu là các nhân tố quan trọng và
ngoại sinh góp phần thay đổi cơ cấu và tăng trưởng kinh tế ở Bangladesh (Hosain,
2006). Thông qua kiểm định tương quan, nhân quả giữa các biến và mô hình kinh tế
lượng với chuỗi thời gian, với mức độ công nghiệp hóa được xác định bởi tỷ lệ đầu
ra công nghiệp với đầu ra nông nghiệp, được xem là đại diện cho sự thay đổi cơ cấu
nền kinh tế. Hosain (2006) cho rằng có mối tương quan dương giữa thay đổi cơ cấu
và FDI được xác nhận với hệ số tương quan khá cao 0,87. Kết quả kiểm định nhân
quả Granger cũng cho thấy có nhân quả từ các biến FDI, nợ nước ngoài và giá trị
xuất khẩu đến thay đổi cơ cấu, góp phần công nghiệp hóa ở Bangladesh.
Khi phân tích đóng góp của FDI đến thay đổi cơ cấu ở nhóm các nền kinh tế
khác nhau trong quá trình chuyển đổi, Kalotay (2010) cho rằng FDI là một tác nhân
cho những thay đổi cơ cấu nhưng không đồng đều. Theo đó, FDI tạo ra sự thay đổi
cơ cấu mạnh mẽ ở các nước thành viên mới của EU và tác động tiêu cực ở Liên
bang Nga. Ở các nước thuộc cộng đồng các quốc gia độc lập có FDI khiêm tốn và
các tác động cơ cấu của nó cũng không rõ ràng, dòng vốn FDI chảy vào còn quá hạn
chế để có thể có bất kỳ tác động đáng kể nào. Dhahri và Omri (2019) nghiên cứu về
tác động của FDI và vốn viện trợ nước ngoài lên sản xuất nông nghiệp tại 50 nước
đang phát triển nhận định rằng FDI có tác động tích cực và đáng kể lên sản xuất
nông nghiệp của các nước. Tuy nhiên, chỉ tài trợ cho sản xuất nông nghiệp thông
qua FDI hoặc chỉ viện trợ dường như là không đủ. Sự hợp nhất giữa FDI và viện trợ
là giải pháp cho việc mở rộng sản xuất nông nghiệp ở các nước sở tại. Vì vậy, việc
chính phủ phân phối đúng nguồn viện trợ và các chiến lược đầu tư tốt vào sản xuất
nông nghiệp sẽ góp phần cải thiện đáng kể tăng trưởng nông nghiệp và thay đổi hệ
thống nông thôn.
Wu và Chen (2016) sử dụng mô hình hồi quy GMM (Generalized Method of
Moments) để phân tích dữ liệu bảng của 262 thành phố của Trung Quốc trong giai
đoạn từ 2004 đến 2012. Kết quả nghiên cứu cho thấy FDI đóng vai trò quan trọng
định hướng quá trình đô thị hóa của Trung Quốc, đồng thời nhấn mạnh tác động của
FDI tại các khu vực khác nhau. Dòng vốn FDI đổ vào khu vực ven biển thúc đẩy
sản xuất và công nghệ, góp phần đẩy mạnh quá trình đô thị hóa. Khu vực nội địa chỉ

12
thu hút một lượng nhỏ FDI, phần lớn tập trung vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp,
nên không có tác động đến quá trình đô thị hóa.
Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Mijiyawa (2017) tại 53 quốc gia
châu Phi giai đoạn 1995 – 2014. Kết quả ước lượng bằng phương pháp GMM hệ
thống cho thấy tác động tích cực của FDI đến tỷ trọng giá trị gia tăng khu vực công
nghiệp chế biến chế tạo nhưng không đáng kể do hầu hết FDI xuất hiện trong lĩnh
vực khai thác mỏ, dầu khí. Do đó, nghiên cứu khuyến nghị các nước châu Phi nên
điều chỉnh các chính sách để định hình sự phân bổ FDI theo ngành bằng cách đa
dạng hóa FDI từ khu vực khai thác mỏ, dầu khí sang các khu vực sản xuất và dịch
vụ. Bên cạnh đó, các nước châu Phi nên xem xét cải thiện chất lượng và số lượng cơ
sở hạ tầng cũng như mức độ kỹ năng của lao động để định hình sự phân bổ của FDI
theo khu vực.
Ngoài ra, phân tích tác động FDI trên cả khía cạnh trực tiếp lẫn gián tiếp,
Zorska (2005) đo lường ảnh hưởng của FDI đến quá trình CDCCKT của Ba Lan
thông qua những tác động của FDI đối với nền kinh tế quốc dân như: sự vận hành
của nền kinh tế, các yếu tố sản xuất sẵn có, tốc độ tăng trưởng, tái cơ cấu, cạnh
tranh trong nước, năng lực cạnh tranh quốc tế của xuất khẩu và hội nhập khu vực.
Các bằng chứng cho thấy đóng góp của FDI và TNCs là đáng kể, phức tạp và đa
chiều. Vốn và các nhà đầu tư nước ngoài đã hỗ trợ quá trình chuyển đổi chủ yếu
thông qua việc tham gia vào thay đổi quyền sở hữu, cung cấp vốn và công nghệ,
khuyến khích tái cơ cấu tăng trưởng kinh tế và thúc đẩy các liên kết kinh tế đối
ngoại của Ba Lan. Theo đó, FDI không chỉ là chất xúc tác mà đóng góp đáng kể vào
sự chuyển dịch của nền kinh tế này. Tác động của FDI mạnh mẽ nhất đến cơ cấu
GDP đã được thực hiện trong lĩnh vực dịch vụ (cả trong dịch vụ tiêu dùng và kinh
doanh), đặc biệt trong nửa sau những năm 1990. Với sự đóng góp lớn của FDI, cơ
cấu GDP của Ba Lan trong giai đoạn 1990 – 2001 đã thay đổi nhiều trong lĩnh vực
dịch vụ, với tỷ trọng của nó tăng từ 42% lên 59% GDP trong giai đoạn đó, trong khi
tỷ trọng ngành công nghiệp giảm từ 50% xuống 37%, với sự phát triển mạnh mẽ
trong nội bộ ngành sản xuất sang các ngành công nghiệp hàng tiêu dùng.
Tuy nhiên, khi phân tích dữ liệu cấp độ doanh nghiệp ở các quốc gia châu Phi
để đo lường vai trò của các nhà đầu tư nước ngoài như những tác nhân của sự thay
đổi cơ cấu bằng cách xem xét mối liên kết và sự tương tác với các doanh nghiệp nội
địa, việc làm và hình thành vốn nhân lực, chuyển giao kiến thức và phát triển các
sản phẩm và quy trình mới, Amendolagine và các cộng sự (2016) đã đưa ra kết quả

13
khác. Ảnh hưởng của FDI được đánh giá theo nguồn gốc của khoản đầu tư nước
ngoài theo hai nhóm từ các nước thuộc khối OECD và từ các nước thuộc nhóm các
nền kinh tế lớn mới nổi. Kết quả cho thấy FDI tạo nhiều việc làm và dịch chuyển
mạnh mẽ trong cơ cấu lao động. Trong đó FDI từ các nước có nền kinh tế lớn mới
nổi, đặc biệt từ Trung Quốc, có tác động đến cơ cấu lao động mạnh mẽ hơn bởi
phần lớn FDI từ các nước này được đầu tư vào các lĩnh vực thâm dụng lao động,
trong khi FDI từ khối OECD lại đòi hỏi lao động có kỹ năng hơn.
Bên cạnh đó, khi phân tích 28 nước đang phát triển giai đoạn 1980 – 2010,
Pineli và các cộng sự (2019) chỉ ra mối quan hệ giữa FDI và thay đổi cơ cấu là khá
đồng nhất giữa các quốc gia. FDI được chứng minh có mối quan hệ tích cực với sự
gia tăng tỷ trọng việc làm của khu vực hiện đại ở một số nước, nhưng cũng có ảnh
hưởng tiêu cực đối với một số quốc gia khác. Nghiên cứu chỉ ra rằng mức độ phù
hợp giữa giai đoạn phát triển quốc gia và loại hình FDI mà quốc gia đó nhận được
có ảnh hưởng đến khả năng của FDI đối với thúc đẩy thay đổi cơ cấu. Trong số các
quốc gia ở giai đoạn phát triển ban đầu, mối quan hệ thay đổi cơ cấu và FDI mạnh
hơn khi vốn FDI tập trung nhiều hơn vào lĩnh vực sản xuất. Ngược lại, trong nhóm
các quốc gia ở các giai đoạn phát triển tiên tiến hơn, sự tập trung cao hơn của FDI
vào khu vực hiện đại phi sản xuất có liên quan mạnh mẽ hơn với sự thay đổi cơ cấu.
Ngoài ra, sự khác biệt giữa các quốc gia trong mối quan hệ giữa FDI và thay đổi cơ
cấu có liên quan đến sự phát triển tài chính và kiểm soát tham nhũng ở các quốc gia,
nhưng không có mối quan hệ với độ mở thương mại.
1.1.2.Các nghiên cứu ở Việt Nam
Có nhiều nghiên cứu về tác động của FDI đến các khía cạnh của nền kinh tế
cũng như các nghiên cứu về CDCC ở Việt Nam khá đa dạng và phong phú. Tuy
nhiên, các nghiên cứu thường tập trung ở một tỉnh hoặc cả quốc gia và hạn chế
nghiên cứu về vùng.
1.1.2.1.FDI tác động trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Một số nghiên cứu tác động trực tiếp của FDI đến CDCC ngành kinh tế
điển hình theo các khía cạnh như sau.
Nhóm các nghiên cứu về tác động của FDI đến nội bộ ngành góp phần chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế:
Nghiên cứu của Nguyễn Xuân Hùng và các cộng sự (2020) về tác động của
FDI đến chuyển dịch cơ cấu tỉnh Bắc Ninh, dùng phương pháp định tính và định

14
lượng nghiên cứu mối quan hệ giữa FDI và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Bắc
Ninh và tác động của FDI đối với từng ngành (nông nghiệp, công nghiệp và dịch
vụ) từ đó đề xuất các biện pháp cho tỉnh các biện pháp nhằm tiếp tục thu hút FDI và
duy trì tác động chuyển dịch tích cực của FDI. Thông qua mô hình OLS đánh giá
tác động của FDI đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh giai đoạn 2009-2019 cho thấy
tốc độ tăng trưởng FDI ảnh hưởng mạnh đến tái cơ cấu ngành kinh tế theo hướng
tích cực. Việc đầu tư một lượng lớn FDI vào công nghiệp góp phần trực tiếp vào
tăng trưởng khu vực này và gián tiếp ảnh hưởng tiêu cực đến nông nghiệp nhưng
không ảnh hưởng nhiều đến khu vực dịch vụ.
Khi xem xét phạm vi của tỉnh Thái Nguyên trong giai đoạn 1993 – 2009,
Nguyễn Tiến Long (2010, 2016) sử dụng mức độ dịch chuyển cơ cấu kinh tế (hệ số
cos φ) để đo lường tác động của các yếu tố (trong đó có FDI) đến chuyển dịch cơ
cấu kinh tế. Kết quả cho thấy tác động hai chiều giữa FDI và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và mối quan hệ giữa vốn FDI thực hiện và tỉ trọng các ngành kinh tế. Nghiên
cứu nhấn mạnh thu hút FDI có vai trò rất quan trọng tạo động lực cho chuyển dịch
cơ cấu kinh tế Thái Nguyên nhưng cần kèm theo các điều kiện chặt chẽ, mục tiêu rõ
ràng để đạt được hiệu quả đầu tư. Tuy nhiên, cơ cấu đầu tư FDI mất cân đối, gây
nên những hạn chế trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế như trong nghiên cứu
của Phạm Đức Minh (2013). Thông qua phương pháp phân tích thống kê, tổng hợp,
Phạm Đức Minh (2013) đánh giá tác động của vốn FDI đến chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Nghiên cứu chỉ ra các tác động tích cực của
FDI đến năng lực sản xuất, bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển,
đóng góp nguồn thu cho ngân sách, nâng cao kinh nghiệm làm việc cho lực lượng
lao động…. Tuy nhiên, vẫn còn hạn chế của FDI trong định hướng chuyển dịch
CCKT và sự mất cân đối trong thu hút FDI làm suy giảm phát triển kinh tế vùng.
Trong mối quan hệ với tăng trưởng, thông qua mô hình VAR với dữ liệu của
60 tỉnh thành ở Việt Nam giai đoạn 1998 – 2015, Hoàng Mạnh Hùng (2018) đã
cung cấp bằng chứng cho thấy sự tồn tại mối quan hệ nhân quả Granger một chiều
từ FDI đến CDCC. Với phương pháp vectơ, sử dụng chỉ số cosθ đo lường CDCC
ngành kinh tế, kết quả cho thấy ảnh hưởng dài hạn của FDI đến tăng trưởng và
CDCC. Song, CDCC chưa đóng vai trò quan trọng để thu hút FDI. Kế thừa nghiên
cứu trên, thông qua các mô hình IV-GMM, D-GMM, S-GMM, Hoàng Mạnh Hùng
(2020) phân tích tác động của FDI đến 60 tỉnh, thành của Việt Nam giai đoạn 2000

15
– 2017 cho thấy FDI có tác động tích cực đối với mức độ CDCC ngành kinh tế
trong cả ngắn hạn và dài hạn ở cùng thời điểm, ở độ trễ 1 năm thì FDI lại kìm hãm
mức độ CDCC và ảnh hưởng tiêu cực này chỉ tồn tại trong ngắn hạn. Tác động tích
cực thể hiện mạnh mẽ hơn khi các địa phương đáp ứng tốt năng lực hấp thụ thông
qua nguồn vốn con người. Tác động lan tỏa không gian của FDI trong ngắn hạn
cũng được tìm thấy đó là FDI làm chậm quá trình CDCC ở các địa phương lân cận.
Ngoài ra, nghiên cứu cũng cho thấy sự mất cân đối cơ cấu chung của nền kinh tế
cũng như của riêng khu vực nông nghiệp diễn ra mạnh hơn dưới tác động của FDI.
Đối với khu vực công nghiệp thì FDI góp phần làm giảm sự mất cân đối trong cơ
cấu, còn khu vực dịch vụ thì ảnh hưởng của FDI là không rõ ràng. Tuy nhiên, khi
xem xét CDCC trong tổng thể nền kinh tế, Ngọc và Hải (2019) xem xét tác động
trực tiếp của FDI đến cơ cấu kinh tế ở Việt Nam theo từng ngành rộng dựa trên dữ
liệu chuỗi thời gian, biến đại diện cho cơ cấu là tỷ trọng trong GDP của mỗi ngành
rộng và sử dụng ba mô hình chuỗi thời gian cho ba biến cơ cấu. Thông qua mô hình
VAR giai đoạn 1999 – 2017, nghiên cứu cho thấy FDI chỉ có tác động tích cực đối
với cơ cấu của khu vực dịch vụ, hai khu vực còn lại là tác động tiêu cực.
Bên cạnh đó, khi nghiên cứu thực nghiệm tại vùng Đồng bằng sông Hồng giai
đoạn 2001 – 2018, thông qua mô hình FEM, Vũ Thị Vân Anh (2021) đã tìm thấy
FDI tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tại vùng Đồng bằng
sông Hồng. Hơn nữa, nghiên cứu cũng chỉ ra tăng nguồn vốn đầu tư trong nước và
mở rộng mức độ đô thị hoá tác động tích cực tới cơ cấu ngành công nghiệp và dịch
vụ; hay thu nhập bình quân đầu người trong vùng tăng lên tác động tích cực đến cơ
cấu của ngành dịch vụ. Tác động của biến độ mở thương mại không đáng kể lên
chuyển dịch cơ cấu ngành, trong khi đó biến lao động đã qua đào tạo tác động tiêu
cực và không đáng kể đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tại vùng Đồng bằng
sông Hồng.
1.1.2.2.FDI tác động gián tiếp đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Nghiên cứu tác động gián tiếp của FDI đến CDCC ngành kinh tế ở Việt Nam
còn nhiều hạn chế. Theo đó, nhóm các nghiên cứu về tác động của FDI đến tăng
trưởng ngành, góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế gồm có:
Nghiên cứu của Minh Vân (2011) đưa ra những tồn tại trong quá trình sử dụng
vốn FDI cho các lĩnh vực kinh tế như: vấn đề về chuyển giá, đầu tư vốn chưa phù
hợp với hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các dự án FDI vẫn còn thiếu
quy hoạch và chưa quan tâm nhiều đến sự phát triển kinh tế bền vững. Không phủ

16
nhận sự đóng góp đáng kể của vốn FDI trong phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta
nhưng tác giả cũng thẳng thắn nêu ra những yếu kém trong tổ chức thực hiện. Thu
hút FDI đúng hướng – đó là hướng sử dụng nguồn vốn FDI gắn với thực hiện đổi
mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng
sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu; vừa mở rộng quy mô vừa chú
trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững…đây cũng là điều mới được nêu
trong Đại hội lần thức XI của Đảng.
Khi xem xét tác động của FDI đến CDCC kinh tế trong nội bộ ngành công
nghiệp và dịch vụ ở Hải Phòng, Đào Văn Hiệp (2011) cho thấy FDI đã tạo cơ hội
cho các ngành công nghiệp vốn có trước đây của Hải Phòng đang lâm vào khủng
hoảng có khả năng phục hồi và phát triển mạnh theo hướng công nghiệp hóa, tác
động dây chuyền đến nhiều ngành nghề truyền thống khác và đã thu hút được lượng
lớn lao động nông nghiệp chuyển sang. Thông qua hoạt động của các doanh nghiệp
FDI, cơ cấu ngành công nghiệp hướng đến nâng cao hiệu quả kinh tế, thúc đẩy cơ
cấu công nghiệp chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các sản phẩm áp dụng công
nghệ mới, tiên tiến, tăng tỷ trọng hàng xuất khẩu và nhiều ngành nghề mới được
hình thành. Hơn nữa, sự xuất hiện của các nhà đầu tư nước ngoài đã giúp dịch vụ du
lịch của thành phố khởi sắc và sôi động hơn. FDI tạo ra sự chuyển biến chất lượng
và mức độ đa dạng trong phân phối hàng hóa dịch vụ, duy trì tỷ trọng đóng góp của
khu vực này trong GDP. Ở phạm vi nền kinh tế, Đào Văn Hiệp (2012) cũng cho
rằng việc thu hút và sử dụng vốn FDI đã tạo ra cú hích cho sự tăng trưởng kinh tế
của Việt Nam và tác động lớn đến quá trình CDCC theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Nhờ vào FDI đã xuất hiện nhiều ngành nghề mới (tập trung vào lĩnh
vực công nghiệp, dịch vụ) với công nghệ tiên tiến, góp phần thay đổi tỷ trọng các
ngành theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp.
Nghiên cứu của Nguyễn Tấn Vinh (2012), FDI ảnh hưởng gián tiếp đến
CDCC ngành kinh tế thông qua các kênh như tăng trưởng kinh tế ngành, chuyển
giao công nghệ, di chuyển lao động, tương tác với vốn đầu tư trong nước, hiệu quả
ngoại ứng từ năng suất, hiệu ứng xuất khẩu. Từ mô hình tăng trưởng Solow,
Nguyễn Tấn Vinh (2012) đề xuất hai mô hình hồi quy dữ liệu bảng với biến phục
thuộc đại diện cho cơ cấu là tỷ trọng GDP ngành và tỷ trọng sản lượng tiểu ngành
công nghiệp của Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả cho thấy FDI tác động dương
đến CDCC ngành kinh tế. Trong nội bộ ngành công nghiệp, FDI góp phần CDCC

17
ngành công nghiệp theo hướng phát triển các ngành công nghiệp trọng yếu như cơ
khí, điện – điện tử, công nghệ phần mềm và hóa chất. FDI tác động tiêu cực đến các
ngành thâm dụng lao động làm giảm dần tỷ trọng của các ngành này.
Khi nghiên cứu về ảnh hưởng của FDI đến thúc đẩy quá trình CNH và phát
triển kinh tế bền vững tại Việt Nam từ năm 2005 – 2016, Htike (2019) cho rằng FDI
tạo nên nhiều hiệu ứng lan tỏa trong chuyển giao công nghệ, xuất khẩu, tiền lương.
Những yếu tố này quan hệ mật thiết đến sự phát triển bền vững của lĩnh vực công
nghiệp. Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác cho thấy nguồn vốn FDI không ảnh
hưởng đến lĩnh vực công nghiệp, sản xuất. Chẳng hạn, Essotanam và các cộng sự
(2021) cho thấy tại các quốc gia thuộc liên minh kinh tế và tiền tệ Tây Phi
(WAEMU), trong giai đoạn 1990 – 2017, vốn FDI không ảnh hưởng đến công
nghiệp, sản xuất. Hay trong nghiên cứu về tác động của dòng vốn FDI đến cơ cấu
kinh tế theo ngành của Việt Nam từ quý 1/1999 đến quý 4/2017, Ngọc và Hải
(2019) chỉ ra rằng lĩnh vực công nghiệp có xu hướng giảm. Dù vậy, trong nghiên
cứu này cũng chỉ ra lĩnh vực công nghiệp là nhân tố chính thu hút vốn FDI đầu tư
vào thị trường Việt Nam. Nhóm tác giả Pineli và các cộng sự (2019) cũng cho biết
vốn FDI tác động tiêu cực đến quá trình CNH thông qua phân bổ lao động vào lĩnh
vực công nghệ cao. Như vậy, có thể thấy, tùy vào bối cảnh cụ thể của từng nền kinh
tế, vốn FDI sẽ có những tác động khác nhau vào lĩnh vực công nghiệp, sản xuất và
từ đó gây nên ảnh hưởng khác nhau đối với quá trình CNH nền kinh tế.
1.2.Những điểm đã thống nhất và khoảng trống nghiên cứu
- Đối với các nghiên cứu tại Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về vai trò FDI
đến CDCC kinh tế. Về phương pháp, các nghiên cứu theo hai hướng: (1) nhóm
nghiên cứu tập trung vào cơ sở lý luận, dựa trên các thống kê mô tả và (2) nhóm
dựa trên các mô hình định lượng. Phần lớn các nghiên cứu sử dụng tỷ trọng các
ngành đại diện cho CDCC, tỷ trọng chỉ thể hiện cơ cấu kinh tế ở một thời điểm tĩnh
và các ngành độc lập nhau. Điều này có thể chưa hợp lý khi cơ cấu kinh tế thường
thể hiện là một yếu tố động và cần phải xem xét CDCC trong bối cảnh chung của
nền kinh tế. Vì vậy, việc tiếp tục làm rõ mối quan hệ này dưới những cách tiếp cận
khác nhau là cần thiết.
1.2.1Những điểm đã thống nhất
Nhìn chung, với những nghiên cứu thực nghiệm về tác động của FDI đến
CDCC kinh tế trên thế giới và Việt Nam, tác giả nhận thấy những kết quả sau đây:

18
Thứ nhất, một số công trình nghiên cứu đánh giá tác động gián tiếp của FDI
tới chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thông qua tác động của FDI tới tăng trưởng
kinh tế, dựa trên những đóng góp của FDI vào GDP, chuyển dịch cơ cấu. Một số
nghiên cứu khác tập trung phân tích tác động trực tiếp của FDI tới chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế. Điều đó cho thấy FDI tác động đến CDCC ngành kinh tế theo
nhiều cơ chế khác nhau.
Thứ hai, mức độ tác động của FDI đến các vùng, các quốc gia không giống
nhau, tuỳ thuộc vào trình độ phát triển, vị trí địa lý, điều kiện kinh tế xã hội.
Thứ ba, FDI góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, thông qua góp phần thúc đẩy các ngành có hàm lượng công nghệ cao,
và dịch chuyển lao động từ khu vực nông thôn lên thành thị.
Thứ tư, FDI tác động vào sự tăng trưởng các ngành (Công nghiệp, dịch vụ,
nông nghiệp) theo những chiều hướng khác nhau. Một số nghiên cứu cho thấy FDI
tác động tích cực đến công nghiệp và dịch vụ nói chung, tuy nhiên sự tác động đến
từng tiểu ngành trong mỗi nhóm ngành không giống nhau, tuỳ thuộc vào trình độ
lao động trong khu vực đó, ngoài ra FDI cũng có thể dẫn đến những tiêu cực nếu
như phân bổ nguồn lực không hợp lý dẫn đến sự mất cân bằng trong phát triển các
ngành
Thứ năm, sự tác động của FDI đến CDCC ngành kinh tế còn bị ảnh hưởng bởi
các yếu tố khác: tăng trưởng kinh tế, lao động qua đào tạo, tỷ lệ dân thành thị, …
nên để có cái nhìn bao quát về mức độ tác động cần đặt trong mối quan hệ tương hỗ
với các nhân tố liên quan.
Vì những kết quả đa dạng này, cho thấy việc nghiên cứu tác động của FDI đến
CDCC ngành kinh tế riêng cho từng vùng miền với các điều kiện phát triển khác
nhau là vô cùng cần thiết. Đặc biệt là ở Đồng bằng sông Cửu Long, khu vực kinh tế
trọng điểm nhưng chưa được khai thác hết tiềm năng.
1.2.2Khoảng trống nghiên cứu
Dựa trên phân tích những nghiên cứu thực nghiệm về tác động của FDI đến
CDCC ngành kinh tế trên thế giới và Việt Nam, tác giả nhận thấy những khoảng
trống như sau:
Thứ nhất, phần lớn các nghiên cứu tập trung trong lĩnh vực sản xuất công
nghiệp ở các nước đang phát triển (Hosain, 2006; Shujie Yao & Kailei Wei, 2006;
Gui-Diby và Renard, 2015; Mijiyawa, 2017; Pineli và các cộng sự, 2019; Adejumo,

19
2020; M¨uhlen và Escobar, 2020; …) và hạn chế phân tích quá trình CDCC nói
chung giữa các ngành (Zorska, 2005; Kalotay, 2010; Ssozi và Bbaale, 2019; Jie và
Shamshedin, 2019; …). Hơn nữa các nghiên cứu tác động của FDI đến CDCC
ngành kinh tế tại Việt Nam vẫn còn hạn chế, chủ yếu là định tính và được xem xét
trong phạm vi của một địa phương (Đào Văn Hiệp, 2011, 2012b; Nguyễn Tiến
Long, 2010, 2016; …), chỉ có 1 số ít nghiên cứu cho một vùng (Phạm Đức Minh,
2013; Vũ Thị Vân Anh, 2021), đặc biệt vùng Đồng bằng sông Cửu Long – một
trung tâm xuất khẩu nông - lâm - thủy sản lớn nhất của cả nước, nhưng cơ cấu kinh
tế không đều và chưa hợp lý.
Thứ hai, nhiều mối quan hệ được mô tả bởi lý thuyết kinh tế có tính chất động
cũng như ảnh hưởng của các yếu tố động trong dài hạn, như Herrendorf và các cộng
sự (2014) nhận định quá trình chuyển dịch cơ cấu luôn có thể bị ảnh hưởng bởi tính
động. Do vậy, không thể bỏ qua tính động trong các mô hình định lượng bởi nếu
thiếu tính động sẽ nảy sinh các vấn đề về kinh tế lượng trong mô hình. Đó là xu
hướng và tốc độ chuyển dịch giữa các ngành thông qua tỷ trọng giá trị của các
ngành với nhau. Đây là khoảng trống nghiên cứu cần được lấp đầy.
Thứ ba, xem xét tương quan không gian trong các mô hình kinh tế lượng.
Cách tiếp cận truyền thống, không xem xét tác động phát sinh từ dạng phân bố địa
lý của các hoạt động kinh tế. Trong tổng thể nền kinh tế Vùng, chúng ta không thể
coi mỗi địa phương là một thực thể độc lập, không có tương tác với các địa phương
khác. Do vậy, cần phải so sánh sự chênh lệch trong mức độ CDCC ngành kinh tế
giữa các tỉnh trong Vùng, đặc biệt quá trình CDCC ngành kinh tế theo đặc điểm vốn
FDI.
Thứ tư, vẫn còn khoảng trống trong nghiên cứu khác biệt về mức độ hấp thụ
FDI giữa các tỉnh theo thu nhập. Theo đó, mức độ tác động của FDI đến CDCC
kinh tế giữa các tỉnh trong Vùng có thể khác nhau, với những tỉnh, thành có thu
nhập cao có khả năng CDCC ngành kinh tế cao hơn. Bên cạnh đó, trong nhiều báo
cáo và nghiên cứu trước cũng cho thấy vùng Đồng bằng sông Cửu Long có năng
suất thấp, hạn chế trong thu hút FDI và mức độ CDCC ngành kinh tế không đồng
đều giữa các tỉnh, thành trong Vùng.
1.3.Những hướng nghiên cứu tiếp theo trong luận án
Dựa trên những khoảng trống nghiên cứu mà tác giả nhận thấy, luận án sẽ tiếp
tục giải quyết các vấn đề sau khi phân tích về tác động của FDI đến CDCC ngành
kinh tế Vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

20
Thứ nhất, nghiên cứu về tác động của FDI đến CDCC ngành kinh tế của toàn
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long trên cả hai mặt định tính và định lượng, trong đó
định lượng là chính.
Thứ hai, luận án xem xét đến tính động trong mô hình định lượng bằng việc
phân tích xu hướng và tốc độ chuyển dịch giữa các ngành thông qua tỷ trọng giá trị
của các ngành với nhau dưới tác động của FDI.
Thứ ba, xem xét tương quan không gian trong các mô hình kinh tế lượng bằng
việc so sánh sự chênh lệch trong mức độ CDCC ngành kinh tế giữa các tỉnh trong
Vùng vì Vùng Đồng bằng sông Cửu Long gồm nhiều tỉnh thành và có sự tương tác
với tỉnh khác, tương tác với các động lực phát triển kinh tế như gần các trung tâm
kinh tế, gần cảng biển, gần sân bay… Đó cũng là những yếu tố tạo ra động lực thúc
đẩy CDCC.
Thứ tư, luận án nghiên cứu mức độ tác động của FDI đến CDCC kinh tế giữa
các tỉnh trong Vùng thông qua biến tương tác giữa các tỉnh trong Vùng với FDI,
nghiên cứu sẽ đo lường mức độ chênh lệch trong tác động FDI đến CDCC ngành
kinh tế giữa các tỉnh trong Vùng so với Long An – một tỉnh có lợi thế nhiều về
CDCC ngành kinh tế.
Tuy nhiên, luận án chỉ dừng lại ở nghiên cứu về sự CDCC ngành KT ở mức
độ ngành chứ chưa được cụ thể hóa việc chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành,
cũng như chưa xét đến các yếu tố cụ thể của các địa phương khác nhau. Đây cũng là
những hướng phát triển nghiên cứu tiếp theo của tác giả sau luận án này.

21
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐẾN SỰ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ
CỦA VÙNG CỦA MỘT QUỐC GIA
2.1.Khái quát một số vấn đề lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài
2.1.1.Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Có nhiều quan niệm khác nhau về FDI, mỗi quan điểm nhấn mạnh đến những
khía cạnh nhất định. Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài đã từng xuất hiện
trong nhiều công trình nghiên cứu và ấn phẩm của các tổ chức tài chính. Trong đó,
định nghĩa của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)
về đầu tư trực tiếp nước ngoài là được sử dụng phổ biến nhất. Theo Quỹ Tiền tệ
Quốc tế (IMF, 1993), đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được định nghĩa là một loại
hình đầu tư quốc tế nhà đầu tư trực tiếp có được lợi ích lâu dài đối với một doanh
nghiệp sở tại trong nền kinh tế khác (doanh nghiệp được đầu tư trực tiếp). Lợi ích
lâu dài ngụ ý sự tồn tại của mối quan hệ lâu dài giữa nhà đầu tư trực tiếp và doanh
nghiệp được đầu tư trực tiếp, và mức độ ảnh hưởng đáng kể của nhà đầu tư đối với
việc quản lý doanh nghiệp đó (IMF, 1993). Tương đồng với quan điểm trên, WTO
(1996) cũng cho rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư
có trụ sở tại một quốc gia này mua đầu tư tài sản ở quốc gia khác với mục đích quản
lý tài sản đó.
Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD, 1998) định
nghĩa FDI là đầu tư liên quan đến mối quan hệ lâu dài và phản ánh sự quản lý và
kiểm soát lâu dài của nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc doanh nghiệp mẹ đối với
một doanh nghiệp sở tại ở một nền kinh tế khác. Khoản đầu tư như vậy liên quan
đến cả giao dịch ban đầu giữa hai bên và tất cả các giao dịch tiếp theo và giữa các
công ty liên kết nước ngoài, cả hợp nhất và không hợp nhất. Tuy nhiên, có thể nhận
thức rằng bản chất của FDI là một loại hình đầu tư quốc tế mà nước chủ đầu tư
(nước đầu tư) đầu tư vào nước tiếp nhận đầu tư (nước tiếp nhận đầu tư) nhằm lấy
quyền sở hữu của các đối tượng kinh doanh trong quốc gia sở tại, quản lý và kiểm
soát chúng, do đó giúp quốc gia đầu tư hưởng lợi. Bên cạnh đó, nền kinh tế của
nước nhận đầu tư cũng nhận được nguồn lực lớn (về vốn và công nghệ) để tăng
trưởng, và FDI cũng là một nhân tố quan trọng giải quyết vấn đề việc làm ở các
nước đang phát triển.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được coi là công cụ thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế của các quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển. Hoạt động FDI được

22
coi như một liều thuốc để giúp các quốc gia thoát ra khỏi vòng luẩn quẩn của tiết
kiệm thấp - thu nhập thấp và tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhập khẩu tư liệu sản
xuất và bí quyết công nghệ kỹ thuật tiên tiến. Động lực toàn cầu hóa trên toàn thế
giới đã thúc đẩy tự do hóa các chế độ tư bản nước ngoài, từ đó dẫn đến bùng nổ sự
hiện diện của các tập đoàn đa quốc gia. Tốc độ tiếp nhận dòng vốn FDI tăng quá
nhanh trong những năm gần đây khiến các nền kinh tế đang phát triển đã thu hút
nhiều dòng vốn FDI hơn các nền kinh tế phát triển.
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng vai trò quan trọng trong việc
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế của Việt Nam trong bối cảnh
toàn cầu hóa kể từ khi Việt Nam bắt đầu chuyển đổi sang mô hình kinh tế thị trường
cách đây ba thập kỷ. Việc nới lỏng các hạn chế đối với các nhà đầu tư nước ngoài
đã khuyến khích việc huy động đáng kể dòng vốn từ nước ngoài vào nền kinh tế có
vị trí chiến lược. Các nhà đầu tư đã bị thu hút bởi tiềm năng to lớn chưa được khai
thác của Việt Nam, hứa hẹn mang lại lợi nhuận cao, cùng với lực lượng lao động
giá rẻ và nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào. Một sự chuyển dịch mạnh mẽ trong
cơ cấu kinh tế của Việt Nam từ nông nghiệp sang công nghiệp, kể từ khi công cuộc
đổi mới kinh tế năm 1986 được thực hiện, đã thúc đẩy một sự di chuyển lớn của
người lao động từ ngành này sang ngành khác, cũng như là khuyến khích sự xuất
hiện của các doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài nước.
Đối với Luật Việt Nam, hiện nay chưa có văn bản pháp luật nào trình bày về
FDI một cách rõ ràng. Luật Đầu tư 2005 (đã hết hiệu lực) không trình bày về FDI,
mà khái niệm FDI chỉ có thể được hiểu thông qua kết hợp 2 khái niệm được Luật
quy định tại Điều 3, đó là: “Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa
vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động
đầu tư" và “Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và
tham gia quản lý hoạt động đầu tư". Luật Đầu tư 2014 (đã hết hiệu lực) và Luật
Đầu tư 2020 (đang có hiệu lực) cũng không đề cập trực tiếp đến FDI mà chỉ nêu
một cách khái quát tại khoản 1 điều 3 Luật Đầu Tư 2014 và khoản 22 điều 3 Luật
Đầu tư 2020 như sau: “Tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là tổ chức kinh tế
có nhà đầu tư nước ngoài là thành viên hoặc cổ đông”. Trong đó, “Nhà đầu tư
nước ngoài là cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật
nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam” (khoản 14 điều 3
Luật Đầu Tư 2014 và khoản 20 điều 3 Luật Đầu Tư 2020).

23
Các quan niệm trên tuy có cách tiếp cận khác nhau nhưng bản chất đều thống
nhất về mối quan hệ giữa vai trò và lợi ích của nhà đầu tư nước ngoài khi thực hiện
FDI, đó là nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tư toàn bộ hoặc một phần vốn đủ lớn
vào một đối tượng ở một quốc gia khác nhằm nắm quyền quản lý đối tượng đó.
2.1.2.Phân loại mục đích đầu tư trực tiếp nước ngoài
Căn cứ vào mục đích đầu tư, UNCTAD (1993) cho rằng FDI có các loại cơ
bản như bảng 2.1.
Bảng 2.1. Khu vực kinh tế và loại FDI
Khu vực kinh tế Tiểu ngành Loại FDI
Sơ cấp
Năng lượng, khai thác mỏ, nông
nghiệp
Tìm kiếm tài nguyên
Công nghiệp
Máy móc, máy tính, trang bị điện,
thiết bị vận tải, dệt may
Tìm kiếm hiệu quả
Thực phẩm, hóa chất, kim loại Tìm kiếm thị trường
Thương mại, dịch
vụ
Điện, nước, tài chính, thông tin, dịch
vụ chuyên nghiệp
Tìm kiếm thị trường
Nguồn: UNCTAD (1993)
FDI tìm kiếm nguồn tài nguyên, được thúc đẩy bởi quyền khai thác vào tài
nguyên thiên nhiên, như dầu khí, khoáng sản. FDI tìm kiếm tài nguyên liên quan
đến cơ cấu sản xuất, trong đó nguồn nguyên liệu từ thế giới đang phát triển hoặc
được sử dụng như là đầu vào của quá trình sản xuất tại đất nước của các công ty
xuyên quốc gia (MNCs) hoặc bán ra thị trường thế giới. Phần lớn FDI trước những
năm 1960 là tìm kiếm tài nguyên và trao đổi nguyên liệu từ nước đang phát triển để
lấy hàng hóa chế tác được sản xuất từ các nước công nghiệp theo mô hình trao đổi
truyền thống giữa Bắc và Nam trong thời kỳ thuộc địa. FDI tìm kiếm tài nguyên
giới hạn ở những khu vực chủ yếu là khai thác dầu, khí đốt, than đá, quặng kim loại,
khoáng sản phi kim loại (UNCTAD, 2007). Yếu tố quyết định của FDI tìm kiếm tài
nguyên bao gồm các tồn trữ tài nguyên thiên nhiên của một quốc gia và giá cả hàng
hóa thế giới.
FDI tìm kiếm thị trường là hình thức đầu tư sản xuất cùng loại sản phẩm với
nước đầu tư và tiêu thụ sản phẩm tại nước nhận đầu tư, được gọi là đầu tư theo
chiều ngang. Nhằm tiếp cận thị trường nước ngoài trong bối cảnh các rào cản
thương mại, MNCs hướng tới thị trường nước ngoài thông qua hoạt động xuất khẩu.

24
Hình thức này xuất hiện do các các rào cản thương mại và chi phí vận chuyển cao.
FDI tìm kiếm thị trường xảy ra ở các tiểu ngành của khu vực kinh tế chế tác, thương
mại và dịch vụ. Các ngành công nghiệp chế tác được đặc trưng bởi chi phí vận
chuyển cao và giá trị gia tăng thấp, như thực phẩm, hóa chất, và các kim loại. FDI
khu vực dịch vụ hầu như chỉ là FDI tìm kiếm thị trường do tính chất không thể
thương mại của hầu hết các dịch vụ. Một số dịch vụ đã trở nên có thể thương mại, là
kết quả của tiến bộ trong máy tính và viễn thông, nhưng gia công phần mềm chỉ
chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong FDI lĩnh vực dịch vụ. FDI khu vực dịch vụ đã tăng lên
đáng kể trong hai thập kỷ qua khi các nước đang phát triển có tư nhân hóa các lĩnh
vực như ngân hàng, tiện ích và viễn thông (UNCTAD, 2007). Các yếu tố quyết định
chính của FDI tìm kiếm thị trường bao gồm quy mô thị trường, tăng trưởng thị
trường, và các rào cản thương mại.
FDI tìm kiếm hiệu quả là hình thức trong đó nhà đầu tư phân bổ một số công
đoạn sản xuất ở nước ngoài để tận dụng chi phí thấp nhằm tối ưu hóa quá trình sản
xuất. Hình thức này được gọi là đầu tư theo chiều dọc, chủ yếu áp dụng cho các
ngành công nghiệp hướng vào xuất khẩu. Hình thức cổ điển nhất của nó là đầu tư
sang các nước đang phát triển nhằm tìm kiếm các nguồn lao động chi phí thấp. Các
hình thức phức tạp hơn của FDI tìm kiếm hiệu quả bao gồm FDI căn cứ xuất khẩu,
nơi nước chủ nhà phục vụ như một căn cứ sản xuất để xuất khẩu sang một nhóm các
nước láng giềng, và mạng lưới sản xuất, nơi chi nhánh của MNCs ở một số quốc gia
trao đổi sản phẩm trung gian để chế biến tiếp trước khi lắp ráp cuối cùng
(UNCTAD, 1993). FDI tìm kiếm hiệu quả phổ biến nhất trong các ngành công
nghiệp chế tác được đặc trưng bởi chi phí vận chuyển thấp và giá trị gia tăng cao,
chẳng hạn như máy móc, thiết bị điện, máy tính, thiết bị giao thông vận tải, và dệt
may. Các yếu tố quyết định của FDI tìm kiếm hiệu quả bao gồm chi phí lao động và
các rào cản thương mại.
Các loại FDI có các đặc điểm kinh tế khác nhau thay đổi theo hai góc độ: tính
linh hoạt của đầu tư và ảnh hưởng của nó đến nước nhận đầu tư. Theo đó, FDI tìm
kiếm tài nguyên là dòng vốn đầu tư rất thụ động, vì (1) MNCs trong ngành công
nghiệp khai khoáng thường không có nhiều lựa chọn đầu tư và họ chỉ có thể đầu tư
tại các nước có nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào. Ngoài ra, (2) đầu tư tìm kiếm
tài nguyên đòi hỏi phải ứng vốn trước với quy mô lớn và công nghệ hiện đại, điều đó
tạo ra chi phí ẩn đáng kể.
FDI tìm kiếm thị trường và hiệu quả thì linh hoạt hơn nhiều hơn so với FDI

25
tìm kiếm tài nguyên. Trước hết, MNCs tìm kiếm thị trường và hiệu quả ít bị giới
hạn hơn về mặt địa lý so với FDI tìm kiếm nguồn tài nguyên. MNCs tìm kiếm hiệu
quả thường có lợi thế về giá yếu tố đầu vào ở nhiều nơi khác nhau. Chẳng hạn, chi
phí lao động trong ngành công nghiệp dệt may tương tự nhau đối với các nước đang
phát triển và các nhà sản xuất dệt may thường xuyên di chuyển sản xuất để thích
ứng với thay đổi trong chi phí lao động. MNCs tìm kiếm thị trường gắn với thị
trường nội địa, nhưng họ cũng mở rộng thị trường nước ngoài thông qua xuất khẩu,
làm tăng tính linh hoạt của họ. MNCs tìm kiếm thị trường trong lĩnh vực dịch vụ
kém linh động hơn vì họ cần hiện diện ở thị trường nước ngoài. Thứ hai, FDI tìm
kiếm thị trường và hiệu quả không phải chịu chi phí ẩn đáng kể, ít thâm dụng vốn
hơn và không yêu cầu chuyển giao trước với quy mô lớn về vốn và công nghệ.
2.1.3.Nguyên nhân hình thành đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đến thời điểm hiện tại, đã có nhiều nghiên cứu liên quan đến lý thuyết nguồn
gốc hình thành của vốn đầu tư nước ngoài. Theo Kojima và Ozawa (1984), có hai
hướng để tiếp cận với nguồn gốc hình thành vốn đầu tư nước ngoài FDI là tiếp cận
theo hướng kinh tế vĩ mô và tiếp cận theo hướng vi mô.
Đối với hướng tiếp cận theo kinh tế vĩ mô, mô hình H-O đã được đưa ra để
giải thích cho việc dịch chuyển các nguồn lực giữa các nền kinh tế trên thế giới, một
nền kinh tế sẽ xuất khẩu những sản phẩm thâm dụng các yếu tố mà nó dồi dào một
cách tương đối và nhập khẩu những sản phẩm thâm dụng các yếu tố mà nó khan
hiếm một cách tương đối. Tuy nhiên, Kojima và Ozawa (1984) cũng chỉ ra hạn chế
của mô hình H-O là không xét đến yếu tố công nghệ, trong khi công nghệ đóng vai
trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế, từ đó đưa ra mô hình H-O-E với E là
yếu tố công nghệ để củng cố thêm cho mô hình H-O. Các nền kinh tế không chỉ trao
đổi với nhau về yếu tố vốn và lao động mà còn về công nghệ để có thể tận dụng
hiệu quả các nguồn lực trong nền kinh tế, do đó nguồn vốn FDI được hình thành.
Theo hướng tiếp cận kinh tế vi mô, các doanh nghiệp luôn tìm cách khai thác
một cách hiệu quả những nguồn lực để tối đa hóa lợi nhuận, trong đó bao gồm việc
xuất khẩu (hay nói cách khác là chuyển thành các khoản đầu tư ra nước ngoài). Vì
vậy, nguồn vốn đầu tư nước ngoài được hình thành từ việc mở rộng sản xuất kinh
doanh của một công ty ở một quốc gia này sang những quốc gia khác. Trong tình
hình phát triển chung của nền kinh tế, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày
càng trở nên gay gắt, cùng với xu hướng toàn cầu hóa hiện nay đã khiến các doanh

26
nghiệp phải liên tục tìm kiếm thị trường mới, mở rộng việc sản xuất kinh doanh của
mình ra bên ngoài quốc gia dưới hai hình thức chính là công ty xuyên quốc gia và
công ty đa quốc gia (MNCs).
Trên thực tế có nhiều nghiên cứu giải thích sự hình thành của FDI. Các nghiên
cứu được thực hiện chủ yếu được chia làm hai nhóm chính là (1) dựa trên giải
thuyết thị trường hoàn hảo, và (2) dựa trên giả thuyết thị trường không hoàn hảo.
Đặt ra giả định thông tin và thị trường tại hai quốc gia là hoàn hảo, MacDougall
(1975) lập luận rằng sự chênh lệch về năng suất cận biên của vốn giữa các nước là
nguyên nhân hình thành đầu tư nước ngoài. Theo đó, những nước phát triển (thừa
vốn) có năng suất cận biên của vốn thấp hơn năng suất cận biên của vốn ở những
nước đang phát triển (thiếu vốn). Cùng quan điểm với MacDougall (1975), Fry
(19993) cũng cho rằng nước đầu tư thường có hiệu quả sử dụng vốn thấp (thừa
vốn), trong khi nước nhận đầu tư lại có hiệu quả sử dụng vốn cao hơn (thiếu vốn).
Vì vậy, theo Fry (19993), chênh lệch hiệu quả sử dụng vốn giữa các nước là nguyên
nhân chủ yếu làm xuất hiện di chuyển dòng vốn FDI. Để phân tích nguyên nhân
hình thành FDI, Fry đã loại bỏ giả định không có sự di chuyển các yếu tố sản xuất
(vốn, công nghệ…), đặt ra giả định thị trường hoàn hảo.
Tuy nhiên, thị trường cạnh tranh hoàn hảo thì FDI sẽ không còn tồn tại. Phải
có một thị trường không hoàn hảo thì FDI mới được thực hiện, và Hymer (1976) là
người đầu tiên nhận thấy điều này. Ông cho rằng FDI chỉ xảy ra khi (1) doanh
nghiệp của nước đi đầu tư có lợi thế hơn doanh nghiệp nước tiếp nhận (nghĩa là có
lợi thế độc quyền) và (2) thị trường các doanh nghiệp đầu tư đến là thị trường không
hoàn hảo. Tuy nhiên, những lý thuyết này chỉ nêu ra nhưng không giải thích vì
sao nhiều công ty muốn thực hiện FDI hơn là cung cấp quyền này cho công ty nước
ngoài khác theo hình thức cấp giấy phép hoặc nhượng quyền thương mại. Câu hỏi
này được làm rõ trong lý thuyết nội bộ hóa được xây dựng bởi Buckley và Casson
(1976) trên giả định không hoàn hảo của thị trường. Cụ thể, một công ty thuộc mẫu
nghiên cứu phát triển một quy trình công nghệ hoặc nguyên vật liệu mới, rất khó để
chuyển giao công nghệ hoặc bán nguyên vật liệu cho các công ty khác không liên
quan vì các công ty khác thấy chi phí giao dịch quá cao và công ty sở hữu quy trình
công nghệ hoặc nguyên vật liệu không muốn bị lộ bí quyết gây ra rủi ro các đối tác
trở thành đối thủ cạnh tranh với họ. Với trường hợp này, công ty có thể lựa chọn nội
bộ hóa bằng cách sử dụng sản phẩm đầu ra của công ty con làm đầu vào cho sản

27
xuất ở công ty con khác hoặc công nghệ do một công ty con phát triển có thể được
sử dụng ở các công ty con khác. Do đó, theo Buckley và Casson (1976), FDI là kết
quả của việc thay thế các giao dịch thị trường bằng các giao dịch nội bộ trong cùng
một công ty để tránh sự không hoàn hảo của các thị trường. Một lý thuyết khác
cũng giải thích được nguyên nhân hình thành FDI dựa trên sự không hoàn hảo của
thị trường là lý thuyết độc quyền nhóm của Knickerbocker (1973). Knickerbocker
lập luận rằng các công ty thường có hành vi bắt chước đối thủ cạnh tranh trên quốc
tế để không mất đi lợi thế chiến lược. Bằng cách bắt chước thực hiện FDI của đối
thủ, công ty có thể tránh được định giá thấp. Tuy nhiên, đề xuất độc quyền nhóm
của Knickerbocker chỉ đúng khi công ty không chắc chắn về chi phí ở quốc gia
nhận đầu tư, trong trường hợp chắc chắn, động lực để FDI giảm (Head, 2002). Hơn
nữa lý thuyết này không giải thích động cơ thúc đẩy công ty đầu tiên thực hiện FDI.
Lý thuyết được xem là hoàn chỉnh và công phu nhất nhằm giải thích FDI là lý
thuyết chiết trung của Dunning (2002). Dunning đã tổng hợp các yếu tố chính của
nhiều công trình nghiên cứu dựa trên giải thuyết thị trường không hoàn hảo kể trên
nhằm lý giải về FDI. Theo Dunning, một công ty tiến hành đầu tư nước ngoài khi có
các lợi thế OLI - bao gồm lợi thế sở hữu, lợi thế về vị trí, và lợi thế nội bộ hóa. Cụ
thể, Dunning cho rằng các công ty có lợi thế sở hữu (O), về các yếu tố cạnh tranh
trong quá trình sản xuất so với các đối thủ nước ngoài, chẳng hạn như bằng sáng
chế, công nghệ mới, thương hiệu hoặc khả năng quản lý nên duy trì lợi thế cho lợi
ích riêng của họ thay vì bán hoặc cấp giấy phép sử dụng lợi thế đó cho các công ty
khác. Những công ty có lợi thế nội bộ hóa (I) nếu ký kết hợp đồng với các công ty ở
thị trường nước ngoài là một lựa chọn nguy hiểm. Nó có thể dẫn đến tiết lộ lợi thế
sở hữu cụ thể cho các công ty ở thị trường nước ngoài, và của công ty liên doanh
hiện tại có thể là đối thủ cạnh tranh tiềm năng trong tương lai. Bổ sung lợi thế về
quyền sở hữu và lợi thế nội bộ hóa, Dunning đưa thêm vào mô hình lợi thế về vị trí
cụ thể (L). Lợi thế vị trí cụ thể hàm ý rằng các công ty cần phải thu được lợi ích từ
việc đầu tư tại một vị trí ở nước ngoài, nếu không họ sẽ không cần phải thực hiện
đầu tư ra nước ngoài. Mô hình chiết trung
cho thấy một công ty muốn thực hiện FDI cần có 3 lợi thế O, L, I.
2.1.4.Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với phát triển các ngành và
tăng trưởng kinh tế
Ảnh hưởng của FDI đến tăng trưởng kinh tế ngành có sự khác biệt giữa các
ngành. Đối với ngành nông nghiệp, ảnh hưởng của FDI không phải lúc nào cũng

28
luôn dương. Những dự án này có các mối liên kết kinh tế lỏng lẻo đối với nền kinh
tế trong nước vì chúng thường sử dụng ít hàng hóa trung gian trong nước và đa
phần hướng về xuất khẩu. Thêm vào đó, FDI vào ngành này thường có biến động
cao (Chowdhury và Mavrotas, 2005). Hầu hết quy mô đầu tư lớn và nhạy cảm với
giá hàng hóa thế giới. Thêm vào đó, cấu trúc tài chính thường thiên về vay nợ giữa
các doanh nghiệp và những khoản vay này có xu hướng biến động như các khoản
nợ tư (Chowdhury và Mavrotas, 2005).
Ở góc độ khác, đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp rất có thể quan trọng đối với
nhiều nước khan hiếm về vốn và công nghệ, nhờ dòng FDI, ngành nông nghiệp có
thể thu lại nhiều ngoại tệ. Có nghiên cứu chỉ ra rằng, trong bối cảnh thể chế kinh tế
vững chắc, FDI trong nông nghiệp có thể có tác động dương. Đó là trường hợp của
Botswana, với chính sách lành mạnh và khuôn khổ thể chế phù hợp, Botswana trở
thành nước có thu nhập trung bình trong vòng một thế kỷ với sự góp sức của FDI
vào các ngành công nghiệp khai thác kim cương và khai thác mỏ khác. Các khoản
thu từ xuất khẩu và thu chính phủ có nguồn gốc từ FDI được tái đầu tư khôn ngoan
nhằm tạo những động lực ban đầu cho tăng trưởng kinh tế (UNCTAD 2007).
Khác với ngành nông nghiệp, FDI vào lĩnh vực sản xuất công nghiệp có tiềm
năng ảnh hưởng lớn hơn đến nền kinh tế bởi vì các mối liên kết với nền kinh tế
nhận vốn tốt hơn. Các doanh nghiệp nước ngoài trong lĩnh vực sản xuất công
nghiệp chú trọng đến đầu tư hơn là xuất khẩu sang nước khác với mục đích là tìm
kiếm hiệu quả hoặc là tìm kiếm thị trường hoặc một sự kết hợp của cả hai. Khi nó
hoàn toàn là tìm kiếm hiệu quả, FDI có nhiều khả năng mang lại công nghệ và bí
quyết sản xuất tương thích với đất nước nhận vốn, FDI thường tạo ra việc làm và
nâng cao hoạt động đào tạo. Doanh nghiệp nước ngoài thường sử dụng ở mức độ
nào đó các sản phẩm trung gian trong nước. Do đó, FDI có mối liên kết theo hàng
ngang và phía sau. Thêm vào đó, xuất khẩu của doanh nghiệp nước ngoài làm tăng
tổng xuất khẩu và như vậy làm tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Điều này
cũng cho thấy các mối liên kết này trở nên ít quan trọng khi FDI đi qua vào các khu
chế xuất và khả năng của hiệu ứng ly tâm gia tăng khi doanh nghiệp nước ngoài
thâm nhập thị trường trong nước. Tóm lại, FDI trong sản xuất công nghiệp được kỳ
vọng có tác động lớn đến nền kinh tế nhận vốn đầu tư.
FDI ảnh hưởng đến khả năng phát triển ngành công nghiệp, nó thúc đẩy quá
trình hiện đại hóa lực lượng sản xuất công nghiệp hiện có, đặc biệt là phát triển

29
những ngành công nghiệp mới theo những quy mô hợp lý, công nghệ hiện đại đủ
sức đáp ứng nhu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Với
mục tiêu tìm kiếm thị trường, tìm kiếm nguồn tài nguyên và tìm kiếm hiệu quả, các
MNCs sẽ không quyết định đầu tư vào những ngành kinh tế có mức tăng trưởng
thấp hoặc mức lợi nhuận và giá trị gia tăng được tạo ra không cao. Vì vậy, FDI đã
góp phần vào tiến trình sắp xếp và thay đổi cơ cấu nội bộ một số ngành công
nghiệp, nâng cao năng lực hoạt động của các ngành này, góp phần thúc đẩy quá
trình chuyển đổi cơ cấu các ngành công nghiệp theo hướng công nghiệp hóa với
nhiều mặt hàng, nhiều chủng loại có chất lượng và sức cạnh tranh cao hơn.
Như vậy, sự hiện diện của doanh nghiệp nước ngoài đã đem lại hiệu quả
dương đối với hiệu suất công nghiệp. Trong nghiên cứu của Sun (2018), các doanh
nghiệp nước ngoài cũng có tác động gián tiếp đối với các ngành khác thông qua mối
liên kết ngành. Các doanh nghiệp nước ngoài trong lĩnh vực công nghiệp có các chỉ
số liên kết phía sau và số nhân sản lượng cao, do đó, tạo sự liên kết mạnh mẽ đến
nền kinh tế. Doanh nghiệp nước ngoài ngày càng trở thành những nhà sản xuất công
nghiệp quan trọng, đóng góp đáng kể cho tăng trưởng của các ngành trong nước
thông qua việc đáp ứng nhu cầu đầu tư của nền kinh tế và kích thích đầu tư trong
nước. Đối với ngành công nghiệp xe hơi, tỷ lệ nội địa hóa yếu tố đầu vào trong các
doanh nghiệp nước ngoài đã tăng lên đáng kể trong những năm 90 và đạt 80% tại
Volkswagen Thượng Hải, trong ngành công nghiệp điện tử, cũng cho thấy tỷ lệ nội
địa hóa cao, tỷ lệ này cao hơn trong ngành sản xuất TV và thấp hơn trong các ngành
có hàm lượng công nghệ cao. Cuối cùng, phân tích được thực hiện bởi Wu (2000) ở
10 tỉnh ven biển của Trung Quốc trong thời kỳ 1983 - 1995 cho một quan điểm bổ
sung về tính hiệu quả của FDI được tăng theo thời gian. Ở các tỉnh, hiệu quả của
FDI có xu hướng tăng lên theo thời gian trong khi những năm 80 là rất thấp, sau đó
đã được cải thiện vào những năm 90. Trước năm 1995, tất cả các tỉnh ven biển tăng
trưởng chủ yếu dựa vào nguồn vốn nước ngoài.
Tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài là bước đi hiệu quả nhất cho các nước đang
phát triển, trong đó nguồn vốn FDI đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh
tế và tăng trưởng các ngành. Thực chất của việc làm này là tận dụng điều kiện
khách quan thuận lợi mà thế giới đã tạo ra thay vì phải mất nhiều thập kỷ phát triển
để tăng tích lũy và tái đầu tư. Các nước “đi sau” có thể “mượn sức” những nước “đi
trước” để thực hiện phương thức “đi tắt đón đầu” tiến tới thu dần khoảng cách tụt

30
hậu về trình độ so với các nước phát triển. Vốn đầu tư là yếu tố có tính quyết định
đối với tăng trưởng kinh tế của một quốc gia, việc đảm bảo nguồn vốn đầu tư phát
triển là điều kiện sống còn.
Kế thừa những luận điểm trong học thuyết kinh tế của Keynes, hai nhà kinh tế
học Roy Harrod - người Anh và Evsay Domar - người Mỹ nghiên cứu ở hai công
trình độc lập, nhưng khi công bố kết quả nghiên cứu của hai Ông vào giữa những
năm 1940, cả hai tác giả đồng thời đưa ra mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa tốc độ tăng
trưởng kinh tế và tỷ lệ vốn đầu tư trên GDP, được xác định bởi công thức:
g 
i
ICOR
Trong đó: g: Tốc độ tăng trưởng kinh tế
i: Tỷ lệ vốn đầu tư/GDP
ICOR: Tỷ số gia tăng vốn - sản lượng (chỉ đo năng lực sản xuất
của phần vốn tăng thêm).
Dựa trên mô hình Harrod - Domar, chúng ta thấy rất rõ vai trò của nguồn vốn
nói chung và vốn FDI nói riêng trong quá trình mở rộng quy mô sản xuất các ngành
và tăng trưởng kinh tế. Vào những năm 1950, các nhà kinh tế của Liên Hiệp Quốc
đã coi sự thiếu hụt về vốn là một hạn chế chủ yếu của tăng trưởng kinh tế ở các
nước kém phát triển. Để có vốn các nước này phải tiến hành bằng con đường tích
luỹ nội bộ. Trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay, nếu chỉ trông chờ vào khả năng
tích luỹ nội bộ thì hậu quả là khó tránh khỏi tụt hậu ngày càng xa hơn. Do vậy,
tranh thủ ngoại lực là bước đi hiệu quả nhất cho các nước đang phát triển. Một trong
những nội dung quan trọng của thời kỳ CNH, HĐH ở quốc gia nào cũng đều hướng
đến mục tiêu tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định.
Samuelson nhà kinh tế người Mỹ cho rằng, đa số các nước đang phát triển là
thiếu vốn, mức thu nhập thấp, chỉ đủ sống ở mức tối thiểu, do đó khả năng tích luỹ và
đầu tư là rất hạn chế. Để có được mức đầu tư tối thiểu nhằm đảm bảo cho tăng
trưởng và phát triển kinh tế cần phải hy sinh tiêu dùng trong nhiều thập kỷ, điều này
đã hạn chế khả năng thoát nghèo cũng như khả năng đuổi kịp các nước phát triển về
trình độ kinh tế và như vậy các nước nghèo trong thời kỳ đầu quá trình phát triển của
mình thường rơi vào “vòng luẩn quẩn” của sự nghèo khổ. Tình trạng luẩn quẩn này
chính là “điểm nút” đầu tiên khó khăn nhất mà các nước chậm phát triển phải đối
mặt, trong kinh tế hiện đại thuật ngữ “cất cánh” là khái niệm diễn đạt chính xác thực
chất của “bước nhảy” vượt qua “điểm nút” này. Sự cất cánh chỉ có thể bắt đầu từ
khâu tạo ra sản lượng và thu nhập ngày

31
càng tăng, muốn như vậy phải có vốn, nhưng vốn lại khan hiếm ở các nước này.
Chính vì vậy, việc thu hút các nguồn vốn FDI có ý nghĩa quan trọng trong quá
trình đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và phát triển các ngành kinh tế hiện đại,
từ đó thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thông qua hoạt động FDI đã
làm xuất hiện nhiều lĩnh vực và ngành kinh tế mới ở nước nhận đầu tư - xuất phát từ
yêu cầu của thị trường trong nước và thế giới, thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng
trình độ kỹ thuật - công nghệ ở nhiều ngành kinh tế, góp phần nâng cao năng suất
lao động ở các ngành này cũng như trong nội bộ từng ngành. Đồng thời, dưới sức ép
cạnh tranh của thị trường trong và ngoài nước, sẽ loại dần những doanh nghiệp hoạt
động kém hiệu quả - quá trình tinh lọc tích cực, góp phần nâng cao năng lực sản
xuất của nền kinh tế quốc dân. Do đó, có thể nói FDI là nhân tố ảnh hưởng đến tốc
độ và quy mô chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thông qua việc phân bổ nguồn vốn đầu tư.
Trong cơ cấu nguồn vốn đầu tư xã hội, vốn FDI có những đặc tính riêng của nó với
sự tác động khác biệt so với các nguồn vốn khác, đó chính là sự linh hoạt của nguồn
vốn này trong quyết định đầu tư cũng như tìm kiếm thị trường, tối ưu hóa quy mô
sản xuất.
Bốn nhóm ngành chiếm ưu thế trong cơ cấu ngành thông qua sở hữu các lợi
thế so sánh, gồm: (1) các ngành đòi hỏi nhiều lao động như dệt may; (2) các ngành
công nghiệp nặng và hóa học dựa trên hiện đại hóa nền kinh tế như thép, hóa dầu và
sợi tổng hợp; (3) sản xuất hàng loạt dựa trên lắp ráp các mặt hàng tiêu dùng lâu bền
như ô tô, thiết bị điện và điện tử mà phụ thuộc vào hợp đồng gia công; (4) các
ngành công nghiệp như thiết bị điện tử hiện đại và vi mạch, hóa chất, hỗ trợ máy
tính và thúc đẩy R&D. Bốn nhóm trên tạo thành hệ thống phân cấp các ngành
(Ozawa, 2000). Đây là một trong ba hệ thống phân cấp nội bộ phát triển đồng thời
trong suốt quá trình nâng cấp cơ cấu của một quốc gia. Theo đó, các lực lượng được
chuyển tiếp, một phần được tạo ra một cách tự động theo cơ chế thị trường và một
phần được thúc đẩy hoặc củng cố bởi chính sách cơ cấu của chính phủ. Ngoài ra,
chính phủ đảm bảo rằng các hoạt động của các công ty đa quốc gia (gồm cả doanh
nghiệp FDI) phù hợp với khả năng tương thích từng giai đoạn của ngành công
nghiệp địa phương để nền kinh tế chủ nhà có thể khai thác triệt để mô hình lợi thế
so sánh hiện có tương xứng với các điều kiện ưu đãi và mức độ công nghệ hiện
hành. Do đó, quá trình công nghiệp hóa bao gồm một chuỗi các giai đoạn, trong mỗi
giai đoạn đó, có một ngành hoặc các ngành nào đó dẫn đầu, có lợi thế so sánh và
đáp ứng như là một động cơ để nâng cấp ngành.

32
Với đặc trưng của hàng hóa công cộng, tri thức và công nghệ gắn liền với FDI
từ các công ty xuyên quốc gia được coi là yếu tố quan trọng có tác động lâu dài
trong các mô hình tăng trưởng nội sinh (Romer, 1990). Các công ty xuyên quốc gia
thường sở hữu công nghệ tiên tiến nên khi thâm nhập thị trường nước ngoài thông
qua FDI, họ mang theo công nghệ hiện đại và các phương thức quản lý ưu việt hơn.
Điều này mang lại cho họ một lợi thế cạnh tranh so với các doanh nghiệp trong
nước, những người có xu hướng quen thuộc hơn với sở thích của người tiêu dùng,
phương thức kinh doanh và chính sách của chính phủ tại thị trường nước sở tại.
Theo Javorcik (2004), sự lan tỏa từ FDI diễn ra khi gia nhập hoặc hiện diện của các
Công ty xuyên quốc gia làm tăng năng suất của các doanh nghiệp trong nước ở
nước sở tại. FDI có thể nâng cao mức năng suất của các doanh nghiệp trong nước
trong các ngành mà họ tham gia bằng cách cải thiện việc phân bổ nguồn lực trong
các ngành đó. Sự hiện diện của các công ty đa quốc gia cùng với các sản phẩm mới
và công nghệ tiên tiến có thể buộc các doanh nghiệp trong nước phải bắt chước
hoặc đổi mới để nâng cao tính cạnh tranh. Mối đe dọa cạnh tranh cũng có thể
khuyến khích các doanh nghiệp trong nước vốn có thể bị tụt hậu phải bắt đầu tìm
kiếm công nghệ mới. Một con đường khác để chuyển giao công nghệ là sự di
chuyển lao động từ các công ty con nước ngoài sang các công ty trong nước.
Tác động tràn của FDI (hiệu ứng lan toả) có thể được phân loại thành hai
nhóm chính bao gồm tác động tràn theo chiều ngang (lan toả nội ngành) và tác động
tràn theo chiều dọc (lan tỏa liên ngành).
- Tác động tràn theo chiều ngang
+Hiệu ứng phô trương: Khi các công nghệ mới được giới thiệu từ các Công ty
xuyên quốc gia, các doanh nghiệp trong nước có thể từ đó quan sát các hành động,
kỹ năng hoặc kỹ thuật của công ty nước ngoài và áp dụng các kỹ thuật này, dẫn đến
cải tiến sản xuất (Wang và Blomstrom, 1992).
+Tác động cạnh tranh: Tác động gián tiếp của FDI đối với hiệu quả và đổi
mới của nước chủ nhà thông qua việc cạnh tranh gay gắt cũng được xem là một
dạng của tác động lan tỏa. Việc gia nhập thị trường nước sở tại của MNCs chắc
chắn sẽ làm gia tăng sự cạnh tranh của nước chủ nhà. Trong điều kiện cạnh tranh
ngày càng gia tăng, các doanh nghiệp trong nước buộc phải hoạt động hiệu quả hơn
và tìm hiểu công nghệ mới để có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp FDI (Wang

33
và Blomstrom, 1992).
+Hiệu ứng dịch chuyển lao động: Hiệu ứng này xảy ra khi người lao động và
nhà quản lý làm việc tại các công ty liên kết nước ngoài đã được đào tạo với các kỹ
năng quản lý và kỹ thuật tiên tiến hoặc mở doanh nghiệp của riêng họ (Fosfuri,
Motta, và Rønde, 2001).
- Tác động tràn theo chiều dọc
Tác động theo chiều dọc được thảo luận bởi Lall (1980) và Rodriguez-Clare
(1996) xảy ra khi các doanh nghiệp nước ngoài tương tác với các doanh nghiệp
trong nước không cùng ngành.
Lan tỏa thông qua liên kết ngược: FDI cũng có thể góp phần cải tiến công
nghệ của các nhà cung cấp địa phương hoặc các nhà cung cấp tiềm năng của họ
bằng cách cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho các doanh nghiệp này.
Sự lan tỏa thông qua các liên kết chuyển tiếp: Các Công ty xuyên quốc gia
cũng có thể cung cấp đào tạo và các hình thức hỗ trợ kỹ thuật khác cho khách hàng
của họ. Bên cạnh những tác động tích cực, FDI còn tạo ra những tác động tiêu cực
đến năng suất của các doanh nghiệp trong nước. Khi các Công ty xuyên quốc gia
gia nhập thị trường, lợi thế về công nghệ và bí quyết của họ có thể chiếm lĩnh
thị trường của các doanh nghiệp trong nước và khiến các doanh nghiệp địa phương
sản xuất ở quy mô kém hiệu quả hơn, dẫn đến năng suất của các doanh nghiệp
trong nước kém hơn (hiệu ứng đánh cắp thị trường). Các doanh nghiệp nước ngoài
có thể
có tác động tiêu cực đến sản lượng và năng suất của các doanh nghiệp trong nước,
đặc biệt là trong ngắn hạn, nếu họ cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước và
“đánh cắp” thị trường hoặc nguồn nhân lực tốt nhất của họ. Khi các doanh nghiệp
trong nước cắt giảm sản lượng, họ có thể phải chịu chi phí trung bình cao hơn do
chi phí cố định được dàn trải trên quy mô sản xuất nhỏ hơn (Aitken, Hanson và
Harrison, 1997).
2.2.Khái luận về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu kinh tế được hiểu là tổng thể các bộ phận hợp thành nền kinh tế cùng
các mối quan hệ, ổn định và phát triển giữa các bộ phận ấy với nhau, hay của toàn
bộ hệ thống trong những điều kiện của nền sản xuất xã hội và trong những khoảng
thời gian nhất định (Ngô Thắng Lợi, 2012). Cơ cấu kinh tế bao gồm nhiều loại: Cơ
cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu theo khu
vực thể chế, cơ cấu tái sản xuất và cơ cấu thương mại quốc tế. Trong đó, cơ cấu

34
ngành kinh tế là quan trọng nhất vì nó phản ánh trình độ phân công lao động xã hội,
thể hiện trình độ chuyên môn hóa sản xuất của các ngành và của nền kinh tế (Ngô
Thắng Lợi, 2012).
2.2.1.Khái niệm về cơ cấu ngành kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu ngành kinh tế là một trong năm nhóm của cơ cấu kinh tế (cơ cấu các
quan hệ sản xuất trong nền kinh tế, cơ cấu tái sản xuất xã hội, cơ cấu quản lý, tổ
chức nền kinh tế quốc dân, cơ cấu vùng, lãnh thổ và cơ cấu ngành kinh tế) (Bùi Tất
Thắng, 2006). Cơ cấu ngành kinh tế có vai trò quan trọng, tác động đến tăng trưởng
nền kinh tế của một quốc gia hay một khu vực. Có rất nhiều quan điểm khác nhau
về cơ cấu ngành kinh tế. Theo đó, cơ cấu ngành kinh tế có thể chia thành ba ngành:
nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ; với nông nghiệp được coi là kém năng suất
nhất và dịch vụ có năng suất cao nhất. Nông nghiệp được coi là lĩnh vực truyền
thống, trong khi công nghiệp và lĩnh vực dịch vụ là các lĩnh vực hiện đại. Chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế xảy ra khi có sự phân bổ lại từ các lĩnh vực năng suất
thấp sang năng suất cao (Diao và các cộng sự, 2019).
Một cách tổng quát, Nguyễn Thị Cẩm Vân (2020) cho rằng cơ cấu ngành kinh
tế là tổng hợp các ngành kinh tế và mối quan hệ tỷ lệ giữa các ngành thể hiện ở vị
trí và tỷ trọng của mỗi ngành trong tổng thể nền kinh tế. Ủy ban Thường Vụ Quốc
hội (2014) nhấn mạnh cơ cấu ngành kinh tế là mối quan hệ của tất cả các ngành
hình thành nên nền kinh tế. Ở một quan điểm khác, Nguyễn Xuân Hùng và các cộng
sự (2020) cho rằng cơ cấu ngành kinh tế là sự phân chia nền kinh tế thành các nhóm
ngành và mối quan hệ tổng thể của chúng. Nghiên cứu nhấn mạnh cơ cấu ngành
kinh tế phản ánh trình độ phân công lao động và trình độ phát triển của lực lượng
lao động trong nền kinh tế.
Tại các nước phát triển, cơ cấu ngành kinh tế có mức độ phức tạp và đa dạng
hơn so với các nước đang phát triển. Trong khi ngành nông nghiệp là ngành chủ đạo
tại các quốc gia đang phát triển thì công nghiệp và dịch vụ đóng góp phần lớn vào
GDP của các quốc gia phát triển. Cơ cấu ngành tại Việt Nam được phân thành 21
ngành cấp 1, 88 ngành cấp 2, 242 ngành cấp 3, 486 ngành cấp 4 và 734 ngành cấp 5
(Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg) (bảng 2.2).

35
Bảng 2.2. Phân ngành cấp 1 tại Việt Nam
Ngành Phân ngành cấp 1
Nông nghiệp,
lâm nghiệp và
thủy sản
Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản
Công nghiệp và
xây dựng
Khai khoáng
Công nghiệp chế biến, chế tạo
Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và
điều hòa không khí
Cung cấp nước; hoạt đông quản lý và xử lý rác thải, nước thải
Xây dựng
Dịch vụ
Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động
cơ khác
Vận tải kho bãi
Dịch vụ lưu trú và ăn uống
Thông tin và truyền thông
Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm
Hoạt động kinh doanh bất động sản
Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ
Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ
Hoạt động của Đảng Cộng sản, tổ chức Chính trị Xã hội, quản
lý nhà nước, an ninh quốc phòng; bảo đảm xã hội bắt buộc
Giáo dục và đào tạo
Y tế vào hoạt động trợ giúp xã hội
Nghệ thuật, vui chơi và giải trí
Hoạt động dịch vụ khác
Hoạt động làm thuê các công việc trong các hộ gia đình, sản
xuất sản phẩm vật chất và dịch vụ tự tiêu dùng của hộ gia đình
Hoạt động của các tố chức và cơ quan y tế
Nguồn: Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg
Như vậy, cơ cấu ngành kinh tế là một đặc trưng cơ bản của nền kinh tế mỗi
quốc gia. Cơ cấu ngành ở mỗi quốc gia khác nhau sẽ khác nhau, nó được phân chia

36
dựa theo tính chất các điều kiện kinh tế, xã hội của từng quốc gia.
Cơ cấu ngành kinh tế sẽ vận động, thay đổi để phù hợp với từng thời kì phát
triển của nền kinh tế - xã hội. Có nhiều quan điểm về chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo mô hình kinh tế kép, trong đó các
yếu tố sản xuất, đặc biệt là lao động, chuyển từ khu vực truyền thống, năng suất
thấp sang khu vực hiện đại, năng suất cao hơn (Lewis, 1954; De Vries và các cộng
sự, 2015). Theo mô hình các giai đoạn tăng trưởng kinh tế của Rostow (1960),
chuyển dịch cơ cấu ngành có thể được xem là sự thay đổi tỷ trọng ngành trong GDP
hay sự chuyển dịch các nguồn lực ra khỏi khu vực nông nghiệp truyền thống có
năng suất thấp để tích lũy vốn vào khu vực công nghiệp với năng suất cao hơn.
Trong nghiên cứu của Kuznet (1961) đề cập đến mối quan hệ giữa cơ cấu kinh tế và
thu nhập giữa các quốc gia, cho rằng các khía cạnh chính của chuyển đổi cơ cấu là
tỷ trọng nông nghiệp giảm trong tổng sản lượng, và chuyển từ khu vực nông nghiệp
có thu nhập thấp sang khu vực công nghiệp có thu nhập cao. Kuznets đã chia nền
kinh tế thành ba ngành: nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ; đồng thời nhận thấy
một xu hướng rõ nét rằng: tỷ trọng ngành nông nghiệp trong GDP của các nước
được nghiên cứu đều giảm nhanh, còn tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ lại gia
tăng. Fukao và Paul (2018) cho rằng chuyển đổi cơ cấu ngành là việc phân bổ lại
hoạt động kinh tế trong các lĩnh vực nông nghiệp, sản xuất và dịch vụ, được đặc
trưng bởi một dòng chảy nguồn lực, chủ yếu là lao động từ nông nghiệp sang các
hoạt động kinh tế hiện đại với năng suất lao động cao hơn. Vì lý do này, chuyển đổi
cơ cấu có thể dẫn đến tăng năng suất và thu nhập (Herrendorf và các cộng sự,
2014).
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là quá trình thay đổi của cơ cấu ngành từ
trạng thái này sang trạng thái khác ngày càng hoàn thiện hơn, phù hợp với môi
trường và điều kiện phát triển (Nguyễn Thị Cẩm Vân, 2020). Nguyễn Thị Tuệ Anh,
Bùi Thị Phương Liên (2007) cho rằng chuyển dịch cơ cấu ngành mô tả sự thay đổi
về tỷ trọng các bộ phận cấu thành của đại lượng tổng trong dài hạn nhằm phân biệt
với thay đổi về cơ cấu kinh tế trong ngắn hạn do tác động của dao động kinh tế.
Nguyễn Xuân Hùng và các cộng sự (2020) nhấn mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế là sự thay đổi tỷ trọng của các thành phần kinh tế trong cơ cấu kinh tế từ
trạng thái này sang trạng thái khác nhằm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế.
Hoàng Mạnh Hùng (2018b) cho rằng CDCC ngành đề cập đến những thay đổi trong
cơ cấu ngành của một nền kinh tế và có thể được định nghĩa là sự chuyển dịch từ
các ngành kinh tế với

37
năng suất thấp và thâm dụng lao động sang các ngành có năng suất cao hơn và thâm
dụng kỹ năng hoặc kiến thức. Cơ cấu ngành kinh tế hướng tới sự thay đổi từ trạng
thái này sang trạng thái khác ngày càng hoàn thiện hơn với biểu hiện thực tế là sự
sụt giảm tỷ trọng GDP và lao động trong khu vực nông nghiệp và sự gia tăng tỷ
trọng GDP và lao động trong khu vực công nghiệp và dịch vụ theo thời gian.
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo chiều hướng hợp lý sẽ góp thúc đẩy sự
tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống xã hội. Xuyên suốt chiều dài lịch sử, các
quốc gia có nền công nghiệp phát triển, tập trung vào việc phát triển công nghiệp
nặng. Trong khi đối với các quốc gia có xuất phát điểm là ngành nông nghiệp, tập
trung nguồn lực vào việc xây dựng, phát triển ngành nông nghiệp và công nghiệp
nhẹ. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là một yếu tố quan trọng trong việc phản ánh
trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia. Bên cạnh đó, chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế thúc đẩy sự phát triển hợp lý, đồng đều; khai thác các tiềm lực tự nhiên, lao
động một các hiệu quả nhất của các vùng. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế hợp lý
sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển, góp phần tăng vị thế của quốc gia trên đấu trường
quốc tế. Theo Nguyễn Thị Tuệ Anh, Bùi Thị Phương Liên (2007) chuyển dịch cơ
cấu nói chung và chuyển dịch cơ cấu ngành nói riêng có thể diễn ra theo tín hiệu thị
trường hoặc có sự gia nhập của nhà nước, hoặc kết hợp cả hai.
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là một phạm trù động, luôn thay đổi theo
từng thời kỳ phát triển. Quá trình thay đổi của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế từ
trạng thái này sang trạng thái khác ngày càng hoàn thiện hơn, phù hợp hơn với môi
trường và điều kiện phát triển gọi là sự chuyển dịch CCKT. Chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế là các thay đổi về cơ cấu ngành kinh tế và thể chế cần thiết cho sự
tăng trưởng liên tục của tổng sản phẩm quốc dân (GDP), gồm tích lũy vốn vật chất
và con người, thay đổi nhu cầu, sản xuất, lưu thông và việc làm (Herrendorf và các
cộng sự, 2014). Với nền kinh tế 3 khu vực: nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ,
Fisher (1935) cho rằng quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế góp phần chuyển
việc làm, đầu tư từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và một phần
khu vực dịch vụ. Theo đó, năng suất lao động trong các khu vực đã quyết định việc
dịch chuyển lao động từ khu vực có năng suất thấp (nông nghiệp) sang khu vực có
năng suất cao (công nghiệp và dịch vụ) (Clrak, 1967). Như vậy, chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế là sự chuyển dịch về vốn, lao động và đóng góp vào sự gia tăng thu
nhập trong các khu vực, các bộ phận của nền kinh tế nhằm tăng hiệu quả sản xuất.

38
2.2.2.Các tiêu chí đánh giá chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Các yếu tố cấu thành cơ cấu ngành kinh tế luôn thay đổi, vì thế cơ cấu ngành
kinh tế không tồn tại vĩnh viễn mà luôn vận động và biến đổi theo những điều kiện
khách quan và chủ quan phù hợp với từng thời kì phát triển của mỗi quốc gia hay
khu vực. Việc chuyển dịch tạo điều kiện cho nền kinh tế quốc gia được phát triển
hiệu quả, phân bổ nguồn lực hợp lý hơn. Có 4 tiêu chí chủ yếu phản ảnh chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế bao gồm: (1) Tốc độ chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế;
(2) Cơ cấu lao động trong nền kinh tế; (3) cơ cấu hàng xuất khẩu và (4) tỷ trọng các
ngành trong nền kinh tế (Kuznet 1961; Moore, 1978; Bùi Tất Thắng, 2006; Trần
Thọ Đạt và Ngô Quang Cảnh, 2015; De Vries và các cộng sự, 2015; Diao và các
cộng sự, 2019; Fisher, 1939; Kuznet và Murphy, 1966; Krüger, 2008; Ngoc và Hai,
2019).
Thứ nhất, tốc độ chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế: được đo lường bằng tỷ
trọng của từng ngành trong nền kinh tế. Cách này còn được gọi là phương pháp
vectơ – chuyển dịch cơ cấu. Phương pháp này dựa trên thực tế là mỗi cơ cấu kinh tế
được mô tả bằng một vectơ trên cơ sở tính toán chỉ số phản ánh cơ cấu sản lượng của
từng ngành trong nền kinh tế (Moore, 1978; Trần Thọ Đạt và Lê Quang Cảnh,
2015).
Sự thay đổi trong cơ cấu GDP được xem là một trong những chỉ tiêu khái quát
nhất, phổ biến nhất để đo lường, đánh giá về tốc độ, trạng thái và xu hướng chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế. Trong quá trình đánh giá mức độ chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế, sự thay đổi trong cơ cấu GDP phân theo nhóm ngành kinh tế là chỉ
tiêu quan trọng phản ánh xu hướng vận động và mức độ thành công của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa (Bùi Tất Thắng, 2006). Trần Thọ Đạt và Ngô Quang Cảnh
(2015) tiến hành đo lường tốc độ chuyển dịch cơ cấu GDP trong một thời gian cụ
thể bằng hệ số cos , được tính theo công thức:
ϕ
Trong đó: Si(t0), Si(t1) là tỷ trọng của ngành i tại kỳ gốc và kỳ nghiên cứu, ϕ
được coi là góc hợp bởi hai vectơ cơ cấu S(t0) và S(t1), cos
ϕ
càng lớn thì các cơ cấu
càng gần nhau và ngược lại.
Thứ hai, Cơ cấu lao động: bên cạnh chỉ tiêu tốc độ chuyển dịch cơ cấu ngành

39
thông qua chuyển dịch cơ cấu GDP, thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
còn được đánh giá thông qua chỉ tiêu Cơ cấu lao động làm việc trong nền kinh tế.
Theo Kuznet (1961), De Vries và các cộng sự (2015), Diao và các cộng sự (2019),
cơ cấu lao động đang làm việc trong nền kinh tế chuyển dịch theo xu hướng có tính
quy luật. Cơ cấu tổng lao động xã hội phân theo nhóm ngành kinh tế chuyển dịch
theo hướng: tỷ trọng lao động nhóm ngành nông lâm, thủy sản trong tổng lao động
xã hội có xu hướng giảm xuống, ngược lại tỷ trọng lao động nhóm ngành công
nghiệp, xây dựng và dịch vụ có xu hướng tăng lên. Vũ Thị Thu Hương (2017) sử
dụng chỉ số Lilien mở rộng để đo lường chuyển dịch cơ cấu lao động nội ngành và
chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các ngành tại Việt Nam.
Thứ ba, sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thể hiện ở sự chuyển dịch của cơ
cấu hàng xuất khẩu. Theo đó, cơ cấu hàng xuất khẩu chuyển dịch theo xu hướng có
tính quy luật là tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nông, lâm thủy sản trong
tổng kim ngạch xuất khẩu có xu hướng giảm xuống, ngược lại tỷ trọng kim ngạch
xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp có xu hướng tăng lên. Ngoài ra, đối với nhiều
nước đang trong quá trình CNH, do tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia nhiều khi thấp hơn
tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế nên cơ cấu hàng xuất khẩu cũng là một tiêu chí tốt, để
đánh giá mức độ thành công của sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong quá
trình CNH, HĐH (Bùi Tất Thắng, 2006).
Thứ tư, chỉ tiêu tỷ trọng các ngành trong nền kinh tế, thể hiện tỷ trọng giá trị
gia tăng trong GDP của các ngành hay tỷ trọng của các ngành (nông nghiệp, công
nghiệp, dịch vụ) trong GDP. Tỷ lệ phần trăm GDP của các ngành thường là một
trong những tiêu chí đầu tiên được sử dụng để đánh giá quá trình chuyển dịch ngành
kinh tế. Cùng với xu thế phát triển của nền kinh tế, tỷ trọng các ngành công nghiệp,
nông nghiệp, dịch vụ trên GDP ở các quốc gia có sự thay đổi. Đối với các nước
đang phát triển, xu hướng chung là khu vực nông nghiệp có tỷ lệ ngày càng giảm,
khu vực phi nông nghiệp (công nghiệp và dịch vụ) ngày càng tăng lên. Đối với các
nước phát triển, khu vực dịch vụ đang chiếm tỷ trọng cao nhất trong GDP sau đó là
công nghiệp và nông nghiệp chiếm tỷ trọng thấp nhất. Phần lớn các nghiên cứu lấy
tỷ trọng các ngành trong nền kinh tế làm đại diện cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế
(Fisher, 1939; Kuznet và Murphy, 1966; Krüger, 2008; Ngoc và Hai, 2019).
2.2.3.Một số lý thuyết về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là xem xét sự thay đổi trong mối

40
quan hệ tác động qua lại giữa các ngành kinh tế về chất lượng và số lượng trong
từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Một số lý thuyết dưới đây góp phần lý giải
rõ hơn về cơ chế mối quan hệ giữa các ngành và sự dịch chuyển cơ cấu ngành kinh
tế.
Mô hình hai khu vực của Lewis (1954)
Mô hình hai khu vực cổ điển, Lewis (1954) phân tích mối quan hệ giữa khu
vực nông nghiệp và công nghiệp trong quá trình tăng trưởng. Theo đó, khu vực
nông nghiệp nông thôn truyền thống có hàm sản xuất là:
TP = f (L, K, T)
Trong đó, TP: Tổng sản phẩm nông nghiệp; L: Lao động; K: Vốn; T: Công
nghệ. Trong ngắn hạn, yếu tố đầu vào biến đổi là lao động (L) còn yếu tố cố định là
vốn (K) và công nghệ (T) (hình 2.1).
Hình 2.1. Đường sản xuất khu vực nông nghiệp
Nguồn: Lewis (1954)
Hình 2.1 cho thấy khi lao động trong khu vực nông nghiệp tăng từ 0 đến L2 thì
tổng sản phẩm của khu vực nông nghiệp cũng tăng dần từ 0 đến TP2. Và tại TP2
mức tổng sản phẩm đạt cực đại của khu vực nông nghiệp, và toàn bộ đất đã được
khai thác và sử dụng hết. Trong khi lượng lao động ngày càng tiếp tục tăng mà quỹ
đất đai trong nông nghiệp ngày càng trở nên khan hiếm, điều đó đã dẫn đến một hệ
quả là tình trạng dư thừa lao động trong khu vực nông nghiệp. Vì vậy, trong khu
vực nông nghiệp, lao động có thể giảm đi nhưng không làm ảnh hưởng đến tổng sản
phẩm nông nghiệp và sản phẩm biên của lao động bằng không.
Còn đối với khu vực công nghiệp đô thị hiện đại, Lewis cho rằng mức tiền
lương của khu vực này sẽ cao hơn mức tiền lương của khu vực nông nghiệp và để
có thể thu hút lao động dư thừa ở khu vực nông nghiệp sang thì mức lương phải cao

41
hơn 30% so với mức tối thiểu của khu vực nông nghiệp. Ban đầu vì tiền lương công
nhân công nghiệp trong ngắn hạn không đổi, tổng sản phẩm tăng làm cho lợi nhuận
của nhà sản xuất công nghiệp tăng, từ đó giúp gia tăng tích lũy vốn và thúc đẩy sử
dụng lợi nhuận có được để tiếp tục tái đầu tư sản xuất và mở rộng, thu hút thêm lao
động. Quá trình này cứ thế tiếp diễn cho đến khi thu hút hết lao động dư thừa và
điều này sẽ làm cho tiền lương phải cao hơn trước, dẫn đến sự suy giảm trong lợi
nhuận của lĩnh vực công nghiệp. Vì vậy, nhà sản xuất công nghiệp sẽ chọn yếu tố
khác thay thế cho lao động (công nghệ thâm dụng vốn), để mở rộng tổng sản phẩm
và tạo điều kiện cho quá trình tăng trưởng tiếp tục.
Như vậy, theo Lewis (1954) nền kinh tế tăng trưởng dựa trên sự phát triển của
khu vực công nghiệp thông qua quá trình tích lũy vốn từ lao động dư thừa của khu
vực nông nghiệp. Các nền kinh tế kém phát triển hoàn toàn có thể tự tạo tích lũy từ
nội bộ nền kinh tế của mình trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển. Do đó, để
thực hiện tăng trưởng nông nghiệp cần tăng sản lượng, mở rộng quy mô trên cơ sở
tăng năng suất lao động.
Mô hình về các giai đoạn tăng trưởng kinh tế của Rostow (1960)
Trong mô hình về các giai đoạn tăng trưởng, Rostow (1960) đã phân tích các
tác động, lực lượng thúc đẩy và chỉ ra các nét đặc trưng về cơ cấu ngành kinh tế, tỷ
lệ tích lũy trong dân cư, sự phát triển của các lĩnh vực kinh tế - xã hội trong từng
thời kỳ tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Theo đó, quá trình phát triển kinh tế
ấy được chia ra làm 5 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Xã hội truyền thống, đặc trưng là vai trò thống trị chủ chốt của
sản xuất nông nghiệp thuần túy, năng suất lao động thấp do sản xuất chủ yếu bằng
thủ công, công cụ lạc hậu, tích luỹ gần như bằng không; hoạt động xã hội kém linh
hoạt, sản xuất nông nghiệp mang tính tự cung, tự cấp. Mặc dù trong xã hội truyền
thống, việc khai hoang mở rộng diện tích đất canh tác, xây dựng hệ thống thủy lợi,
cộng với khả năng sáng tạo, cải tiến đột phá trong sản xuất như lai tạo ra giống cây
mới, đã mang lại sự gia tăng trong mức sản lượng, nhưng điều đó vẫn không có tác
động đáng kể đến tổng thể nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế trong thời kỳ này là cơ cấu
nông nghiệp thuần túy.
Giai đoạn 2: Chuẩn bị cất cánh với đặc trưng: (1) Sự xuất hiện và áp dụng
thành công những thành tựu tiến bộ về khoa học, kỹ thuật vào trong sản xuất nông
nghiệp; (2) Giáo dục được chú trọng, mở rộng và có những cải cách thay đổi phù
hợp với thời kỳ mới của sự phát triển; (3) Hoạt động tài chính ngân hàng được thúc

42
đầy và phát triển mạnh nhờ nhu cầu ngày càng tăng lên trong đầu tư và các tổ chức
huy động vốn xuất hiện, đáp ứng nhu cầu về vốn cho sản xuất; (4) Giao lưu trao đổi
hàng hóa, ngoại thương cũng đã tạo điều kiện cho ngành giao thông vận tải, thông
tin liên lạc phát triển. Thu nhập dân cư tăng lên và bắt đầu có tích luỹ. Tuy nhiên,
những hoạt động này vẫn chưa thoát khỏi những khuôn khổ của một nền kinh tế
mang tính xã hội truyền thống năng suất thấp. Cơ cấu ngành kinh tế giai đoạn này là
nông nghiệp - công nghiệp.
Giai đoạn 3: Giai đoạn cất cánh với đặc trưng: (1) Tỷ lệ đầu tư ít nhất đạt
10% thu nhập quốc dân (NNP); (2) Sự ra đời của các ngành kinh tế mũi nhọn,
những lĩnh vực công nghiệp, tiêu biểu là ngành công nghiệp chế tạo có tốc độ tăng
trưởng nhanh, mang lại hiệu quả cao, đóng vai trò như lĩnh vực đầu tàu; (3) xây
dựng bộ máy chính trị- xã hội ổn định và bền vững, tạo điều kiện phát huy tiềm
năng của các khu vực hiện đại, các mối quan hệ ngoại giao được đặc biệt chú trọng
và tăng cường. Từ đó, những tàn dư của xã hội truyền thống cũng dần bị đào thải và
loại bỏ, nền kinh tế khi bước vào giai đoạn này sẽ đạt được sự phát triển hiện đại và
ổn định. Cơ cấu kinh tế công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ.
Giai đoạn 4: Giai đoạn trưởng thành với đặc trưng: (1) Tỷ lệ đầu tư liên tục
tăng, chiếm khoảng 10-20% thu nhập quốc dân (NNP); (2) Thành tựu khoa học
công nghệ tiên tiến, hiện đại được sáng tạo, du nhập, ứng dụng trên toàn bộ các mặt
hoạt động kinh tế, trong tất cả mọi lĩnh vực; (3) Nhiều ngành công nghiệp mới, hiện
đại phát triển như hóa chất, luyện kim, điện,…; (4) Nông nghiệp được cơ giới hóa
tạo ra năng suất lao động cao hơn; (5) Nhu cầu xuất nhập khẩu tăng cao, tình hình
phát triển kinh tế trong nước hòa vào thị trường quốc tế; (6) Đời sống vật chất và
tinh thần của dân cư được cải thiện và nâng cao. Cơ cấu kinh tế trong giai đoạn này
là công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp.
Giai đoạn 5: Giai đoạn tiêu dùng cao với đặc trưng là thu nhập bình quân đầu
người tăng nhanh, đời sống của đại bộ phận dân cư được cải thiện, dẫn tới sự gia
tăng nhu cầu tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ chất lượng cao. Cơ cấu lao động thay
đổi theo hướng tăng tỷ lệ dân cư đô thị và lao động có tay nghề, có trình độ chuyên
môn cao. Bên cạnh đó, chính phủ cũng đưa ra những chính sách kinh tế hướng vào
phúc lợi xã hội thông qua việc phân phối lại thu nhập, tạo ra sự đồng đều về thu
nhập cho người dân. Cơ cấu ngành kinh tế giai đoạn này là dịch vụ - công nghiệp.
Theo lý thuyết của Rostow (1960), hầu hết các nước đang phát triển, đang

43
trong quá trình thực hiện CNH, HĐH nằm ở khoảng giai đoạn 2 và giai đoạn 3. Tại
các nước này, bước đầu hình thành những ngành công nghiệp chế biến giữ vai trò
quan trọng, có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Quá trình chuyển từ giai đoạn 2
sang giai đoạn 3 thường kéo theo sự thay đổi vai trò của những ngành mũi nhọn. Vì
vậy, trong chiến lược phát triển kinh tế gắn với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế,
các nước đang phát triển cần xây dựng thứ tự ưu tiên nhằm phát triển những ngành,
lĩnh vực có khả năng là đầu tàu trong từng giai đoạn.
Như vậy, có nhiều lý thuyết khác nhau về quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế. Tuy nhiên, phân tích những lý thuyết ở trên có thể thấy: chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế là một quá trình, hướng tới mục tiêu công nghiệp hoá tại mỗi quốc
gia. Muốn chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp cần tuần
tự: từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công - nông nghiệp để từ đó chuyển sang
nền kinh tế công nghiệp phát triển. Theo đó, tỷ trọng nông nghiệp có xu hướng
giảm đi trong khi tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng trong cả GDP và
lao động. Thực trạng ở các nước đang phát triển cho thấy cùng với việc thực hiện
công nghiệp hoá làm cho lực lượng sản xuất phát triển, với mục tiêu tăng trưởng
kinh tế, các nước này coi chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một trong những nội dung
quan trọng phản ánh chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế. Để tận dụng nguồn lực
vốn, công nghệ từ nước ngoài vào phát triển kinh tế, các nước cần có chính sách thu
hút FDI hiệu quả phù hợp với cơ cấu ngành kinh tế trong từng giai đoạn.
2.3.Một số vấn đề về tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến chuyển dịch
cơ cấu ngành kinh tế
2.3.1.Tác động của FDI đối với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đến sự chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế phụ thuộc vào nhiều yếu tố như đặc thù của ngành kinh tế, chính sách
đầu tư và quản lý đầu tư của chính phủ, khả năng hấp thụ công nghệ của đất nước
và các yếu tố khác… Dưới đây là một số tác động tích cực và tiêu cực mà FDI có
thể gây ra đối với sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
2.3.1.1.Tác động tích cực
Năng suất, sự đổi mới và sự cạnh tranh là những yếu tố rất quan trọng trong
sự phát triển của một nền kinh tế. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, các ngành
kinh tế của một quốc gia có thể thiếu hụt những yếu tố này. Đó là lúc mà FDI có thể
giúp đỡ, bằng cách cung cấp vốn, công nghệ, kinh nghiệm và khả năng quản lý hiệu

44
quả cho các doanh nghiệp địa phương. Vì vậy, FDI có thể giúp tăng cường năng
suất và sự đổi mới của các doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế của một quốc gia.
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), FDI có thể giúp tăng
cường năng suất, tăng cường sự đổi mới và tăng cường khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp trong một nền kinh tế. Các doanh nghiệp nhận được FDI có thể tiếp
cận được công nghệ mới, tăng cường khả năng sản xuất, tăng cường năng lực quản
lý và nâng cao kỹ năng của nhân viên. Ngoài ra, các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài còn có thể tiếp cận được thị trường quốc tế và khách hàng mới, giúp
tăng cường doanh số bán hàng và lợi nhuận. Điều này có thể dẫn đến sự chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế, khi các ngành có năng suất cao hơn sẽ phát triển và
chiếm ưu thế hơn trong kinh tế.
Một nghiên cứu của Đại học Columbia cũng chỉ ra rằng FDI có thể giúp cải
thiện cơ cấu ngành kinh tế của một quốc gia bằng cách tăng cường năng suất của
các doanh nghiệp trong các ngành có tiềm năng phát triển. Nghiên cứu này cũng
cho thấy rằng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường có hiệu suất lao
động cao.
Một báo cáo của Ngân hàng Thế giới cũng chỉ ra rằng FDI có thể giúp thúc
đẩy sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của một quốc gia bằng cách cung cấp vốn,
công nghệ, kinh nghiệm và khả năng quản lý hiệu quả cho các doanh nghiệp địa
phương. Điều này có thể giúp các doanh nghiệp này tăng cường sự cạnh tranh và
phát triển các sản phẩm và dịch vụ có giá trị gia tăng cao.
Ngoài ra, việc tăng cường năng lực sản xuất cũng giúp cho quốc gia đẩy
mạnh hoạt động xuất khẩu và giúp ngành kinh tế phát triển. Việc thúc đẩy sự
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế cũng có thể tạo ra những lợi ích kinh tế và xã hội
dài hạn như tăng trưởng kinh tế, giảm nghèo và cải thiện môi trường kinh doanh.
2.3.1.2.Tác động tiêu cực
FDI có thể mang lại nhiều lợi ích cho các nước đón nhận, bao gồm cải thiện
công nghệ, tăng trưởng kinh tế và tạo ra nhiều cơ hội việc làm. Tuy nhiên, FDI cũng
có thể gây ra những tác động tiêu cực đối với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Thứ nhất, Thay thế đối với sản phẩm và dịch vụ nội địa: Các công ty nước ngoài
thường nhập khẩu nguyên liệu và thiết bị từ quốc gia của mình, giảm nhu cầu mua
hàng và sử dụng sản phẩm và dịch vụ nội địa. Điều này có thể làm giảm khối lượng

45
kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước, gây tổn thất cho ngành công nghiệp
nội địa.
Thứ hai, Thay đổi cơ cấu nghề nghiệp: FDI có thể làm thay đổi cơ cấu nghề
nghiệp trong nước, do đó, tác động đến việc tìm kiếm việc làm của một số người lao
động. Những người làm việc trong các ngành nghề bị thay đổi có thể phải tìm kiếm
công việc khác hoặc học tập lại để phù hợp với thị trường lao động mới.
Thứ ba, Tăng cường cạnh tranh: Các công ty nước ngoài có thể mang lại sự
cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và
vừa. Các công ty nước ngoài thường có kinh nghiệm và tài nguyên lớn hơn, điều
này có thể làm cho các doanh nghiệp trong nước khó có thể cạnh tranh được, gây ra
áp lực lên các doanh nghiệp trong nước.
Thứ tư, Gây mất đối xứng trong cơ cấu ngành: FDI có thể tập trung ở một số
ngành kinh tế nhất định, gây ra sự bất đối xứng trong cơ cấu ngành kinh tế và gây ra
các vấn đề về an ninh lương thực và an ninh năng lượng.
Thứ năm, sự phát triển ngành không theo định hướng: Các nhà đầu tư nước
ngoài có thể ưu tiên đầu tư vào các ngành kinh tế có tiềm năng sinh lợi cao hơn,
nhưng không nhất thiết phải là các ngành kinh tế mà đất nước đang cần phát triển.
Ngoài ra, nếu quản lý đầu tư không tốt, FDI có thể gây ra những tác động
xấu đến môi trường, sức khỏe và tình hình lao động.
Tóm lại, tác động của FDI đến sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phụ
thuộc vào nhiều yếu tố và không phải lúc nào cũng tích cực hoàn toàn hoặc tiêu cực
hoàn toàn. Chính phủ cần có chính sách đầu tư phù hợp để tận dụng tối đa lợi
2.3.2.Lý thuyết về tác động của FDI đối với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Trong mô hình tăng trưởng kinh tế của Solow (1957), quy luật lợi nhuận giảm
dần của vốn, hàm chứa một sự hội tụ của tỷ lệ vốn/lao động đến một giá trị nhất
định, khi đó, nếu có gia tăng vốn thì không thể tăng thu nhập bình quân đầu người.
Tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người có thể được thực hiện bằng cách tăng
TFP. TFP được giả định là ngoại sinh và tăng với một tốc độ không đổi (tức là nếu
At là TFP tại thời gian t, với giả định là At = A0e
gt
, trong đó g và A0 là hằng số). Tỷ
lệ trạng thái ổn định khi đó được xác định bằng (1) tỷ lệ tăng trưởng của lực lượng
lao động và giả định là tăng trưởng với một tốc độ không đổi, do đó trong các kiểm
nghiệm của mô hình, nó được suy ra từ sự tăng trưởng thực tế của lực lượng lao

46
động, (2) tỷ lệ tiết kiệm trong nền kinh tế (tức là tỷ lệ phần trăm sản lượng hàng
năm được chuyển đổi thành vốn ở hầu hết các phiên bản của mô hình, trong đó giả
định nền kinh tế đóng cửa), (3) tỷ lệ tăng TFP và tỷ lệ khấu hao của tổng vốn tích
lũy, thường được giả định là hằng số  chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số vốn hiện
hành.
Cụ thể, nếu vốn tích lũy tại thời điểm t là Kt và dKt/dt = sYt - Kt, trong đó Yt là
thu nhập tại thời gian t và s là tỷ lệ tiết kiệm. Yt được xác định bởi một hàm sản
xuất Cobb - Douglas có dạng Yt= Ktα (AtLt)1 - α (0 <α<1). Trong đó, y và k là thu
nhập và vốn tích lũy được chuẩn hóa bởi số lượng lao động hiệu quả (tức là không
phụ thuộc vào thời gian, y = Y/AL và k = K/AL), do đó:
dk/dt = sy - (n + g + )k = skα - (n + g + )k (1)
Với dk/dt  0, nghĩa là: skα- (n + g + )k  0 hoặc k đạt đến một giá trị ổn
1/(1-α)
định: k* = [s/(n + g + )].
Nếu tỷ lệ vốn hiện hành trên lao động thấp hơn tỷ lệ ổn định, vốn được tăng
cường, tạo ra tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người cho đến khi tỷ lệ vốn trên
lao động đạt giá trị ổn định, lúc này tăng trưởng sẽ đạt đến trạng thái ổn định.
Mankiw và các cộng sự (1992) kiểm tra mô hình cơ bản của Solow trên nhiều
mẫu ở các nước và đưa ra nhận định trái với sự mong đợi của một số nhà kinh tế
học, liệu tốc độ tăng TFP ở tất cả các nước có giống nhau hay không? đây là một
nội dung mấu chốt trong mô hình. Thực tế cho thấy, mức tăng TFP không giống
nhau giữa các quốc gia, mà có sự khác biệt, điều này được chứng minh trong mô
hình của Solow. Mô hình này phát hiện rằng, nếu một quốc gia có TFP ban đầu thấp
hơn quốc gia khác phải ở lại phía sau. Bởi vì, công nghệ là ngoại sinh, các mô hình
đã hạn chế khả năng một quốc gia có thể tăng tốc độ bằng năng lực nội tại, sản xuất
công nghệ mới để vượt lên các nước đi trước về công nghệ, điều này dẫn tới nhiều
lời chỉ trích mô hình. Mankiw và các cộng sự (1992) cho rằng không có gì cụ thể về
kỹ thuật trong mô hình Solow để ngăn cản hai nước khác nhau hội tụ vào hai quỹ
đạo tăng trưởng khác nhau, khả năng này dường như vi phạm các quan điểm cho
rằng thay đổi công nghệ là ngoại sinh. Tuy nhiên, đây không phải là một chủ đề mà
đề tài muốn đề cập ở đây. Điểm mấu chốt là mô hình Solow phù hợp nếu cho phép
các quốc gia hội tụ theo những con đường tăng trưởng khác nhau, với dữ liệu khá
tốt.
Mặt khác, Mankiw và các cộng sự (1992) đã tìm thấy khuyết tật trong mô hình
Solow, do mô hình được xây dựng trên hàm sản xuất Cobb - Douglas, α được xác
định là hệ số co dãn của thu nhập theo vốn, đây là hàm tuyến tính đồng nhất, vốn

47
phải được quy về sản phẩm cận biên và α cũng bằng với phần của vốn trong tổng
thu nhập. Hệ thống tài khoản thu nhập quốc gia cho thấy rằng phần này ở các nền
kinh tế phát triển là khoảng 0,35 nhưng nếu giá trị của α là không bị giới hạn trong
các hồi quy với số liệu chéo được thực hiện bởi Mankiw và các cộng sự (1992), thì
α được ước lượng là 0,6. Do đó, họ kết luận rằng, vì những giá trị mập mờ của hệ số
này, mô hình Solow không đủ cơ sở để giải thích sự biến động mức tăng trưởng thu
nhập thực tế bình quân đầu người giữa các quốc gia bất chấp hệ số này có ý nghĩa
về mặt thống kê. Sau đó họ khuyến cáo rằng, nếu mô hình được bổ sung biến số vốn
con người, khả năng giải thích của mô hình tăng lên rất nhiều. Hàm sản xuất sau khi
gia cố có dạng như sau:
Y = K

H

(AL)
1

-



-


(, > 0; 0 < + <1) (2)
Trong đó: H là vốn con người, chủ yếu đầu tư vào giáo dục. Các động lực
của tăng trưởng bị chi phối bởi hai phương trình vi phân tương tự như mô hình
Solow nhưng giờ đây giải thích được sự phát triển đồng thời của vốn con người
và vốn vật chất:
dk/dt = sky - (n + g + ) k (3)
dh/dt = shy - (n + g + ) h (4)
Trong đó, các chữ cái viết thường chỉ biến số cho mỗi lao động hiệu quả (h =
H/AL). Các hệ số sk và sh tương ứng phần thu nhập hiện hành đang đầu tư vào vốn
vật chất và vốn con người. Ngầm định trong các phương trình trên vốn con người và
vốn vật chất được khấu hao với cùng tỷ lệ .
Hai phương trình vi phân hàm ý sự hội tụ của dk/dt và dh/dt tiến tới 0, có
nghĩa là sự hội tụ của k và h tới các giá trị cân bằng k* và h* được xác định:
k* = [sk
1-
sh

/(n + g + )]
1/(1--)
h* = [sk

sh
1-
/(n + g + )]
1/(1--)
Hội tụ này được xác định bởi phương trình:
ln(Yt/Lt)=lnA0+gt+[/(1-)]lnsk-[/(1-)]ln(n+g+)+[/(1-)]lnh* (5)
Vế trái trong phương trình (5) là thu nhập bình quân đầu người lao động tại
thời điểm t tương quan dương với năng suất yếu tố tổng hợp ban đầu A0, tốc độ
tăng trưởng của TFPg, tỷ lệ tiết kiệm và vốn con người.
Thu nhập bị ảnh hưởng tiêu cực bởi tốc độ tăng trưởng dân số, tốc độ tăng

48
trưởng TFP và tỷ lệ khấu hao. Mankiw và các cộng sự (1992) chứng tỏ cho thấy
một mô hình như vậy, khi kiểm tra bằng thực chứng đã giải thích sự thay đổi tăng
trưởng thu nhập thực tế đầu người của các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia thu
nhập cao thuộc OECD và giá trị của α phù hợp với phần thu nhập của vốn. Họ tiếp
tục cho thấy sự hội tụ đến cân bằng chậm hơn nhiều trong mô hình này so với mô
hình Solow nguyên thủy. Mô hình không dự đoán rằng tất cả các nước hội tụ về
cùng một sự cân bằng, mà mỗi nước sẽ đạt trạng thái ổn định được xác định bằng
cách tích lũy vốn vật chất và vốn con người, cũng như sự tăng dân số. Hội tụ này
xấp xỉ:
lnyt =(1- e
-t
) lny* + e
-t
lny0 (6)
Trong đó  là tốc độ hội tụ,  = (n + g + )/(1 -  - ). Thay y* và trừ
lny0 cho cả hai vế của phương trình (6), ta thu được:
lnyt - lny0 =[(1- e
-t
)][lnsk+lnsh - ( +)ln(n+g+)]-(1- e
-t
)lny0
(7)
Viết lại mô hình trên dưới dạng mô hình kinh tế lượng cho tăng trưởng kinh tế
ngành như sau:
lnyit – lnyi0 = C – (1-e
-t
)lnyi0 + xit + eit (8)
Trong đó, yit là GDP ngành i năm t, yi0 là GDP ngành i năm gốc, C là hằng số
của tất cả các ngành, xit là véc tơ các biến giải thích khác, eit là sai số. Theo mô hình
của Mankiw và các cộng sự (1992), xit bao gồm tốc độ tăng dân số, tỷ lệ tiết kiệm,
tỷ lệ khấu hao, tỷ lệ đầu tư trên GDP. Một nghiên cứu khác (Dayal-Gulati và
Husain, 2002) sử dụng các biến như: tỷ trọng của doanh nghiệp nhà nước trong sản
lượng công nghiệp, tỷ trọng của khu vực FDI trong GDP, tỷ lệ thu công/chi tiêu
công và tỷ lệ cho vay ngân hàng/dư nợ.
Biến đổi mô hình (8) thành mô hình về cơ cấu ngành kinh tế như sau: Gọi Y là
GDP của địa phương năm t, trừ hai vế của phương trình (8) cho lnYt, ta có thu được
phương trình (9) và biến đổi tương đương ta thu được phương trình (10, 11):
lnyit – lnyi0 - lnYt= C – (1-e
-t
)lnyi0 - lnYt+ xit + eit (9)
<=> lnyit - lnYt= C + e
-t
lnyi0 - lnYt+ xit + eit (10)
<=> ln (yit/Yt) = C + e
-t
lnyi0 - lnYt+ xit + eit (11)
Về mặt lý thuyết, FDI đóng góp vai trò quan trọng trong thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư. Theo lý thuyết tăng
trưởng kinh tế, tăng trưởng kinh tế không chỉ đến từ sự tăng tổng số đầu vào của các
yếu tố sản xuất như vốn và lao động mà còn đến từ các nguồn tái cấu trúc lại các
yếu tố sản xuất trong các ngành khác nhau, tức là thay đổi cấu trúc tác động quan
trọng đến

49
tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển. Vì vậy, sự đóng góp của đầu tư
trực tiếp nước ngoài cho sự tăng trưởng kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư không
giới hạn hiệu quả vốn và chuyển giao công nghệ hiệu quả, mà còn có thể thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế cũng như thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước tiếp
nhận đầu tư.
Theo lý thuyết tăng trưởng kinh tế mới, tiến bộ công nghệ là nguồn gốc của
tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Trong khuôn khổ nghiên cứu của lý thuyết tăng
trưởng kinh tế mới, FDI có nhiều cơ chế ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Theo
phân tích của UNCTAD (1996), FDI có tác động sâu rộng đến nước tiếp nhận đầu
tư từ các khía cạnh của vốn, công nghệ, vốn con người, thương mại và môi trường
tự nhiên. Quan trọng hơn, FDI đã trở thành một nguồn chính của những thay đổi
công nghệ ở các nước đang phát triển. FDI từ các công ty đa quốc gia có thể chuyển
giao các công nghệ tiên tiến, quản lý và kinh nghiệm tiếp thị cho các nước đang
phát triển, do đó nâng cao hiệu quả sản xuất và yếu tố năng suất cho các doanh
nghiệp trong nước. Đồng thời, công nghệ tiến bộ cũng có một vị trí quan trọng
trong số các yếu tố có thể ảnh hưởng đến điều chỉnh cơ cấu kinh tế ngành của một
quốc gia. Thay đổi cơ cấu kinh tế ngành do tiến độ công nghệ được coi là con
đường ổn định và hiệu quả nhất.
Đối với các nước đang phát triển, bên cạnh việc bổ sung vốn, FDI góp phần
phát triển công nghệ tại nước tiếp nhận đầu tư, song song với cơ cấu ngành kinh tế
chuyển dịch sẽ thúc đẩy quá trình đô thị hoá và chuyển dịch cơ cấu lao động. Lý
thuyết lợi thế cạnh tranh giải thích hiện tuợng thương mại giữa các quốc gia, FDI
góp phần phát triển công nghệ tại nước tiếp nhận đầu tư, song song với cơ cấu
ngành kinh tế chuyển dịch sẽ thúc đẩy quá trình đô thị hoá và chuyển dịch cơ cấu
lao động. Lý thuyết lợi thế cạnh tranh giải thích hiện tượng thương mại giữa các
quốc gia và sau đó được áp dụng để giải thích hoạt động đầu tư quốc tế. Theo nội
dung của lý thuyết này, tất cả các nước có lợi thế so sánh về các yếu tố đầu tư (vốn,
lao động, công nghệ), đặc biệt là giữa các nước phát triển và đang phát triển, FDI sẽ
mang lại lợi ích cho cả hai bên, ngay cả khi một trong hai nước có thể sản xuất tất
cả các hàng hóa rẻ hơn khác. Mặc dù mỗi quốc gia có thể có năng suất cao hơn hoặc
thấp hơn so với các quốc gia khác, mỗi quốc gia vẫn có một lợi thể nhất định về các
điều kiện sản xuất khác. Lý thuyết này về FDI sẽ tạo điều kiện cho các quốc gia
phân bổ lao động hiệu quả hơn. Các công ty đa quốc gia (MNCs) từ các nước phát
triển đánh giá tiểm lực và thế mạnh của từng nước đang phát triển nhằm xây dựng

50
chuỗi giá trị phù hợp. Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh để giải thích thương mại hàng
hóa giữa các quốc gia và sau này được áp dụng để giải thích đầu tư quốc tế. Theo
nội dung của lý thuyết này, tất cả các quốc gia đều có lợi thế so sánh về các yếu tố
đầu tư (vốn, lao động, công nghệ), đặc biệt giữa các quốc gia phát triển và đang
phát triển, FDI sẽ mang lại lợi ích cho cả hai bên ngay cả khi một quốc gia có thể
sản xuất tất cả các hàng hóa rẻ hơn nước kia. Mặc dù mỗi quốc gia có thể có năng
suất cao hơn hoặc thấp hơn các quốc gia khác, nhưng mỗi quốc gia vẫn có lợi thế
nhất định về các điều kiện sản xuất khác. Lý thuyết về FDI này sẽ tạo điều kiện cho
các quốc gia chuyên môn hóa và phân bổ lao động hiệu quả hơn thay vì chỉ dựa vào
sản xuất trong nước. Ví dụ, các công ty đa quốc gia (MNCs) từ các nước phát triển
xem xét kỹ lưỡng tiềm năng và thế mạnh của các nước đang phát triển để tham gia
vào dây chuyền sản xuất tại một nước đang phát triển phù hợp.
Nhiệm vụ này thường thích hợp cho nhiều lĩnh vực sản xuất, đòi hỏi các cấp
độ khác nhau của kỹ thuật. Dưới sự kiểm soát của các công ty mẹ, các sản phẩm
này sẽ được nhập khẩu hoặc xuất khẩu trong các MNCs hoặc tập hợp ở một quốc
gia cụ thể để lắp ráp sản phẩm hoàn thiện phục vụ xuất khẩu hoặc tiêu thụ. Như
vậy, thông qua các hình thức dầu tư trực tiếp, các công ty MNCs đã tham gia vào
việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế ở các nước đang phát triển. Lý thuyết cơ cấu kinh tế
mà Veselovsky và các cộng sự (2017) đã phân tích và giải thích rõ vai trò của FDI
trong quá trình thay đổi cơ cấu kinh tế, đặc biệt là cơ cấu của các ngành công
nghiệp ở các nước đang phát triển. FDI được xem là một kênh quan trọng về tính di
động, chuyển giao công nghệ và phát triển mạng lưới phân phối... cho các nước
đang phát triển. Điều này không chỉ cung cấp các cơ hội để nhận đuợc vốn, công
nghệ và kinh nghiệm quản lý cho quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa, mà còn
giúp các nước đang phát triển để tận dụng lợi thế và điều chỉnh cơ cấu kinh tế phù
hợp. Đây là một yếu tố quan trọng trong việc tăng tỷ lệ công nghiệp và giảm tỷ lệ
các ngành công nghiệp truyền thống (nông nghiệp, khai thác mỏ).
Mô hình “Đàn nhạn bay" (flying geese paradigm - FGP) được giới thiệu bởi
Akamatsu (1962) đã chỉ ra tầm quan trọng của các yếu tố sản xuất trong các giai
đoạn phát triển sản phẩm đã dẫn đến sự thay đổi lợi thế của các ngành. Các nước
phát triển luôn có nhu cần phải thay đổi các ngành công nghiệp lạc hậu của họ, song
họ luôn muốn kéo dài vòng đời của sản phẩm để tận dụng công nghệ họ có. Bên
cạnh đó, các nước công nghiệp mới (NICS) cũng có nhu cần phải thay đổi công

51
nghệ và các sản phẩm đã bị mất lợi thế so sánh với các nước đang phát triển. Điều
đó làm cho quá trình chuyển giao công nghệ trên thế giới có dạng "sếu bay", có
nghĩa là các quốc gia phát triển chuyển giao công nghệ, thiết bị cho các nước phát
triển hoặc NICS. Lần lượt, các quốc gia này sẽ chuyển đầu tư của họ cho các nước
đang phát triển hoặc các nước kém phát triển. Ngoài ra, mối quan hệ giữa FDI trong
sự phát triển của các ngành kinh tế, khu vực kinh tế và các lĩnh vực chỉ ra tầm quan
trọng của các yếu tố sản xuất trong các giai đoạn phát triển sản phẩm đã dẫn đến sự
thay đổi lợi thế của các ngành.
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là sự phân bổ lại hiệu quả các nguồn lực
giữa các ngành trong nền kinh tế, là đặc điểm nổi bật của tăng trưởng kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
và nâng cao năng suất lao động. Kỳ vọng của động lực thay đổi cơ cấu là sự chuyển
dịch liên tục của các yếu tố đầu vào từ các ngành có năng suất thấp sang các ngành
có năng suất cao làm nâng cao năng suất của toàn bộ nền kinh tế. Các yếu tố có ảnh
hưởng đến sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của một quốc gia, một địa phương
như trình độ khoa học, công nghệ, lao động, thể chế môi trường và chính sách,
nguồn lực và lợi thế so sánh của quốc gia, địa phương, mức độ hội nhập của nền
kinh tế ... Ngoài ra, nhu cầu vốn đầu tư cũng là một yếu tố không thể thiếu, đặc biệt
là vốn nước ngoài. Mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và quá trình
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế được tìm thấy trong cả nghiên cứu học thuật và
ứng dụng thực tiễn.
2.4.Cơ sở thực tiễn của chủ đề nghiên cứu – Lợi thế và khó khăn của Vùng
Đồng bằng sông Cửu Long trong thu hút FDI và trong chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế.
Đồng bằng sông Cửu Long là một khu vực khá đặc thù với những điều kiện
khác nhau ảnh hưởng đến sự tác động của FDI đến quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của Vùng.
2.4.1.Thuận lợi
Đồng bằng sông Cửu Long là phần hạ du của sông Mê Công, là một đồng
bằng tương đối trẻ, thấp và bằng phẳng, được kiến tạo bởi cả yếu tố sông và biển,
nên mang nét đặc thù của cả hai yếu tố này. Về cơ bản, toàn bộ hệ thống tự nhiên
của vùng đồng bằng, bao gồm địa hình, thổ nhưỡng, sinh thái ... đều gắn liền với
yếu tố nước, đặc biệt là sự vận hành đặc thù của yếu tố này.

52
Hình 2.1. Các đơn vị hành chính thuộc Đồng bằng sông Cửu Long
Nguồn: Trung tâm xúc tiến đầu tư – thương mại và hội chợ triển lãm Cần Thơ
ĐBSCL có vị trí như 1 bán đảo nhỏ 3 mặt tiếp giáp với biển đó là mặt Đông –
Nam – Tây Nam. Phía Tây đường biên giới giáp Campuchia, phía Bắc giáp vùng
kinh tế Đông Nam bộ, với địa hình bằng phẳng, mạng lưới sông ngòi dày đặc thuận
lợi cho giao thông đường thủy. Các tỉnh ĐBSCL bao gồm Thành phố Cần Thơ
(thành phố trực thuộc trung ương, được coi là hạt nhân của vùng Đồng Bằng Sông
Cửu Long), Long An, Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà
Vinh, Hậu Giang, Kiên Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau (Hình 2.1).
Khu vực ĐBSCL là một trong những vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi để
phát triển nông nghiệp và các ngành kinh tế liên quan đến nó. Điều này tạo ra
nhiều cơ hội để thu hút FDI vào khu vực này. Một trong những thuận lợi của nơi
đây là đất đai phong phú và màu mỡ, rất thích hợp cho các hoạt động nông nghiệp
và sản xuất thực phẩm. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê Việt Nam (2020),
tỉnh An Giang là một trong những tỉnh có sản lượng lúa gạo, cá tra, và dưa hấu lớn
nhất cả nước. Điều này đã thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài
muốn tham gia vào các hoạt động sản xuất nông nghiệp và chế biến thực phẩm.
Ngoài ra, Đồng bằng sông Cửu Long có một mạng lưới sông ngòi phong phú, cung
cấp nguồn nước tưới tiêu cho các vườn cây trồng và ao nuôi cá. Điều này là một
lợi thế lớn cho các nhà đầu tư muốn đầu tư vào các ngành nông nghiệp, nuôi trồng
thủy sản, và chế biến thực phẩm. Bên cạnh đó, khu vực này cũng có nhiều cảng

53
biển, thuận lợi cho các hoạt động vận chuyển và xuất khẩu hàng hóa. Theo báo cáo
của Tổng cục Hải quan Việt Nam (2021), các cảng biển tại khu vực Đồng bằng
sông Cửu Long đã xếp hạng thứ hai trong số các cảng biển Việt Nam về lượng
hàng hóa xuất khẩu, đặc biệt là các mặt hàng nông sản và thủy sản.
Bên cạnh yếu tố tự nhiên, theo đánh giá của VCCI Cần Thơ, thế mạnh của
ĐBSCL trong thu hút FDI còn có thể kể đến: thế mạnh về nguyên liệu; lực lượng
lao động dồi dào; thị trường có sức mua lớn; nguồn lực dồi dào và thích ứng nhanh
với sự đổi mới; sự bùng nổ của ngành nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản;…
Nhìn chung, các thuận lợi tự nhiên, kinh tế xã hội, với tiềm năng nông
nghiệp, cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật được cải thiện dần và những nỗ lực cải thiện
môi trường đầu tư kinh doanh của các địa phương, đã góp phần tạo ra nhiều cơ hội
đầu tư cho các nhà đầu tư nước ngoài và giúp thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của vùng theo hướng hiện đại.
2.4.2.Khó khăn
Đồng bằng sông Cửu Long chiếm 19% dân số cả nước nhưng chỉ góp 12%
GRDP. GRDP bình quân đầu người năm 2019 đạt 51,3 triệu đồng, thấp hơn 18%
so với trung bình cả nước là 62,7 triệu đồng (Tổng cục thống kê, 2019). Trong giai
đoạn 2013-2018, GRDP thực tế của ĐBSCL tăng trung bình khoảng 6% mỗi năm,
thấp hơn so với bình quân cả nước là 6,6% (Tổng cục thống kê, 2019). Lý do cho
việc tụt hậu về kinh tế này được đánh giá là do tỷ trọng ngành nông lâm ngư
trong vùng vẫn giữ ở mức cao, trong khi các vùng khác đã chuyển đổi nhanh
hơn sang công nghiệp hoá, đô thị hoá, với tăng trưởng nhanh về thương mại
dịch vụ. Năng suất lao động trong ngành nông nghiệp nhìn chung thấp hơn đáng
kể so với ngành công nghiệp. Năm 2019 tỷ trọng của các ngành nông lâm, ngư
nghiệp trong cơ cấu GRDP vùng ĐBSCL ở mức cao (28,9%) so với trung bình
cả nước là 14,7% trong khi tỷ trọng ngành công nghiệp và xây dựng thấp (tỷ
trọng ngành này trong GRDP vùng là 25,7% so với bình quân cả nước là
34,2%) (hình 2.2). Mặt khác, dù điều kiện thiên nhiên ưu đãi, song phương thức
sản xuất nông nghiệp vùng ĐBSCL vẫn chủ yếu phụ thuộc nhiều vào khai thác
tự nhiên, nguồn lực này ngày một giảm sút. Đặc biệt năng suất thấp do các hộ
nông dân nhỏ lẻ vẫn chiếm đa số.

54
Hình 2.2. Tỷ trọng các ngành trong cơ cấu GRDP năm 2019
Nguồn: Niên giám thống kê (2019)
Kinh tế của các tỉnh trong Vùng có sự khác biệt, chẳng hạn Long An, Cần
Thơ, Kiên Giang và Tiền Giang có tỷ trọng GRDP cao trong toàn vùng (hình 2.3).
Điển hình, năm 2019, ngành công nghiệp và xây dựng ở Long An và thành phố Cần
Thơ phát triển nhất (chiếm 47,5% và 32,6% GRDP toàn tỉnh) và ngành nông nghiệp
nhỏ nhất (chiếm 8,2% và 17,3%). Ngược lại, Sóc Trăng là tỉnh thuần nông và có
trình độ công nghiệp hóa thấp nhất trong tất cả các tỉnh, trong đó ngành nông lâm,
ngư nghiệp chiếm 40,5% và ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 13,8% GRDP
toàn tỉnh.
Hình 2.3. Cơ cấu GRDP vùng ĐBSCL theo tỉnh năm 2019
Nguồn: Niên giám thống kê (2019)

55
GRDP bình quân đầu người của các tỉnh có sự phân hóa, trong đó thu nhập ở
Cần Thơ (ở mức 70,4 triệu đồng năm 2019) gần gấp đôi so với Bến Tre (ở mức 40,4
triệu đồng) (hình 2.4). GRDP của tỉnh Hậu Giang thấp hơn 1/3 so với GRDP tỉnh
Long An. Các tỉnh có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất (Cần Thơ, Long An) có nền
kinh tế công nghiệp hóa và tốc độ tăng trưởng dân số cao. Ngược lại, hai tỉnh có tốc
độ tăng trưởng thấp nhất (Bến Tre và Sóc Trăng) có ngành nông, lâm nghiệp và
thủy sản chiếm ưu thế và tăng trưởng dân số chậm. Trên toàn vùng, thu nhập ở khu
vực nông thôn thấp hơn từ 6,1% đến 43,6% so với khu vực thành thị.
Hình 2.4. GRDP đầu người và tỷ trọng ngành công nghiệp ở ĐBSCL 2018
Nguồn: Niên giám thống kê (2019)
Với chiến lược phát triển Vùng đã xác định công nghiệp và đô thị là động
lực cho phát triển kinh tế, các quy hoạch vùng và tỉnh đều đặt ra các chỉ tiêu tăng
trưởng công nghiệp và đô thị hoá cao. Tuy nhiên, làm thế nào để thực hiện các
chỉ tiêu này lại là vấn đề khó khăn. Các địa phương đều xác định lĩnh vực chế
biến nông sản và thủy sản để xuất khẩu là một hướng để tăng công nghiệp hoá,
nhưng không đưa ra các biện pháp cụ thể để đạt chỉ tiêu tăng trưởng đề ra. Quy
hoạch cơ sở hạ tầng công nghiệp vùng dự kiến phát triển những khu kinh tế biển rất
lớn như khu Định An, Năm Căn, một loạt khu kinh tế cửa khẩu, mở rộng thêm các
khu công nghiệp cấp tỉnh (với chỉ tiêu là 24.000 ha vào năm 2030) nhưng không đi
kèm các giải pháp khắc phục tỷ lệ lấp đầy thấp như hiện nay (Tổ chuyên gia đánh
giá môi trường chiến lược, 2020).
Bên cạnh đó, sản xuất năng lượng được coi là một lĩnh vực công nghiệp có

56
tiềm năng ở vùng ĐBSCL. Vùng ĐBSCL được xác định là vùng cung cấp năng
lượng cho nội vùng cũng như cho vùng miền Đông và TP. HCM. Việc tập trung
vào sản xuất điện than ở ĐBSCL hiện nay và kế hoạch mở rộng lĩnh vực điện
than (14 nhà máy điện than với tổng công suất 18,3 GW sẽ được phát triển trong
giai đoạn từ nay đến năm 2030), có thể làm thay đổi đáng kể tỷ trọng công
nghiệp của vùng và một số tỉnh, nhưng sẽ góp thêm tác động tiêu cực đến môi
trường và biến đổi khí hậu toàn cầu (Tổ chuyên gia đánh giá môi trường chiến
lược, 2020). Các quy hoạch quốc gia có đề cập đến năng lượng sạch và các chỉ
tiêu về năng lượng tái tạo, nhưng không đưa ra được các đề xuất dự án năng
lượng tái tạo thực tế và rõ ràng. Tuy nhiên, các nhà máy điện mặt trời và điện
gió cũng đã được phát triển, và đã được hoàn thành vào cuối năm 2021.
Ngoài ra, sản xuất nông nghiệp hiện nay chưa phát huy được hết tiềm năng
của thiên nhiên, do quá tập trung vào trồng lúa, nhất là trồng lúa 3 vụ. Các chuỗi
giá trị chưa được hình thành và phát huy tác dụng nên hiệu quả sản xuất, kinh doanh
hạn chế, sản phẩm chủ yếu còn ở dạng nguyên liệu qua sơ chế, giá trị gia tăng thấp.
Nếu so sánh hiệu suất đầu tư/đầu người của vùng so với các vùng khác qua các giai
đoạn, thì thấy ít có khác biệt, song số công trình được đánh giá hiệu quả là không
cao, chưa tính đầy đủ đến các yếu tố biến đổi khí hậu, nước biển dâng … đầu tư dàn
trải dẫn đến mật độ kinh tế thấp. Một số tỉnh có GRDP tăng nhanh trong ngắn hạn
nhờ tăng vốn đầu tư công, nhưng sau đó, bị giảm nhanh trở lại, do nhiều dự án
không hiệu quả.
Trong xu hướng quốc tế hóa, toàn cầu hóa hiện nay, đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) là hình thức hoạt động kinh doanh không thể thiếu và đóng vai trò quan
trọng trong sự phát triển và hội nhập của các quốc gia trên thế giới; hơn nữa, đây
được xem là nguồn vốn quan trọng thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa
của các nước đang phát triển. Việt Nam với điều kiện tự nhiên thuận lợi, kinh tế - xã
hội phát triển tốt và môi trường chính trị ổn định, được xem là một trong những địa
điểm hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, trong những giai đoạn
tiếp theo, các vùng khác trên cả nước đã phát triển vượt bậc và trở nên đứng đầu
trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài như Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Hồng
thì ĐBSCL lại gặp nhiều khó khăn trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài (Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Thế giới, 2018)
Đồng bằng sông Cửu Long do vị trí địa lý xa các trung tâm kinh tế lớn, kết cấu

57
hạ tầng hạn chế, nên khó thu hút đầu tư. Do đặc điểm tự nhiên đất hẹp, người đông,
mật độ cư dân sinh sống đông đúc, công trình, nhà cửa, vật kiến trúc dày đặc, nên
mỗi khi giải phóng mặt bằng ở vùng ĐBSCL là rất khó khăn, với thời gian kéo dài,
chi phí đền bù cao, làm nản lòng nhà đầu tư. Ngoài ra, một hạn chế nữa ảnh hưởng
đến thu hút đầu tư vùng ĐBSCL là chất lượng lao động của các địa phương trong
vùng còn thấp, thấp hơn cả vùng miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Có thể nói, đây
là điểm yếu “cốt tử” của vùng này, vốn đã kéo dài triền miên qua nhiều năm, nhưng
vẫn chưa được cải thiện. ĐBSCL có 8 tỉnh nằm trong tốp thấp nhất cả nước về đào
tạo lao động, hầu hết các nhóm doanh nghiệp đều chưa hài lòng về chất lượng lao
động của các địa phương trong vùng.
ĐBSCL là một điểm sáng về cải cách chất lượng điều hành và cải thiện môi
trường kinh doanh, dẫn đầu cả nước về tiếp cận đất đai, chi phí thời gian, chi phí
không chính thức và tính năng động. Tuy nhiên thu hút vốn FDI còn hạn chế và
chưa tương xứng với chỉ số năng lực cạnh tranh của vùng, chiếm tỷ trọng nhỏ so
với bình quân chung của cả nước. Ngoại trừ Long An thu hút đầu tư nước ngoài tốt
nhờ lợi thế tiếp giáp với TP.HCM, các tỉnh còn lại thu hút được rất ít dự án FDI và
thấp hơn so với mặt bằng chung cả nước. Hạn chế này do khá nhiều nguyên nhân,
trong đó, nguyên nhân chủ yếu vẫn là hạ tầng giao thông của khu vực còn gặp rất
nhiều khó khăn.
Cho dù ĐBSCL đã có sân bay quốc tế Cần Thơ, Phú Quốc nhưng giao thông
chưa thông suốt và do vậy các sân bay quốc tế chưa phát huy được hết tác dụng,
chưa kết nối giao thông vùng và cũng mở ra các chuyến bay quốc tế đi các nước. Hệ
thống cảng nước sâu cũng chưa được đầu tư phát triển, hơn 70% hàng hóa ra vào
vùng này có nhu cầu vận chuyển đường thủy, nhưng tàu lớn không vào được cảng
vì luồng bị ách tắc, nên hàng hóa không thể lưu thông và buộc phải lưu thông bằng
đường bộ, dẫn đến đội giá thành sản phẩm. Hệ thống các cơ sở hạ tầng khác như
các khu nghỉ dưỡng cao cấp, dịch vụ vui chơi giải trí cũng còn thiếu và yếu.
Khả năng tiếp cận với tiến bộ khoa học - kỹ thuật ở khu vực ĐBSCL còn yếu.
Số lượng lao động tuy đông, nhưng lao động giản đơn nhiều, cơ cấu không đa dạng
và chất lượng học vấn cơ bản thấp, thiếu lao động đã qua đào tạo. Đây là điểm yếu
của vùng vốn đã kéo dài triền miên qua nhiều năm, nhưng vẫn chưa được cải thiện
nhiều. Các ngành công nghiệp phụ trợ của Vùng chưa phát triển, hoạt động xúc tiến
đầu tư chưa có sự phối hợp giữa các địa phương và với các vùng lân cận.

58
Dòng vốn FDI được thu hút vào ĐBSCL trong thời gian qua còn phân bố chưa
đồng đều, chỉ tập trung chủ yếu ở một số tỉnh như Long An, Tiền Giang với lợi thế
liền kề Thành phố Hồ Chí Minh - vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Nhìn chung,
có thể nói rằng ĐBSCL đã tạo được bước ngoặt trong thời kỳ đầu mở cửa thu hút
đầu tư nhưng trong thời gian qua vẫn chưa tạo bước đột phá trong quá trình phát
triển cũng như việc phân tán phát triển đã tạo môi trường chưa thực sự tốt cho các
nhà đầu tư. Nghiên cứu này sẽ tổng quát lại thực trạng thu hút đầu tư FDI ở
ĐBSCL, cũng như vai trò của nó trong việc CDCCNKT trong công cuộc CNH,
HĐH (Danh, 2019).
2.5.Khung phân tích
Thông qua việc tổng hợp cơ sở lý thuyết (Harrod và Domar, 1940; Lewis,
1954; Rostow, 1960) và nghiên cứu thực nghiệm về tác động của FDI đến CDCC
ngành kinh tế (Pastor và Wise, 1999; Zhang và Zheng, 1998; Blomstrom và các
cộng sự, 2000; Giles, Park, và Cai, 2006; Hosain, 2006; Soni và Subrahmanya,
2020; Abdulsalam và các cộng sự, 2021), và thực tiễn của Vùng, tác giả đề xuất
khung phân tích như hình 2.5. Luận án đánh giá tác động của đầu tư trực tiếp nước
ngoài đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của vùng Đồng bằng sông Cửu Long ở
2 khía cạnh: xu hướng chuyển dịch và tốc độ chuyển dịch.
Trong đó, nhóm yếu tố tác động đến xu hướng chuyển dịch gồm các yếu tố
FDI, yếu tố kinh tế, và yếu tố riêng biệt của từng tỉnh thành phố trong vùng ĐBSCL
vì sự tác động của FDI đến chuyển dịch CCNKT còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố
khác nhau như mức độ tăng trưởng kinh tế, trình độ lao động… hay những yếu tố
đặc thù riêng của vùng. Để đo lường xu hướng chuyển dịch, tác giả sử dụng hai
biến tỷ trọng Công nghiệp/ Nông nghiệp và Dịch vụ/ Nông nghiệp đại diện cho quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước – chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế từ
lĩnh vực Nông nghiệp sang lĩnh vực Công nghiệp và Dịch vụ, tương tự như nghiên
cứu của Hosain (2006). Để đo lường yếu tố FDI, tác giả sử dụng ba biến: vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài, số lượng doanh nghiệp, và số lượng lao động hoạt động trong
khu vực kinh tế FDI, theo nghiên cứu của Soni và Subrahmanya (2020) và
Blomstrom và các cộng sự (2000). Nhóm yếu tố kinh tế khác bao gồm các biến vĩ
mô như tăng trưởng kinh tế (theo nghiên cứu Abdulsalam và các cộng sự (2021)),
lạm phát (Pastor và Wise, 1999), vốn đầu tư xã hội (Abdulsalam và các cộng sự,
2021), vốn tư nhân trong nước (Pastor và Wise, 1999), lao động qua đào tạo (Zhang
và Zheng, 1998), tỷ lệ dân thành thị (Giles, Park, và Cai, 2006). Riêng các yếu tố

59
kiểm soát khác biệt trong vùng thể hiện tiềm năng phát triển kinh tế, vị trí địa lý,
yếu tố lịch sử - văn hóa, của từng địa phương sẽ được đo lường bằng các tham số cố
định trong mô hình ước lượng.
Hình 2.5. Khung phân tích
Nguồn: Tác giả đề xuất (2022)
Mũi tên số 1 trong hình 2.5 tương ứng với nhóm các yếu tố FDI (vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài, số lượng doanh nghiệp, và số lượng lao động hoạt động trong
khu vực kinh tế FDI) ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Mũi tên số 2
tương ứng với tác động của nhóm yếu tố kinh tế khác bao gồm các biến vĩ mô như
tăng trưởng kinh tế, lạm phát, chỉ số mở cửa, vốn đầu tư xã hội, vốn tư nhân trong
nước, lao động qua đào tạo, tỷ lệ dân thành thị. Mũi tên số 3 tương ứng với nhóm
các yếu tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, bao gồm các tỉnh trong
Vùng. Mũi tên số 4 tương ứng với biến tương tác. Trong đó, đề tài tập trung phân
tích ảnh hưởng của các yếu tố về FDI có tác động thế nào đến chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế ở Vùng đồng bằng Sông Cửu Long.
Trên cơ sở tổng hợp các lý thuyết và nghiên cứu trước, đề tài đề xuất các giả
thuyết liên quan đến mô hình nghiên cứu đo lường tác động của FDI đến chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Vùng đồng bằng Sông Cửu Long. Các giả thuyết này
được xây dựng dựa trên các nghiên cứu thực nghiệm trước như nghiên cứu của
Pastor và Wise (1999), Zhang và Zheng (1998), Blomstrom và các cộng sự (2000),
Giles, Park, và Cai (2006), Hosain (2006), Abdulsalam và các cộng sự (2021), Soni
Yếu tố kinh tế vĩ mô:
-Tăng trưởng kinh tế
-Lạm phát
-Vốn đầu tư xã hội
-Vốn tư nhân
-Lao động qua đào tạo
-Tỷ lệ dân thành thị
Chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh
tế
FDI:
-Lượng vốn
FDI theo
giá hiện
hành;
-Số doanh
nghiệp FDI;
- Số lao
động FDI
Các yếu tố kiểm soát
khác biệt trong vùng
Biến giả của 13 tỉnh
trong Vùng
3
4
Tốc độ
chuyển
dịch
Cos(φ)
Xu hướng chuyển dịch:
-Tỷ trọng Công nghiệp/
Nông nghiệp
-Tỷ trọng Dịch vụ/ Nông
nghiệp
21

60
và Subrahmanya (2020). Từ đó, đề tài đưa ra các giả thuyết như sau:
Giả thuyết H1: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào các tỉnh của Vùng
đồng bằng Sông Cửu Long tác động cùng chiều đến sự chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế của Vùng đồng bằng Sông Cửu Long. Theo Harrod và Domar (1940), Lewis
(1954), Rostow (1960), Blomstrom, Konan, và Lipsey (2000), Soni và
Subrahmanya (2020), FDI tác động đến quá trình CDCC ngành thông qua nguồn
vốn đầu tư trực tiếp vào các ngành làm cho năng suất ngành được tăng nhanh hơn
các ngành khác, giá trị sản xuất tăng góp phần tăng trưởng kinh tế ngành đó và tác
động đến CDCC ngành kinh tế.
Giả thuyết H2: Có sự khác biệt trong mức độ tác động của FDI theo tỉnh trong
Vùng. Các nghiên cứu trước cho thấy FDI tác động tích cực khi các địa phương có
năng lực hấp thụ tốt, trong ngắn hạn FDI làm chậm quá trình CDCC ở các địa
phương lân cận (Hoàng Mạnh Hùng, 2020). Khi so sánh giữa các quốc gia cũng
không có sự đồng nhất trong mức độ tác động (Pineli và các cộng sự, 2019).
Giả thuyết H3: Tỷ trọng vốn đầu tư toàn xã hội tác động cùng chiều đến sự
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Vùng. Đây được xem là tác động lan tỏa của
FDI. Để thu hút dòng vốn FDI, nước sở tại phải đầu tư xây dựng hạ tầng và các điều
kiện hỗ trợ doanh nghiệp. Khi hạ tầng phát triển lại thúc đẩy CDCC ngành kinh tế
theo hướng hiện đại (Harrod và Domar, 1940; Lewis, 1954; Rostow, 1960;
Abdulsalam và các cộng sự, 2021).
Giả thuyết H4: Vốn đầu tư tư nhân tác động cùng chiều đến sự chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế của Vùng đồng bằng Sông Cửu Long. Vốn đầu tư tạo ra động cơ
làm cho người lao động di chuyển từ ngành có năng suất thấp sang ngành có năng
suất cao hơn khi mức lương các ngành này tăng lên, từ đó góp phần chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế (Harrod và Domar, 1940; Lewis, 1954; Rostow, 1960; Pastor và
Wise, 1999; Morsy và các cộng sự, 2014).
Giả thuyết H5: Tỷ lệ lao động qua đào tạo tác động cùng chiều đến sự chuyển dịch
cơ cấu ngành kinh tế của Vùng đồng bằng Sông Cửu Long. Theo Harrod và Domar
(1940), Lewis (1954), Rostow (1960), Zhang và Zheng (1998), Blomstrom, Konan,
và Lipsey (2000), quá trình chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang các ngành
còn lại cho thấy chất lượng nguồn nhân lực ảnh hưởng đến CDCC ngành kinht tế
trong các giai đoạn nhất định.
Giả thuyết H6: Tăng trưởng kinh tế hàng năm tác động cùng chiều đến sự

61
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Vùng đồng bằng Sông Cửu Long. Đây là yếu
tố tạo ra sự thay đổi về cầu hàng hóa. Theo quy luật cầu của Engel khi thu nhập
tăng lên đến một mức độ nhất định, cầu về hàng hóa lương thực, thực phẩm sẽ
giảm, cầu về hàng hóa dịch vụ tăng. Do đó góp phần giảm tỷ trọng nông nghiệp và
tăng tỷ trọng ngành dịch vụ trong cơ cấu ngành kinh tế (Harrod và Domar, 1940;
Mankiw và các cộng sự, 1992; Abdulsalam và các cộng sự, 2021)
Giả thuyết H7: Chỉ số giá so với năm 2010 tác động cùng chiều đến sự chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế của Vùng đồng bằng Sông Cửu Long. Khi nguồn cung
tương đối của các lao động có kỹ năng tăng, làm giảm giá tương đối của những sản
phẩm phi nông nghiệp mà thâm dụng kỹ năng hơn, góp phần chuyển dịch các yếu tố
nguồn lực ra khỏi nông nghiệp và hướng tới các ngành hiện đại (Pastor và Wise,
1999; Morsy và các cộng sự, 2014)
Giả thuyết H8: Tỷ lệ dân số thành thị tác động cùng chiều đến sự chuyển dịch
cơ cấu ngành kinh tế của Vùng đồng bằng Sông Cửu Long. Việc di chuyển lao động
từ nông thôn ra thành thị đi cùng với quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Quá trình đô thị hóa thúc đẩy và tạo điều kiện phát triển các ngành công nghiệp,
dịch vụ (Giles, Park, và Cai, 2006; Wu và Chen, 2016; Diao và các cộng sự, 2019)
Giả thuyết H9: Có sự khác biệt về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế sự giữa
các tỉnh trong Vùng. Nhiều nghiên cứu cho thấy tác động của FDI đến quá trình
CDCC ngành kinh tế giữa các khu vực, quốc gia hay địa phương là không đồng
nhất nhau, có nơi sẽ tác động mạnh và nơi không tác động hoặc tác động yếu
(Kalotay, 2010; Amendolagine và các cộng sự, 2016; Pineli và các cộng sự, 2019)

62
CHƯƠNG 3
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
3.1.Quy trình nghiên cứu
Trong quá trình triển khai nghiên cứu về tác động của FDI đến chuyển dịch
CCNKT tại Vùng đồng bằng sông Cửu Long, tác giả thực hiện theo trình tự như
hình 2.1.
Hình 3.1. Quy trình nghiên cứu
Nguồn: Tác giả (2022)
Thứ nhất, nghiên cứu tiến hành lược khảo các khái niệm, lý thuyết, vấn đề
nghiên cứu, xác định lỗ hổng nghiên cứu về chuyển dịch CCNKT và tác động của
FDI ảnh hưởng đến quá trình này.
Thứ hai, dựa trên kết quả tổng quan tài liệu, tác giả xây dựng khung phân tích
và mô hình nghiên cứu lý thuyết.
Thứ ba, thông qua phần mềm STATA, tác giả tiến hành xử lý, kết nối tạo
thành dữ liệu bảng và phân tích bức tranh tổng quan về vấn đề nghiên cứu thông
qua kết quả thống kê mô tả, tiến hành một số kiểm định liên quan đến mô hình thực
nghiệm và hồi quy mô hình thực nghiệm. Vì khâu xử lý dữ liệu là khâu quan trọng
nên tác giả đã cẩn trọng thực hiện trình tự các bước như sau: (1) Tạo các biến số
như đã đề cập ở trên theo các dữ liệu của từng địa phương của Vùng theo từng năm

63
điều tra từ 2010 đến 2019, được thu thập từ Niên giám thống kê thuộc Tổng cục
thống kê; (2) Kết nối các biến số của từng năm điều tra thành một bộ dữ liệu cho
năm điều tra đó. Từ đó, tác giả kết nối các thông tin biến số rời rạc thành tập tin dữ
liệu chung từng năm điều tra dựa trên thông tin các tỉnh thành trong Vùng, hình
thành bộ dữ liệu từng năm điều tra cấp Vùng chứa các thông tin trong bước 1. (3)
Tác giả tạo bộ dữ liệu cho các năm 2010, 2014, 2017, và 2019, lập lại bước 1 và 2
cho các năm 2010, 2014, 2017, và 2019. (4) Tác giả kết nối dữ liệu các năm 2010,
2014, 2017, và 2019 thành dữ liệu bảng giai đoạn 2010-2019 theo thông tin của
từng tỉnh trong Vùng và năm điều tra.
Thứ tư, tác giả thảo luận về kết quả ước lượng được. Dựa trên kết quả thống
kê mô tả, kiểm định liên quan và mô hình FEM đo lường tác động của FDI đến quá
trình chuyển dịch CCNKT ở Vùng đồng bằng sông Cửu Long. Từ đó, trên cơ sở so
sánh, tham chiếu với kết quả nghiên cứu trước, tác giả tìm ra những đặc trưng của
Vùng nghiên cứu và đề xuất một số khuyến nghị, cũng như nhận diện hạn chế của
đề tài và gợi ý hướng nghiên cứu tiếp theo.
3.2.Mô hình thực nghiệm
Tác giả tiến hành thu thập dữ liệu của các tỉnh vùng ĐBSCL từ niên giám
thống kê qua các năm từ 2010 đến năm 2019. Bảng 2.2 thể hiện danh sách các biến
sử dụng trong nghiên cứu này. Tất cả các biến có thể được phân thành 4 nhóm. Thứ
nhất, nhóm biến phụ thuộc thể hiện cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hóa hiện đại hóa, bao gồm SER_AGR (tỷ số giữa cơ cấu Dịch vụ/
Nông nghiệp) và IND_AGR (tỷ số giữa cơ cấu Công Nghiệp/ Nông nghiệp). Thứ
hai, nhóm biến độc lập đại diện cho yếu tố FDI tác động đến chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, bao gồm FDI (vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài), LABOR_FDI (lao động
trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài), FIRM (số lượng doanh nghiệp
hoạt động trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài), I_IND_AGR (Vốn đầu
tư toàn xã hội trong ngành Công nghiệp so với ngành Nông nghiệp), I_SER_AGR
(Vốn đầu tư toàn xã hội trong ngành Dịch vụ so với ngành Nông nghiệp). Thứ ba,
nhóm biến đại diện cho yếu tố kinh tế vĩ mô, bao gồm INF (lạm phát), GROWTH
(tốc độ tăng trưởng hàng năm), PRIVATE (vốn tư nhân trong nước), EMP (tỷ lệ lao
động qua đào tạo), URBAN (tỷ lệ dân số thành thị). Cuối cùng, hệ số chuyển đổi cơ
cấu kinh tế Cos(φ) được tính toán từ tỷ trọng Nông nghiệp, Công nghiệp và Dịch vụ
theo công thức sau:

64
Nguồn: Moore (1978); Xuan Hung Nguyen và các cộng sự (2020)
Trong đó:
+ NN, CN, DV là tỷ trọng giá trị sản xuất của ngành Nông nghiệp, Công
Nghiệp, và Dịch vụ tương ứng tại hai thời điểm x và y trong giai đoạn nghiên cứu.
+ Cos(φ) = [0,1]. Hệ số chuyển dịch cos(φ) càng gần 1 cho thấy cơ cấu kinh tế
hai thời điểm càng giống nhau nhiều, chứng tỏ tốc độ chuyển dịch cơ cấu chậm,
ngược lại khi cos(φ) càng gần 0 cho thấy tốc độ chuyển dịch càng lớn.
Lưu ý rằng, danh sách trên không bao gồm yếu tố riêng biệt (không quan sát
được) như được trình bày ở khung phân tích, nhóm yếu tố riêng biệt này sẽ được
gộp chung vào phần nhiễu của mô hình.
Trên cơ sở tổng hợp các lý thuyết và nghiên cứu trước (Pastor và Wise, 1999;
Zhang và Zheng, 1998; Blomstrom và các cộng sự, 2000; Giles, Park, và Cai, 2006;
Hosain, 2006; Abdulsalam và các cộng sự, 2021; Soni và Subrahmanya, 2020), tác
giả đề xuất mô hình hồi quy đo lường tác động FDI đến chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế của Vùng đồng bằng sông Cửu Long có dạng như sau:
Yijt = α + β1I_IND_AGRijt + β2I_SER_AGRijt + β3 FDI ijt+ β4 FIRM ijt + β5
LABOR_FDI ijt + β6 EMP ijt + β7 GROWTH ijt + β8 INF ijt + β9 URBAN ijt + β10
PRIVATE ijt + β11 INT ijt +εijt (1)
Trong đó: Yijt: quá trình chuyển của tỉnh i, ngành j năm t, được đo lường lần
lượt thông qua tỷ trọng sản lượng ngành Công nghiệp so với tỷ trọng sản lượng
ngành Nông nghiệp (IND_AGR) và tỷ trọng sản lượng ngành Dịch vụ so với tỷ
trọng sản lượng ngành Nông nghiệp (SER_AGR).
Các biến giải thích của phương trình được thể hiện chi tiết ở bảng
3.2. εijt: sai số ngẫu nhiên của tỉnh i tại thời điểm t.
Bảng 3.1. Danh sách các biến sử dụng trong nghiên cứu
STT Tên biến Giải thích Nghiên cứu kế thừa
1 IND_AGR
Tỷ trọng sản lượng
ngành Công nghiệp so
với tỷ trọng sản lượng
ngành Nông nghiệp
Harrod và Domar (1940), Lewis
(1954),Rostow(1960),Hosain
(2006)
2 SER_AGR
Tỷtrọngsảnlượng
ngành Dịch vụ so với tỷ
Harrod và Domar (1940), Lewis
(1954),Rostow(1960),Hosain

65
STT Tên biến Giải thích Nghiên cứu kế thừa
trọng sản lượng ngành
Nông nghiệp
(2006)
3 Cos(φ)
Hệ số chuyển đổi cơ cấu
kinh tế
Nguyễn Tiến Long (2010, 2016);
Xuan Hung Nguyen và các cộng sự
(2020)
4
FDI
Vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài theo giá trị
hiện hành
Harrod và Domar (1940), Lewis
(1954), Rostow (1960), Blomstrom,
Konan, và Lipsey (2000), Soni và
Subrahmanya (2020),
FIRM
Số lượng doanh nghiệp
hoạt động trong khu vực
kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài
LABOR_FDI
Số lượng lao động hoạt
động trong khu vực kinh
tế có vốn đầu tư nước
ngoài
5 INTi
Biến tương tác giữa FDI
và lần lượt 12 tỉnh trong
Vùng để so sánh với
Long An làm biến cơ sở
Pineli và các cộng sự (2019), Hoàng
Mạnh Hùng (2020)
6 I_IND_AGR
Vốn đầu tư toàn xã hội
trong ngành Công
nghiệp so với ngành
Nông nghiệp
Harrod và Domar (1940), Lewis
(1954), Rostow (1960), Abdulsalam
và các cộng sự (2021)
7 I_SER_AGR
Vốn đầu tư toàn xã hội
trong ngành Dịch vụ so
với ngành Nông nghiệp
8 EMP
Tỷ lệ lao động qua đào
tạo
Harrod và Domar (1940), Lewis
(1954), Rostow (1960), Zhang và
Zheng (1998), Blomstrom, Konan,
và Lipsey (2000)
9 GROWTH
Tăngtrưởngkinhtế
hàng năm
Harrod và Domar (1940), Mankiw
và các cộng sự (1992), Abdulsalam
và các cộng sự (2021)
10INF
Chỉ số giá so với năm
2010
Pastor và Wise (1999), Morsy và
các cộng sự (2014)
11URBAN Tỷ lệ dân số thành thị
Giles, Park, và Cai (2006), Wu và
Chen (2016), Diao và các cộng sự
(2019)
12PRIVATE Vốn đầu tư tư nhân
Harrod và Domar (1940), Lewis
(1954), Rostow (1960), Pastor và
Wise (1999), Morsy và các cộng sự
(2014)
Nguồn: Tổng hợp của tác giả (2021)
3.3.Kỹ thuật ước lượng

66
3.3.1.Kỹ thuật hồi quy dữ liệu bảng
Ba phương pháp tiếp cận phổ biến nhất trong việc xây dựng mô hình hồi quy
dữ liệu bảng là: Mô hình hồi quy tuyến tính thô (POLS), mô hình các tác động cố
định (FEM) và mô hình các tác động ngẫu nhiên (REM).
Mô hình hồi quy OLS giả định rằng không có sự khác biệt giữa các tỉnh thành
phố, và giữa các mốc thời gian trong bảng dữ liệu. Như thế, phương trình dữ liệu
bảng có thể được viết lại như sau: . Vì không xem xét yếu tố không
gian và thời gian, nên phương trình dữ liệu bảng ban đầu trở thành mô hình tuyến
tính đơn thuần giữa biến phụ thuộc và các biến độc lập.
Mô hình tác động cố định FEM giả định rằng tác động của các đặc điểm địa lý
– xã hội (vị trí địa lý, lịch sử, tiềm năng kinh tế…) của các tỉnh thành phố lên biến
phụ thuộc là một tham số cố định . Khi đó, phương trình dữ liệu bảng sẽ được
diễn giải thành . Trong đó, ,
thành phần là tập hợp các tham số cố định đại diện cho tỉnh thành phố
trong dữ liệu nghiên cứu. Điều này có nghĩa là mỗi tỉnh, thành phố có hệ số chặn
khác nhau trong phương trình dữ liệu bảng nêu trên.
Mô hình tác động ngẫu nhiên REM giả định rằng hệ số chặn của mỗi tỉnh
thành phố được lấy ra ngẫu nhiên từ một tổng thể lớn hơn nhiều, với giá trị trung
bình không đổi. Theo đó, mỗi giá trị tung độ gốc được thể hiện như một sự lệch
khỏi giá trị trung bình không đổi này. Phương trình dữ liệu bảng có thể viết lại
thành .
Rõ ràng, mô hình FEM vượt trội hơn mô hình POLS vì nó xem xét đến yếu tố
riêng biệt của từng tỉnh thành phố, và mô hình REM hơn mô hình FEM bởi vì nó
tiết kiệm được bậc tự do. Tuy nhiên, tùy vào mục đích nghiên cứu và bản chất của
dữ liệu, mô hình dữ liệu bảng cần được lựa chọn phù hợp. Để hỗ trợ các nhà nghiên
cứu lựa chọn mô hình phù hợp nhất, F-test và Hausman-test là hai công cụ thường
được sử dụng phổ biến nhất. F-test giả định rằng liệu có khác biệt giữa các tỉnh
thành phố hay không, nghĩa là , để lựa chọn giữa mô hình
OLS với mô hình FEM hoặc REM. Nếu giả thiết của F-test bị phủ định, nghĩa là mô
hình FEM hoặc REM thích hợp. Để lựa chọn giữa mô hình FEM và mô hình REM,

67
Hausman-test là công cụ phổ biến nhất (Gujarati, 2021).
Đối với nghiên cứu này, số lượng thực thể (hay số lượng tỉnh, thành phố)
tương đối nhỏ, vì thế nghiên cứu xem xét toàn bộ 13 tỉnh, thành phố ở ĐBSCL. Hơn
nữa, một câu hỏi quan trọng trong nghiên cứu này là đánh giá vai trò của yếu tố
riêng biệt của từng tỉnh thành phố đối với mô hình nghiên cứu. Vì vậy, mô hình
REM – cho rằng yếu tố riêng biệt được lấy ra từ một tổng thể (tập hợp các tỉnh,
thành phố) lớn hơn nhiều – là không phù hợp với thiết kế nghiên cứu ban đầu. Vì
vậy, tác giả sử dụng mô hình POLS – như giả định ĐBSCL là một chỉnh thể, không
có sự khác biệt giữa các tỉnh – để đánh giá yếu tố chung của toàn vùng; đồng thời
tiến hành chạy mô hình FEM để so sánh giữa các tỉnh thành phố ở ĐBSCL về yếu
tố cố hữu riêng biệt (điển hình là vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, tiềm năng kinh tế,
…).
Xét trong bối cảnh nghiên cứu này, mô hình FEM được sử dụng nhằm phân
tích tác động của các biến có tính chất thay đổi theo thời gian. Mỗi tỉnh trong Vùng
có những đặc thù riêng có thể có hoặc không có ảnh hưởng lên biến phụ thuộc như
vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, tiềm năng kinh tế Khi sử dụng mô hình FEM, giả
định có một đặc tính của các tỉnh trong Vùng có thể tác động và làm sai lệch hiệu
ứng của các biến giải thích đang quan sát. Đây là lý do tại sao giả định bao gồm
việc cho phép tương quan giữa thành phần nhiễu với các biến giải thích trong mô
hình. Nói cách khác, bằng cách này tiếp cận tác động cố định (fixed effects) đã giúp
hạn chế một nguồn gốc của vấn đề nội sinh trong mô hình ước lượng, mặc dù không
phải tất các nguồn gốc nội sinh khác trong tiếp cận dữ liệu bảng.
Một giả định quan trọng khác của mô hình FEM là các đặc tính không thay đổi
theo thời gian, là chuyên biệt cho đối tượng và không tương quan với các đặc tính
đối tượng khác. Mỗi đối tượng ở đây là khác biệt và do đó thành phần nhiễu đối
tượng và các hằng số (cũng phản ánh đặc tính đối tượng) không nên tương quan với
nhau. Nếu các thành phần nhiễu này bị tương quan, thì mô hình FEM không phù
hợp và việc sử dụng nó có thể không có ý nghĩa phân tích. Trong trường hợp, mối
quan hệ đó cần được phản ánh (và thường thông qua mô hình REM). Đây cũng là
nguyên lý của kiểm định Hausman mà sẽ được trình bày ở mục sau của phần này.
Mô hình REM giả định các hiệu ứng đối tượng (không thuần nhất) không
tương quan với biến độc lập và ước lượng phương sai sai số chuyên biệt nhóm đối
tượng (hoặc thời gian). Do đó, vit là thành phần không thuần nhất ngẫu nhiên
chuyên biệt đối tượng, hay chính là một thành phần trong toán tử sai số nói chung

68
(bên cạnh εit). Đây cũng là lý do tại sao mô hình REM được gọi là mô hình thành
phần sai số. Trong mô hình này, hệ số chặn và độ dốc các biến hồi quy là giống
nhau theo đối tượng. Nói cách khác, sự khác biệt giữa các đối tượng (hoặc kỳ thời
gian) nằm ở thành phần sai số chuyên biệt đối tượng chứ không phải ở hệ số chặn
của chúng. Ở đây, mô hình REM được ước lượng bằng ước lượng bình phương nhỏ
nhất tổng quát (GLS). Mô hình REM sẽ làm giảm số tham số được ước lượng
nhưng sẽ không vững khi hiệu ứng tác động ngẫu nhiên chuyên biệt đối tượng bị
tương quan với các biến độc lập.
Một thuận lợi của mô hình REM là cho phép đưa vào các biến không thay đổi
theo thời gian (vốn không có trong mô hình thực nghiệm của nghiên cứu này).
Nguyên nhân là do mô hình REM không cho phép thành phần nhiễu đối tượng
tương quan với các biến độc lập – điều này cho phép xem xét hiệu ứng riêng biệt
của biến không đổi theo thời gian như vai trò một biến giải thích. Điều này trong
mô hình của nghiên cứu này có vẻ khó khả thi, bởi vì như ví dụ ở phần mô hình
FEM ở trên, tiềm năng kinh tế của tỉnh trong Vùng có thể ảnh hưởng lên quá trình
chuyển dịch CCNKT trong khi vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên (vốn có đặc tính cố
hữu, có lẽ không thay đổi trong ngắn hạn) là một khái niệm với nhiều phương diện
và khó đo lường đầy đủ và chính xác. Một khó khăn khác của mô hình REM là
người nghiên cứu phải nỗ lực xác định những đặc tính đối tượng mà có thể có hoặc
không có tương quan với biến giải thích. Trong thực tế nghiên cứu, điều này rất khó
vì người nghiên cứu không thể kỳ vọng đưa hết được tất cả các biến vào mô hình.
Bảng 3.1 so sánh một số đặc tính của 2 mô hình FEM và REM.
Bảng 3.2. Một số đặc tính của mô hình FEM và REM
Yếu tố so sánh Mô hình FEM Mô hình REM
Giả định về thành
phần ui
Hiệu ứng chuyên biệt đối tượng là
không tương quan với các biến giải
thích
Hệ số chặn
Thay đổi theo nhóm đối tượng
và/hoặc theo thời gian
Hằng số
Phương sai nhiễuHằng số
Phân phối ngẫu nhiên theo nhóm
đối tượng và/hoặc theo thời gian
Độ dốc Hằng số Hằng số
Phương áp ước
lượng
Within; LSDV (biến giả bình
phương nhỏ nhất)
GLS (phương sai bé nhất tổng
quát); FGLS (GLS hiệu quả) EGSL
(GLS được ước lượng)
Nguồn: Tác giả tổng hợp (2022)
Về mặt truyền thống, một kiểm định Hausman sẽ được sử dụng để lựa chọn

69
mô hình phù hợp giữa 2 mô hình FEM và REM. Về cơ bản, kiểm định Hausman
kiểm tra thành phần nhiễu chuyên biệt vit có tương quan với các biến độc lập hay
không. Và giả thuyết Ho là không có tương quan. Nếu giả thuyết bị bác bỏ, có thể
kết luận rằng các hiệu ứng vit có tương quan đáng kể với ít nhất một biến độc lập
trong mô hình và do vậy ước lượng random effects có vấn đề. Do đó, cần sử dụng
ước lượng FE thay vì RE.
Tuy nhiên, trước khi đi đến bước kiểm định lựa chọn giữa mô hình FEM và
REM. Một vấn đề cần lưu ý là nếu cả 2 mô hình FEM và REM không phù hợp thì
kỹ thuật ước lượng dữ liệu bảng phù hợp hơn nên là pooled OLS (ước lượng bình
phương bé nhất). Cụ thể, nếu các hiệu ứng đối tượng (hiệu ứng chéo lẫn hiệu ứng
theo thời gian) không tồn tại (ui + vit = 0) thì ước lượng POLS sẽ là ước lượng hiệu
quả và vững.
Nếu hiệu ứng đối tượng là khác không (ví dụ do vị trí địa lý không được phản
ánh trong mô hình chuyển dịch CCNKT), các giả định về tính ngoại sinh và nhiễu
có phương sai không đổi sẽ bị vi phạm. Cụ thể, nhiễu có thể có phương sai thay đổi
giữa các đối tượng, có thể tương quan lẫn nhau. Do đó, ước lượng POLS không còn
là ước lượng tuyến tính không chệch tốt nhất. Các mô hình dữ liệu bảng còn lại như
FEM và REM sẽ là cách thức để giải quyết các vấn đề như vậy. Tuy nhiên, như đã
trình bày ở trên, giả định 2 (ngoại sinh) cũng khiến ước lượng RE bị chệch.
Như vậy, có thể thấy rằng kiểm định Hausman nên là bước kiểm định sau khi
đã cân nhắc tính chất của thành phần nhiễu đối tượng. Nói cách khác, sẽ cần thiết để
kiểm tra hiệu ứng tác động cố định và tác động ngẫu nhiên của thành phần nhiễu đối
tượng. Về mặt kinh tế lượng, hiệu ứng tác động cố định có thể được kiểm tra bằng
kiểm định F-test, trong khi hiệu ứng tác động ngẫu nhiên có thể được kiểm tra bằng
kiểm định nhân tử Lagrange (LM) Breusch-Pagan. Kiểm định F-test sẽ so sánh mô
hình FEM với mô hình OLS để xem liệu mô hình FEM có thể cải thiện sự phù hợp
(goodness-of-fit) của việc mô hình hóa hay không, trong khi kiểm định Breusch-
Pagan so sánh mô hình REM với mô hình POLS. Và cuối cùng, một kiểm định
Hausman sẽ được thực hiện nếu cần so sánh sự phù hợp của mô hình FEM và mô
hình REM.
3.3.2.Khắc phục khuyết tật của mô hình nghiên cứu
Một trong những vấn đề nghiêm trọng trong mô hình hồi quy là đa cộng tuyến.
Để phát hiện đa cộng tuyến, người ta thường dựa vào hệ số phóng đại phương sai

70
(VIF). Nếu chỉ số này lớn hơn 10 thì chắc chắn có hiện tượng đa cộng tuyến giữa
các biến. Nếu VIF nhỏ hơn 10 thì mô hình không có khả năng xảy ra đa cộng tuyến.
Để khắc phục hiện tượng này, phương pháp thay thế biến hoặc bỏ biến được sử
dụng nhiều nhất, và trong nghiên cứu này, tác giả sẽ lựa chọn phương pháp thay thế
biến sau khi xem xét hệ số tương quan cao giữa các cặp biến giải thích (Alin, 2010).
Một trong những vấn đề nữa của mô hình hồi quy là phương sai thay đổi. Hiện
tượng phương sai thay đổi xảy ra khi phương sai của sai số không phải là hằng số,
mà tăng hoặc giảm khi biến độc lập thay đổi (Glejser, 1969). Nếu không có biến
độc lập nào là giá trị trễ của biến phụ thuộc, thì các tham số ước tính sẽ nhất quán
và không cần điều chỉnh các ảnh hưởng của tương quan chuỗi (Drukker, 2003).
Một trong những phương pháp hiệu quả nhất để giải quyết vấn đề phương sai
thay đổi và tương quan chuỗi là áp dụng mô hình sai số chuẩn mạnh, còn được gọi
là ước lượng sai số chuẩn vững. Phương pháp này vẫn giữ nguyên hệ số ước lượng
không đổi giống như hồi quy thông thường, tuy nhiên, sai số chuẩn sẽ được điều
chỉnh lại để phương sai trở về 0, từ đó đạt được các ước lượng vững (Croux và
Hoorelbeke, 2004).
3.3.3.Dữ liệu nghiên cứu
Đề tài này sử dụng dữ liệu của 13 tỉnh, thành ở Vùng đồng bằng sông Cửu
Long trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2019. Tất cả dữ liệu của nghiên cứu đều
được thu thập từ Niên giám Thống kê của Tổng cục Thống kê Việt Nam (GSO,
2015, 2017, 2019). Để đảm bảo tính đồng nhất và tin cậy khi thực hiện kiểm định,
dữ liệu đã được xử lý và chuyển hóa phù hợp với tính chất của các biến trong mô
hình định lượng. Bảng 3.3 thống kê mô tả các biến được sử dụng trong mô hình ước
lượng. Để đảm bảo độ biến thiên không chệnh lớn giữa các biến, tác giả chia các
biến với cơ số 10 (cùng mục đích với phương pháp lấy logarit). Kết quả ta thấy rằng
sai số chuẩn của tất cả biến điều nhỏ hơn 20.

71
Bảng 3.3. Thống kê mô tả giá trị các biến trong mô hình
Tên biến
Số quan
sát
Trung bình
Sai số
chuẩn
Tối thiểuTối đa
Ind_Agr (Tỷ trọng sản
lượng ngành CN so với tỷ
trọng sản lượng ngành NN)
126 0.786 0.6110.2595.251
Ser_Agr (Tỷ trọng sản
lượng ngành DV so với tỷ
trọng sản lượng ngành NN)
126 1.223 1.2540.35912.137
I_Ind_Agr (Vốn đầu tư
toàn xã hội trong ngành CN
so với ngành NN)
130 7.579 13.7680.25978.372
I_Ser_Agr (Vốn đầu tư
toàn xã hội trong ngành DV
so với ngành NN)
130 9.767 18.8730.527114.296
FDI (Vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài theo giá trị hiện
hành)
128 1.297 2.0840.0008.671
Firm (Số lượng doanh
nghiệp hoạt động trong khu
vực kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài)
112 0.436 1.0430.0105.880
Labor_FDI (Số lượng
lao động hoạt động trong
khu vực kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài)
105 1.299 1.8890.0059.081
Emp (Tỷ lệ lao động qua
đào tạo)
121 12.231 9.2932.52058.250
Growth ((Tăng trưởng
kinh tế hằng năm))
124 36.706 12.23115.02874.009
Inf (Chỉ số giá so với năm
2010)
129 100.524 0.49099.970103.370
Urban (Tỉ lệ dân thành
thị)
130 24.750 14.0049.80269.685
Private (Vốn đầu tư tư
nhân)
129 8.536 5.2671.75727.442
Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu từ Vùng ĐBSCL giai đoạn 2010 - 2019 (2022)
Sau khi thu thập các biến và điều chỉnh đơn vị đo lường để các tham số không

72
chênh lệch lớn, tác giả lựa chọn các biến để bỏ vào mô hình ước lượng. Tuy nhiên,
sau quá trình phân tích tương quan giữa các biến, tác giả loại bỏ một số biến ra khỏi
nghiên cứu này. Bảng 3.4 cho thấy hệ số tương quan giữa FDI và Firm, Labor-FDI
rất cao (trên 0.6) và đều có ý nghĩa thống kê 1%. Các biến này đều đại diện cho
dòng vốn FDI, do đó khi hồi quy, tác giả sẽ chọn lọc một biến đại diện cho FDI phù
hợp nhất trong ba biến trên. Ngoài ra, tồn tại tương quan giữa biến Urban và
I_Ser_Agr, cho thấy khi vốn đầu tư toàn xã hội trong ngành dịch vụ so với ngành
nông nghiệp cao cũng góp phần gia tăng tỷ lệ dân nhập cư vào các đô thị. Tuy
nhiên, vấn đề này sẽ được kiểm định lại một lần nữa sau khi tiến hành ước lượng
mô hình. Biến Ser_Agr và Ind_Agr tương quan chặt với nhau vì đều là tỷ trọng sản
lượng ngành công nghiệp hoặc ngành dịch vụ so với sản lượng ngành nông nghiệp.
Hai biến phụ thuộc này gắn với hai mô hình khác nhau nên không ảnh hưởng đến
kết quả ước lượng.

73
Bảng 3.4. Kiểm định tương quan các biến trong mô hình
(1)
cosx Ind_Agr Ser_Agr I_Ser_Agr FDI Firm Labor_FDI Emp Growth Inf Urban Private
cosx 1
Ind_Agr -0.194 1
Ser_Agr -0.138 0.792
***
1
I_Ser_Agr 0.0249 0.206
*
0.435
***
1
FDI 0.148 0.102 -0.00165 -0.0172 1
Firm 0.126 0.0672 0.105 0.0979 0.664
***
1
Labor_FDI 0.0865 0.104 -0.0250 -0.123 0.758
***
0.783
***
1
Emp 0.111 -0.0452 0.158 0.0585 -0.0167 -0.00149 -0.0554 1
Growth 0.271
**
0.179 0.348
***
0.200
*
0.326
***
0.200
*
0.212
*
0.375
***
1
Inf -0.157 -0.0103 -0.133 -0.0708 0.137 -0.163 -0.0593 -0.194 -0.208
*
1
Urban 0.0891 0.0780 0.485
***
0.674
***
-0.150 -0.0657 -0.358
***
0.224
*
0.336
***
-0.0733 1
Private 0.153 0.0590 0.140 0.207
*
0.317
**
0.395
***
0.263
**
0.218
*
0.495
***
-0.189 0.242
*
1
***, **, * lần lượt là mức ý nghĩa 1%, 5%, 10%.
Nguồn: Tác giả tính toán từ phần mềm Stata

74
CHƯƠNG 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1.Thực trạng thu hút FDI của vùng đồng bằng sông Cửu Long
Trong bối cảnh dịch bệnh covid-19, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn
gia tăng tại Việt Nam. Tính chung vốn cấp mới, vốn điều chỉnh và góp vốn, mua cổ
phần của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong 4 tháng năm 2021 đạt 12,25 tỉ
USD. Trong đó tỉnh Long An là địa phương dẫn đầu thu hút vốn FDI mới, với 3,3 tỉ
USD; thứ hai là thành phố Cần Thơ với 1,3 tỉ USD, thành phố Hồ Chí Minh xếp thứ
ba với 1,1 tỉ USD. Trong các vùng kinh tế của cả nước, dù không có lợi thế so với
vùng Đông Nam Bộ, nhưng ĐBSCL đang là điểm đến tiềm năng của nhà đầu tư,
đặc biệt là ngành nông nghiệp, công nghiệp chế biến, năng lượng. Trong đó, nếu
năm 2020, tỉnh Bạc Liêu vượt lên vị trí thứ 3 của vùng ĐBSCL về thu hút vốn FDI,
với Dự án Nhà máy điện khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) vốn 4 tỉ USD thì trong 4
tháng/ 2021 Long An có thêm 1 dự án FDI mới, vốn đăng ký trên 3,1 tỉ USD là Dự
án Nhà máy điện LNG Long An I và II (vốn Singapore); Thành phố Cần Thơ có Dự
án Nhà máy nhiệt điện Ô Môn II (vốn Nhật Bản) trên 1,31 tỉ USD... Đây là những
dự án vốn FDI “khủng” đầu tư vào vùng ĐBSCL hứa hẹn tạo sức phát triển mới
trong thu hút đầu tư và phát triển kinh tế của vùng. Tám tháng đầu năm 2020, các
tỉnh, thành phố vùng ÐBSCL thu hút được 119 dự án FDI mới, với tổng vốn hơn
4,487 tỷ USD. Nếu tính cả vốn tăng thêm, vốn góp và mua cổ phần thì toàn vùng
thu hút thêm gần 4,99 tỷ USD (trong đó 4 tỷ USD của dự án tại Bạc Liêu). Trong số
13 tỉnh, thành phố, 10 địa phương có dự án FDI mới (trừ Cà Mau, Ðồng Tháp và
Sóc Trăng).
Hình 4.1. Thực trạng thu HÚT FDI vào ĐBSCL giai đoạn 2010 - 2019
Nguồn: Niên giám thống kê 2010 - 2019

75
Nhìn chung xét theo quy mô vốn FDI vào ĐBSCL từ năm 2010 đến năm 2019
gồm 2 giai đoạn như sau:
Giai đoạn 2010 – 2013: Số lượng dự án tăng nhẹ sau đó giảm liên tục trong ba
năm (hình 4.5). Ngược lại, tổng số vốn đăng ký và tổng vốn thực hiện có xu hướng
dao động mạnh vào năm 2011, nhưng sau đó tăng chậm. Đây là giai đoạn hậu
khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008, kinh tế thế giới nói chung và các quốc gia
đang phát triển nói riêng gặp nhiều khó khăn. Kinh tế thế giới sau khi tăng trưởng
đạt mức 5,1% năm 2010 thì giảm mạnh về mức 3,9% năm kế tiếp. Mức tăng trưởng
này thấp hơn mức tăng trưởng trung bình 5% ở giai đoạn trước khi khủng hoảng
xảy ra. Ở các nước đang phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế diễn ra chậm, dao
động từ 4,7% đến 7,3%.
Giai đoạn 2014 – 2019: Tổng vốn đăng ký, tổng vốn thực hiện và số dự án
tăng đều (hình 4.5). Nguyên nhân, đây là giai đoạn tăng cường hội nhập sâu với thế
giới và có nhiều cải thiện về chính sách liên quan đến đầu tư, một số sự kiện điển
hình có thể kể đến như (1) năm 2015: Việt Nam kết thúc đàm phán 4 hiệp định
thương mại tự do với Liên minh kinh tế Á-Âu, Liên minh châu Âu, Hàn Quốc và
các đối tác xuyên Thái Bình Dương, Cộng đồng kinh tế ASEAN được hình thành từ
ngày 31/12/2015 là nền tảng để giúp Việt Nam có nhiều thuận lợi trong tiến trình
hội nhập; (2) năm 2016, Việt Nam đăng cai tổ chức thành công các hội nghị cấp cao
ACMECS-7, CLMV-8, WEF Mekong, tích cực tham gia các diễn đàn khu vực và
quốc tế; (3) năm 2017, Việt Nam tổ chức thành công Tuần lễ APEC 2017, đưa Việt
Nam trở thành tâm điểm chú ý của thế giới (Đặng Hoài Linh, 2020); (3) năm 2018,
Quốc hội phê chuẩn Hiệp định Đối tác Toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình
Dương, là Hiệp định thương mại tự do lớn thứ ba trên thế giới; và (4) năm 2019,
Việt Nam và EU ký Hiệp động thương mại tự do và Hiệp định Bảo hộ đầu tư; Bộ
Chính trị ban hành Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 về Định hướng hoàn
thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài
đến năm 2030 (Đặng Hoài Linh, 2020).

76
Bảng 4.1. FDI lũy kế đến năm 2019 theo cơ cấu ngành ở ĐBSCL
Đơn vị tính: số dự án, triệu USD
Tỉnh
Dự ánVốn đăng kýDự ánVốn đăng kýDự ánVốn đăng ký
Nông nghiệp Công nghiệp, xây dựng Dịch vụ
Long An 4 10,23 951 5515,79 81 640,03
Tiền Giang 2 0,90 106 2175,80 10 185,40
Bến Tre 6 13,91 44 1116,96 5 20,84
Trà Vinh - - 5 100,70 - -
Vĩnh Long 2 3,00 50 763,69 12 7,73
Đồng Tháp 2 23,90 14 158,93 4 1,21
An Giang 1 5,20 19 214,20 18 53,20
Kiên Giang 3 45,18 11 2453,66 41 301,32
Cần Thơ 1 0,24 44 553,25 41 172,85
Hậu Giang 2 0,59 16 843,54 12 39,33
Sóc Trăng 2 2,76 10 178,31 1 0,81
Bạc Liêu 4 19,23 7 533,59 3 0,62
Cà Mau - - 5 364,63 2 6,50
Tổng cộng
toàn Vùng
29 125,14 1282 14973,05 230 1429,84
Nguồn: Niên giám thống kê 2019
Tính đến năm 2019, vùng ĐBSCL có 1.781 dự án FDI còn hiệu lực (hình 4.5).
Trong đó, tỉnh Long An dẫn đầu về thu hút FDI, với 1.036 dự án, vốn đăng ký hơn
6.166,05 triệu USD; kế đến là Tiền Giang với 118 dự án và 2.362,1 triệu USD (số
vấn đăng ký thấp hơn Kiên Giang), và Cần Thơ với 86 dự án xếp thứ ba, nhưng có
số vốn đăng ký thấp hơn cả Kiên Giang (bảng 4.1). Năm 2020, Bạc Liêu đứng thứ
ba toàn vùng về thu hút FDI với hơn 4,55 tỷ USD nhờ dự án đầu tư mới vào ngành
năng lượng có số vốn khủng 4 tỷ USD do Công ty Delta Offshore Energy Pte, Ltd
(Singapore) làm chủ đầu tư. Đây cũng là dự án FDI lớn nhất ở ĐBSCL từ trước tới
nay, mở ra cơ hội để Bạc Liêu nói riêng và khu vực ĐBSCL nói chung phát triển,
góp phần ổn định năng lượng cho giai đoạn 2020 - 2030 và những năm tiếp theo.

77
Bên cạnh đó, lĩnh vực thu hút nhiều vốn FDI nhất là công nghiệp xây dựng với tổng
số vốn đạt 14,973 tỷ USD, chiếm 90,59% tổng vốn đầu tư đăng ký, với 1282 dự án.
Lĩnh vực dịch vụ đứng thứ hai đạt 1,429 tỷ USD chiếm 8,651% tổng vốn đầu tư
đăng ký, lĩnh vực nông nghiệp vẫn chưa thu hút được nhiều vốn đầu tư từ FDI.
Bảng 4.2. Tỷ lệ vốn FDI giữa các vùng kinh tế (lũy kế đến 2019)
Tỉnh, thành phố Số dự án và tỷ lệ % Vốn đăng ký và tỷ lệ %
Đồng bằng sông Hồng 10.318,3 33,4 105.639 29,3
Trung du và miền núi phía Bắc 1.050,36 3,4 18.027,1 5,0
Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền
Trung
1977,15 6,4 58.768,2 16,3
Tây Nguyên 154,5 0,5 1.081,62 0,3
Đông Nam Bộ 15.693,6 50,8 153.951 42,7
Đồng bằng sông Cửu Long 1699,1 5,5 23.074,6 6,4
CẢ NƯỚC
(không bao gồm dự án dầu khí)
30.893
(Dự án)
100%
360.541
(Triệu
USD)
100%
Nguồn: Niên giám thống kê 2020
Để đánh giá một cách toàn diện về thực trạng vốn đầu tư nước ngoài ở vùng
ĐBSCL, nghiên cứu tiến hành so sánh tỷ trọng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
các vùng kinh tế trên cả nước (giá trị được tính toán lũy kế đến năm 2019) – như
được trình bày ở bảng 4.2. Tính đến hết năm 2019, tổng số dự án FDI vào Việt Nam
là 30.893 dự án, tương ứng với 360.541 (Triệu USD) nhưng vùng ĐBSCL chỉ
chiếm khoảng hơn 5% số lượng dự án, và hơn 6% số vốn đăng ký trên cả nước.
Điều này chứng tỏ việc thu hút vốn đầu tư ở vùng ĐBSCL kém hiệu quả. Không
cần so sánh với hai vùng kinh tế trọng điểm - Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam
Bộ, dù có được những điều kiện tự nhiên thuận lợi, nguồn lao động dồi dào, ít thiên
tai nhưng vùng ĐBSCL vẫn chịu thua kém so với khu vực Bắc Trung Bộ và Duyên
hải miền Trung, chiếm hơn 6,4%
tổng số dự án, và hơn 16% tổng số vốn đăng ký của cả nước.

78
Bảng 4.3. Tỷ lệ vốn FDI vào các tỉnh ở vùng ĐBSCL (lũy kế đến 2019)
Tỉnh, thành
phố
2010
2015
2019
Tỷ lệ
dự án
(%)
Tỷ lệ
vốn
đăng

(%)
Tỷ lệ dự
án
(%)
Tỷ lệ vốn
đăng ký
(%)
Tỷ lệ
dự
án
(%)
Tỷ lệ vốn
đăng ký
(%)
Long An 38,2627,16 70,78 18,8268,5 34,3
Tiền Giang 16,5233,86 6,49 1,876,9 11,2
Bến Tre 7,83 6,93 1,95 4,523,7 4,7
Trà Vinh 6,9610,95 1,30 68,472,5 14,4
Vĩnh Long 5,22 0,85 2,60 1,653,6 3,2
Đồng Tháp 0,87 0,03 0,65 0,891,1 0,7
An Giang 4,3511,71 3,25 1,481,5 1,2
Kiên Giang 4,35 0,98 3,25 1,273,5 20,8
Cần Thơ 4,35 0,58 4,55 0,525,0 3,1
Hậu Giang 3,48 4,98 0,00 0,001,3 2,3
Sóc Trăng 1,74 0,12 1,30 0,170,9 1,1
Bạc Liêu 1,74 0,17 0,00 0,000,8 2,4
Cà Mau 4,35 1,69 3,90 0,340,6 0,6
VÙNG ĐBSCL 115
(Dự
án)
558,145
(Triệu
USD)
154
(Dự án)
3690,28
(Triệu
USD)
1.781
(Dự
án)
23.065
(Triệu
USD)
Nguồn: Niên giám thống kê 2020
Tính đến 2019, vùng ĐBSCL thu hút được 1.781 dự án đầu tư nước ngoài với
số vốn đăng ký khoảng 23.065 triệu USD. Xét về cơ cấu FDI trong nội bộ vùng
ĐBSCL, tỷ trọng này vẫn không đồng đều, thậm chí có sự chênh lệch rất lớn giữa
tỉnh thấp nhất – Cà Mau, chiếm chưa đến 1% số lượng dự án và tổng số vốn đăng
ký của vùng, và tỉnh cao nhất – Long An, chiếm đến 68,5% số dự án và hơn 34% số
vốn đăng ký FDI vào vùng ĐBSCL. Tuy vị trí địa lý và điều kiện phát triển kinh tế
ở mỗi tỉnh khác nhau, nhưng sự khác biệt lớn (đến 68% và 33%) giữa các tỉnh thành
phố trong vùng vẫn cần được chú ý. Theo số liệu ở bảng 4.3, bốn tỉnh thành phố có
lượng vốn FDI đổ vào nhiều nhất là Long An (34,3%), Kiên Giang (20,8%), Trà

79
Vinh (14,4%) và Tiền Giang (11,2%). Về số lượng dự án, Long An chiếm hơn 60%
số lượng dự án của toàn vùng tạo khoảng cách lớn với 12 tỉnh còn lại. Trong khi đó,
các tỉnh thành phố chưa thu hút được đầu tư nước ngoài (có tỷ trọng dưới 1% tính
trên số lượng dự án và/hoặc tổng số vốn đăng ký) là Đồng Tháp, Sóc Trăng, Bạc
Liêu, và Cà Mau. Một điểm đáng lưu ý nữa là Thành phố Cần Thơ – dù được cho là
trung tâm kinh tế của Vùng ĐBSCL – cũng chỉ thu hút được khoảng 5% số lượng
dự án, tương ứng với 3,1% lượng vốn đăng ký.
Bảng 4.4. Tỷ trọng vốn đầu tư toàn xã hội của các tỉnh ở ĐBSCL qua các năm
giai đoạn 2010-2019
ĐVT: %
Tỉnh 2010201120122013201420152016201720182019
Long An 101112 9 9 1010111212
Tiền Giang11 9 1010101111111110
Bến Tre 8 6 6 6 5 6 6 5 5 5
Trà Vinh 4 4 4 7 1413 9 8 8 8
Vĩnh Long 6 5 5 5 5 5 5 5 5 4
Đồng Tháp 6 5 5 5 5 6 6 6 6 6
An Giang 6 6 5 5 5 5 5 5 6 5
Kiên Giang14131415151617171615
Cần Thơ 12201919171110101010
Hậu Giang 7 6 7 7 6 6 7 6 6 6
Sóc Trăng 4 3 4 3 3 3 4 4 4 5
Bạc Liêu 4 3 4 4 4 5 5 6 6 8
Cà Mau 9 9 6 5 4 4 4 4 4 5
Nguồn: Niên giám thống kê 2020
Nếu xem xét tổng lượng vốn đầu tư xã hội ở các tỉnh vùng ĐBSCL, sự chênh
lệch này giảm đi đáng kể. Ở đây tác giả làm tròn tỷ trọng đến số nguyên do tỷ trọng
không thay đổi nhiều qua các năm ở từng tỉnh. Cụ thể, trong năm 2019, chênh lệch
giữa tỉnh cao nhất – Kiên giang (15%) và tỉnh thấp nhất – Vĩnh Long (4%) là 11%.
Theo số liệu ở bảng 4.4, bốn tỉnh có tỷ lệ vốn đầu tư xã hội cao nhất trong năm 2019
ở vùng ĐBSCL gồm có: Long An (12%), Tiền Giang (10%), Kiên Giang (15%), và
Cần Thơ (10%). Các tỉnh còn lại có tỷ trọng khá đồng đều, dao động trong khoảng
5- 8%. Xét về sự biến động cơ cấu qua các năm, cơ cấu đầu tư phân theo tỉnh ở
ĐBSCL khá ổn định trong giai đoạn 2010-2019, trong đó biến động về tỷ trong cao
nhất chỉ

80
4% ở Cà Mau (tỷ trong cao nhất vào năm 2010 và thấp nhất ở mức 4% vào giai
đoạn 2014-2018).
Nhìn chung, năng lực huy động nguồn lực vốn đầu tư ở khu vực ĐBSCL còn
rất hạn chế, cơ cấu đầu tư chưa thật hợp lý, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư có xu
hướng giảm xuống. Vốn đầu tư trên địa bàn vùng ĐBSCL còn ít, năm 2017 vốn đầu
tư trên địa bàn vùng ĐBSCL là 297.053 tỷ đồng, chỉ chiếm có 17,8% vốn đầu tư
của cả nước. Hơn nữa, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế có
xu hướng giảm xuống, thể hiện ở hệ số ICOR (hệ số sử dụng vốn – tỷ lệ vốn trên
giá trị tăng thêm) có xu hướng tăng lên, từ 2,6 năm 2005 lên 4,5 năm 2012 và lên
5,1 năm 2017, nghĩa là để tăng thêm 1% GRDP ở vùng ĐBSCL thì tỷ lệ giữa vốn
đầu tư so với GRDP theo giá hiện hành phải tăng ngày càng nhiều hơn.
Trong cơ cấu vốn đầu tư trên địa bàn vùng ĐBSCL phân theo nguồn vốn, tỷ
trọng vốn của tổ chức doanh nghiệp có xu hướng giảm xuống, tỷ trọng vốn khu vực
đầu tư trực tiếp của nước ngoài rất thấp và phân bố không đồng đều giữa các tỉnh,
thành trong vùng do môi trường kinh doanh còn nhiều hạn chế. Cụ thể là, tỷ trọng
vốn của tổ chức doanh nghiệp trong vốn đầu tư trên địa bàn vùng ĐBSCL đã giảm
xuống từ 27,8% năm 2010 xuống còn 20,5% năm 2017. Vốn khu vực đầu tư trực
tiếp của nước ngoài năm 2017 chỉ chiếm có 7,3% vốn đầu tư trên địa bàn vùng
ĐBSCL. Tổng vốn đăng ký đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp giấy phép tính
đến hết ngày 31/12/2017 là 20 tỷ USD, trong đó Long An chiếm 34,7%, Tiền Giang
chiếm 11%, Trà Vinh chiếm 15,3%, Kiên Giang chiếm 21,8%, 9 tỉnh thành còn lại
chỉ chiếm có 17,2% vốn đăng ký đầu tư trực tiếp của nước ngoài trên địa bàn.
Trong cơ cấu vốn đầu tư trên địa bàn vùng ĐBSCL phân theo ngành kinh tế
(cơ cấu đầu tư) thì tỷ trọng vốn đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến còn rất thấp,
lại có xu hướng giảm xuống trong những năm vừa qua từ 21,5% năm 2010 xuống
chỉ còn 14,5% năm 2017. Trong nhóm ngành dịch vụ thì tỷ trọng vốn đầu tư vào
những ngành dịch vụ truyền thống sử dụng nhiều lao động phổ thông và cần ít vốn
đầu tư còn cao (chẳng hạn như tỷ trọng vốn đầu tư vào ngành thương nghiệp, sửa
chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác là 7,7% năm 2017); ngược lại, tỷ
trọng vốn đầu tư vào những ngành dịch vụ có tính chất động lực, có tác dụng thúc
đẩy quá trình CNH, HĐH còn thấp (chẳng hạn như tỷ trọng vốn đầu tư vào ngành
tài chính, ngân hàng và bảo hiểm là 2,3%; hoạt động khoa học và công nghệ là
0,3%; giáo dục và đào tạo là 3,4% năm 2017).

81
4.2.Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng đồng bằng sông Cửu Long
giai đoạn 2010 – 2019
Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) theo giá so sánh 2010 ở vùng ĐBSCL
trong giai đoạn 2010 - 2019 đã tăng lên gấp 1,76 lần, từ 339.445,7 tỷ đồng năm
2010 lên 596.551,9 tỷ đồng năm 2019. Trong đó, giá trị gia tăng của nhóm ngành
công nghiệp - xây dựng tăng lên gấp 2,2 lần, từ 74.715,7 tỷ đồng lên 165.511 tỷ
đồng; dịch vụ tăng lên 1,8 lần và nông - lâm - thủy sản gấp 1,3 lần (hình 4.6).
Đơn vị tính: tỷ đồng
Hình 4.2. Cơ cấu GRDP phân theo nhóm ngành của ĐBSCL giai đoạn 2010 –
2019 đo bằng giá trị
Nguồn: Niên giám thống kê 2010 – 2019
Như vậy, giá trị gia tăng của nhóm ngành nông – lâm – thủy sản đã tăng chậm
hơn so với GRDP, còn giá trị gia tăng của nhóm ngành công nghiệp – xây dựng
tăng nhanh hơn so với GRDP, giá trị gia tăng của nhóm ngành dịch vụ tăng chậm
hơn góp phần làm cơ cấu GRDP phân theo nhóm ngành kinh tế ở vùng ĐBSCL
trong giai đoạn 2010 - 2019 đã chuyển dịch theo hình 4.7 dưới đây. Theo đó, tỷ
trọng nhóm ngành nông - lâm - thủy sản trong GRDP có xu hướng giảm xuống.
Ngược lại, tỷ trọng nhóm ngành công nghiệp - xây dựng luôn thấp nhất và có xu
hướng tăng lên. Tỷ trọng nhóm ngành dịch vụ cũng có xu hướng tăng lên. Cơ cấu
GRDP phân theo nhóm ngành kinh tế chuyển dịch theo xu hướng trên là đúng với
quy luật của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong quá trình CNH, HĐH. Tốc độ
chuyển dịch cơ cấu GRDP phân theo nhóm ngành kinh tế ở vùng ĐBSCL trong giai

82
đoạn 2010 - 2019 được đo lường bằng hệ số cosφ. Hệ số này càng lớn (càng gần 1)
thì các cơ cấu càng gần nhau, cho thấy một sự chuyển dịch chưa nhanh. Kết quả
tính toán cho thấy rằng cơ cấu GRDP phân theo nhóm ngành kinh tế ở vùng
ĐBSCL trong giai đoạn này chuyển dịch vẫn còn rất chậm – tốc độ chuyển đổi cơ
cấu giữa năm 2010 so với năm 2019 là 0,98 (gần bằng 1).
Hình 4.3. Cơ cấu GRDP phân theo nhóm ngành của ĐBSCL 2010-2019 tính
bằng tỷ trọng %
Nguồn: Niên giám thống kê 2010 – 2019
Cơ cấu ngành kinh tế ở vùng ĐBSCL trong thời gian qua chuyển dịch theo
đúng quy luật của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong quá trình CNH, HĐH,
phát huy những tiềm năng và lợi thế của vùng đã có tác dụng tích cực đối với các
mặt của đời sống xã hội. Theo đó, năng suất lao động xã hội của vùng tăng từ 34,78
triệu đồng/lao động năm 2010 lên 60,62 triệu đồng/lao động năm 2019. Ngoài ra,
tốc độ tăng trưởng kinh tế của vùng (theo giá so sánh 2010) trong giai đoạn 2010 -
2019 đạt 6%/năm, tương đương với tốc độ tăng trưởng kinh tế của cả nước. GRDP
bình quân đầu người đã tăng từ 19,72 triệu đồng/người năm 2010 lên 34,52 triệu
đồng/người năm 2019; tuổi thọ trung bình đã tăng từ 74,1 tuổi lên 74,8 tuổi, tỷ lệ
dân số từ 15 tuổi trở lên biết chữ cũng đã tăng từ 92,2% lên 93,4%, tỷ lệ hộ nghèo
giảm từ 12,6% xuống còn 5,2% và tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm từ 17,03%
xuống 10,4%.
Công nghiệpNông nghiệp
2017201820192016
Dịch vụ
201020112012201320142015
100%
80%
60%
40%
20%
0%

83
Bảng 4.5. Tỷ trọng các ngành trong nhóm công nghiệp ở ĐBSCL 2010-2019
ĐVT: %
2010 2017 2019
Nhóm ngành công nghiệp 100 100 100
-Khai khoáng 1 0 1
-Công nghiệp chế biến, chế tạo 69 70 69
-Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước
nóng, hơi nước
11 12 12
-Xây dựng 19 18 18
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Niên giám thống kê 13 tỉnh, thành thuộc vùng ĐBSCL
Bảng 4.5 thể hiện tỷ trọng các ngành trong lĩnh vực công nghiệp ở khu vực
ĐBSCL trong giai đoạn 2010-2019. Nhìn chung, ta thấy ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo là ngành dẫn đầu trong lĩnh vực công nghiệp, đóng góp gần 70% giá
trị sản xuất trong 2019 của nhóm ngành này. Ngược lại, ngành công nghiệp khai
khoáng là ngành ít được chú trọng nhất là do không có điều kiện tự nhiên để phát
triển, và cũng là ngành ít tạo ra giá trị gia tăng trong nền kinh tế.
Bảng 4.6. Tỷ trọng các ngành trong lĩnh vực dịch vụ ở ĐBSCL 2010-2019
ĐVT: %
Nhóm ngành dịch vụ: 100 100 100
- Thương nghiệp; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy 31 33 35
- Dịch vụ lưu trú và ăn uống 10 12 20
- Vận tải kho bãi, thông tin và truyền thông 11 10 8
- Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm 10 7 14
- Hoạt động chuyên môn, KHCN 1 1 4
- Giáo dục và đào tạo 8 9 15
- Các ngành dịch vụ khác 30 28 5
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Niên giám thống kê 13 tỉnh, thành thuộc vùng ĐBSCL
Đối với nhóm ngành dịch vụ, nhìn chung, ta thấy rằng tỷ trọng của hầu hết
các ngành dịch vụ trọng yếu của tỉnh đều có xu hướng tăng lên với các mức độ
khác nhau (chỉ trừ ngành vận tải kho bãi, thông tin và truyền thông là có xu hướng
giảm xuống) (bảng 4.6). Tuy nhiên, những ngành dịch vụ truyền thống sử dụng
nhiều lao động phổ thông và cần ít vốn đầu tư như ngành thương nghiệp, sửa chữa

84
ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác, dịch vụ lưu trú và ăn uống còn chiếm
tỷ trọng cao trong cơ cấu dịch vụ. Ngược lại, những ngành dịch vụ có tính chất
động lực, có tác dụng thúc đẩy quá trình CNH, HĐH như ngành vận tải kho bãi,
thông tin và truyền thông, ngành tài chính, ngân hàng và bảo hiểm, hoạt động khoa
học và công nghệ, giáo dục và đào tạo còn chiếm tỷ trọng rất thấp.
Tỷ trọng của ngành thương nghiệp; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy trong nhóm
ngành dịch vụ ở vùng ĐBSCL trong giai đoạn 2010 – 2019 tăng nhẹ. Xét trên tổng
thể trong lĩnh vực dịch vụ ở ĐBSCL, ngành này là ngành quan trọng nhất chiếm
hơn 30% trong cơ cấu dịch vụ của vùng. Vấn đề này có thể giải thích do ngành này
chỉ yêu cầu vốn đầu tư cho mỗi lao động thấp (khoảng 17 triệu đồng/ năm), phù hợp
với điều kiện ít vốn và nhiều lao động phổ thông ở vùng ĐBSCL trong giai đoạn
hiện nay. Tương tư như vậy, với mức vốn đầu tư chỉ khoảng 9 triệu đồng/ năm cho
một lao động, ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống có điều kiện tăng trưởng nhanh hơn
những ngành khác trong lĩnh vực dịch vụ và trở thành ngành có tỷ trọng lớn thứ hai
trong lĩnh vực này vào năm 2019 (20%).
Xếp thứ ba trong cơ cấu dịch vụ ở ĐBSL là ngành giáo dục và đào tạo (chiếm
15% vào năm 2019). Ngành dịch vụ này có vai trò rất quan trọng trong việc nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài phục vụ quá trình CNH, HĐH.
Trong giai đoạn 2010-2019 tỷ trọng ngành này tăng. Đây xu hướng tích cực, cho
thấy sự chú trọng phát triển giáo dục từ phía chính quyền địa phương. Tuy nhiên,
vấn đề đặt ra đối với ngành giáo dục và đào tạo ở vùng ĐBSCL hiện nay là trình độ
dân trí và tỷ lệ lao động đã qua đào tạo còn thấp hơn so với các vùng kinh tế - xã
hội khác của cả nước. Riêng đối với lực lượng lao động đã qua đào tạo thì còn mất
cân đối trong cơ cấu trình độ và ngành nghề đào tạo, chất lượng đào tạo còn thấp
làm cản trở sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong quá trình CNH, HĐH ở vùng
trong thời gian tới.
Theo sau giáo dục vào đào tạo là ngành tài chính, ngân hàng và bảo hiểm
(chiếm 14% vào năm 2019). Vùng ĐBSCL hiện nay có hàng trăm chi nhánh ngân
hàng và quỹ tín dụng nhân dân đã có mặt khắp 13 tỉnh, thành phố thuộc vùng, hàng
chục doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, một số công ty cho thuê tài chính cũng đã
có mặt tại các trung tâm lớn của vùng.
Một trong những vấn đề cơ bản của ĐBSCL trong lĩnh vực dịch vụ là ngành
vận tải kho bãi, thông tin và truyền thông phát triển chậm chạp, không bắt nhịp kịp
thời với

85
phát triển kinh tế của vùng. Mạng lưới cầu đường trên địa bàn vẫn chịu tình trạng
quá tải so với nhịp độ tăng trưởng kinh tế - xã hội. Tình trạng kẹt xe, tai nạn giao
thông gia tăng đang tạo nên những trở lực rất đáng kể cho quá trình phát triển kinh
tế.
Cuối cùng, một trong những lổ hổng lớn nhất của vùng là vấn đề về phát triển
khoa học công nghệ. Tính đến 2019, tỷ trọng của ngành dịch vụ liên quan đến hoạt
động chuyên môn, khoa học và công nghệ chỉ chiếm vỏn vẹn 4%, thấp hơn rất
nhiều so với những ngành khác trong lĩnh vực dịch vụ nói riêng và trong cơ cấu
kinh tế vùng nói chúng. Trong quá trình CNH & HĐH, các hoạt động nghiên cứu
khoa học công nghệ cần được tập trung phát triển làm nền tảng để có những bước
tiến vượt bậc, tuy nhiên điều này lại bị bỏ ngõ trong nhiều năm, mãi đến năm 2010
mới bắt đầu có khởi sắc. Các đơn vị chuyên môn tham gia vào nghiên cứu khoa học
công nghệ ở vùng ĐBSCL hiện nay gồm có các trường đại học và cao đẳng đóng
trên địa bàn; Những kết quả nghiên cứu khoa học được ứng dụng ngày càng nhiều
vào trong nhóm ngành nông - lâm - thủy sản, công nghiệp - xây dựng, thủy lợi...
góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả.
Như vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của ĐBSCL giai đoạn 2010 - 2019 có
bốn đặc điểm. Thứ nhất, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã đi đúng hướng và
đóng góp đáng kể cho tăng trưởng kinh tế. Tỷ trọng đóng góp vào GRDP của các
ngành kinh tế phù hợp với xu hướng phát triển của các nền kinh tế hiện đại, phát
triển đi trước. Thứ hai, cơ cấu kinh tế của vùng đang có sự chuyển dịch từ nền kinh
tế lấy công nghiệp, nông nghiệp là chính sang nền kinh tế lấy dịch vụ và công
nghiệp làm trọng tâm. Trong đó, ngành dịch vụ có tốc độ tăng trưởng cao và chiếm
tỷ trọng ngày càng lớn trong cơ cấu GRDP. Thứ ba, tốc độ chuyển dịch vẫn còn rất
chậm so với các vùng kinh tế khác. Cuối cùng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế tuy đã
đúng hướng nhưng không hoàn toàn tích cực, cụ thể một số ngành dịch vụ có giá trị
gia tăng thấp vẫn còn chiếm tỷ trọng rất cao, và ngược lại, những ngành dịch vụ
trọng điểm trong quá trình CNH, HĐH vẫn còn bỏ ngõ, ví dụ như ngành vận tải,
thông tin truyền thông và nghiên cứu KHCN.

86
Bảng 4.7. Tỷ trọng đóng góp của các địa phương vào GRDP vùng ĐBSCL
2010-2019
ĐVT: %
Tỉnh 2010201120122013201420152016201720182019
Long An 10101110111212121313
Tiền Giang 10101010101010101010
Bến Tre 6 6 6 6 5 6 6 6 6 6
Trà Vinh 4 5 5 5 5 5 5 6 6 7
Vĩnh Long 6 6 6 6 6 6 6 6 6 6
Đồng Tháp 9 9 9 9 9 9 9 9 9 9
An Giang 101010 9 9 10 9 9 9 9
Kiên Giang 13141414151111111111
Cần Thơ 9 9 9 9 9 9 9 9 9 9
Hậu Giang 4 4 4 4 4 4 4 4 4 4
Sóc Trăng 7 7 7 7 7 6 6 6 6 6
Bạc Liêu 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5
Cà Mau 7 6 6 7 7 7 7 7 7 7
Nguồn: Niên giám thống kê 2020
Xét về tỷ trọng đóng góp của từng địa phương vào kinh tế chung ở vùng
ĐBSCL trong giai đoạn 2010-2019 (bảng 4.7), số liệu từ Tổng cục thống kê cho
thấy Long An, Tiền Giang và Kiên Giang là ba tỉnh đóng góp hơn 10% trong nền
kinh tế của vùng. Ngược lại, Hậu Giang và Bạc Liêu là hai tỉnh đóng góp ít nhất vào
kinh tế ĐBSCL, tương ứng với 4% và 5%. Xét về sự biến động trong giai đoạn
2000-2019, tỷ trọng đóng góp các tỉnh vào nền kinh tế của vùng gần như không đổi,
chỉ chênh lệch từ 1-3% trong giai đoạn này.
Trong nghiên cứu này, tác giả cũng phân tích cơ cấu kinh tế ở từng địa
phương và ước tính tốc độ chuyển đổi CDCCNKT bằng hệ số cos(φ) như được trình
bày ở bảng 4.8. Ta thấy rằng, chỉ hai tỉnh - Long An, và Cần Thơ trong số 13 tỉnh
vùng ĐBSCL là có tỷ trọng nông nghiệp thấp, và đúng với cơ cấu định hướng của
chính phủ trong quá trình CNH, HĐH. Trong khi các tỉnh khác, tỷ trọng nhóm
ngành nông, lâm, thủy sản vẫn còn rất cao, điển hình là Tiền Giang (40%), Bạc Liêu
(46%), Sóc Trăng (48%). Đánh giá về hệ số cos(φ), Trà Vinh, Long An, Kiên
Giang, và Tiền Giang là nhóm địa phương dẫn đầu về tốc độ chuyển đổi cơ cấu kinh
tế trên mức trung bình của Vùng (0.98). Trong khi đó, ba tỉnh – Vĩnh Long, Hậu
Giang, Sóc

87
Trăng có cơ cấu kinh tế gần như không đổi trong giai đoạn 2010-2019. Tuy nhiên,
một vấn đề cần lưu ý là hệ số cosφ chỉ đánh giá sự khác biệt giữa hai cơ cấu kinh tế
qua các năm, chứ không thể cho biết xu hướng chuyển dịch. Điển hình là Cần Thơ –
địa phương có hệ số cosφ 0.995 (rất thấp) không có chuyển dịch cơ cấu nhiều vì cơ
cấu kinh tế từ ban đầu đã đi đúng hướng với định hướng CNH, HĐH.
Bảng 4.8. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế mất cân đối ở ĐBSCL
Tỉnh
Hệ số CDCCNKT
2010-2019
Cơ cấu kinh tế năm 2019 (%)
Nông nghiệpCông nghiệpDịch vụ
Trà Vinh 0.838 33 39 29
Long An 0.936 18 53 29
Kiên Giang 0.969 35 20 45
Tiền Giang 0.978 40 30 30
An Giang 0.981 39 15 46
Bến Tre 0.984 33 21 46
Cà Mau 0.989 32 39 29
Đồng Tháp 0.990 37 25 38
Bạc Liêu 0.993 46 19 35
Cần Thơ 0.995 12 37 51
Vĩnh Long 0.996 34 21 45
Hậu Giang 0.998 29 27 44
Sóc Trăng 0.999 48 16 36
Nguồn: Niên giám thống kê 2020
Qua phân tích cơ cấu giá trị sản xuất trong nền kinh tế ta thấy rằng quá trình
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở vùng ĐBSCL trong thời gian qua đã đạt được
những thành tựu chủ yếu như sau:
Thứ nhất, cơ cấu GRDP phân theo nhóm ngành kinh tế ở vùng ĐBSCL trong
giai đoạn 2010 - 2019 đã chuyển dịch theo đúng quy luật của chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế trong quá trình CNH, HĐH. Cụ thể: tỷ trọng nhóm ngành nông – lâm
thủy sản trong GRDP có xu hướng giảm xuống; ngược lại tỷ trọng nhóm ngành công
nghiệp - xây dựng trong GRDP có xu hướng tăng lên; tỷ trọng nhóm ngành dịch vụ
trong GRDP cũng có xu hướng tăng lên. Tuy nhiên, cơ cấu GRDP phân theo nhóm
ngành kinh tế ở vùng ĐBSCL trong giai đoạn 2010 - 2019 chuyển dịch theo hướng
CNH, HĐH còn chậm. Nhóm ngành nông - lâm - thủy sản còn chiếm tỷ trọng cao
trong GRDP, nhóm ngành công nghiệp - xây dựng còn chiếm tỷ trọng thấp nhất
trong GRDP.
Thứ hai, tỷ trọng của các ngành công nghiệp và xây dựng trong GRDP đã
chuyển dịch đúng hướng. Cụ thể, tỷ trọng ngành khai khoáng trong GRDP có xu

88
hướng giảm xuống. Ngược lại, tỷ trọng ngành công nghiệp chế biến và ngành sản
xuất và phân phối điện, khí đốt và nước có xu hướng tăng lên. Sự chuyển dịch này
vừa phù hợp với đặc thù ở vùng ĐBSCL là vùng có tài nguyên khoáng sản rất hạn
chế, vừa phù hợp với xu hướng của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong quá
trình CNH, HĐH. Tuy nhiên, tỷ trọng của các ngành công nghiệp và xây dựng
trong GRDP chuyển dịch còn rất chậm. Ngành công nghiệp chế biến còn chiếm tỷ
trọng thấp trong GRDP (năm 2017 chỉ chiếm có 18,8% GRDP), đây là hạn chế cốt
lõi cần khắc phục trong thời gian tới.
Thứ ba, về tỷ trọng của các ngành dịch vụ trong GRDP thì tỷ trọng của hầu hết
các ngành dịch vụ trong GRDP đều có xu hướng tăng lên. Trong nhóm ngành dịch
vụ thì những ngành dịch vụ truyền thống sử dụng nhiều lao động phổ thông và cần
ít vốn đầu tư như ngành thương nghiệp, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động
cơ khác, dịch vụ lưu trú và ăn uống còn chiếm tỷ trọng cao trong GRDP. Ngược lại,
những ngành dịch vụ có tính chất động lực, có tác dụng thúc đẩy quá trình CNH,
HĐH như ngành vận tải kho bãi, thông tin và truyền thông, ngành tài chính, ngân
hàng và bảo hiểm, hoạt động khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo còn chiếm
tỷ trọng thấp trong GRDP.
4.3.Thực trạng vai trò của FDI thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long 2010 - 2019
Để đánh giá mối quan hệ giữa FDI và CDCCNKT, nghiên cứu tiến hành thu
thập số liệu từ Niên giám thống kê 2020, và tổng hợp lại thành bảng 4.9 và bảng
4.10 để so sánh giữa cơ cấu GRDP của các tỉnh, thành phố vùng ĐBSCL với tỷ
trọng của vốn FDI đăng ký vào các ngành kinh tế (số liệu lũy kế đến 2019). Xét tỷ
trọng GRDP ở các tỉnh thành phố, ta thấy hầu hết giá trị sản xuất kinh tế đều tập
trung vào bốn ngành ở ba lĩnh vực khác nhau (bảng 4.9). Cụ thể, trong lĩnh vực
nông nghiệp, là ngành nông lâm thủy sản với tỷ trọng trong khoảng 30-40%, trừ
Long An và Cần Thơ dưới 20%; trong lĩnh vực công nghiệp, ngành công nghiệp
chế biến chế tạo (tỷ trọng và ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng,
hơi nước là hai ngành có tỷ trọng cao nhất; và trong lĩnh vực dịch vụ, ngành bán
buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy đóng vai trò then chốt (bảng 4.9).
Xét về cơ cấu vốn FDI đăng ký chảy vào từng địa phương ở vùng ĐBSCL (lũy
kế đến 2019), công nghiệp chế biến, chế tạo; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt,
nước nóng, hơi nước; và Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy là ba

89
ngành có tỷ trọng vốn cao nhất (bảng 4.10). Đây là 3 ngành thuộc lĩnh vực công
nghiệp và dịch vụ. Nhờ vào nguồn vốn FDI này, cơ cấu kinh tế ở ĐBSCL mới có
những chuyển biến tích cực, từ nền kinh tế nông nghiệp là chính, sang nền kinh tế
dựa trên công nghiệp và dịch vụ. Một khía cạnh nữa cần chú ý đến là sự mất cân đối
trong việc thu hút vốn đầu tư giữa các ngành kinh tế ở vùng ĐBSCL. Bảng 4.10 thể
hiện sự chênh lệch rất lớn giữa tỷ trọng vốn FDI vào ngành cao nhất - Công nghiệp
chế biến, chế tạo (trung bình là 79%), và những ngành thấp nhất, gần 0% - điển
hình là ngành Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải; Vận tải kho bãi;
Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ - đây là những ngành chủ chốt
trong quá trình CNH, HĐH nhưng có tỷ lệ đầu tư nước ngoài không đáng kể.
Trong khi tỷ trọng GRDP của khu vực công nghiệp và dịch vụ của Vùng có
chiều hướng tăng lên thì khu vực nông nghiệp lại có chiều hướng đi xuống. Đồng
thời, cơ cấu thương mại cũng có xu hướng chuyển dịch sang việc tăng cường những
sản phẩm mới, có hàm lượng giá trị gia tăng cao nhờ quá trình chuyển giao công
nghệ, kỹ thuật tiên tiến của các nhà đầu tư nước ngoài.
Cơ cấu ngành kinh tế ở vùng ĐBSCL trong thời gian qua chuyển dịch theo
đúng quy luật của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong quá trình CNH, HĐH,
phát huy những tiềm năng và lợi thế của vùng đã góp phần làm tăng năng suất lao
động xã hội, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an ninh lương thực của
cả nước và thúc đẩy tiến bộ xã hội ở vùng trong thời gian qua.
Về mặt tích cực, sự tham gia của FDI trong nền kinh tế đã bắt kịp theo đúng
xu hướng CNH, HĐH trên phạm vi toàn cầu. Tức là FDI tập trung vào phần lớn
các ngành công nghiệp, đặc biệt là các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, vốn
là các ngành thâm dụng về lao động rất phù hợp với điều kiện thực tế của ĐBSCL,
giúp tận dụng triệt để nguồn nhân lực dồi dào, giá rẻ. Nhờ đó, FDI đã góp phần
tích cực trong việc dẫn dắt sự chuyển dịch trong tỷ trọng GRDP của Vùng, tăng tỷ
trọng công nghiệp và giảm dần đối với khu vực nông nghiệp. Tuy nhiên, về mặt
tiêu cực, sự xuất hiện của FDI một cách dày đặc vào khu vực công nghiệp cũng đã
tạo ra sự mất cân đối trong cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế trong cả ngắn hạn và dài
hạn. Nhưng FDI cũng đã đẩy CDCCKT diễn ra nhanh chóng và sâu rộng hơn khi
mà FDI dần có sự phân bổ sang các khu vực khác ngoài công nghiệp, mặc dù trong
ngắn hạn vẫn có một độ trễ nhất định.

90
Bảng 4.9. Tỷ trọng GRDP ở ĐBSCL (lũy kế đến năm 2019)
ĐVT: %
Tỷ trọng GRDP
Long
An
Tiền
Giang
Bến
Tre
Trà
Vinh
Vĩnh
Long
Đồng
Tháp
An
Giang
Kiên
Giang
Cần
Thơ
Hậu
Giang
Sóc
Trăng
Bạc
Liêu

Mau
Nông nghiệp, lâm nghiệp
và thủy sản 17 41 39 34 35 38 37 34 10 29 47 45 35
Khai khoáng 0 0 0 0 0 0 1 1 0 0 0 0 2
Công nghiệp chế biến, chế
tạo 48 24 14 9 14 16 8 12 28 20 8 8 10
Sản xuất và phân phối
điện, khí đốt, nước nóng,
hơi nước 1 1 1 21 1 1 1 1 3 1 1 3 17
Cung cấp nước; hoạt động
quản lý và xử lý rác thải 1 0 0 0 0 0 1 0 0 0 0 0 0
Xây dựng 4 3 4 5 5 4 4 7 6 5 5 7 4
Bán buôn và bán lẻ; sửa
chữa ô tô, mô tô, xe máy 9 7 9 8 9 12 11 8 16 9 7 8 9
Vận tải kho bãi 1 1 2 1 2 1 3 7 2 2 1 2 1
Dịch vụ lưu trú và ăn uống 3 3 4 3 6 7 8 8 5 7 6 4 2
Thông tin và truyền thông 2 2 3 3 5 2 3 2 3 5 3 3 3
Hoạt động tài chính, ngân
hàng và bảo hiểm 2 2 3 2 3 2 3 2 4 3 2 3 2
Hoạt động kinh doanh bất 5 5 6 3 6 6 4 8 5 4 5 2 4

91
Tỷ trọng GRDP
Long
An
Tiền
Giang
Bến
Tre
Trà
Vinh
Vĩnh
Long
Đồng
Tháp
An
Giang
Kiên
Giang
Cần
Thơ
Hậu
Giang
Sóc
Trăng
Bạc
Liêu

Mau
động sản
Hoạt động chuyên môn,
khoa học và công nghệ 0 1 1 1 1 1 1 0 1 1 2 0 1
Hoạt động hành chính và
dịch vụ hỗ trợ 0 0 0 0 0 0 0 0 1 0 0 0 0
Hoạt động của Đảng cộng
sản, tổ chức chính trị XH 2 2 3 3 3 2 5 1 4 3 3 3 3
Giáo dục và đào tạo 2 3 4 4 5 4 6 3 4 4 4 3 3
Y tế và hoạt động trợ giúp
xã hội 1 2 3 2 2 2 3 1 4 1 2 3 2
Nghệ thuật, vui chơi và
giải trí 1 1 1 1 2 1 1 2 1 2 1 2 1
Hoạt động dịch vụ khác 1 1 1 1 1 1 2 1 1 2 1 2 1
Hoạt động làm thuê các
công việc trong các hộ GĐ 0 0 0 0 0 0 0 0 1 1 0 0 0
Hoạt động của các tổ chức
và cơ quan quốc tế 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
Nguồn: Niên giám thống kê 2020

92
Bảng 4.10. Tỷ trọng vốn FDI đăng ký ở ĐBSCL (lũy kế đến năm 2019)
ĐVT: %
Tỷ trọng vốn FDI đăng ký
Long
An
Tiền
Gia
ng
Bế
n
Tr
e
Trà
Vinh
Vĩnh
Long
Đồng
Tháp
An
Giang
Kiên
Giang
Cần
Thơ
Hậu
Giang
Sóc
Trăng
Bạc
Liêu

Mau
Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản0 010 0 13 2 2 0 0 2 3 6
Khai khoáng 0 000 0 0 0 0 0 0 0 0 0
Công nghiệp chế biến, chế tạo 7992437 99 86 79 41 69 90 501020
Sản xuất và phân phối điện, khí đốt,
nước nóng, hơi nước
0 05293 0 0 0 46 1 2 488672
Cung cấp nước; hoạt động quản lý và
xử lý rác thải
8 020 0 0 0 0 7 0 0 0 0
Xây dựng 2 000 0 0 0 0 0 3 0 0 0
Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô
tô, xe máy
0 000 0 0 20 1 13 0 0 0 0
Vận tải kho bãi 3 000 0 0 0 1 1 0 0 0 0
Dịch vụ lưu trú và ăn uống 0 310 0 0 0 3 1 3 0 0 0
Thông tin và truyền thông 0 000 0 0 0 0 0 0 0 0 0
Hoạt động tài chính, ngân hàng và
bảo hiểm
0 000 0 0 0 0 0 0 0 0 0
Hoạt động kinh doanh bất động sản 7 400 0 0 0 0 7 0 0 0 0

93
Tỷ trọng vốn FDI đăng ký
Long
An
Tiền
Gia
ng
Bế
n
Tr
e
Trà
Vinh
Vĩnh
Long
Đồng
Tháp
An
Giang
Kiên
Giang
Cần
Thơ
Hậu
Giang
Sóc
Trăng
Bạc
Liêu

Mau
Hoạt động chuyên môn, khoa học và
công nghệ
0 000 0 0 0 0 0 0 0 0 0
Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ
trợ
0 010 0 0 0 0 0 0 0 0 0
Hoạt động của Đảng cộng sản, tổ
chức chính trị XH
0 000 0 0 0 0 0 0 0 0 0
Giáo dục và đào tạo 0 000 0 0 0 2 0 0 0 0 0
Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội 0 000 0 0 0 0 0 0 0 0 0
Nghệ thuật, vui chơi và giải trí 0 000 0 1 0 4 2 0 0 0 1
Hoạt động dịch vụ khác 0 000 0 0 0 0 0 1 0 0 0
Hoạt động làm thuê các công việc
trong các hộ GĐ
0 000 0 0 0 0 0 0 0 0 0
Hoạt động của các tổ chức và cơ quan
quốc tế
0 000 0 0 0 0 0 0 0 0 0
Nguồn: Niên giám thống kê 2020

94
Xét về cách thức tác động, FDI trực tiếp tác động CDCCNKT bằng việc xuất
hiện một số ngành mang lại nhiều lợi ích kinh tế như công nghệ thông tin, điện tử,
chế biến nông sản, dệt may. Nhưng FDI cũng đồng thời gián tiếp tác động đến quá
trình này thông qua việc xuất khẩu, phân công lao động quốc tế, di chuyển lao động,
chuyển giao kỹ thuật, liên kết trong sản xuất,…nhờ đó, cho phép ĐBSCL tận dụng
tối ưu hóa các nguồn lực sẵn có kết hợp với sự phát triển trong công nghệ.
Như vậy, kết quả của hai bảng trên đã cho thấy FDI tác động trực tiếp đến tăng
trưởng kinh tế, tuy nhiên mức độ không đồng đều theo các tỉnh trong Vùng. Với
những tỉnh có lượng FDI thấp sẽ có mức độ tác động của FDI đến tỷ trọng GRDP
tương đối yếu. Điều này cho thấy khả năng hấp thụ FDI của các tỉnh trong Vùng
khác nhau, phụ thuộc vào các yếu tố như đầu tư con người, công nghệ, đầu tư cho
nghiên cứu và phát triển… Do đó việc thực hiện phân tích tác động của FDI đến
CDCC ngành kinh tế của Vùng rất cần thiết nhằm đánh giá chính xác hơn mức độ
tác động và từ đó đề xuất các biện pháp tăng cường khả năng thúc đẩy quá trình
này.
4.4.Kết quả đo lường tác động của FDI đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
ở Vùng đồng bằng sông Cửu Long
4.4.1.Tốc độ chuyển dịch
Sau khi tiến hành thu thập dữ liệu, tác giả tiến hành tổng hợp so sánh cơ cấu
kinh tế của từng tỉnh thành phố trong khu vực ĐBSCL, sau đó tính toán hệ số
chuyển dịch cos(φ) để đánh giá tốc độ chuyển dịch. Bảng 4.11 hể hiện tổng vốn đầu
tư trực tiếp và cơ cấu kinh tế ở vùng ĐBSCL ở hai thời điểm 2012 và 2019 và giá
trị ĐBSCL là giá trị trung bình của tất cả các tỉnh thành phố. Xét về vốn FDI hàng
năm của vùng, nguồn vốn đầu tư FDI trung bình của cả vùng tăng từ 1.02 (nghìn tỷ
đồng) năm 2012 đến 2.10 (nghìn tỷ đồng) năm 2019, hơn gấp đôi thời điểm ban
đầu. Nhìn chung, tỷ trọng Nông nghiệp đã giảm xuống, nhưng đa phần chuyển về
nhóm ngành Dịch vụ hơn là ngành Công nghiệp – chỉ riêng một số tỉnh có vốn FDI
lớn chuyển dịch sang lĩnh vực Công nghiệp. Điển hình hai tỉnh có khuynh hướng
chuyển dịch sang Công nghiệp nhờ vào đầu từ FDI là Long An và Tiền Giang do có
lợi thế về vị trí địa lý gần Trung tâm kinh tế trọng điểm phía nam – Thành phố Hồ
Chí Minh. Riêng Cần Thơ – thành phố trung tâm của vùng ĐBSCL – có cơ cấu kinh
tế khác biệt nhất, với lĩnh vực Dịch vụ chiếm ưu thế tuyệt đối (gần 70% vào năm
2019). Trong khi đó, các tỉnh thành phố còn lại, mặc dù có xu hướng chuyển dịch
sang Công nghiệp và Dịch vụ, vẫn còn phụ thuộc vào nông nghiệp với tỷ trọng trên

95
30% trong cơ cấu. Điều này được lý giải rằng, mặc dù chuyển hướng theo xu thế
mới, nhưng lợi thế cố hữu của ĐBSCL vẫn là phát triển nông nghiệp và trọng trách
đảm bảo lương thực cho cả khu vực kinh tế phía nam.
Đánh giá về tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tốc độ chuyển dịch trung bình
trong giai đoạn 2012-2019 của cả vùng còn khá chậm (hệ số cos(φ)= 0.9615). Tỉnh
có tốc độ chuyển dịch nhanh nhất là Bến Tre (hệ số cos(φ)=0.8912) và chậm nhất là
Cà Mau (hệ số cos(φ)=0.9975). Tuy nhiên, xem xét một cách khách quan, hệ số
chuyển dịch này chưa phản ánh đầy đủ về chuyển dịch cơ cấu kinh tế của vùng. Lấy
Long An và Cần Thơ làm ví dụ điển hình, ta thấy hai tỉnh thành phố này có tốc độ
chuyển dịch rất chậm – Long An (0.9559) và Cần Thơ (0.9911) nhưng thực tế là do
hai địa phương này đã đat được cơ cấu kinh tế hoàn thiện, theo đúng định hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Bảng 4.11. Cơ cấu kinh tế ĐBSCL giai đoạn 2012-2019
Cơ cấu kinh tế năm 2012* Cơ cấu kinh tế năm 2019
Hệ số
chuyển
dịch
cos (φ)
2012-
2019
**
Vốn
FDI
(nghìn
tỷ)
Tỷ trọng
CN (%)
Tỷ
trọng
NN (%)
Tỷ trọng
DV (%)
Vốn
FDI
(nghìn
tỷ)
Tỷ
trọng
CN
(%)
Tỷ
trọng
NN (%)
Tỷ trọng
DV (%)
Long An 5.42 38.0227.99 33.98 8.6752.9618.12 28.920.9559
Tiền Giang 3.34 21.7045.39 32.91 5.0130.4739.58 29.950.9835
Bến Tre 1.09 31.9344.90 23.18 0.4320.8033.13 46.070.8912
Trà Vinh 0.51 30.6949.51 19.79 8.5938.6332.64 28.720.9419
Vĩnh Long 0.17 37.3034.19 28.51 1.3320.7934.39 44.820.9236
Đồng Tháp 0.07 21.4242.99 35.59 0.2324.9537.41 37.640.9934
An Giang 0.07 12.9146.88 40.21 0.0415.1238.93 45.950.9872
Kiên Giang 1.40 33.4140.35 26.24 0.2120.4234.56 45.020.9219
Cần Thơ 0.99 20.0020.00 59.99 1.1815.4915.49 69.020.9911
Hậu Giang 0.24 40.0925.57 34.33 1.2026.7629.37 43.870.9592
Sóc Trăng 0.00 14.8743.27 41.86 0.0815.9847.69 36.320.9933
Bạc Liêu 0.04 32.2544.02 23.73 0.1219.2046.29 34.500.9600
Cà Mau 0.00 38.0535.38 26.58 0.2638.6232.22 29.160.9975
ĐBSCL 1.02 28.6738.50 32.84 2.1026.1733.83 40.000.9615
Nguồn: Niên Giám thống kê 2020
Ghi chú: (*) vì không có số liệu của tỉnh Cà Mau vào năm 2010 và 2011, nên
tác giả tính toán kể năm 2012 thay thế; (**) Giá trị ở cột hệ số chuyển dịch được tô
màu theo giá trị giảm dần, hệ số càng thấp màu sắc càng đậm

96
Bên cạnh đó, nghiên cứu đo lường mức độ tác động của FDI đến chuyển dịch
cơ cấu ngành kinh tế của Vùng thông qua chỉ số cos(φ). Trong quá trình phân tích
hồi quy, vấn đề đa cộng tuyến và phương sai không đồng đều đều được kiểm tra.
Kết quả kiểm định ở phụ lục 4.6 cho thấy không có hiện tượng đa cộng tuyến trong
các mô hình (các giá trị VIF đều nhỏ hơn 10). Ngoài ra, kết quả kiểm định cho thấy
tồn tại hiện tượng tự tương quan và phương sai không đồng đều (phụ lục 4.7, 4.8)
và tác giả sử dụng tùy chọn robust trong phần mềm Stata để loại bỏ hiện tượng này.
Bên cạnh đó kiểm định về việc lựa chọn các mô hình hồi quy dữ liệu bảng (phụ lục
4.2, 4.4 và 4.5) cho thấy mô hình Pooled OLS là phù hợp nhất.
Kết quả bảng 4.12 cho thấy, FDI không tác động đến quá trình chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế của Vùng (mô hình 1). Tuy nhiên, khi xét đến mức độ chênh lệch
trong tác động của FDI theo tỉnh thì so với Long An, thì Cần Thơ và Kiên Giang có
mức độ tác động của FDI lên quá trình chuyển dịch cao hơn (mô hình 2). Điều này
cho thấy mặc dù lượng vốn FDI vào hai tỉnh này thấp hơn so với Long An nhưng
khả năng lan tỏa của dòng vốn hiệu quả hơn.
Tương đồng với các nghiên cứu trước (Giles, Park, và Cai, 2006; Wu và Chen,
2016; Diao và các cộng sự, 2019), kết quả cho thấy Urban (tỷ lệ dân thành thị) tác
động tích cực đến tốc độ CDCC ngành kinh tế của Vùng, bởi lẽ việc tập trung dân
cư ở các đô thị lớn của các tỉnh trong Vùng cũng góp phần phát triển các ngành
công nghiệp, dịch vụ. Ngược lại với Inf (chỉ số đo lường lạm phát) tác động tiêu cực
đến quá trình này và phần lớn các biến còn lại không có ý nghĩa thống kê. Nguyên
nhân của tình trạng trên là do giá cả biến động càng lớn sẽ góp phần ảnh hưởng đến
đầu tư của các ngành, qua đó kìm hãm tốc độ CDCC các ngành (Mankiw và các
cộng sự, 1992; Lewis, 1954).

97
Bảng 4.12. Kết quả mô hình đo lường tác động của FDI đến quá trình
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Vùng thông qua hệ số cos(φ)
BPT: Hệ số cosφ
(1) không có
biến tương tác
(2) có biến
tương tác
int1 = FDI x Cần Thơ 0,849**
(0,383)
int2 = FDI x Kiên Giang 0,568**
(0,221)
FDI: Vốn FDI 0,00974 0,00545
(0,0268) (0,0261)
I_Ind_Agr: Vốn công nghiệp/ nông nghiệp 0,00271 0,00213
(0,00388) (0,00399)
I_Ser_Agr: Vốn dịch vụ/ nông nghiệp -1,08e-05 0,00150
(0,00285) (0,00305)
Growth: Tăng trưởng kinh tế 0,630 0,315
(0,497) (0,531)
Emp: Tỷ lệ lao động qua đào tạo -0,00171 -0,00328
(0,00390) (0,00406)
Inf: Chỉ số giá so với 2010 -0,00446* -0,00415
(0,00259) (0,00262)
Urban: Tỷ lệ dân thành thị 0,0522*** 0,0505***
(0,0175) (0,0176)
Private: Vốn tư nhân 0,00772 0,0247**
(0,0107) (0,0124)
An Giang -0,487 -0,467
(0,400) (0,405)
Bạc Liêu -0,297 -0,240
(0,370) (0,377)
Bến Tre 0,600*** 0,589***
(0,204) (0,206)
Cà Mau -0,294 -0,322
(0,330) (0,329)

98
BPT: Hệ số cosφ
(1) không có
biến tương tác
(2) có biến
tương tác
Cần Thơ -2,694*** -3,642***
(0,982) (1,071)
Hậu Giang -0,205 -0,208
(0,277) (0,279)
Kiên Giang -0,495 -0,981**
(0,324) (0,384)
Sóc Trăng -0,429 -0,389
(0,388) (0,395)
Tiền Giang 0,185 0,0614
(0,153) (0,167)
Trà Vinh 0,184 0,255
(0,200) (0,203)
Vĩnh Long -0,0738 -0,0703
(0,265) (0,265)
Đồng Tháp 0,141 0,139
(0,247) (0,249)
Số quan sát 130 130
R-squared 0,889 0,895
Sai số chuẩn trong ngoặc đơn. ***, **, * lần lượt là mức ý nghĩa 1%, 5%, 10%.
Nguồn: Tác giả tính toán từ phần mềm Stata
4.4.2.Xu hướng chuyển dịch
Để đánh giá xu hướng chuyển dịch, tác giả sử dụng phương pháp định lượng,
hay chính xác hơn là mô hình hồi quy dữ liệu bảng, để đánh giá tác động của FDI và
các yếu tố kinh tế, cũng như yếu tố riêng biệt tác động đối với quá trình chuyển dịch
CCKT. Như được trình bày ở “khung phân tích”, Ind_Agr và Ser_Agr là biến phụ
thuộc đại diện cho tỷ trọng Công nghiệp so với Nông nghiệp và tỷ trọng Dịch vụ so
với Nông nghiệp. Biến FDI, Firm, và Labor_FDI đại diện cho vốn, số lượng doanh
nghiệp, số lượng lao động trong khu vực kinh tế có vốn FDI. Các biến còn lại đo
lường sự tác động của các yếu tố kinh tế khác đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

99
4.4.2.1.Xu hướng chuyển dịch từ Nông nghiệp sang Công nghiệp
Trước tiên, tác giả ước lượng mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ ngành
Nông nghiệp sang ngành Công nghiệp (gọi tắt là mô hình NN-CN) từ các biến được
lựa chọn trước đó. Cụ thể, biến phụ thuộc là IND_AGR (tỷ trọng sản lượng ngành
Công nghiệp so với tỷ trọng sản lượng ngành Nông nghiệp) để đo lường xu hướng
chuyển dịch từ Nông nghiệp sang Công nghiệp, và các biến phụ thuộc là
I_IND_AGR, FDI, FIRM, LABOR_FDI, EMP, GROWTH, INF, URBAN, và
PRIVATE. Như được đề cập ở phần Phương pháp nghiên cứu, nghiên cứu này sẽ sử
dụng hai mô hình là OLS và mô hình FEM. Kết quả chạy mô hình ban đầu được thể
hiện ở 4.13. Số liệu ước tính cho thấy rằng, các thông số ước lượng chưa hiệu quả
và vững chắc. Một trong những nguyên nhân có thể là do các vấn đề ước lượng đa
cộng tuyến, phương sai thay đổi, tương quan chuỗi làm sai lệch mô hình.
Bảng 4.13. Ước lượng mô hình chuyển dịch NN-CN ban đầu
Biến độc lập
Mô hình OLS Mô hình FEM
Hệ số
ước
lượng
Sai số
chuẩn
mạnh
Xác
xuất
P-value
Hệ số
ước
lượng
Sai số
chuẩn
mạnh
Xác
xuất
P-value
I_IND_AGR 0.002 0.0050.650-0.001 0.0060.848
FDI -0.042 0.0750.577 0.003 0.0800.972
FIRM -0.255 0.8270.759-1.068 2.0830.610
LABOR_FDI 0.063 0.0820.445 0.102 0.1550.514
EMP -0.007 0.0080.371-0.004 0.0090.660
GROWTH 0.020 0.0090.029 0.014 0.0140.314
INF 0.072 0.1820.695-0.003 0.1930.988
URBAN 0.002 0.0070.797-0.087 0.1870.645
PRIVATE -0.011 0.0140.406-0.019 0.0240.444
Hệ số chặn-7.14018.4560.700 3.020 21.4070.888
Nguồn: Tác giả tính toán từ phần mềm Stata
Vì mô hình ước lượng ở bảng 4.13 chưa vững và chưa hiệu quả, tác giả tiến
hành các kiểm định thống kê nằm tìm ra các nguyên nhân sai lệch. Trước tiên, kiểm
định Collin để kiểm tra đa cộng tuyến được thực hiện để xem xét việc thay thế hoặc
loại bỏ bớt các biến có tương quan cao. Bảng 4.14 thể hiện kết quả kiểm tra đa cộng
tuyến của mô hình NN-CN, cho thấy rằng mô hình NN-CN có khả năng đa cộng
tuyến với giá trị Mean VIF>2 và nguyên nhân chính nằm ở nhóm yếu tố FDI, bao

100
gồm 3 biến: LABOR_FDI (số lượng lao động hoạt động trong khu vực kinh tế
FDI), FIRM (số lượng doanh nghiệp hoạt động trong khu vực kinh tế FDI) và FDI
(vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hàng năm) với hệ số phóng đại VIF từng biến lần
lượt là 6.55 – 4.87 – 3.64, đều lớn hơn 3. Điều này, có nghĩa là, mô hình NN-CN
chỉ cần sử dụng duy nhất một biến để đại diện cho nhóm yếu tố FDI, vì vậy tác giả
giữ lại biến FDI và loại bỏ hai biến LABOR_FDI và FIRM; sau đó, kiểm tra lại hệ
số phóng đại Mean VIF được giá trị <2. Điều này khẳng định được không có đa
cộng tuyến sau khi loại bỏ hai biến trên.
Bảng 4.14. Kết quả kiểm tra đa cộng tuyến mô hình NN-CN
Biến phụ thuộc Hệ số phóng đại VIF Giá trị Tolerance=1/VIF
LABOR_FDI 6.55 0.152786
FIRM 4.87 0.205391
FDI 3.64 0.274522
URBAN 2.93 0.341225
GROWTH 2.29 0.435888
I_IND_AGR 1.74 0.574327
INF 1.55 0.645875
PRIVATE 1.53 0.654647
EMP 1.24 0.809666
Mean VIF 2.93
Nguồn: Tác giả tính toán từ phần mềm Stata
Để kiểm định phương sai thay đổi cho mô hình NN-CN, tác giả sử dụng
phương pháp Breusch-Pagan với giải thuyết ban đầu là không có hiện tượng
phương sai thay đổi, và có được giá trị thống kê chi2(1) = 42.36 với xác xuất thống
kê Prob>chi2 = 0.0000. Do đó, mô hình có hiện tượng phương sai thay đổi. Tiếp đó,
kiểm định Wooldridge được thực hiện với giả thuyết ban đầu H0 là không có hiện
tượng tương quan chuỗi/ tự tương quan trong dữ liệu bảng, và có được giá trị thống
kê F (1, 9) = 275.231 với xác suất thống kê Prob>F = 0.0000. Điều này đồng nghĩa
là mô hình có hiện tượng tương quan chuỗi. Bên cạnh đó, tác giả cũng kiểm định lại
mô hình NN-CN sau khi loại biến, kết quả cũng cho thấy rằng mô hình điều chỉnh
biến này cũng có phương sai thay đổi và tương quan chuỗi. Vì vậy, để đạt được mô
hình ước lượng vững và hiệu quả, tác giả áp dụng phương pháp ước lượng sai số
chuẩn mạnh (robust standard errors) cho mô hình NN-CN đã điều chỉnh. Về kiểm
định về việc lựa chọn các mô hình hồi quy dữ liệu bảng (phụ lục 5.2, 5.4 và 5.5) cho
thấy mô hình FEM là phù hợp nhất.

101
Bảng 4.15. Mô hình NN-CN theo ước lượng sai số chuẩn mạnh
BPT: Ind_Agr: Sản lượng công nghiệp/
nông nghiệp
(1) mô hình
chung cho Vùng
(2) mô hình các
tỉnh trong Vùng
int1 = FDI * Cần Thơ -0,706**
(0,278)
Int4=FDI * Hậu Giang -0,703***
(0,229)
Int5 = FDI * Trà Vinh -0,103**
(0,0453)
FDI: Vốn FDI 0,107*** 0,134***
(0,0336) (0,0411)
I_Ind_Agr: Vốn công nghiệp/ nông nghiệp 0,00238 -0,000965
(0,00348) (0,00145)
Emp: Tỷ lệ lao động qua đào tạo -0,00625** -0,00277
(0,00249) (0,00481)
Growth: Tăng trưởng kinh tế 0,0111* 0,0105***
(0,00619) (0,00378)
Inf: Chỉ số giá so với 2010 0,00384*** 0,00708**
(0,00115) (0,00319)
Urban: Tỷ lệ dân thành thị 8,92e-05 0,00973
(0,00429) (0,0178)
Private: Vốn tư nhân -0,0101 -0,0185*
(0,00893) (0,0110)
An Giang -0,882**
(0,434)
Bạc Liêu -0,702*
(0,385)
Bến Tre -0,470**
(0,225)
Cà Mau 0,107
(0,348)
Cần Thơ 0,0614
(1,090)
Hậu Giang 0,225
(0,417)

102
BPT: Ind_Agr: Sản lượng công nghiệp/
nông nghiệp
(1) mô hình
chung cho Vùng
(2) mô hình các
tỉnh trong Vùng
Kiên Giang -0,445
(0,395)
Sóc Trăng -0,911**
(0,416)
Tiền Giang -0,918***
(0,186)
Trà Vinh -0,562**
(0,270)
Vĩnh Long 0,0883
(0,578)
Đồng Tháp -0,558**
(0,275)
Số quan sát 126 126
R-squared 0,705 0,829
Sai số chuẩn trong ngoặc đơn. ***, **, * lần lượt là mức ý nghĩa 1%, 5%, 10%.
Nguồn: Tác giả tính toán từ phần mềm Stata
Bảng 4.15 thể hiện kết quả hệ số ước lượng hai mô hình NN-CN sau khi
phương sai thay đổi. Trong đó mô hình 1 được thực hiện cho Vùng. Mô hình NN-
CN theo ước lượng sai số chuẩn mạnh không gồm hệ số chặn vì nó làm mô hình
kém hiệu quả (R-squared<0.5). Kết quả cho thấy, các biến I_IND_AGR (tỷ lệ vốn
đầu tư xã hội vào ngành Công Nghiệp so với Nông nghiệp) và URBAN (tỷ lệ dân
thành thị) không có tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ Nông nghiệp sang
Công Nghiệp ở ĐBSCL. Ngược lại, các biến FDI (vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
hàng năm), INF (chỉ số lạm phát) có tác động tích cực đối với chuyển dịch cơ cấu
NN-CN với mức ý nghĩa 1% và 10% đối với GROWTH (tăng trưởng kinh tế).
Trong khi đó, EMP (tỷ lệ lao động qua đào tạo) có tác động tiêu cực đối với xu
hướng chuyển dịch với mức ý nghĩa 5%, trong khi PRIVATE (vốn tư nhân trong
nước) không tác động. Một trong những điểm nổi bật trong mô hình là hệ số tác
động của FDI đến chuyển dịch cơ cấu NN-CN là lớn nhất với giá trị 0,107. Nhìn
chung, mô hình ước lượng này giải thích được 70,5% (R-squared = 0,705) sự
chuyển dịch cơ cấu từ NN sang CN. Giá trị thống kê F (7,119) = 201,96 cũng bị bác
bỏ với mức ý nghĩa 1% chứng minh rằng hệ số ước lượng mô hình đáng tin cậy.

103
Tiếp theo, tác giả đánh giá tác động riêng biệt của từng tỉnh thành phố ở vùng
ĐBSCL bằng phương pháp ước lượng FEM. Tuy nhiên, phương pháp FEM không
cho phép sự vắng mặt của hệ số chặn – thể hiện yếu tố chung (không quan sát được)
của toàn vùng. Vì vậy, để đạt được ước lượng vững và hiệu quả, đồng thời liên kết
với mô hình OLS đã xây dựng ở bảng 4.15, tác giả thực hiện phương pháp ước
lượng thay thế tương đương với FEM là sử dụng một nhóm biến giả để đại diện yếu
tố riêng biệt của từng tỉnh thành phố (mô hình 2, bảng 4.15). Theo đó, tác giả phải
lấy giá trị ước lượng của một tỉnh thành phố làm cơ sở so sánh với các tỉnh khác,
tương ứng với 12 biến giả. Mặc dù phương pháp ước lượng này giống với FEM,
nhưng cách diễn giải mô hình có sự khác biệt. Nếu hệ số trong mô hình FEM đại
diện cho yếu tố chung không quan sát được và các yếu tố riêng của từng tỉnh, thì mô
hình ước lượng điều chỉnh tương đương này thể hiện sự so sánh sự chuyển dịch
tương quan giữa hai tỉnh thành phố điển hình.
Mô hình 2 so sánh mức độ chênh lệch trong chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
của các tỉnh trong Vùng so với Long An và đặc biệt so sánh mức độ chênh lệch
trong tác động của FDI đến quá trình này giữa các tỉnh thông qua các biến tương tác
giữa FDI và các tỉnh trong Vùng. Qua quá trình thực hiện chọn lọc lần lượt các biến
tương tác đưa vào mô hình, kết quả cho thấy so với Long An, Cần Thơ, Hậu Giang
và Trà Vinh đều có mức độ tác động của FDI đến quá trình chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế thấp hơn. Điều này cũng tương đồng với kết quả phân tính định tính,
Long An là tỉnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế điển hình nhất vùng ĐBSCL dựa vào
việc thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài, một phần nhờ vào lợi thế vị trí địa lý gần
khu vực kinh tế trọng điểm Đông Nam Bộ nhất. Theo số liệu ở bảng 4.16, Long An
là tỉnh có vốn FDI cao nhất ĐBSCL vào năm 2019 với 8.67 nghìn tỷ đồng và có cơ
cấu kinh tế đúng theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa của chính phủ với tỷ
trọng Công nghiệp là 52.96%, tỷ trọng Nông nghiệp là 18.12% và tỷ trọng dịch vụ
là 28.92%, phần lớn nhờ vào thu hút đầu tư nước ngoài. Vì thế, Long An được lựa
chọn làm cơ sở so sánh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Vùng ĐBSCL theo nghiên cứu
này. Kết quả so sánh này được thể hiện ở mô hình 2 bảng 4.15 với hệ số chặn của
Long An là 0 – làm cơ sở so sánh với tỉnh thành phố khác. Bên cạnh đó, nghiên cứu
cũng thực hiện kiểm định F-test để xem xét các yếu tố riêng biệt (không quan sát
được) có đồng thời bằng không hay không – nói cách khác là, việc xem xét thêm
yếu tố riêng biệt vào mô hình NN-CN là hợp lý hay không. Kết quả giá trị thống kê

104
F (22, 104) = 379,3 với xác suất thống kê Prob>F = 0.0000 thể hiện rằng yếu tố
riêng biệt có tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế NN-CN. Ngoài ra, mô hình
ước lượng này giải thích được 82,9% sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế cho thấy
hệ số ước lượng mô hình đáng tin cậy.
Các hệ số ước lượng của các biến độc lập ở mô hình 2 bảng 4.15 thể hiện mối
quan hệ với chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ NN sang CN dựa trên yếu tố riêng biệt
của Long An, và các hệ số chặn theo tỉnh thể hiện sự khác biệt giữa Long An và các
tỉnh thành phố về các yếu tố không quan sát được. Với mức ý nghĩa dưới 10%, đa
số các tỉnh thành phố đều có ưu thế chuyển dịch NN-CN thấp hơn Long An, bao
gồm: An Giang, Bạc Liêu, Bến Tre, Sóc Trăng, Tiền Giang, Trà Vinh, và Đồng
Tháp.
4.4.2.2.Xu hướng chuyển dịch từ Nông nghiệp sang Dịch vụ
Tương tự như phương pháp phân tích cho mô hình NN-CN, tác giả tiến hành
hồi quy biến phụ thuộc SER_AGR (tỷ trọng giá trị ngành Dịch vụ so với tỷ trọng
sản lượng ngành Nông nghiệp), và các biến phụ thuộc là I_SER_AGR, FDI, FIRM,
LABOR_FDI, EMP, GROWTH, INF, URBAN, và PRIVATE. Kết quả hồi quy ban
đầu được thể hiện trong bảng 4.16 dưới đây. Ta thấy rằng, hệ số ước lượng từ OLS
và FEM không hiệu quả.
Bảng 4.16. Ước lượng mô hình chuyển dịch NN-DV ban đầu
Biến độc lập
Mô hình OLS Mô hình FEM
Hệ số
ước lượng
Sai số
chuẩn
mạnh
Xác
xuất
P-value
Hệ số
ước
lượng
Sai số
chuẩn
mạnh
Xác
xuất
P-value
I_SER_AGR 0.014 0.0100.170 -0.001 0.0120.943
FDI -0.203 0.1760.254 -0.109 0.1880.566
FIRM 1.187 1.9300.541 0.674 4.7410.887
LABOR_FDI 0.085 0.1880.653 0.001 0.3530.999
EMP -0.005 0.0180.782 -0.003 0.0210.872
GROWTH 0.045 0.0210.041 0.023 0.0330.483
INF -0.007 0.4290.987 -0.015 0.4550.974
URBAN 0.023 0.0170.187 0.210 0.4420.637
PRIVATE -0.043 0.0320.176 -0.007 0.0590.904
Hệ số chặn -0.01443.4121.000 -3.475 50.5410.945
Nguồn: Tác giả tính toán từ phần mềm Stata

105
Sau đó, tác giả tiến hành kiểm định đa cộng tuyến và kết quả kiểm định được
thể hiện trong bảng 4.17. Ta thấy rằng hệ số phóng đại Mean VIF của mô hình là
3.01>2, cho thấy mô hình ước lượng xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến. Các biến có
độ tương quan cao là nguyên nhân chính gây ra vấn đề này, bao gồm các biến thuộc
nhóm yếu tố FDI: LABOR_FDI (số lượng lao động hoạt động trong khu vực kinh tế
FDI), FIRM (số lượng doanh nghiệp hoạt động trong khu vực kinh tế FDI) và FDI
(vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hàng năm). Giống như mô hình NN-CN, tác giả
loại hai biến LABOR_FDI và FIRM để đảm bảo hệ số phóng đại Mean VIF của mô
hình nhỏ hơn 2.
Bảng 4.17. Kết quả kiểm tra đa cộng tuyến mô hình NN-DV
Biến phụ thuộc Hệ số phóng đại VIF Giá trị Tolerance=1/VIF
LABOR_FDI 6.28 0.15912
FIRM 4.86 0.20569
FDI 3.65 0.273998
URBAN 3.34 0.299411
GROWTH 2.35 0.424727
I_SER_AGR 2.27 0.440446
INF 1.57 0.636783
PRIVATE 1.52 0.659194
EMP 1.24 0.80618
Mean VIF 3.01
Nguồn: Tác giả tính toán từ phần mềm Stata
Song song đó, kiểm định phương sai thay đổi (theo phương pháp Breusch-
Pagan) và kiểm định tương quan chuỗi (theo phương pháp Wooldridge) để đo lường
tính vững của mô hình ước lượng. Kết quả kiểm định cho thấy mô hình có hiện
tượng phương sai thay đổi với giá trị thống kê chi2(1) = 8.71 ở mức xác suất thống
kê Prob > chi2 = 0.0032; và có hiện tượng tương quan chuỗi với giá trị thống kê F
(1, 9) = 479.778 ở mức xác xuất thống kê Prob>F = 0.0000. Để khắc phục hai vấn
đề này, ước lượng sai số chuẩn mạnh được áp dụng cho mô hình NN-DV sau khi đã
điều chỉnh biến. Bên cạnh đó kiểm định về việc lựa chọn các mô hình hồi quy dữ
liệu bảng (phụ lục 6.2, 6.4 và 6.5) cho thấy mô hình FEM là phù hợp nhất.

106
Bảng 4.18. Mô hình NN-DV theo ước lượng sai số chuẩn mạnh
BPT: SER_AGR: Sản lượng dịch
vụ/ nông nghiệp
(1) mô hình chung
cho Vùng
(2) mô hình các tỉnh
trong Vùng
Int5=FDI x Bến Tre -0,947***
(0,262)
Int4=FDI x Tiền Giang -0,0464**
(0,0213)
Int2=FDI x Kiên Giang -0,502*
(0,292)
FDI: Vốn FDI 0,0137 0,0118
(0,0450) (0,0209)
I_Ser_Agr: Vốn dịch vụ/ nông nghiệp 0,0143* -0,00345
(0,00770) (0,00260)
Emp: Tỷ lệ lao động qua đào tạo 0,00132 0,0130
(0,00725) (0,0121)
Growth: Tăng trưởng kinh tế 0,0253** 0,0142**
(0,0121) (0,00648)
Inf: Chỉ số giá so với 2010 -0,00262 -0,000444
(0,00192) (0,00234)
Urban: Tỷ lệ dân thành thị 0,0247* 0,0431***
(0,0148) (0,00985)
Private: Vốn tư nhân -0,0248 -0,0187
(0,0165) (0,0241)
An Giang -0,723***
(0,218)
Bạc Liêu -1,183***
(0,293)
Bến Tre 1,018***
(0,247)
Cà Mau -0,378
(0,232)
Cần Thơ 0,190
(0,569)
Hậu Giang -0,0967
(0,173)

107
BPT: SER_AGR: Sản lượng dịch
vụ/ nông nghiệp
(1) mô hình chung
cho Vùng
(2) mô hình các tỉnh
trong Vùng
Kiên Giang -0,339
(0,447)
Sóc Trăng -0,802***
(0,238)
Tiền Giang -0,0970
(0,215)
Trà Vinh -0,562***
(0,129)
Vĩnh Long 0,995
(1,144)
Đồng Tháp -0,313**
(0,121)
Observations 126 126
R-squared 0,643 0,712
Sai số chuẩn trong ngoặc đơn. ***, **, * lần lượt là mức ý nghĩa 1%, 5%, 10%.
Nguồn: Tác giả tính toán từ phần mềm Stata
Mô hình 1 bảng 4.18 thể hiện các tham số ước lượng hiệu quả của mô hình
NN-DV sau khi khắc phục các vấn đề định lượng. Trong đó, hệ số chặn được loại
bỏ khỏi mô hình vì tạo ra giá trị nhiễu, làm mô hình kém hiệu quả (R-squared<0.5).
Nhìn chung mô hình ước lượng thể hiện sự chuyển dịch từ Nông nghiệp sang Dịch
vụ tương đối hiệu quả, giải thích được hơn 64,3% sự biến thiên của biến phụ thuộc
SER_AGR (Tỷ trọng giá trị của ngành Dịch vụ so với ngành Nông nghiệp), và giá
trị thống kê F (7, 119) = 201,96 – cho biết các tất cả hệ số ước lượng có đồng thời
bằng 0 hay không – bị phủ định với mức ý nghĩa thống kê 1%. So sánh các hệ số
ước lượng trong mô hình, ta thấy được I_SER_AGR (tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội trong
ngành dịch vụ so với ngành nông nghiệp), GROWTH (tăng trưởng kinh tế), URBAN
(tỷ lệ dân thành thị) tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu NN-DV với mức ý
nghĩa tương ứng là 5% và 10%. Một điểm quan trọng cần được chú ý trong mô hình
này là yếu tố FDI (vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài) không ảnh hưởng đến chuyển
dịch cơ cấu kinh tế từ Nông nghiệp sang Dịch vụ.
Giống như phân tích của mô hình NN-CN, tác giả lấy Long An làm tỉnh cơ sở
để so sánh với các tỉnh thành phố khác trong khu vực ĐBSCL. Mô hình 2 bảng 4.18
thể hiện kết quả ước lượng mô hình NN-DV so sánh theo từng tỉnh thành phố trong

108
vùng. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng thực hiện kiểm định F-test để xem xét các yếu
tố riêng biệt (không quan sát được) có đồng thời bằng không hay không – nói cách
khác là, việc xem xét thêm yếu tố riêng biệt vào mô hình NN-DV là hợp lý hay
không. Kết quả giá trị thống kê F (22, 104) = 1052,97 với xác suất thống kê Prob >
F = 0.0000 thể hiện rằng yếu tố riêng biệt có tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh
tế NN-DV.
Dựa trên yếu tố riêng biệt của Long An, tuy FDI (vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài) không tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ Nông nghiệp sang Dịch
vụ, nhưng khi so sánh mức độ tác động của FDI đến quá trình này giữa các tỉnh,
thành phố của Vùng so với Long An thông qua các biến tương tác thì kết quả cho
thấy Bến Tre, Tiền Giang và Kiên Giang có mức độ tác động thấp hơn Long An.
Ngoài ra, GROWTH (tăng trưởng kinh tế), và URBAN (tỷ lệ dân số thành thị) có
tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ Nông nghiệp sang Dịch vụ ở
mức ý nghĩa tương ứng là 5% và 1%. So sánh giữa Long An và các tỉnh thành phố
khác, chỉ có Bến Tre có ưu thế chuyển dịch NN-DV so với Long An, trong khi An
Giang, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh và Đồng Tháp đều có quá trình chuyển dịch
NN-DV thấp hơn. Điều đó cho thấy nhờ vào vị trí địa lý, Long An có tiềm năng
chuyển dịch cơ cấu sang dịch vụ nhiều hơn hẳn các tỉnh thành khác. Tuy nhiên,
thực tế cho thấy rằng tốc độ chuyển dịch NN-DV vẫn còn chậm so với các tỉnh
thành có ưu thế kém hơn vì nguồn đầu tư FDI thiên lệch về phía ngành công nghiệp.
4.5. Thảo luận kết quả nghiên cứu
Để tổng hợp những kết quả từ các mô hình hồi quy, tác giả thống kê lại thành
bảng 4.19. Theo đó, cột 1 trình bày các biến số trong mô hình đo lường tác động
của FDI đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, cột 2 trình bày các giả thuyết đã
được đưa ra ở chương 2, cột 3,4, 5, 6, 7 và cột 8 lần lượt trình bày mức độ tác động
đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thông qua 6 mô hình định lượng, trong đó
ứng với mỗi mô hình là một cách đo lường chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hệ số
cosφ, hay tỷ trọng sản lượng ngành Công nghiệp so với tỷ trọng sản lượng ngành
Nông nghiệp và tỷ trọng sản lượng ngành Dịch vụ so với tỷ trọng sản lượng ngành
Nông nghiệp, gồm cả mô hình chung cho cả Vùng và mô hình có so sánh giữa các
tỉnh trong Vùng với Long An. Đặc biệt nghiên cứu phân tích mức độ chênh lệch
trong tác động của FDI đến chyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thông qua mô hình có
biến tương tác giữa FDI và các tỉnh. Cột 9 trình bày kết quả chính rút ra từ các mô
hình định lượng.

109
Bảng 4.19. Kết luận tổng hợp từ các mô hình đo lường tác động của FDI đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế vùng Đồng
bằng sông Cửu Long
Cột 1 Cột 2 Cột 3 Cột 4 Cột 5 Cột 6 Cột 7 Cột 8 Cột 9
Biến số trong mô
hình tác động của
FDI đến CDCC
ngành kinh tế
Giả thuyết về
tác động của
FDI đến tốc
độ và xu
hướng
CDCC ngành
kinh tế
Mức độ tác động của FDI đến tốc độ và xu hướng CDCC ngành
kinh tế
Kết luận về tác động
của FDI đến tốc độ
và xu hướng CDCC
ngành kinh tế
Mô hình tốc độ
chuyển dịch (hệ số
cosφ) có biến giả
theo tỉnh
Mô hình xu
hướng chuyển
dịch chung cho
Vùng
Mô hình xu hướng chuyển
dịch có biến giả theo tỉnh
Không
có biến
tương
tác
Có biến
tương
tác
Công
nghiệp/
Nông
nghiệp
Dịch
vụ/
Nông
nghiệp
Công nghiệp/
Nông nghiệp
Dịch vụ/
Nông
nghiệp
FDI
FDI: Vốn đầu tưH1: FDI tácKhôngKhông + Không + Không tácVốn FDI tác động tích
trực tiếp nước động cùng táctác động tác động cực đến CDCC ngành
ngoài chiều động động kinh tế từ nông nghiệp
sangcôngnghiệp,
nhưng lại không tác
độngđếnquátrình

110
Cột 1 Cột 2 Cột 3 Cột 4 Cột 5 Cột 6 Cột 7 Cột 8 Cột 9
Biến số trong mô
hình tác động của
FDI đến CDCC
ngành kinh tế
Giả thuyết về
tác động của
FDI đến tốc
độ và xu
hướng
CDCC ngành
kinh tế
Mức độ tác động của FDI đến tốc độ và xu hướng CDCC ngành
kinh tế
Kết luận về tác động
của FDI đến tốc độ
và xu hướng CDCC
ngành kinh tế
Mô hình tốc độ
chuyển dịch (hệ số
cosφ) có biến giả
theo tỉnh
Mô hình xu
hướng chuyển
dịch chung cho
Vùng
Mô hình xu hướng chuyển
dịch có biến giả theo tỉnh
Không
có biến
tương
tác
Có biến
tương
tác
Công
nghiệp/
Nông
nghiệp
Dịch
vụ/
Nông
nghiệp
Công nghiệp/
Nông nghiệp
Dịch vụ/
Nông
nghiệp
chuyển dịch từ nông
nghiệp sang dịch vụ.
Int: Biến tương tácH2: Có sự + (Cần - (Cần Thơ,- (Bến Tre,- Mức độ tác động của
giữa FDI và cáckhác biệt Thơ, Hậu Giang, Tiền FDI ở Cần Thơ, Kiên
tỉnh trong Vùng trong mức độ Kiên Trà Vinh) Giang,GiangđếnCDCC
tác động của Giang) Kiên ngànhkinhtếnói
FDI theo tỉnh Giang)chung cao hơn so với
Long An.
- Mức độ tác động của

111
Cột 1 Cột 2 Cột 3 Cột 4 Cột 5 Cột 6 Cột 7 Cột 8 Cột 9
Biến số trong mô
hình tác động của
FDI đến CDCC
ngành kinh tế
Giả thuyết về
tác động của
FDI đến tốc
độ và xu
hướng
CDCC ngành
kinh tế
Mức độ tác động của FDI đến tốc độ và xu hướng CDCC ngành
kinh tế
Kết luận về tác động
của FDI đến tốc độ
và xu hướng CDCC
ngành kinh tế
Mô hình tốc độ
chuyển dịch (hệ số
cosφ) có biến giả
theo tỉnh
Mô hình xu
hướng chuyển
dịch chung cho
Vùng
Mô hình xu hướng chuyển
dịch có biến giả theo tỉnh
Không
có biến
tương
tác
Có biến
tương
tác
Công
nghiệp/
Nông
nghiệp
Dịch
vụ/
Nông
nghiệp
Công nghiệp/
Nông nghiệp
Dịch vụ/
Nông
nghiệp
FDI ở Cần Thơ, Hậu
Giang, Trà Vinh đến
CDCC từ từ nông
nghiệp sang công
nghiệp thấp hơn so
với Long An.
- Mức độ tác động của
FDI ở Bến Tre, Tiền
Giang, Kiên Giang

112
Cột 1 Cột 2 Cột 3 Cột 4 Cột 5 Cột 6 Cột 7 Cột 8 Cột 9
Biến số trong mô
hình tác động của
FDI đến CDCC
ngành kinh tế
Giả thuyết về
tác động của
FDI đến tốc
độ và xu
hướng
CDCC ngành
kinh tế
Mức độ tác động của FDI đến tốc độ và xu hướng CDCC ngành
kinh tế
Kết luận về tác động
của FDI đến tốc độ
và xu hướng CDCC
ngành kinh tế
Mô hình tốc độ
chuyển dịch (hệ số
cosφ) có biến giả
theo tỉnh
Mô hình xu
hướng chuyển
dịch chung cho
Vùng
Mô hình xu hướng chuyển
dịch có biến giả theo tỉnh
Không
có biến
tương
tác
Có biến
tương
tác
Công
nghiệp/
Nông
nghiệp
Dịch
vụ/
Nông
nghiệp
Công nghiệp/
Nông nghiệp
Dịch vụ/
Nông
nghiệp
đến CDCC từ nông
nghiệp sang dịch vụ
thấp hơn so với Long
An.
Các đặc điểm kinh tế
I_IND_AGR: Vốn
đầu tư toàn xã hội
của Công nghiệp/
H3: Tỷ trọng
vốnđầutư
toànxãhội
Không
tác
động
Không
tác động
Không
tác động
Không tác
động
Tỷ trọng vốn đầu tư
toàn xã hội của Công
nghiệp/ Nông nghiệp

113
Cột 1 Cột 2 Cột 3 Cột 4 Cột 5 Cột 6 Cột 7 Cột 8 Cột 9
Biến số trong mô
hình tác động của
FDI đến CDCC
ngành kinh tế
Giả thuyết về
tác động của
FDI đến tốc
độ và xu
hướng
CDCC ngành
kinh tế
Mức độ tác động của FDI đến tốc độ và xu hướng CDCC ngành
kinh tế
Kết luận về tác động
của FDI đến tốc độ
và xu hướng CDCC
ngành kinh tế
Mô hình tốc độ
chuyển dịch (hệ số
cosφ) có biến giả
theo tỉnh
Mô hình xu
hướng chuyển
dịch chung cho
Vùng
Mô hình xu hướng chuyển
dịch có biến giả theo tỉnh
Không
có biến
tương
tác
Có biến
tương
tác
Công
nghiệp/
Nông
nghiệp
Dịch
vụ/
Nông
nghiệp
Công nghiệp/
Nông nghiệp
Dịch vụ/
Nông
nghiệp
Nông nghiệp tác động cùng
chiều
không tác động.
I_SER_AGR: Vốn
đầu tư toàn xã hội
của Dịch vụ/ Nông
nghiệp
Không
tác
động
Không
tác động
+ Không tác
động
Tỷ trọng Vốn đầu tư
toàn xã hội của Dịch
vụ/ Nông nghiệp chỉ
tác động tích cực đến
chuyển dịch từ dịch vụ
sang nông nghiệp.
PRIVATE: Vốn
đầu tư tư nhân
H4: Vốn đầu
tư tư nhân tác
Không
tác
+ Không
tác động
Không
tác
- Không tác
động
Vốn đầu tư tư nhân
tác động tích cực đến

114
Cột 1 Cột 2 Cột 3 Cột 4 Cột 5 Cột 6 Cột 7 Cột 8 Cột 9
Biến số trong mô
hình tác động của
FDI đến CDCC
ngành kinh tế
Giả thuyết về
tác động của
FDI đến tốc
độ và xu
hướng
CDCC ngành
kinh tế
Mức độ tác động của FDI đến tốc độ và xu hướng CDCC ngành
kinh tế
Kết luận về tác động
của FDI đến tốc độ
và xu hướng CDCC
ngành kinh tế
Mô hình tốc độ
chuyển dịch (hệ số
cosφ) có biến giả
theo tỉnh
Mô hình xu
hướng chuyển
dịch chung cho
Vùng
Mô hình xu hướng chuyển
dịch có biến giả theo tỉnh
Không
có biến
tương
tác
Có biến
tương
tác
Công
nghiệp/
Nông
nghiệp
Dịch
vụ/
Nông
nghiệp
Công nghiệp/
Nông nghiệp
Dịch vụ/
Nông
nghiệp
động cùng
chiều
động động CDCC ngành kinh tế
nói chung và tác động
tiêu cực đến CDCC từ
nông nghiệp sang
công nghiệp.
EMP: Tỷ lệ lao
động qua đào tạo
H5: Tỷ lệ lao
động qua đào
tạo tác động
cùng chiều
Không
tác
động
Không
tác động
- Không
tác
động
Không tác
động
Không tác
động
Tỷ lệ lao động qua
đào tạo chỉ tác động
tiêu cực đến CDCC từ
NN sang CN.

115
Cột 1 Cột 2 Cột 3 Cột 4 Cột 5 Cột 6 Cột 7 Cột 8 Cột 9
Biến số trong mô
hình tác động của
FDI đến CDCC
ngành kinh tế
Giả thuyết về
tác động của
FDI đến tốc
độ và xu
hướng
CDCC ngành
kinh tế
Mức độ tác động của FDI đến tốc độ và xu hướng CDCC ngành
kinh tế
Kết luận về tác động
của FDI đến tốc độ
và xu hướng CDCC
ngành kinh tế
Mô hình tốc độ
chuyển dịch (hệ số
cosφ) có biến giả
theo tỉnh
Mô hình xu
hướng chuyển
dịch chung cho
Vùng
Mô hình xu hướng chuyển
dịch có biến giả theo tỉnh
Không
có biến
tương
tác
Có biến
tương
tác
Công
nghiệp/
Nông
nghiệp
Dịch
vụ/
Nông
nghiệp
Công nghiệp/
Nông nghiệp
Dịch vụ/
Nông
nghiệp
GROWTH: Tăng
trưởng kinh tế
H6: Tăng
trưởng kinh tế
cùng chiều
Không
tác
động
Không
tác động
+ + + + Tăng trưởng kinh tế
tác động tích cực đến
CDCC từ nông nghiệp
sang công nghiệp và
dịch vụ.
INF: Lạm phát H7: Chỉ số giá
so với năm
2010 tác động
ngược chiều
- Không
tác động
+ Không
tác
động
+ Không tác
động
Lạm phát tác động
tích cực đến CDCC từ
nông nghiệp sang
công nghiệp và tác

116
Cột 1 Cột 2 Cột 3 Cột 4 Cột 5 Cột 6 Cột 7 Cột 8 Cột 9
Biến số trong mô
hình tác động của
FDI đến CDCC
ngành kinh tế
Giả thuyết về
tác động của
FDI đến tốc
độ và xu
hướng
CDCC ngành
kinh tế
Mức độ tác động của FDI đến tốc độ và xu hướng CDCC ngành
kinh tế
Kết luận về tác động
của FDI đến tốc độ
và xu hướng CDCC
ngành kinh tế
Mô hình tốc độ
chuyển dịch (hệ số
cosφ) có biến giả
theo tỉnh
Mô hình xu
hướng chuyển
dịch chung cho
Vùng
Mô hình xu hướng chuyển
dịch có biến giả theo tỉnh
Không
có biến
tương
tác
Có biến
tương
tác
Công
nghiệp/
Nông
nghiệp
Dịch
vụ/
Nông
nghiệp
Công nghiệp/
Nông nghiệp
Dịch vụ/
Nông
nghiệp
với tốc độ
chuyển dịch
và cùng chiều
với xu hướng
chuyển dịch
động tiêu cực đến tốc
độ CDCC ngành kinh
tế nói chung.
URBAN: Tỷ lệ
dân số thành thị
H8: Tỷ lệ dân
số thành thị
tác động cùng
chiều
+ + Không
tác động
+ Không tác
động
+ Tỷ lệ dân số thành thị
tác động tích cực đến
CDCC ngành kinh tế,
đặc biệt từ nông

117
Cột 1 Cột 2 Cột 3 Cột 4 Cột 5 Cột 6 Cột 7 Cột 8 Cột 9
Biến số trong mô
hình tác động của
FDI đến CDCC
ngành kinh tế
Giả thuyết về
tác động của
FDI đến tốc
độ và xu
hướng
CDCC ngành
kinh tế
Mức độ tác động của FDI đến tốc độ và xu hướng CDCC ngành
kinh tế
Kết luận về tác động
của FDI đến tốc độ
và xu hướng CDCC
ngành kinh tế
Mô hình tốc độ
chuyển dịch (hệ số
cosφ) có biến giả
theo tỉnh
Mô hình xu
hướng chuyển
dịch chung cho
Vùng
Mô hình xu hướng chuyển
dịch có biến giả theo tỉnh
Không
có biến
tương
tác
Có biến
tương
tác
Công
nghiệp/
Nông
nghiệp
Dịch
vụ/
Nông
nghiệp
Công nghiệp/
Nông nghiệp
Dịch vụ/
Nông
nghiệp
nghiệp sang dịch vụ.
PROVINCE: Tỉnh
(Long An)
H9: Có sự
khác biệt về
chuyển dịch
cơ cấu ngành
kinh tế sự
giữa các tỉnh
trong vùng
+ (Bến
Tre);
- (Cần
Thơ);
Còn lại
không
tác
động
+ (Bến
Tre);
- (Cần
Thơ,
Kiên
Giang);
Còn lại
không
- (An Giang,
Bạc Liêu, Bến
Tre, Sóc
Trăng, Tiền
Giang, Trà
Vinh, Đồng
Tháp);
Còn lại không
- (An
Giang, Bạc
Liêu, Sóc
Trăng, Trà
Vinh, Đồng
Tháp);
+ (Bến
Tre);
-Long An có mức độ
CDCC ngành kinh tế
thấp hơn Bến Tre,
nhưng cao hơn Cần
Thơ và Kiên Giang.
-An Giang, Bạc Liêu,
Bến Tre, Sóc Trăng,
Tiền Giang, Trà Vinh,

118
Cột 1 Cột 2 Cột 3 Cột 4 Cột 5 Cột 6 Cột 7 Cột 8 Cột 9
Biến số trong mô
hình tác động của
FDI đến CDCC
ngành kinh tế
Giả thuyết về
tác động của
FDI đến tốc
độ và xu
hướng
CDCC ngành
kinh tế
Mức độ tác động của FDI đến tốc độ và xu hướng CDCC ngành
kinh tế
Kết luận về tác động
của FDI đến tốc độ
và xu hướng CDCC
ngành kinh tế
Mô hình tốc độ
chuyển dịch (hệ số
cosφ) có biến giả
theo tỉnh
Mô hình xu
hướng chuyển
dịch chung cho
Vùng
Mô hình xu hướng chuyển
dịch có biến giả theo tỉnh
Không
có biến
tương
tác
Có biến
tương
tác
Công
nghiệp/
Nông
nghiệp
Dịch
vụ/
Nông
nghiệp
Công nghiệp/
Nông nghiệp
Dịch vụ/
Nông
nghiệp
tác động tác động Còn lại
không tác
động
Đồng Tháp đều
chuyển từ nông
nghiệp sang công
nghiệp chậm hơn
Long An.
- Chuyển từ dịch vụ
sang nông nghiệp ở
Long An cao hơn An
Giang, Bạc Liêu, Sóc

119
Cột 1 Cột 2 Cột 3 Cột 4 Cột 5 Cột 6 Cột 7 Cột 8 Cột 9
Biến số trong mô
hình tác động của
FDI đến CDCC
ngành kinh tế
Giả thuyết về
tác động của
FDI đến tốc
độ và xu
hướng
CDCC ngành
kinh tế
Mức độ tác động của FDI đến tốc độ và xu hướng CDCC ngành
kinh tế
Kết luận về tác động
của FDI đến tốc độ
và xu hướng CDCC
ngành kinh tế
Mô hình tốc độ
chuyển dịch (hệ số
cosφ) có biến giả
theo tỉnh
Mô hình xu
hướng chuyển
dịch chung cho
Vùng
Mô hình xu hướng chuyển
dịch có biến giả theo tỉnh
Không
có biến
tương
tác
Có biến
tương
tác
Công
nghiệp/
Nông
nghiệp
Dịch
vụ/
Nông
nghiệp
Công nghiệp/
Nông nghiệp
Dịch vụ/
Nông
nghiệp
Trăng,TràVinh,
Đồng Tháp và thấp
hơn so với Bến Tre.
Nguồn: kết quả tổng hợp từ các mô hình hồi quy trên (2022)

120
Như vậy, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tác động mạnh đến xu hướng chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp, và không tác động đến
quá trình chuyển dịch từ nông nghiệp sang dịch vụ, đặc biệt ở Long An nguồn vốn
FDI chủ yếu tập trung ở lĩnh vực công nghiệp nên có mức độ chuyển dịch từ nông
nghiệp sang dịch vụ thấp hơn. Về tốc độ CDCC ngành kinh tế, so với Long An,
mức độ tác động của FDI ở Cần Thơ, Kiên Giang đến quá trình này cao hơn. Khi
phân tích cụ thể xu hướng chuyển dịch thì tác động của FDI ở Cần Thơ, Hậu Giang,
Trà Vinh đến CDCC từ nông nghiệp sang công nghiệp thấp hơn so với Long An,
tương đồng với mức độ tác động của FDI ở Bến Tre, Tiền Giang, Kiên Giang đến
CDCC từ nông nghiệp sang dịch vụ.
Bên cạnh đó, trong các đặc điểm kinh tế, tỷ trọng vốn đầu tư toàn xã hội của
Dịch vụ/ Nông nghiệp chỉ tác động tích cực đến xu hướng chuyển dịch từ dịch vụ
sang nông nghiệp, trong khi vốn đầu tư tư nhân tác động tích cực đến tốc độ chuyển
dịch và tác động tiêu cực đến xu hướng CDCC từ nông nghiệp sang công nghiệp,
tương đồng với kết quả của tỷ lệ lao động qua đào tạo. Tăng trưởng kinh tế tác động
tích cực đến xu hướng CDCC từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, trong
khi lạm phát tác động tích cực đến xu hướng CDCC từ nông nghiệp sang công
nghiệp và tác động tiêu cực đến tốc độ CDCC ngành kinh tế. Tỷ lệ dân số thành thị
tác động tích cực đến tốc độ CDCC ngành kinh tế và cả xu hướng chuyển dịch từ
nông nghiệp sang dịch vụ.
Đặc biệt, so sánh giữa Long An và các tỉnh thành phố khác trong Vùng, Long
An có ưu thế trong tốc độ chuyển dịch hơn so với Cần Thơ và Kiên Giang, nhưng
kém ưu thế hơn so với Bến Tre. Về xu hướng chuyển dịch từ nông nghiệp sang
công nghiệp của An Giang, Bạc Liêu, Bến Tre, Sóc Trăng, Tiền Giang, Trà Vinh,
Đồng Tháp chậm hơn Long An. Với xu hướng chuyển dịch từ dịch vụ sang nông
nghiệp ở Long An cao hơn An Giang, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Đồng Tháp
nhưng thấp hơn so với Bến Tre.
Kết hợp giữa hai phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng để đo
lường tốc độ và chiều hướng chuyển dịch, tác giả tổng hợp lại và đưa ra những giải
thích cũng như đánh giá kết quả nghiên cứu. Lĩnh vực công nghiệp, đặc biệt là công
nghiệp sản xuất, luôn hấp dẫn các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài. Với lợi thế của
các nền kinh tế tiên tiến, các tập đoàn đa quốc gia đầu tư mạnh vào lĩnh vực công
nghiệp. Đây là ngành ít thâm dụng lao động, có thể sản xuất quy mô lớn, tỷ suất lợi

121
nhuận ổn định và ít phụ thuộc vào điều kiện thời tiết như nông nghiệp. Kết quả hồi
quy cho thấy FDI góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nhóm ngành Nông
nghiệp sang nhóm ngành Công nghiệp. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu
của Hosain (2006) ở Bangladesh, Liang và Bing (2010) ở Hàn Quốc, Đào Văn Hiệp
(2011) ở Hải Phòng, Jiang (2014) ở Trung Quốc, Adejumo (2020) ở Nigeria. Theo
đó, FDI góp phần CDCC ngành công nghiệp theo hướng phát triển các ngành công
nghiệp có trình độ cao như cơ khí, điện – điện tử, công nghệ phần mềm và hóa chất,
nhưng lại tác động tiêu cực đến các ngành công nghiệp có trình độ thấp và thâm
dụng lao động cao.
Thực tế cho thấy rằng, FDI chảy vào các địa phương mất cân đối về ngành,
chủ yếu tập trung vào ngành công nghiệp chế biến chế tạo, từ đó gián tiếp ảnh
hưởng tiêu cực đến nhóm ngành nông nghiệp vì đây không phải là lĩnh vực hấp dẫn
các nhà đầu tư nước ngoài. Có thể nói rằng, FDI đầu tư vào khu vực ĐBSCL có thể
đe dọa đến anh ninh lương thực của vùng, nếu các địa phương không cân bằng được
sản xuất nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế. Đối với lĩnh vực dịch vụ, FDI dường như
không có tác động đến lĩnh vực dịch vụ. Nghiên cứu của Nguyễn Xuân Hùng và các
cộng sự (2020) ở Bắc Ninh cũng chỉ ra rằng việc đầu tư một lượng lớn FDI vào
công nghiệp góp phần trực tiếp vào tăng trưởng khu vực này và gián tiếp ảnh hưởng
tiêu cực đến nông nghiệp nhưng không ảnh hưởng nhiều đến khu vực dịch vụ.
Thậm chí, FDI còn có thể tác động tiêu cực đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang
dịch vụ ở một số địa phương quá phụ thuộc vào FDI như Long An, bởi vì các nguồn
lực phát triển kinh tế đều tập trung vào ngành công nghiệp.
Hơn nữa, cơ cấu kinh tế của Vùng trong giai đoạn 2010 – 2019 cho thấy tỷ
trọng GDP của khu vực công nghiệp và dịch vụ có chiều hướng tăng lên và khu vực
nông nghiệp lại có chiều hướng đi xuống. Đồng thời, cơ cấu thương mại cũng có xu
hướng chuyển dịch sang việc tăng cường những sản phẩm mới, có hàm lượng giá trị
gia tăng cao nhờ quá trình chuyển giao công nghệ, kỹ thuật tiên tiến của các nhà đầu
tư nước ngoài. Ngoài ra, thu hút FDI của ĐBSCL đã có khởi sắc, nhưng vẫn chưa
thực sự hấp dẫn, với mức lũy kế đến năm 2021, ĐBSCL chỉ chiếm 5% số dự án và
8% số vốn FDI đăng ký so với cả nước (VCCI và FSPPM, 2022), nhờ vào khai thác
lĩnh vực mới tiềm năng là năng lượng. Cơ cấu đầu tư FDI có sự thay đổi với lĩnh vực
có số dự án lớn nhất là công nghiệp chế biến chế tạo (77,6%), lĩnh vực tiếp nhận
FDI lớn nhất là năng lượng (60,25%) (VCCI và FSPPM, 2022). Ngành nông nghiệp
vốn là thế

122
mạnh của ĐBSCL nhưng chỉ thu hút được 1,7% số dự án và chưa đến 0,3% số FDI
đăng ký của toàn Vùng (VCCI và FSPPM, 2022).
Sự tham gia của FDI trong nền kinh tế đã bắt kịp theo đúng xu hướng CNH,
HĐH trên phạm vi quốc gia và toàn cầu. Trong đó FDI tập trung vào phần lớn các
ngành công nghiệp, đặc biệt là các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, vốn là các
ngành thâm dụng về lao động rất phù hợp với điều kiện thực tế của Vùng, giúp tận
dụng triệt để nguồn nhân lực dồi dào, giá rẻ. Nhờ đó, FDI đã góp phần tích cực
trong việc dẫn dắt sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, tăng tỷ trọng công nghiệp
và giảm dần đối với khu vực nông nghiệp. Sự xuất hiện của FDI một cách dày đặc
vào khu vực công nghiệp cũng đã tạo ra sự mất cân đối trong cơ cấu của toàn bộ
nền kinh tế Vùng trong cả ngắn hạn và dài hạn. Nhưng FDI cũng đã đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế diễn ra nhanh chóng và sâu rộng hơn khi mà FDI
dần có sự phân bổ sang các khu vực khác ngoài công nghiệp, mặc dù trong ngắn
hạn vẫn có một độ trễ nhất định.
Việc phát huy các lợi thế so sánh của Vùng với lợi thế nông nghiệp, nguồn
vốn FDI đã làm chuyển hướng việc sản xuất nông nghiệp phục vụ cho xuất khẩu,
nhưng một mặt lại ít có sự đầu tư vào việc đa dạng hóa các lĩnh vực sản xuất nông
nghiệp. FDI trực tiếp tác động chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế bằng việc xuất
hiện một số ngành mang lại nhiều lợi ích kinh tế như công nghệ thông tin, năng
lượng, chế biến nông sản,… Nhưng FDI cũng đồng thời gián tiếp tác động đến quá
trình này thông qua việc xuất khẩu, phân công lao động quốc tế, di chuyển lao động,
chuyển giao kĩ thuật, liên kết trong sản xuất,…nhờ đó, cho phép Vùng tận dụng tối
ưu hóa các nguồn lực sẵn có kết hợp với sự phát triển trong công nghệ mà các nhà
đầu tư chuyển giao vào, tạo ra lợi thế cạnh tranh, là các yếu tố quan trọng trong việc
thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Điều đặc biệt thú vị ở ĐBSCL là khác với mô thức chuyển đổi cơ cấu phổ
biến, trong giai đoạn 2015 – 2020, tốc độ tăng năng suất lao động nông nghiệp
trung bình ở ĐBSCL rất cao, lên tới 9,03%/năm, gấp hơn 2 lần so với khu vực công
nghiệp 4,39% và dịch vụ 3,82% (VCCI và FSPPM, 2022). Điều này cho thấy Đồng
bằng sông Cửu Long vẫn còn nhiều tiềm năng chuyển đổi cơ cấu và tăng năng suất.
Bên cạnh đó, trong giai đoạn này không có thay đổi đáng kể trong cơ cấu kinh tế
của vùng, công nghiệp và thương mại dịch vụ chưa đủ sức để trở thành trụ cột của
nền kinh tế, đóng góp của ngành công nghiệp chế biến ngày một suy giảm. Bên

123
cạnh đó, môi trường kinh doanh, chất lượng điều hành vốn là thế mạnh của vùng
trong nhiều năm qua thì nay đã suy giảm so với các vùng kinh tế khác và các nguồn
vốn huy động từ tín dụng, thu hút FDI vẫn còn thấp so với tiềm năng.
Ngoài FDI, các yếu tố kinh tế khác cũng góp phần vào quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Điển hình là GROWTH
(tăng trưởng kinh tế) – yếu tố thúc đẩy chuyển dịch từ Nông nghiệp sang Công
nghiệp và Dịch vụ. Có thể nói rằng, tác động này là điều kiện tất yếu để chuyển
dịch cơ cấu kinh tế. Ngược lại, EMP (tỷ lệ lao động đã qua đào tạo) lại kìm hãm
chuyển dịch sang ngành Công nghiệp. Kết quả này được lý giải rằng lao động đã
được đào tạo ở ĐBSCL chủ yếu là lao động có trình độ thấp, lao động lành nghề
tay chân chiếm phần lớn. Chất lượng lao động đang là điểm yếu cốt lõi của
ĐBSCL. Hình ảnh ĐBSCL có lợi thế về nguồn lao động dồi dào và giá rẻ nay đã
không còn. Nguồn lao động dồi dạo đã mất đi do lao động trẻ di cư đến vùng
Đông Nam Bộ, còn giá rẻ thì đi đôi với chất lượng thấp. Hai điều này khiến lợi thế
vốn có về nguồn lao động của ĐBSCL bị suy giảm. Không chỉ yếu về chất lượng
lao động, số lượng lao động trong khu vực chính thức cũng đang trở thành điểm
yếu của Vùng. Trong giai đoạn 2017 – 2021, ĐBSCL là vùng có tỷ lệ giảm lao
động lớn nhất cả nước, ở mức -42% (VCCI và FSPPM, 2022). Đáng lo ngại là
ĐBSCL là vùng duy nhất trong cả nước có xu hướng giảm số lượng lao động ở tất
cả các năm trong giai đoạn 2017 – 2021.
Một nhân tố cũng cần được đề cập đến là cơ cấu đầu tư xã hội. Tỷ trọng đầu tư
xã hội trong các ngành kinh tế dường như không có tác động đến cơ cấu kinh tế của
vùng, nói lên rằng đầu tư xã hội vẫn chưa đạt được hiệu quả vốn có. Bên cạnh đó,
PRIVATE (vốn đầu tư tư nhân) ở vùng lại tập trung vào lĩnh vực Nông nghiệp vì
đây là ngành có lợi thế phát triển ở vùng ĐBSCL mà không cần đầu tư nhiều về
công nghệ và trình độ khoa học kỹ thuật, kéo theo đó quá trình chuyển dịch vào
ngành Công nghiệp và Dịch vụ cũng chậm đi. Hơn nữa, trong nhiều năm qua khu
vực tư nhân chưa nhận được những ưu đãi đúng mức, các chính sách ưu đãi chủ yếu
tập trung vào khu vực FDI. Trước sự ưu ái quá mức dành cho khu vực FDI, đã tạo
ra sự méo mó trong việc phân bổ nguồn lực, khu vực tư nhân càng trở nên bị lấn át
bởi khu vực FDI. Mặt khác, tỷ trọng vốn đầu tư của ĐBSCL thấp hơn nhiều so với
tỷ trọng đóng góp về GDP hay dân số. Thu và chi ngân sách nhà nước trên đầu
người của ĐBSCL cũng thấp hơn so với mức bình quân của cả nước. Hệ quả là so

124
với những vùng khác của cả nước, giao thông đường bộ nội vùng cũng như kết nối
với TP. HCM còn kém, do vậy rất khó thu hút các nhà đầu tư. Vòng xoáy đầu tư
này, làm trầm trọng thêm vòng xoáy lao động và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Cuối cùng, URBAN (tỷ lệ dân số thành thị) có tác động tích cực đối với
chuyển dịch cơ cấu sang lĩnh vực Dịch vụ, nhưng lại có tác động tiêu cực đối với
chuyển dịch cơ cấu sang lĩnh vực Công nghiệp. Kết quả này cũng khẳng định lại
rằng sản xuất công nghiệp ở vùng ĐBSCL lấy nguồn lực sản xuất (lao động và tài
nguyên) từ khu vực nông thôn – nơi vẫn còn trình độ kỹ thuật thấp. Để quá trình đô
thị hóa thực sự có đóng góp tích cực cho quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
thì cần phải giải quyết tốt những tác động tiêu cực đến từ việc đô thị hóa bất hợp lý.
Mỗi địa phương cần cân nhắc khi thực hiện đô thị hóa bởi nhiều lợi thế cho phát
triển kinh tế về lâu dài của các địa phương vẫn tập trung trong một số ngành nghề ở
nông nghiệp. Nếu cứ tiếp tục đô thị hóa một cách cưỡng chế sẽ tạo nên sự mất cân
đối trong sử dụng lao động, khi một số ngành không có lao động để phát triển, trong
khi lượng lớn lao động tập trung ở đô thị và chấp nhận các công việc có giá trị gia
tăng thấp.
So sánh giữa các tỉnh thành phố trong khu vực, Long An là tỉnh nhận được
nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhất vào nhóm ngành công nghiệp nhờ vào
lợi thế vị trí địa lý gần Trung tâm kinh tế trọng điểm phía nam – Thành phố Hồ Chí
Minh. Từ đó, cơ cấu kinh tế của tỉnh này chuyển dịch nhanh chóng sang lĩnh vực
Công nghiệp. Tuy nhiên, điều đó cũng có nghĩa rằng chuyển dịch sang dịch vụ bị
chậm lại vì nền kinh tế quá phụ thuộc vào FDI. Cần Thơ tuy rằng không phải là địa
phương nhận được nhiều vốn FDI nhưng đạt được cơ cấu kinh tế mong muốn, vì là
trung tâm kinh tế của vùng. Sau hai địa phương trên, Kiên Giang là một trong các
tỉnh có tiềm năng phát triển kinh tế toàn diện nhất từ dịch vụ (chủ yếu là ngành du
lịch ở Phú Quốc), công nghiệp (ngành công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu),
đến nông nghiệp (đồng bằng phù sa và giáp biển) (Lục Tùng, 2020). Bên cạnh đó,
cũng có những địa phương bị phụ thuộc vào một công trình, một dự án FDI lớn –
điển hình là nhà máy nhiệt điện Duyên Hải ở Trà Vinh.

125
CHƯƠNG 5
MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH
CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
TRONG THỜI GIAN TỚI
5.1.Bối cảnh hiện nay ảnh hưởng đến thu hút FDI và chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế tại Vùng đồng bằng sông Cửu Long
5.1.1.Bối cảnh quốc tế
Thứ nhất, thay đổi vị thế và sức mạnh kinh tế giữa các quốc gia. Theo Lê
Trung Kiên (2022), các quốc gia tăng trưởng lớn ảnh hưởng trong khu vực nhất
định, tuy nhiên vùng ảnh hưởng của các nền kinh tế lớn sẽ đan xen hơn, đồng thời
quyền lực kinh tế sẽ phân tán hơn với tập hợp lực lượng đa dạng của các cường
quốc tầm trung. Bên cạnh vai trò của Mỹ và Trung Quốc, sự nổi lên của các cường
quốc khác theo thứ hạng kinh tế vào năm 2025, như Ấn Độ (xếp thứ 3), Nga (xếp
thứ 6), Indonesia (xếp thứ 7), Thái Lan (xếp thứ 19), Ba Lan (xếp thứ 20), được dự
báo sẽ thúc đẩy các tập hợp lực lượng đa dạng (Knoema, 2022). Đáng chú ý, Ấn Độ
sẽ ngày càng nổi lên với vai trò là nền kinh tế lớn thứ ba thế giới vào năm 2025 và
nắm giữ các vị trí quan trọng tại các thể chế đa phương (Lê Trung Kiên, 2022). Do
đó, các chính sách và cách tiếp cận của Ấn Độ sẽ góp phần tác động quan trọng vào
các xu hướng phát triển toàn cầu. Xung đột Nga - Uraina và chính sách cấm vận của
Mỹ và đồng minh đối với Nga đã và đang tác động sâu sắc tới địa - kinh tế toàn cầu,
vị thế và khả năng phát triển của Nga. Theo Trung tâm Nghiên cứu chiến lược quốc
tế (CSIS) của Mỹ, nhiều khả năng thế giới sẽ hình thành một trật tự đa cực lỏng lẻo,
nơi các “cực” không thể chi phối hoàn toàn khu vực ảnh hưởng (Lê Trung Kiên,
2022).
Bên cạnh đó, quyền lực kinh tế toàn cầu có xu hướng ngày càng phân tán hơn
trong môi trường đa chủ thể là nhà nước, doanh nghiệp và người dân. Dự báo, năm
tập đoàn công nghệ của Mỹ là Apple, Amazon, Alphabet, Facebook và Microsoft,
sẽ chiếm 1/5 thu nhập của Nhóm doanh nghiệp hàng đầu thế giới S&P 500 vào năm
2023 (theo Lê Trung Kiên, 2022). Xu hướng số hóa nền kinh tế hiện nay sẽ gắn kết
mọi lĩnh vực của nền kinh tế với các nền tảng số và không gian mạng, từ đó càng
mang lại khả năng “vươn xa và bám rễ” của quyền lực tập đoàn công nghệ tới nhiều
lĩnh vực kinh tế
- xã hội. Do sức mạnh và ảnh hưởng ngày càng gia tăng của các tập đoàn công nghệ,

126
nhiều quốc gia bắt đầu tăng cường kiểm soát, kiềm chế quyền lực của các tập đoàn
này.
Trong đó, khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục là trung tâm kinh tế
phát triển năng động, đạt được nhịp độ phát triển cao, và trở thành hạt nhận của nền
kinh tế thế giới. Trong đó, ASEAN vẫn phát huy được vai trò chủ lực trong nỗ lực
duy trì hòa bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác, liên kết kinh tế trong khu vực. ASEAN
có vị trí địa kinh tế - chính trị chiến lược ngày càng quan trọng, là khu vực cạnh
tranh chiến lược giữa một số nước lớn. Tuy nhiên, vị trí này cũng đang tiềm ẩn
những biến cố khó lường, những yếu tố gây mất ổn định, ASEAN cũng đứng trước
nhiều khó khăn, thách thức phức tạp hơn từ trong nội bộ một số nước và từ sự cạnh
tranh địa phận chiến lược giữa các nước lớn trong khu vực.
Thứ hai, toàn cầu hóa tiếp tục được đẩy mạnh và xu hướng của dòng vốn FDI.
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế vẫn là một xu thế tất yếu không thể đảo
ngược trong thời gian tới. Việc tham gia vào mạng sản xuất, chuỗi cung ứng và
chuỗi giá trị toàn cầu đã trở thành yêu cầu tất yếu đối với các nền kinh tế phát triển
theo hướng bền vững và hiệu quả. Các quốc gia đang phát triển sẽ có sự cạnh tranh
quyết liệt trong việc xuất khẩu và giành thị phần tiêu thụ hàng hóa trên các thị
trường trong và ngoài nước, cũng như trong việc thu hút FDI và thực hiện đầu tư ra
các nước khác. Đầu tư trực tiếp nước ngoài và sự di chuyển vốn, công nghệ, lao
động giữa các quốc gia ngày càng mạnh mẽ sẽ thúc đẩy việc khai thác có hiệu quả
hơn các nguồn lực trong nước, khu vực cũng như toàn thế giới.
Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển UNCTAD nhận định
nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) toàn cầu tăng trở lại mạnh mẽ vào năm
2021, nhưng không đồng đều (trích theo Tổng cục thống kê, 2022). Dòng vốn FDI
toàn cầu tăng 77% từ mức 929 tỷ USD vào năm 2020 lên mức 1,65 nghìn tỷ USD
vào năm 2021 (Tổng cục thống kê, 2022). Các nền kinh tế phát triển có mức tăng
mạnh nhất cho đến nay, với vốn FDI ước tính đạt 777 tỷ USD vào năm 2021, gấp
ba lần mức đặc biệt thấp vào năm 2020 (Tổng cục thống kê, 2022). Ở châu Âu, hơn
80% sự gia tăng dòng vốn là do sự thay đổi lớn ở các quốc gia trung gian tài chính
(Tổng cục thống kê, 2022). Dòng tiền vào Hoa Kỳ tăng hơn gấp đôi, với sự gia tăng
hoàn toàn do sự gia tăng các hoạt động mua bán và sáp nhập xuyên biên giới
(M&A). Trong tổng mức tăng của dòng vốn FDI toàn cầu vào năm 2021 (718 tỷ
USD), hơn 500 tỷ USD, tức gần ba phần tư, được ghi nhận ở các nền kinh tế phát
triển (Tổng cục thống kê, 2022). Các nền kinh tế đang phát triển có mức tăng

127
trưởng phục hồi khiêm tốn hơn. Dòng vốn FDI đổ vào các nền kinh tế đang phát
triển tăng 30% lên gần 870 tỷ USD, trong đó Đông và Đông Nam Á tăng 20%, khu
vực Mỹ Latinh và Caribe ghi nhận sự phục hồi gần mức trước đại dịch (Tổng cục
thống kê, 2022). Như vậy, FDI toàn cầu có thể tăng trưởng trong năm 2022, song
khó có thể lặp lại tốc độ tăng trưởng phục hồi như năm 2021. Nguồn vốn dự án
quốc tế trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng sẽ tiếp tục là động lực tăng trưởng của FDI.
Tuy nhiên, đại dịch Covid-19 vẫn có thể là nguy cơ làm giảm sút mạnh dòng tiền
đầu tư. Ngoài ra, có thể có các rủi ro lớn khác ảnh hưởng đến dòng vốn FDI năm
2022, bao gồm tắc nghẽn về lao động và chuỗi cung ứng, giá năng lượng và áp lực
lạm phát tăng.
Thứ ba, cách mạng công nghệ 4.0. Cuộc CMCN 4.0 được cho rằng sẽ tạo ra
sự thay đổi cơ bản cách sống, làm thay đổi căn bản quy trình, phương thức sản xuất
và hệ thống quản lý trên toàn thế giới theo hướng tối ưu hóa. Đối với các nhà sản
xuất, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 chứng kiến sự du nhập của các công
nghệ tiên tiến giúp tạo ra các sản phẩm và dịch vụ mới, tăng hiệu quả sản xuất, thúc
đẩy sáng tạo. Đối với người tiêu dùng, cuộc cách mạng này hứa hẹn sẽ thay đổi
phương thức tiêu dùng. Các hoạt động như tiêu dùng, sử dụng dịch vụ cơ bản đều
có thể thực hiện từ xa. Thêm vào đó, người tiêu dùng được tiếp cận thông tin sản
phẩm minh bạch hơn do áp lực duy trì lợi thế cạnh tranh giữa các nhà sản xuất.
Trong bối cảnh đó, kinh tế thế giới đang bước vào giai đoạn tăng trưởng chủ yếu
dựa vào công nghệ và sự đổi mới, sáng tạo không ngừng. Việc áp dụng KHCN tiên
tiến có thể làm tăng đáng kể sự kết nối của chuỗi giá trị toàn cầu và mở ra các mô
hình kinh doanh mới. Cách mạng 4.0 cũng sẽ có ảnh hưởng khá lớn đến Việt Nam
theo chiều hướng khó khăn, cụ thể như: (i) Nền kinh tế Việt Nam năng suất thấp, áp
dụng KHCN rất hạn chế, không có những tập đoàn, công ty thuộc “top” hàng đầu
thế giới, chính cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tạo điều kiện cho khoảng cách phát
triển thêm dãn ra nếu chúng ta không có cách ứng xử đúng mực, kể cả trong tư duy
đến chính sách kinh tế. (ii) Với sự phát triển của công nghệ mới và robot, cách thức
sản xuất của một số ngành nghề mà Việt Nam dự định phát triển mạnh, với lợi thế
lao động rẻ sẽ nhanh chóng bị ảnh hưởng lớn.
5.1.2.Bối cảnh trong nước
Thứ nhất, thể chế kinh tế thị trường được cải thiện nhưng còn nhiều nút thắt.
Trong thời gian qua dù phải đối mặt với vô vàn khó khăn, thách thức, nhất là tác

128
động nặng nề của cuộc khủng hoảng, suy thoái kinh tế toàn cầu do đại dịch Covid-
19 nhưng nhờ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa một cách
sáng tạo, kinh tế vĩ mô của chúng ta vẫn ổn định, lạm phát được kiểm soát, tăng
trưởng được duy trì ở mức khá cao; tiềm lực, quy mô và sức cạnh tranh của nền
kinh tế được nâng lên. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường được hình thành
đồng bộ hơn, gắn kết với thị trường khu vực và thế giới. Môi trường đầu tư, kinh
doanh được cải thiện và thông thoáng hơn; quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh
bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được bảo đảm hơn.
Các cơ chế, chính sách được ban hành trong nhiệm kỳ qua đã chú trọng kết hợp
giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tạo cơ hội cho
người dân tham gia và nhận được thành quả từ quá trình phát triển kinh tế. Phương
thức lãnh đạo của Ðảng, hoạt động của Nhà nước cũng từng bước được đổi mới phù
hợp hơn với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những dấu hiệu tích cực, cũng cần thừa nhận rằng thay
đổi tư duy và phương thức điều hành là một việc làm cam go, đòi hỏi sự kiên trì và
quyết tâm của tất cả các cấp, các ngành. Điều này đặc biệt khó khăn trong điều kiện
thể chế “phân mảnh” và thói quen chỉ đạo bằng mệnh lệnh hành chính đã bám rễ
sâu trong bộ máy công quyền, cơ chế kinh tế chưa thực sự cởi mở, không phù hợp
với yêu cầu hội nhập, bộ máy quản lý nhà nước cồng kềnh, lãng phí, cán bộ quản lý
nhà nước trình độ thấp, mang tư tưởng cục bộ, địa phương, lợi ích nhóm, tư duy
nhiệm kỳ chính là các nút thắt gây khó khăn cho Việt Nam trong thu hút FDI.
Thứ hai, sự thay đổi tư duy thu hút FDI với định hướng chiến lược thu hút
“FDI thế hệ mới” của Việt Nam mở ra những cơ hội cho việc thu hút FDI thúc đẩy
CDCC ngành kinh tế. Năm 2017 là dấu mốc quan trọng trong lịch sử thu hút dòng
vốn FDI của Việt Nam, là năm đánh dấu tròn 30 Việt Nam thu hút dòng vốn này.
Đây cũng là năm Việt Nam thu hút được số vốn cao nhất trong 30 năm, đứng đầu
trong nhóm các quốc gia thuộc khối ASEAN. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu
đạt được, dòng vốn FDI vẫn chưa đáp ứng được kì vọng như mong muốn. Trước
thực trạng đó, Chính phủ đã giao cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư dưới sự hỗ trợ, tư vấn
của Nhóm Ngân hàng Thế giới để tiến hành xây dựng Chiến lược và Định hướng
Chiến lược thu hút FDI thế hệ mới cho Việt Nam giai đoạn 2018-2030. Điểm nhấn
chính của “Chiến lược thu hút FDI thế hệ mới” là sự chuyển dịch trọng tâm từ thu

129
hút nhà đầu tư phù hợp cho sản phẩm của Việt Nam sang phát triển sản phẩm phù
hợp (tức là môi trường kinh doanh và điều kiện đầu tư phù hợp) cho loại hình đầu
tư mà Việt Nam cần trong tương lai, nhờ đó có thể tăng tối đa hiệu ứng lan toả và
giá trị gia tăng của FDI. Chiến lược thu hút “FDI thế hệ mới” sẽ tập trung gần như
hoàn toàn vào các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao, các hoạt động nghiên cứu và ứng
dụng chuyên sâu, giới thiệu công nghệ mới, hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ để giúp các
doanh nghiệp trong nước hội nhập vào các chuỗi giá trị toàn cầu cũng như là chất
xúc tác để tạo ra một thế hệ mới các doanh nghiệp trong nước thành công. Với định
hướng này, Việt Nam cần chuyển đổi phương thức tiếp cận FDI với mục tiêu chính
là thu hút công nghệ cao, lao động chất lượng cao, chủ động thu hút FDI và phân
cấp mạnh mẽ cho các chính quyền địa phương để thu hút các doanh nghiệp FDI,
chuyển tư duy thu hút đầu tư theo quy mô vốn sang tiêu chí dựa vào hiệu quả giá trị
gia tăng của dòng vốn FDI. Điều này sẽ mở ra nhiều cơ hội cho việc thu hút
FDI thúc đẩy CDCC ngành kinh tế của Vùng.
Ngoài ra, Nghị quyết số 50-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng hoàn
thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài
đến năm 2030 được ban hành ngày 27/4/2020 nhằm chủ động thu hút, hợp tác đầu
tư nước ngoài có chọn lọc, lấy chất lượng, hiệu quả, công nghệ và bảo vệ môi
trường là tiêu chí đánh giá chủ yếu. Nghị quyết có chính sách khuyến khích hợp tác,
chuyển giao công nghệ dựa trên cơ sở thỏa thuận, tự nguyện, chuyển giao công
nghệ và quản trị cho doanh nghiệp Việt Nam. Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài
tham gia đào tạo, nâng cao kỹ năng, trình độ cho lao động Việt Nam; sử dụng người
lao động Việt Nam đã làm việc, tu nghiệp ở các quốc gia tiên tiến cũng được
khuyến khích phát triển. Bên cạnh đó, Nghị quyết 50 cũng đã nêu rõ thu hút FDI là
hợp tác đầu tư nước ngoài, thể hiện sự chủ động cũng như sự bình đẳng giữa các
bên cũng như đề cao hơn nữa trách nhiệm của các nhà đầu tư. Với tính chất hợp tác
như vậy, Việt Nam sẽ có bộ lọc trong các lĩnh vực môi trường, công nghệ…để các
dự án đầu tư nước ngoài đáp ứng được nhu cầu của Việt Nam về ứng dụng
khoa học công nghệ, thâm dụng vốn, không sử dụng những lao động giản
đơn. Bên cạnh đó, Nghị quyết 50 cũng đã nhấn mạnh đến việc tiếp tục bảo hộ các
nhà đầu tư thông qua một loạt các thể chế như: tiếp tục xây dựng, điều chỉnh các
Hiệp định bảo hộ đầu tư đối với các quốc gia, xây dựng cơ chế trọng tài, giải quyết
khiếu nại đối với các nhà đầu tư…Đây là cơ sở để các nhà đầu tư nước ngoài yên

130
tâm sản xuất kinh doanh tại Việt Nam, góp phần tăng dòng vốn FDI vào Việt Nam.
Thứ ba, xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế và năng lực của quốc gia. Hiện
nay, Việt Nam đã tham gia 17 FTA, trong đó 15 FTA đã, đang thực hiện và được
hưởng ưu đãi từ thuế quan, đồng thời khu vực công cũng đã ban hành kế hoạch
hành động dựa trên nền của 15 FTA này và 02 FTA vẫn đang trong quá trình đàm
phán (CIIS, 2022). Các FTA quan trọng với Việt Nam bao gồm hiệp định EVFTA,
CPTPP, RCEP và UKVFTA. Trong đó, các FTA thế hệ mới như CPTPP và EVFTA
sẽ bao gồm thêm các điều khoản về lao động (như ngăn chặn doanh nghiệp tại các
nước thành viên sử dụng lao động cưỡng bức trong sản xuất), điều khoản môi
trường (sản phẩm phải đảm bảo các yếu tố về bảo vệ môi trường), điều khoản về
công đoàn,… Đặc biệt, đầu tư là một trong những lĩnh vực có trong các “FTA thế
hệ mới” mà không có trong các FTA truyền thống, điều này sẽ tạo ra cơ hội lớn hơn
trong thu hút FDI. Với các quy định trong các FTA thế hệ mới, các nhà đầu tư sẽ
đầu tư chiều sâu vào thị trường Việt Nam, do đó, chất lượng FDI sẽ được cải thiện,
tạo động lực cho phát triển nền kinh tế.
Tuy nhiên, FTA hiện không còn là yếu tố then chốt trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế so với trước đây. Bởi lẽ, FTA chỉ giúp làm giảm hàng rào thuế quan
nhưng hàng rào phi thuế quan thì vẫn còn và ngày càng nhiều hơn. Có rất nhiều lý
do để tạo nên các cản trở trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa. Thứ nhất, thuế
quan là nguồn thu chính của ngân sách quốc gia, do vậy khi hiệp định có hiệu lực
tức là khi thuế quan giảm về 0% hoặc giảm theo lộ trình cam kết đối với từng mặt
hàng cụ thể thì theo xu hướng, chính phủ các nước sẽ dựng nên các rào cản phi thuế
quan để bù đắp lại khoản thuế quan bị thất thu tại cảng điển hình là phí, lệ phí... Thứ
hai, các nước muốn bảo vệ ngành công nghiệp sản xuất trong nước trước làn sóng
nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài theo khuôn khổ các FTA ký kết. Cuối cùng, các
nước có thể sử dụng các biện pháp mà WTO, WCO cho phép ví dụ như các biện
pháp chống lẩn tránh thuế, biện pháp phòng vệ thương mại, thuế chống bán phá giá,
thuế tự vệ trong điều kiện chứng minh được việc nhập khẩu mặt hàng này có ảnh
hưởng nghiêm trọng đến ngành sản xuất nội địa. Việc dựng rào cản không khéo đôi
khi khiến doanh nghiệp nội địa gặp khó trong ngành mình có lợi thế. Hơn nữa, thuế
quan tại cảng có thể giảm về 0% theo FTA đối với nhiều loại hàng hóa nhưng thuế
nội địa thì vẫn cao bao gồm thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế VAT,… đối với các mặt
hàng xa xỉ như mỹ phẩm, ô tô và nhóm hàng thuốc lá, rượu bia (đây là các mặt hàng

131
chính phủ hạn chế người dùng). Mặt khác, việc thuế nhập khẩu hàng hóa và nguyên
liệu vật tư rẻ hơn sẽ tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh trong nước, lợi nhuận
tốt hơn sẽ giúp giải quyết một cách bền vững hơn tình trạng nguồn thu thuế thiếu
hụt và nạn thất nghiệp. Bên cạnh đó, xét về năng lực nội tại, Việt Nam còn nhiều
hạn chế và đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức lớn cần phải được giải
quyết trong thời gian tới để có thể thu hút các nguồn FDI có chất lượng.
Thứ tư, tiềm lực kinh tế trong nước tăng lên đáng kể nhưng vẫn còn nhiều hạn
chế. Theo Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh, quy mô kinh tế Việt
Nam tăng gấp 12 lần, thu nhập bình quân đầu người tăng 8,3 lần, kim ngạch xuất -
nhập khẩu tăng 29,5 lần, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng 22 lần (trích
theo Minh Hà, 2022). Tỉ lệ hộ nghèo cả nước từ 58% năm 1993 xuống chỉ còn
2,23% năm 2021 tính theo chuẩn mới (trích theo Minh Hà, 2022). Từ một nước
nghèo nàn, lạc hậu và còn thiếu ăn, Việt Nam đã vươn lên thành trở thành nước có
thu nhập trung bình với GDP bình quân đầu người đạt 2.779 USD vào năm 2020 và
là một trong những nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới (trích theo Minh Hà,
2022).
Cùng với sự tăng lên đáng kể của tiềm lực kinh tế, kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ
thuật và xã hội của Việt Nam cũng đã có bước phát triển mạnh mẽ và từng bước
được hoàn thiện theo hướng đồng bộ và hiện đại, đặc biệt là hệ thống giao thông,
thủy lợi, truyền tải và cung cấp điện, thông tin liên lạc, bảo hiểm… cũng như
đã có một nguồn nhân lực trẻ dồi dào, có kiến thức, năng động và bước đầu đã
được rèn luyện trong môi trường phức tạp của nền kinh tế thị trường. Tuy vậy, mô
hình tăng trưởng vẫn mang đậm nét theo chiều rộng, tăng trưởng nhờ vào đầu tư,
nhờ vào gia công với năng suất và hiệu quả thấp, khu vực tư nhân còn yếu kém và
chưa thực sự trở thành động lực tăng trưởng, các ngành công nghiệp hỗ trợ chưa
phát triển… sẽ là các yếu tố gây khó khăn cho Việt Nam trong thời gian tới. Bên
cạnh đó, năng lực tự chủ, khả năng thích ứng và sức chống chịu của nền kinh tế
trước các cú sốc hoặc tác động bên ngoài còn yếu. Khả năng tự chủ của nền kinh tế
chịu ảnh hưởng mạnh từ biến động hoạt động sản xuất khu vực đầu tư nước ngoài
và một số thị trường lớn. Nền kinh tế Việt Nam cơ bản là một nền kinh tế thâm
dụng vốn và gia công, lắp ráp là chủ yếu.
Trong những năm qua, mặc dù xếp hạng chỉ số đổi mới sáng tạo có sự cải
thiện nhưng các yếu tố nền tảng còn ở mức thấp. Năng lực tự chủ của ngành công
nghiệp còn ở mức thấp với việc nhập khẩu hầu hết công nghệ, máy móc thiết bị,

132
phụ tùng, nguyên liệu chính cho sản xuất công nghiệp… Nền kinh tế Việt Nam hội
nhập cao, có độ mở lớn nhưng lại tập trung vào một số ít thị trường và cơ cấu thiếu
bền vững dẫn đến bị phụ thuộc.
5.1.3.Mục tiêu, quan điểm về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở vùng ĐBSCL
trong giai đoạn 2021-2030 tầm nhìn đến năm 2050
Qua thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong quá trình ở vùng
ĐBSCL trong giai đoạn 2010 - 2019 và yêu cầu của bối cảnh tình hình mới, quan
điểm, mục tiêu và định hướng về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở vùng ĐBSCL
trong thời gian tới được xác định trong quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030,
tầm nhìn đến năm 2050 (theo Quyết định số 287/QĐ-TTg do Phó TT Lê Văn Thành
ký ngày 28 tháng 02 năm 2022). Theo đó, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở vùng
ĐBSCL đến năm 2030 thành trung tâm kinh tế nông nghiệp, các hành lang kinh tế
và các đô thị động lực tập trung các dịch vụ và công nghiệp đa dạng với hệ thống
kết cấu hạ tầng đồng bộ, thích ứng với biến đổi khí hậu, tăng cường kết nối vùng,
liên kết vùng trong nước và quốc tế, chú trọng phát triển khoa học công nghệ và đổi
mới sáng tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường sinh thái và
đảm bảo ổn định chính trị, quốc phòng, an ninh. Mục tiêu này được dựa trên những
quan điểm chủ yếu sau đây:
Một là, Phát triển Vùng đồng bằng sông Cửu Long theo hướng phát triển bền
vững, phát huy nguồn lực con người, khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, đô
thị, phát triển công nghiệp và chuyển đổi số. Trình độ khoa học - công nghệ ở vùng
ĐBSCL hiện nay vẫn còn rất thấp. Trong khi đó, thế giới đã và đang trải qua bốn
cuộc cách mạng công nghiệp. Cho nên, đổi mới kỹ thuật, công nghệ ở vùng ĐBSCL
trong thời gian tới phải theo hướng vừa có những bước tuần tự từ thủ công lên máy
móc, lên tự động hóa... vừa có bước nhảy vọt từ thủ công lên công nghệ tiên tiến,
hiện đại khi có nhu cầu cần thiết và có khả năng thực hiện nhằm nhanh chóng rút
ngắn khoảng cách lạc hậu so với các vùng kinh tế - xã hội khác của cả nước, với các
nước khác trong khu vực và trên thế giới.
Hai là, chuyển đổi mô hình phát triển từ phân tán, nhỏ lẻ sang tập trung, phát
triển thành cụm kinh tế nông nghiệp gắn với đô thị hoá, công nghiệp hoá tạo ra sự
phát triển đột phá.
Ngoài ra, quan điểm cũng nêu rõ chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở vùng
ĐBSCL trong thời gian tới phải đi cùng tăng cường liên kết vùng, tập trung triển hạ

133
tầng, đặc biệt là hạ tầng giao thông, năng lượng, và hạ tầng xã hội. Chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế ở vùng ĐBSCL trong thời gian tới theo hướng CNH, HĐH, phát
huy tối đa những tiềm năng và lợi thế so sánh của vùng, nâng cao sức cạnh tranh
các loại hàng hóa, dịch vụ của vùng trên thị trường trong nước và ngoài nước sẽ
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
5.1.4.Định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở vùng ĐBSCL đến
năm 2030 giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050
Căn cứ vào thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong quá trình CNH,
HĐH ở vùng ĐBSCL trong giai đoạn 2010 - 2019 và quan điểm về chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế ở vùng ĐBSCL trong thời gian tới thì định hướng phát triển
ngành có lợi thế. Trong đó, kinh tế ở vùng ĐBSCL đến năm 2030 cần chuyển dịch
theo hướng giảm tỷ trọng nhóm ngành nông - lâm - thủy sản trong GRDP, tăng tỷ
trọng nhóm ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ trong GRDP nhằm hướng đến
cơ cấu kinh tế công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ trong dài hạn.
Về cơ cấu ngành nông nghiệp trong GRDP phân theo nhóm ngành kinh tế
Cơ cấu giá trị sản xuất nông - lâm - thủy sản phân theo ngành kinh tế ở vùng
ĐBSCL trong thời gian tới cần chuyển dịch theo hướng tiếp tục tăng tỷ trọng ngành
thủy sản, giảm tương ứng tỷ trọng ngành nông nghiệp và ngành lâm nghiệp trong
giá trị sản xuất nông - lâm - thủy sản nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế và thu nhập
của nông dân. Xây dựng ngành thủy sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của vùng
có quy mô lớn, hiện đại và có sức cạnh tranh cao.
Cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp phân theo ngành kinh tế ở vùng ĐBSCL
trong thời gian tới cần chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng hàng hoá chất lượng
cao, kết hợp với thương mại, dịch vụ logistics, du lịch sinh thái, công nghiệp, đặc
biệt là công nghiệp chế biến, gắn với ứng dụng nhanh tiến bộ khoa học - công nghệ
vào sản xuất, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường sinh thái.
Chuyển dần từ sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, manh mún lên nông nghiệp trang trại,
nông nghiệp tập trung quy mô lớn. Gắn sản xuất với chế biến, liên kết theo chuỗi
giá trị trong sản xuất nông nghiệp, xây dựng thương hiệu hàng nông sản nhằm nâng
cao giá trị hàng nông sản của vùng.
Về tỷ trọng của các ngành công nghiệp và xây dựng trong GRDP, cơ cấu giá
trị sản xuất công nghiệp

134
Thứ nhất, nhóm ngành công nghiệp - xây dựng bao gồm 4 ngành kinh tế cấp 1
đó là: ngành khai khoáng; ngành công nghiệp chế biến; ngành sản xuất và phân
phối điện, khí đốt và nước; ngành xây dựng. Ở góc độ cơ cấu ngành kinh tế, CNH là
quá trình biến đổi nền kinh tế mà nhóm ngành nông - lâm - thủy sản và ngành khai
khoáng chiếm tỷ trọng lớn sang một nền kinh tế mà ngành công nghiệp chế biến
chiếm tỷ trọng lớn. Trong quá trình này, ngành công nghiệp chế biến trở thành đầu
tàu của nền kinh tế và có xu hướng gia tăng về tỷ trọng trong sản xuất, trong tổng
lao động xã hội và kim ngạch xuất khẩu.
Thứ hai, về cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp ở vùng ĐBSCL trong thời gian
tới cần chuyển dịch theo định hướng sau:
+ Phát triển mạnh và tăng nhanh tỷ trọng một số ngành công nghiệp trong giá
trị sản xuất công nghiệp mà vùng ĐBSCL đang có tiềm năng và lợi thế như ngành:
sản xuất, chế biến thực phẩm và đồ uống; dệt; sản xuất trang phục; sản xuất da và
các sản phẩm có liên quan; sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy; sản xuất hóa chất
và sản phẩm hóa chất; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu; sản xuất các sản
phẩm từ cao su và plastic; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc thiết
bị). Phát triển mạnh một số ngành công nghiệp này nhằm khai thác tối đa nguồn
nguyên liệu nông sản và thủy sản, nguồn nhân lực dồi dào của vùng, cũng như đáp
ứng nhu cầu thị trường của vùng, trong nước và ngoài nước.
+ Chuyển dịch cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp ở vùng ĐBSCL trong thời
gian tới cần gắn với việc phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp theo
hướng cụ thể, thiết thực và hiệu quả, đáp ứng nhu cầu về mặt bằng cho việc đầu tư
phát triển các ngành công nghiệp của vùng.
Về tỷ trọng của các ngành dịch vụ trong GRDP
Tỷ trọng của hầu hết các ngành dịch vụ trong GRDP ở vùng ĐBSCL trong
giai đoạn 2010 - 2019 đều có xu hướng tăng lên (chỉ trừ tỷ trọng của ngành tài
chính, ngân hàng và bảo hiểm là có xu hướng giảm xuống). Tuy nhiên, những
ngành dịch vụ truyền thống như ngành thương nghiệp, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy
và xe có động cơ khác, ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống còn chiếm tỷ trọng cao
trong GRDP. Ngược lại, những ngành dịch vụ động lực như ngành vận tải kho bãi,
thông tin và truyền thông, ngành tài chính, ngân hàng và bảo hiểm, hoạt động khoa
học và công nghệ, giáo dục và đào tạo còn chiếm tỷ trọng thấp trong GRDP. Vì vậy,
tỷ trọng của các ngành dịch vụ trong GRDP ở vùng ĐBSCL trong thời gian tới cần
chuyển dịch theo xu hướng sau:

135
-Tiếp tục gia tăng tỷ trọng của ngành thương nghiệp, sửa chữa ô tô, mô tô,
xe máy và xe có động cơ khác, ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống vì các ngành dịch
vụ này có mức vốn đầu tư/1 lao động thấp, phù hợp với điều kiện ít vốn và nhiều
lao động phổ thông ở vùng ĐBSCL trong giai đoạn hiện nay.
-Đồng thời, cần tăng nhanh tỷ trọng của một số ngành dịch vụ động lực như
ngành vận tải kho bãi, thông tin và truyền thông, ngành tài chính, ngân hàng và bảo
hiểm, hoạt động khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo nhằm thúc đẩy quá
trình CNH, HĐH ở vùng.
Trong quá trình cơ cấu lại các ngành dịch vụ theo phương hướng nêu trên, cần
nhanh chóng áp dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất, đặc biệt là áp dụng
công nghệ thông tin nhằm nâng cao chất lượng và giảm giá cả của các dịch vụ, tăng
sức cạnh tranh trên thị trường, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống.
Có thể thấy, sau hơn ba thập kỷ kể từ giai đoạn đổi mới, mặc dù ĐBSCL đã
thành công trong việc thoát đói, giảm nghèo, nhưng vùng đất này vẫn chưa đem lại
được sự thịnh vượng cho phần lớn người dân của mình. Bằng chứng là tốc độ phát
triển của Vùng đã chậm lại một cách đáng kể, mức sống của người dân thấp hơn
mức trung bình của cả nước, và ĐBSCL ngày càng tụt hậu về hầu hết các khía cạnh
phát triển kinh tế - xã hội. Vai trò kinh tế của ĐBSCL đang giảm dần so với các
vùng khác trong cả nước. Đóng góp của ĐBSCL vào tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) trong ba thập kỷ qua giảm mạnh. Nếu so với thành phố Hồ Chí Minh thì vào
năm 1990, GDP của thành phố Hồ Chí Minh chỉ bằng 2/3 so với ĐBSCL thì hai
thập niên sau, tỷ lệ này đã hoàn toàn đảo ngược và duy trì cho đến ngày hôm nay.
Điều này còn ngụ ý rằng, mặc dù có lợi thế nằm ngay sát thành phố Hồ Chí Minh và
vùng kinh tế trọng điểm Đông Nam Bộ năng động và phát triển, song dường như
ĐBSCL không được hưởng lợi đáng kể từ sự kết nối này, không những thế còn
ngày một tụt hậu (Hà Anh, 2019)
5.2.Một số khuyến nghị nhằm phát huy vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế vùng Đồng bằng sông
Cửu Long
5.2.1.Đổi mới tư duy trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Vùng ĐBSCL
Kết quả nghiên cứu định lượng cho thấy FDI có tác động đến CDCCNKT
thông qua sự tác động tích cực lên sản xuất công nghiệp, đồng thời kết quả thống kê
cũng chỉ ra lượng vốn FDI vào các tỉnh ĐBSCL vẫn còn thấp. Do đó, nếu muốn
các nhà

136
đầu tư nước ngoài đầu tư vốn vào các tỉnh trong Vùng, trước hết cần phải có một
cuộc cách mạng nhận thức. Từ các cấp lãnh đạo cao nhất đến cấp chính quyền cơ sở
đều thống nhất trong đánh giá vai trò của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
trong nền kinh tế của Vùng. Cần phải xác định rõ ràng rằng, khi phát triển được
thành phần kinh tế có vốn FDI thì chưa xét đến tầm ảnh hưởng cho toàn bộ nền kinh
tế mà ngay cả các doanh nghiệp trong nước cũng trở nên năng động hơn, hội nhập,
thích nghi hơn với bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế hiện nay. Muốn nhận thức được
sâu, cần có sự phối hợp giữa tất cả các cơ quan quản lí, chính quyền các cấp, nhân
dân các tỉnh, các sở, ban ngành trực tiếp và gián tiếp liên quan để làm sao tạo nên
một không khí hoà đồng, dễ chịu, tôn trọng lẫn nhau giữa hai phía, tạo nên sự yên
tâm và thoả mái cho các nhà đầu tư nước ngoài. Cần nâng cao nhận thức cho đội
ngũ lãnh đạo của các tỉnh trong Vùng ĐBSCL trong thu hút FDI nhằm chuyển dịch
CCNKT và phải củng cố nhận thức trong lãnh đạo của các tỉnh trong Vùng thực
hiện quan điểm trong đối xử bình đẳng giữa khu vực kinh tế có vốn FDI với các khu
vực kinh tế khác. Cụ thể là: (i) Thường xuyên tổ chức gặp mặt các cơ quan quản lí
chính quyền để quán triệt cụ thể quan điểm của các tỉnh trong Vùng về vai trò của
FDI đối với thúc đẩy CDCC ngành kinh tế. (ii) Định kì tổ chức các hội thảo đánh
giá tính hiệu quả, những đóng góp của khu vực FDI đối với thúc đẩy chuyển dịch
CCNKT và phát triển kinh tế - xã hội của Vùng. (iii) Có những giải pháp tuyên
truyền, với chế tài đủ mạnh, xử lí nghiêm minh những hành vi gây phiền hà, sách
nhiễu, quan liêu, hách dịch, những hành vi phá hoại phi lí của những cá nhân lãnh
đạo hoặc nhóm công dân đối với hoạt động FDI, tạo tâm lí không an tâm trong các
nhà đầu tư nước ngoài.
5.2.2.Chính sách tính đến yếu tố đặc thù của từng tỉnh trong Vùng
Kết quả mô hình định lượng cho thấy sự hấp thụ FDI để tác động lên sự
chuyển dịch CCNKT của từng tỉnh, thành trong khu vực là không giống nhau (lấy
tỉnh Long An làm tỉnh cơ sở so sánh). Do đó, trong từng giải pháp cần phải tính đến
yếu tố đặc thù của từng tỉnh trong Vùng cho các định hướng ưu tiên, đặc thù... phù
hợp thực tế để dần thu hẹp khoảng cách giữa các tỉnh trong thu hút FDI phục vụ
chuyển dịch cơ cấu kinh tế đồng bộ và phát triển kinh tế - xã hội của Vùng ĐBSCL.
Ngoài việc phát triển các tỉnh trọng điểm trong Vùng nhằm sử dụng đầu tư nước
ngoài và hỗ trợ các tỉnh trọng điểm phát triển các ngành công nghiệp sử dụng nhiều
vốn và công nghệ; các ngành công nghiệp xuất khẩu, cần tiến hành các biện pháp

137
mạnh để chỉ đạo và khuyến khích hoạt động FDI hướng vào các tỉnh có điều kiện
kinh tế khó khăn của Vùng. Các tỉnh có trình độ phát triển thấp này có thể lựa chọn
các ngành công nghiệp và các ngành có điều kiện phát triển thuận lợi thật sự để tiếp
nhận có hiệu quả các chính sách áp dụng cho các ngành được khuyến khích FDI.
Đồng thời, cần tiếp tục khuyến khích các doanh nghiệp FDI trong các tỉnh trọng
điểm tái đầu tư vào các tỉnh có điều kiện khó khăn. Cho phép các doanh nghiệp FDI
ở tỉnh trọng điểm đi tới các tỉnh có điều kiện kém thuận lợi hơn để thành lập doanh
nghiệp với sự dẫn dắt của các doanh nghiệp Nhà nước của Vùng ĐBSCL.
Bên cạnh đó, để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển toàn diện
vùng ĐBSCL, tác giả gợi ý một số chính sách trên cơ sở phân tích các yếu tố tác
động trong mô hình ước lượng và chiến lược phát triển chung của Vùng (Nguyễn
Phương Lam và Vũ Thành Tự Anh, 2020). Phần này sẽ tập trung vào bốn vấn đề để
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở ĐBSCL qua các nhóm nhân tố ảnh hưởng
quyết định, được trình bày như hình 5.1 bao gồm: môi trường kinh doanh, cơ sở hạ
tầng, nguồn nhân lực và khoa học công nghệ.
Hình 5.1. Gợi ý chính sách phát triển vùng ĐBSCL
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Thứ nhất, môi trường cạnh tranh là một trong những nhân tố xác định năng
lực cạnh tranh cấp tỉnh ở ĐBSCL. Cải thiện môi trường kinh doanh thúc đẩy được
nguồn vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và nguồn đầu tư trong nước – vốn đầu tư của tư
nhân (PRIVATE) và vốn góp xã hội, góp phần vào tăng trưởng kinh tế
(GROWTH). Hơn nữa, dù các yếu tố này có tác động đến chuyển dịch kinh tế ở
ĐBSCL, nhưng cũng cần có những chính sách điều hướng phù hợp vào các ngành
Công nghiệp và dịch vụ, đặc biệt là dòng vốn tư nhân trong nước – hiện đang tập

138
trung vào lĩnh vực Nông nghiệp. Theo chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI)
năm 2020, các chỉ số liên quan đến môi trường cạnh tranh ở ĐBSCL chỉ trên mức
trung bình, thậm chí là thấp hơn trung bình cả nước – ví dụ như chỉ số về tính minh
bạch đo lường mức độ phổ biến thông tin rộng rãi và rõ ràng đến tất cả đối tượng
kinh doanh. Do đó, ĐBSCL cần có chính sách cải thiện môi trường cạnh tranh để
thu hút được nguồn đầu tư từ cả trong và ngoài nước.
Thứ hai, cơ sở hạ tầng và các dịch vụ logistics là một trong những điểm yếu
của ĐBSCL mặc dù vị trí địa lý của vùng gần kề với Thành phố Hồ Chí Minh. Các
chuyên gia đánh giá rằng hệ thống cơ sở hạ tầng ở ĐBSCL vừa thiếu, vừa yếu
1
.
Điển hình là hệ thống cảng ở ĐBSCL không đủ khả năng phụ vụ cho những tàu
biển công suất lớn, và phần lớn các doanh nghiệp ở ĐBSCL đều phải vận chuyển
đến thành phố Hồ Chí Minh để thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu. Theo HÌnh 4.1,
cơ sở hạ tầng tốt sẽ thúc đẩy quá trình đô thị hóa (URBAN), cắt giảm chi phí và
thời gian vận chuyển, và thuận lợi trong việc tiếp cận các nguồn lực mới, thu hút
đầu tư để phát triển (FDI, PRIVATE).
Quy hoạch là một công việc rất quan trọng nhằm thu hút FDI đúng hướng,
đúng mục đích góp phần chuyển dịch CCNKT. Quy hoạch tốt sẽ tránh tình trạng
mất cân đối trong cơ cấu FDI, tránh được hiện tượng sử dụng đất sai mục đích, làm
mất đi diện tích đất màu mỡ trong sản xuất nông nghiệp, đất rừng - đây là lĩnh
vực Vùng ĐBSCL đang có lợi thế cạnh tranh trong xu thế khủng hoảng an ninh
lương thực toàn cầu. Vì vậy, để thu hút FDI nhằm thúc đẩy hơn nữa
chuyển dịch CCNKT của Vùng ĐBSCL, cần phải hoàn thiện và nâng cao chất
lượng công tác quy hoạch ngành, Vùng. Quy hoạch FDI phải là một bộ phận hữu cơ
trong quy hoạch tổng thể các nguồn lực chung của Vùng ĐBSCL, bao gồm vốn và
các nguồn lực trong nước, nguồn lực bên ngoài (vốn FPI, vốn FDI) trên cơ sở đó
phát huy cao độ nội lực, bảo hộ hợp lý nền sản xuất của các tỉnh trong Vùng, phù
hợp với quy tắc của WTO và thông lệ quốc tế, gắn với tiến trình hội nhập, nâng cao
khả năng cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế của các tỉnh trong Vùng.
Thứ ba, nguồn nhân lực ở ĐBSCL vẫn còn ở trình độ thấp, điều này gây cản
trở cho quá trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong khi đó, chỉ số đo
lường – “đào tạo lao động” ở ĐBSCL thấp hơn trung bình cả nước. Như phân tích ở
1
Thanh Trà - Minh Hưng (TTXVN). 2021. “Logistics Đồng bằng sông Cửu Long: Vừa thiếu, vừa yếu”. Truy
cập: https://bnews.vn/logistics-do-ng-ba-ng-song-cu-u-long-vua-thieu-vua-yeu/191572.html

139
mô hình định lượng, FDI thúc đẩy chuyển dịch chủ yếu ở những ngành có trình độ
lao động cao vì thế trình độ lao động thấp là một trở ngại trong việc thu hút đầu tư
nước ngoài (FDI), và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hơn nữa, bên cạnh nguồn vốn,
nguồn lao động (EMP) là một trong những nhân tố quyết định giá trị sản lượng của
một địa phương. Vì vậy, chú trọng phát triển nguồn nhân lực với trình độ lao động
cao là một điều thiết yếu.
Phát triển nguồn nhân lực cạnh tranh với lực lượng lao động có kỹ năng, tay
nghề thích ứng với bối cảnh CMCN 4.0 và hội nhập quốc tế. Khuyến khích, tạo
điều kiện thuận lợi cho các chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài làm việc tại Việt
Nam, đảm bảo an sinh cho người lao động. Để tăng cường tác động của FDI tới
chuyển dịch CCNKT của Vùng ĐBSCL thì các tỉnh trong Vùng cần có nguồn nhân
lực có đủ trình độ, có thể tiếp thu có hiệu quả công nghệ cao, công nghệ nguồn từ
dòng vốn FDI. Chính vì vậy, Vùng ĐBSCL cần có những biện pháp đồng bộ để
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Không có nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ
không tiếp nhận được khoa học công nghệ hiện đại, công nghệ nguồn từ hoạt động
FDI nhằm chuyển dịch CCNKT theo hướng bền vững. Cùng với tạo việc làm và thu
nhập cho người lao động, FDI đã góp phần quan trọng vào đào tạo đội ngũ công
nhân, giúp đội ngũ này có cơ hội tiếp cận với kỹ thuật, công nghệ mới và được đào
tạo về kỹ năng để vận hành máy móc, thiết bị. Nhờ có FDI được nâng cao, rút ngắn
khoảng cách về trình độ lao động giữa các nước phát triển với các nước đang phát
triển. Vì vậy, cần chú trọng đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật, công nhân có tay
nghề cao, có khả năng tiếp thu công nghệ tiên tiến khi làm việc trong các doanh
nghiệp FDI. Mặt khác, cần có cơ chế tuyển dụng và bổ nhiệm cán bộ Vùng ĐBSCL
tham gia quản lý, điều hành trong các liên doanh thực sự có đủ năng lực để bảo vệ
quyền và lợi ích của Nhà nước và của phía Vùng ĐBSCL, tiếp thu công nghệ và
kinh nghiệm quản lý tiên tiến của phía nước ngoài.
Cuối cùng, khoa học công nghệ là một lĩnh vực đang bị bỏ ngõ ở vùng
ĐBSCL. Không thể phủ nhận vai trò của công nghệ trong việc phát triển kinh tế của
vùng vì nó đã được chứng minh tầm quan trọng ở những nền kinh tế phát triển. Mặc
dù gần đây ĐBSCL có những bước tiến về ứng dụng công nghệ trong sản xuất nông
nghiệp, cũng như một số ngành công nghiệp, tuy nhiên các hoạt động này còn nhỏ
lẻ và chưa đồng bộ. Hơn thế nữa, việc phát triển công nghệ mới vẫn còn chưa được

140
đầu tư đúng mức. Phát triển và ứng dụng công nghệ vào trong sản xuất không chỉ
góp phần gia tăng năng suất, tăng trưởng kinh tế (GROWTH), mà còn thúc đẩy
trình độ lao động phát triển (EMP).
Một trong những vai trò quan trọng của FDI là chuyển giao công nghệ.
Chuyển giao công nghệ mang một hàm ý rộng, bao gồm không chỉ từ nhập khẩu
công nghệ đơn thuần mà còn vận hành công nghệ đó, sửa chữa, bảo hành, nắm vững
các nguyên lý, mô phỏng và phát triển nó. Muốn chuyển dịch CCNKT cần phải dựa
trên cơ sở sự phát triển lớn mạnh của các ngành sản xuất vật chất, trong đó cần chú
trọng trước hết là phát triển công nghiệp theo hướng hiện đại, mở rộng quy mô,
nâng cao chất lượng sản phẩm và gia tăng khả năng cạnh tranh để làm tiền đề cho
phát triển ngành dịch vụ. FDI là một giải pháp quan trọng nhằm bổ sung nguồn vốn
cho phát minh công nghệ, đổi mới và cải tiến công nghệ, khắc phục tình trạng lạc
hậu của công nghệ đối với Vùng ĐBSCL.
Đồng thời FDI cũng kéo theo quá trình chuyển giao công nghệ, để từ đó Vùng
ĐBSCL có thể tiếp nhận và nhập khẩu được công nghệ tiên tiến, công nghệ phù hợp
từ nước ngoài và các nước có trình độ công nghệ tiên tiến. Thông qua FDI, giữa các
nước đã có sự chuyển giao công nghệ và bổ sung công nghệ cho nhau. Vùng
ĐBSCL là một vùng thuộc quốc gia đang phát triển, trình độ công nghệ lạc hậu,
thấp kém, thì FDI được coi như là một phương tiện hữu hiệu để nhập khẩu công
nghệ có trình độ cao hơn từ bên ngoài. Thông qua FDI, Vùng ĐBSCL có điều kiện
xuất khẩu công nghệ trung gian và truyền thống hoặc chuyển giao công nghệ có lợi
cho cả hai bên. Phần lớn các nước đang phát triển đều có nhu cầu đổi mới về công
nghệ.
5.2.3.Xây dựng chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Vùng ĐBSCL
Hiện nay, vốn FDI chỉ chiếm có 7,3% vốn đầu tư trên địa bàn vùng ĐBSCL.
Để thu hút mạnh vốn FDI ở vùng ĐBSCL trong thời gian tới, cần thực hiện một số
biện pháp chủ yếu. Cụ thể các lãnh đạo địa phương trong Vùng cần phải có các giải
pháp nhằm thu hút đầu tư hơn nữa nguồn vốn FDI từ các nước phát triển vào Vùng
ĐBSCL để chuyển dịch CCNKT của Vùng. Một trong những cách tiến hành là phải
phát triển FDI theo từng bước, trong đó khuyến khích các tổ chức tư vấn công nghệ,
thông tin khoa học công nghệ vào Vùng ĐBSCL. Từ đó, các tổ chức này sẽ lôi cuốn
các công ty khác ở Tây Âu và Hoa Kỳ đi vào. Cần tăng cường thu hút FDI từ Hoa
Kỳ và các nước Tây Âu vì đó là những nước có công nghệ cao và công nghệ nguồn

141
có khả năng cung cấp công nghệ hiện đại và thực hiện được những bảo đảm để có
thể đạt được thành quả đầu tư lâu dài, phù hợp với thu hút FDI tạo bước đột phá
nhằm điều chỉnh CCNKT của Vùng ĐBSCL giai đoạn 2020 -2025 tầm nhìn 2030.
Công nghệ nguồn được đưa vào chỉ khi nước tiếp nhận FDI có những
đảm bảo về mặt an ninh, bản quyền và thị trường nhất định. Các kỹ thuật, bí
quyết nghề nghiệp trong những lĩnh vực dịch vụ chỉ có thể được đưa vào khi
có một môi trường thích hợp, minh bạch để chúng có thể vận hành được.
Muốn có được sự tăng trưởng và phát triển mới, cần phát triển thị trường thông tin,
thành lập được các tập đoàn dữ liệu kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ nhằm có
được những thông tin toàn diện về thế giới và cung cấp cho các khách hàng Vùng
ĐBSCL, đặc biệt là các doanh nghiệp trong Vùng. Và hơn lúc nào hết, việc phát
triển công nghiệp phụ trợ trở nên cần thiết, khiến phía Vùng ĐBSCL phải có những
chính sách và biện pháp phù hợp để thúc đẩy sự hình thành nền công nghiệp phụ
trợ. Nhưng trong chuyển dịch CCNKT, bản thân các doanh nghiệp FDI cũng gặp
phải những vấn đề nội tại về các lĩnh vực dịch vụ, phát triển nền kinh tế mà phía các
doanh nghiệp đang nỗ lực tìm cách giải quyết, nên sự phát triển FDI đối với các
ngành dịch vụ trong nền kinh tế hiện nay không phải là dễ dàng.
Do vậy, để có thể chuyển dịch CCNKT có hiệu quả cao thì Vùng ĐBSCL cần
phải duy trì các đối tác truyền thống, đồng thời tăng cường thu hút FDI từ các đối
tác Nhật Bản và Hàn Quốc. Chú trọng, khuyến khích thu hút FDI từ các công ty
xuyên quốc gia vào Vùng ĐBSCL nhằm chuyển dịch CCNKT. Hiện nay, số lượng
các chi nhánh của các công ty xuyên quốc gia còn hạn chế nhiều tại Vùng ĐBSCL.
Trong khi các công ty xuyên quốc gia đóng vai trò quan trọng cho quá trình tăng
trưởng kinh tế của Vùng ĐBSCL, nhất là trong vấn đề phát triển khoa học công
nghệ, tạo nguồn vốn đầu tư đáng kể góp phần làm thay đổi cơ cấu kinh tế. Đặc biệt
cùng với sự chuyển đổi từ kinh tế tập trung sang cơ chế thị trường của Vùng
ĐBSCL, các công ty xuyên quốc gia cũng tham gia đầu tư vào rất nhiều lĩnh vực
kinh tế, góp phần không nhỏ vào phát triển thị trường và nền kinh tế Vùng ĐBSCL
trong suốt thời gian qua. Tuy nhiên, số lượng các dự án FDI thu hút vào Vùng
ĐBSCL từ các công ty xuyên quốc gia rất ít.
Mặt khác, dưới tác động của công nghệ 4.0, vai trò của các công ty xuyên
quốc gia trong nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế các tỉnh trong Vùng nói
riêng sẽ ngày càng tăng lên. Việc tìm ra những biện pháp thúc đẩy đầu tư và khai

142
thác có hiệu quả hơn các nguồn lực của các công ty xuyên quốc gia để thực hiện thu
hút FDI nhằm chuyển dịch CCNKT của Vùng ĐBSCL là rất quan trọng. Trước mắt,
không nên tiếp tục dùng biện pháp hành chính hoặc thuế quan ép buộc các công ty
xuyên quốc gia tăng tỷ lệ nội địa hóa, mà phải phát triển công nghiệp hỗ trợ trong
nước, cung cấp nhanh các bộ phận, linh kiện rẻ và chất lượng cao.
Ngoài ra, cần có ngay một kế hoạch tạo bước đột phá trong việc tăng nhanh
sản xuất các bộ phận, linh kiện cho sản xuất công nghiệp mà Vùng ĐBSCL có lợi
thế cạnh tranh, trước hết từ khâu thiết kế, sản xuất, tiếp thị, cung cấp nguyên liệu,
linh kiện, phụ tùng, các dịch vụ sửa chữa, lao động có tay nghề... Việc sản xuất
cung cấp nguyên liệu, linh kiện, phụ tùng, dịch vụ sửa chữa... cũng theo kinh
nghiệm trên thế giới và Trung Quốc chủ yếu dựa vào các doanh nghiệp có quy mô
nhỏ và vừa trên cơ sở FDI. Cần có các biện pháp để các công ty xuyên quốc gia
không di chuyển các cơ sở vật chất từ Vùng ĐBSCL sang các nước ASEAN khác.
Các biện pháp về tăng thuế, áp dụng hạn ngạch hạn chế nhập khẩu (xe máy, ô tô,
điện tử...) đã được áp dụng để buộc các công ty tăng tỷ lệ nội địa hóa không được
các nhà đầu tư nước ngoài, thậm chí cả Chính phủ của nhà đầu tư nước ngoài ủng
hộ, cho dù mục tiêu của chính sách này về lâu dài là hợp lý vì muốn nhanh chóng
tạo điều kiện xây dựng các ngành công nghiệp hỗ trợ.
Chính vì vậy, tuy môi trường đầu tư đã được cải thiện, nhưng để cạnh tranh
với các nước và các vùng khác về thu hút FDI từ các công ty xuyên quốc gia, Vùng
ĐBSCL cần phải tiếp tục cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư. Theo các nhà kinh
tế, các nhà quản lý và một số nhà đầu tư nước ngoài thì: Vùng ĐBSCL cần có một
số điều chỉnh để có chính sách khuyến khích đặc biệt đối với các tập đoàn đầu tư
lớn từ các nước công nghiệp phát triển như Hoa Kỳ, Tây Âu, Nhật Bản và Hàn
Quốc để mở rộng quan hệ đầu tư với nhiều chủ thể khác nhau với nhiều mức độ,
quy mô khác nhau và dưới nhiều hình thức FDI. Cơ chế quản lý và năng lực quản lý
của chính quyền Vùng ĐBSCL giữ vai trò quyết định trong việc tạo lập môi trường
đầu tư, bởi vì các nhà đầu tư và các công ty xuyên quốc gia trong quá trình hoạt
động phải làm việc trực tiếp với các bộ máy quản lý các cấp.
Với cơ chế quản lý ngày càng hoàn thiện, được thực hiện bởi bộ máy quản lý
tốt sẽ tạo được tin tưởng đối với các công ty xuyên quốc gia vào sự ổn định, mở cửa
của môi trường đầu tư. Ngược lại, nếu cơ chế quản lý chưa được hoàn thiện và phát
huy đầy đủ vai trò của mình, bộ máy quản lý nhà nước yếu kém sẽ là trở lực lớn đối

143
với thu hút FDI, nhất là đối với FDI từ các công ty xuyên quốc gia. Vì vậy, muốn
thu hút được FDI thì phải quan tâm đến xây dựng hoàn thiện cơ chế quản lý và bộ
máy quản lý để vừa tăng sức hấp dẫn, vừa thực hiện quản lý hoạt động FDI một
cách hiệu quả. Đổi mới cơ chế quản lý là tạo sân chơi hấp dẫn đối với các công ty
xuyên quốc gia. Cùng với phát huy vai trò quản lý của Nhà nước để đảm bảo sự
phát triển lành mạnh của thị trường và ngày càng thích ứng hơn với tập quán và
nguyên tắc quốc tế vai trò quản lý Nhà nước của Vùng ĐBSCL được thực hiện
thông qua hoạt động điều tiết đối với thị trường. Việc điều tiết thị trường vừa phải
bảo đảm thu hút được FDI từ các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các công ty
xuyên quốc gia, vừa quản lý được hoạt động của họ nên có sự mềm dẻo và linh
hoạt. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi Vùng ĐBSCL có khung khổ pháp lý
đồng bộ, cơ chế chính sách thích hợp và bộ máy quản lý đủ năng lực.
Để làm được điều này, Vùng ĐBSCL cần tích cực thu hút FDI thông qua các
công ty xuyên quốc gia đầu tư khoa học công nghệ vào Vùng. Như vậy, Vùng
ĐBSCL sẽ có thêm nhiều ngành sản xuất mới đã có ở các quốc gia phát triển. Để
góp phần chuyển dịch CCNKT theo hướng CNH - HĐH và hội nhập kinh tế quốc
tế, mục tiêu của Vùng ĐBSCL là phải thu hút nguồn vốn FDI và khoa học công
nghệ của các công ty xuyên quốc gia, nhất là của các công ty từ Hoa Kỳ và Tây Âu.
Thu hút FDI từ các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ngoài nhằm chuyển dịch
CCNKT của Vùng ĐBSCL. Các đối tác khác nhau sẽ có yêu cầu khác nhau về FDI
và những điều kiện đảm bảo đầu tư. Các doanh nghiệp của các MNCs có những
quan hệ và hiểu biết riêng, những mối quan tâm khác với các doanh nghiệp vừa và
nhỏ. FDI của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường là phối hợp và bổ sung lẫn nhau,
dưới sự chỉ đạo của một doanh nghiệp lớn hơn nào đó. Công nghệ được chuyển
giao thông qua các các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường là phù hợp với Vùng
ĐBSCL. Do vậy, thu hút FDI từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ là một giải pháp để
đáp ứng công nghệ phù hợp cho chuyển dịch CCNKT của Vùng ĐBSCL.
5.2.4.Hoàn thiện cơ chế chính sách để khuyến khích thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài nhằm thúc đẩy hơn nữa chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
của Vùng ĐBSCL.
Tạo cơ chế ưu đãi và khuyến khích hơn nữa để thu hút FDI vào các ngành
kinh tế mũi nhọn, và ngành kinh tế có lợi thế so sánh và khả năng cạnh tranh cao
nhưng đang thiếu vốn. Trước hết, cần phải xác định ngành kinh tế mũi nhọn là

144
ngành có vai trò quan trọng trong nền kinh tế của Vùng ĐBSCL, là ngành có tốc độ
tăng trưởng vượt trội so với các ngành kinh tế khác, là ngành chiếm tỷ trọng lớn
trong cơ cấu kinh tế, tạo nguồn thu lớn cho ngân sách của các địa phương. Đồng
thời, là ngành khai thác các thế mạnh đặc biệt của Vùng, việc phát triển các ngành
này sẽ giúp khả năng cạnh tranh cao và mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao cho
Vùng ĐBSCL.
Mặt khác, ngành mũi nhọn là ngành sử dụng tiến bộ khoa học, công
nghệ, có trình độ công nghệ cao, phù hợp với xu thế thời đại. Đối với Vùng ĐBSCL
hiện nay, đó là các ngành sản xuất hàng hóa thay thế hàng nhập khẩu, các ngành có
định hướng xuất khẩu và tỷ lệ xuất khẩu cao, các ngành tạo sức cạnh tranh cho sản
phẩm Vùng ĐBSCL trên thị trường thế giới như chế biến nông - lâm - thủy sản xuất
khẩu, công nghiệp điện tử, phần mềm tin học, hóa dầu,... Trong thời gian qua, mặc
dù Nhà nước liên tục điều chỉnh mức ưu đãi đối với các dự án đầu tư vào những
ngành công nghiệp chế biến, xuất khẩu và công nghệ cao, công nghiệp cơ khí, điện
tử, năng lượng, những ngành mà ta có lợi thế về nguyên liệu và lao động... nhưng
thực tế, các ưu đãi nói trên vẫn không hấp dẫn các nhà đầu tư.
Đồng thời, nhiều dự án trong lĩnh vực này gặp khó khăn, trở ngại trong thực
hiện đầu tư, không đạt được hiệu quả mong muốn. Vì vậy, để tăng cường thu hút
FDI vào các lĩnh vực và các địa bàn nói trên, cần điều chỉnh một số chính sách ưu
đãi đầu tư theo hướng sau: (i) Thực hiện chính sách hỗ trợ các dự án FDI đầu tư sử
dụng công nghệ cao, sản xuất hàng xuất khẩu có hàm lượng giá trị gia tăng cao, đào
tạo nhân lực, hỗ trợ nhà đầu tư trong việc giảm chi phí dự án nhằm tạo mọi thuận
lợi cho dự án triển khai có hiệu quả, đảm bảo đem lại lợi nhuận cho nhà FDI. (ii)
Chỉ thu tượng trưng tiền thuê đất đối với các dự án đầu tư vào các lĩnh vực nông -
lâm - ngư nghiệp trong khuôn khổ dự án kêu gọi vốn đầu tư góp phần hoàn thiện cơ
cấu kinh tế theo ngành, đặc biệt tại các địa bàn kinh tế thuộc vùng sâu, vùng xa, tỉnh
có điều kiện phát triển kinh tế khó khăn của Vùng ĐBSCL.
Khuyến khích thu hút FDI nhằm phát triển những ngành trọng điểm và mũi
nhọn bao gồm những lĩnh vực sau đây: (i) Những lĩnh vực sử dụng nhiều lao động
như: dệt may, chế biến gỗ lắp ráp cơ khí và điện tử...). Về mặt xã hội, việc phát triển
nhóm ngành này vừa phát huy được lợi thế về nguồn nhân lực, vừa góp phần giải
tỏa sức ép về lao động, thúc đẩy phân công lại lao động ở nông thôn. (ii) Lĩnh vực
chế biến nông - lâm - thủy sản. Xét trong quan hệ liên ngành, việc phát triển nhóm

145
ngành này tạo ra thị trường rộng lớn cho phát triển nông, lâm, ngư nghiệp, thúc đẩy
chuyển dịch CCNKT trên cơ sở khai thác lợi thế và tài nguyên sinh học đa dạng của
Vùng ĐBSCL. Những vấn đề quan trọng cần giải quyết để phát triển nhóm ngành
này là thu hút FDI để đưa ứng dụng công nghệ sinh học trong các ngành sản xuất
nguyên liệu; đổi mới công nghệ chế biến bảo đảm chất lượng và vệ sinh công
nghiệp theo đúng yêu cầu thị trường...(iii) Lĩnh vực thuộc phân ngành công nghiệp
cơ bản. Trong nhóm này, cần tập trung thu hút FDI vào lĩnh vực cơ khí chế tạo có
lựa chọn, khai thác và đi dần vào chế biến gỗ; cán thép; vật liệu xây dựng; kể cả vật
liệu mới. (iv) Lĩnh vực công nghệ cao là biểu hiện của việc thực hiện từng bước
chuẩn bị để phát triển kinh tế tri thức ngay trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Trọng điểm phát triển lĩnh vực này cần tập trung vào
công nghiệp điện tử (gồm cả sản xuất linh kiện và lắp ráp các sản phẩm điện tử dân
dụng và điện tử công nghiệp), công nghệ thông tin (gồm cả sản xuất
phần cứng và phần mềm), công nghệ tự động hóa (với các chương trình phần
mềm và các thiết bị cơ - điện tử), công nghệ y tế kỹ thuật cao và công nghệ
sinh học. Để đảm bảo được vai trò mũi nhọn của chúng, cần phải có biện
pháp ưu đãi đặc biệt về thuế, tiền thuế từ các công ty xuyên quốc gia có công nghệ
nguồn; định hướng phát triển có trọng điểm vào những sản phẩm nhanh chóng tạo
thế cạnh tranh trên thị trường... Đối với từng ngành và từng Vùng, do vị trí và tầm
quan trọng đặc thù của chúng, cho nên, các giải pháp được đề xuất cũng có tính cụ
thể.
5.2.5.Đổi mới công tác xúc tiến đầu tư để thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Vùng
Đổi mới công tác xúc tiến đầu tư theo hướng tăng cường công tác nghiên cứu
và dự báo tình hình kinh tế thế giới, xung đột thương mại giữa các nước lớn, biến
đổi của các dòng đầu tư trên thế giới. Nâng cao tính chuyên nghiệp, cải thiện nội
dung và hình thức xúc tiến đầu tư theo một kế hoạch và chương trình chủ động, có
hiệu quả. Trước hết, cần xác định xúc tiến đầu tư, cũng như xúc tiến thương mại là
nhiệm vụ của các cơ quan Nhà nước, các Sở, Ban ngành và chính quyền các tỉnh
trong Vùng ĐBSCL. Đầu tư ở Vùng ĐBSCL theo sát với nhu cầu cụ thể của các
nhà đầu tư. Thúc đẩy đổi mới công tác đào tạo, nâng cao năng lực cho cán bộ thực
hiện xúc tiến đầu tư về nghiệp vụ xúc tiến đầu tư. Các Sở, Ban, ngành của Vùng
ĐBSCL tiếp tục rà soát, cập nhật bổ sung danh mục kêu gọi đầu tư phù hợp với nhu
cầu đầu tư phát triển và quy hoạch ngành, địa phương. Trên cơ sở quy hoạch các

146
ngành, Vùng kinh tế và danh mục các dự án kêu gọi đầu tư đã được duyệt, cần có kế
hoạch chủ động vận động, xúc tiến đầu tư một cách cụ thể, trực tiếp đối với từng dự
án, trực tiếp với từng tập đoàn, công ty và nhà đầu tư có tiềm năng. Các cơ quan của
các tỉnh trong Vùng có liên quan cần tổ chức, phối hợp nghiên cứu tình hình kinh tế,
thị trường đầu tư, chính sách của các nước, các tập đoàn đa quốc gia để có chính
sách vận động thu hút FDI phù hợp; đồng thời nghiên cứu hệ thống luật pháp, chính
sách thu hút FDI của các nước trong khu vực, của vùng khác để kịp thời có đối sách
thích hợp trong môi trường cạnh tranh.
Trong quá trình đổi mới toàn diện nền kinh tế theo hướng thị trường, FDI
chẳng những được xem như là bộ phận cấu thành hữu cơ mang tính mặc nhiên của
kinh tế thị trường, mà trên thực tế còn có sức ép rất lớn của tình trạng thiếu hụt gay
gắt về vốn đầu tư do nguồn viện trợ quan trọng trước đây, trong khi nhu cầu gia
tăng tốc độ công nghiệp hóa để tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn nữa về kinh tế lại được
đặt ra một cách cấp thiết. Vì thế, hoạt động đổi mới, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả
công tác vận động, xúc tiến đầu tư cần được coi trọng hiện nay. Để nâng cao hiệu
quả công tác này, trước hết cần lập chương trình hành động quốc gia về xúc tiến
FDI đến năm 2025 và tầm nhìn đến 2030.
Tiếp theo cần đổi mới mạnh mẽ về nội dung và phương thức vận động, xúc
tiến đầu tư theo một chương trình chủ động, có hiệu quả phù hợp với từng địa bàn,
từng lĩnh vực và từng đối tượng của Vùng. Đồng thời cần tăng cường bộ phận xúc
tiến đầu tư tại các Sở, ngành thuộc Vùng và các cơ quan đại diện ở một số địa bàn
trọng điểm ở nước ngoài để chủ động vận động, xúc tiến FDI đối với từng dự án,
từng tập đoàn, công ty, nhà đầu tư có tiềm năng, nhất là các công ty xuyên quốc gia.
Lập quỹ xúc tiến đầu tư nhằm đảm bảo nguồn kinh phí cho công tác xúc tiến, vận
động đầu tư hàng năm theo hướng trích 1% từ nguồn đóng góp của khu vực kinh tế
có vốn FDI để trang trải công tác vận động xúc tiến đầu tư của Vùng.
Vùng ĐBSCL cần thực hiện xã hội hóa và quốc tế hóa công tác xúc tiến đầu tư
nước ngoài. Cần có cơ chế, chính sách để thu hút FDI là công việc của nhiều thành
phần kinh tế, của các tổ chức, của các cá nhân trong và ngoài Vùng. Có những
ngành nghề mà vai trò của các cá nhân rất quan trọng trong việc thu hút FDI khi
thương hiệu của doanh nghiệp gắn liền với tên tuổi của những chuyên gia trình độ
cao như các ngành y tế, giáo dục, các lĩnh vực có công nghệ nguồn, công nghệ cao.
Nhiều khi mối quan hệ cá nhân lại giải quyết được nhiều vấn đề, nhất là tiếp xúc với

147
các cộng đồng doanh nghiệp có tiếng nói quan trọng ở các nước phát triển. Mỗi
doanh nghiệp trong nước hay của nước ngoài đang hoạt động ở Vùng ĐBSCL cũng
cần chủ động tiếp xúc với các đối tác nước ngoài của mình, đưa ra cáctriển vọng
đầu tư, thuyết phục các đối tác nước ngoài cùng liên doanh, liên kết với mình hay
thành lập các doanh nghiệp hỗ trợ lẫn nhau hoạt động ở Vùng ĐBSCL. Cần khai
thác tốt lực lượng người Vùng ĐBSCL có am hiểu về mảnh đất và con người Vùng
ĐBSCL đang định cư ở nước ngoài trong thu hút FDI. Đó là một lực lượng đáng kể
có hiểu biết về truyền thống văn hóa Vùng ĐBSCL và các nước khác, và họ là cầu
nối rất tốt để giới thiệu môi trường và hình ảnh đầu tư.
Đặc biệt cần có cơ chế, chính sách để các tổ chức nước ngoài tham gia
vào các hoạt động xúc tiến FDI ở Vùng ĐBSCL. Tổ chức hiệu quả các cuộc hội
thảo ở trong nước và nước ngoài, tăng cường sự tiếp xúc của lãnh đạo các tỉnh trong
Vùng ĐBSCL với các doanh nghiệp FDI. Nâng cấp trang thông tin điện tử về FDI,
cập nhật và nâng cao chất lượng tài liệu xúc tiến đầu tư bằng một số ngôn ngữ
đáp ứng nhu cầu của số đông nhà đầu tư (tiếng Anh, tiếng Nhật, tiếng Trung, tiếng
Hàn, tiếng Nga...). Tăng cường các đoàn vận động đầu tư theo phương thức làm
việc trực tiếp với các tập đoàn lớn, tại các địa bàn trọng điểm (Nhật Bản, Mỹ và
EU) để kêu gọi đầu tư vào các dự án lớn, quan trọng. Chủ động tiếp cận và hỗ trợ
các nhà đầu tư tiềm năng có nhu cầu đầu tư vào Vùng ĐBSCL.
5.2.6.Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính của Vùng ĐBSCL
Rà soát tối đa các thủ tục hành chính, điều kiện đầu tư kinh doanh nhằm đảm
bảo duy trì niềm tin và tăng cường đầu tư kinh doanh bền vững. Khuyến khích ứng
dụng khoa học công nghệ, khai thác cơ hội của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
trong việc thực hiện các thủ tục hành chính của doanh nghiệp nhằm làm giảm thời
gian, chi phí cho doanh nghiệp. Thực hiện tốt việc phân cấp quản lý nhà nước đối
với FDI, đặc biệt trong việc phê duyệt, cấp giấy chứng nhận đầu tư, quản lý tốt các
dự án FDI, gắn với tăng cường hợp tác, hỗ trợ, phối hợp hiệu quả công tác kiểm tra,
giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư.
Trên thực tế, hoạt động FDI cho thấy, khi dự án triển khai có hiệu quả, nhà đầu
tư nước ngoài thường muốn dùng lợi nhuận để tái đầu tư, hoặc bỏ thêm vốn để đầu
tư mở rộng sản xuất. Phần mở rộng của nhiều dự án có quy mô lớn hơn nhiều so với
quy mô được cấp phép đầu tư ban đầu. Tuy nhiên, một số quy định của cơ quan Nhà
nước còn gây phiền hà trong việc xem xét cấp giấy phép điều chỉnh mở rộng mục
tiêu hoạt

148
động của dự án như quy định tỷ lệ xuất khẩu ít nhất 80%, thực hiện quy trình thẩm
định như dự án mới, phải có ý kiến của các Bộ, Ban, Ngành, địa phương có liên quan.
Để khuyến khích các nhà đầu tư đổ thêm vốn vào Vùng ĐBSCL và tăng
công suất sản xuất một cách có hiệu quả cần phải cải cách một số thủ tục xem
xét, cấp phép đối với những dự án FDI tăng vốn đầu tư để mở rộng công suất,
theo đó cần: (i) Công bố công khai quy hoạch phát triển đối với các sản phẩm
công nghiệp cần hạn chế công suất hoặc ưu tiên cho các doanh nghiệp trong
Vùng đầu tư (nếu các doanh nghiệp trong nước đủ khả năng), cần phải loại trừ ý
đồ dùng quy hoạch để thực hiện độc quyền của các doanh nghiệp trong Vùng. (ii)
(iii) Thực hiện khuyến khích xuất khẩu bằng biện pháp kinh tế và ưu đãi
tài chính như ưu đãi thuế, sử dụng Quỹ hỗ trợ xuất khẩu, thay thế các biện pháp
hành chính như hiện nay. (iv) Nhà nước cần phải ban hành Luật chống độc quyền
và kiểm soát việc bán phá giá, tăng cường các biện pháp chống hành vi gian lận
thương mại. Xây dựng chính sách đảm bảo cho nhà đầu tư tự chủ kinh doanh, tự
quyết định giá bán sản phẩm; thời gian khấu hao thiết bị máy móc, tài sản cố
định. Nhà nước chỉ thống nhất quản lý giá một số mặt hàng quan trọng tác
động tới toàn xã hội; bãi bỏ cơ chế quản lý giá chi phối bởi một số tổng công
ty nhằm tạo môi trường kinh doanh bình đẳng. (v) Vùng ĐBSCL cần tạo mọi điều
kiện thuận lợi, giải quyết kịp thời khó khăn, vướng mắc đối với các dự án đặc
biệt khuyến khích đầu tư, các dự án khuyến khích đầu tư FDI theo ngành,
theo Vùng, theo lĩnh vực góp phần chuyển dịch CCNKT.

149
KẾT LUẬN
Thông qua phương pháp nghiên cứu định lượng, tác giả đánh giá chuyển dịch
cơ cấu kinh tế ở vùng ĐBSCL trên hai phương diện: tốc độ chuyển dịch, và xu
hướng chuyển dịch. Với phương pháp định tính, tác giả ước tính hệ số cos(φ) – đo
lường tốc độ chuyển dịch ở các tỉnh thành phố ở ĐBSCL. Kết quả cho thấy, các tỉnh
gần thành phố Hồ Chí Minh – Long An và Tiền Giang hấp thụ được vốn FDI lớn,
góp phần thúc đẩy tốc độ chuyển dịch cơ cấu. Riêng với Cần Thơ, tỉnh này đã đạt
được cơ cấu kinh tế mong muốn nên duy trì cơ cấu kinh tế này, nên hệ số chuyển
dịch thấp. Ngoài ra, tác cũng đo lường tác động của FDI đến tốc độ chuyển dịch
thông qua mô hình kinh tế và kết quả cho thấy FDI không tác động đến tốc độ
chuyển dịch nhưng so với Long An, mức độ tác động của FDI ở Cần Thơ, Kiên
Giang đến quá trình này cao hơn.
Kết quả đánh giá xu thế chuyển dịch từ Nông nghiệp sang Công nghiệp, và từ
Nông nghiệp sang Dịch vụ bằng mô hình OLS và FEM, cho thấy FDI có tác động
mạnh đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang lĩnh vực Công nghiệp, nhưng không làm
thay đổi tỷ trọng Dịch vụ so với tỷ trọng Nông nghiệp. Tăng trưởng kinh tế cũng là
một trong những yếu tố thúc đẩy chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Trong khi đó, nguồn lao động vẫn là một trở lực đối với phát triển kinh tế, vì
hầu hết lao động vẫn còn ở trình độ thấp; nguồn vốn tư nhân đang đầu tư vào Nông
nghiệp, thay vì Công nghiệp và Dịch vụ; và nguồn vốn đầu tư xã hội nói chung
không hiệu quả trong việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở vùng ĐBSCL. So
sánh giữa các tỉnh thành phố, tác động của FDI ở Cần Thơ, Hậu Giang, Trà Vinh
đến xu hướng CDCC từ nông nghiệp sang công nghiệp thấp hơn so với Long An,
tương đồng với mức độ tác động của FDI ở Bến Tre, Tiền Giang, Kiên Giang đến
CDCC từ nông nghiệp sang dịch vụ. Theo đó, Long An và Tiền Giang là hai tỉnh có
ảnh hưởng lớn nhất từ nguồn vốn đầu tư FDI, chuyển dịch kinh tế nhanh chóng. Cần
Thơ vẫn giữ cơ cấu kinh tế lấy dịch vụ và công nghiệp là chủ yếu, vì là trung tâm
kinh tế - chính trị của các cả vùng. Kiên Giang là một trong những địa phương có
tiềm năng phát triển kinh tế toàn diện, từ dịch vụ, công nghiệp đến nông nghiệp.
Cuối cùng, vẫn có một số địa phương phụ thuộc quá nhiều vào một dự án đầu tư –
điển hình là Trà Vinh.
Luận án đã đánh giá được tầm quan trọng của FDI đối với chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, cũng so sánh được tình hình chuyển dịch cơ cấu ở các tỉnh thành phố vùng
ĐBSCL. Đồng thời, qua phân tích đối chiếu với các vùng kinh tế khác cho thấy

150
rằng, ĐBSCL là một trong những địa phương kém thu hút vốn FDI trên cả nước, chỉ
hơn khu vực Tây Nguyên. Điều đó chưa thật sự xứng đáng với tiềm năng và triển
vọng phát triển của vùng ĐBSCL. Vì thế, để có chính sách thu hút FDI hợp lý, cần
có những nghiên cứu xác định những yếu tố quyết định đến dòng vốn FDI chảy vào
các tỉnh thành phố, từ đó làm cơ sở hoạch định chiến lược phát triển kinh tế đồng bộ
và bền vững. Bên cạnh những kết quả đạt được, luận án vẫn còn một số vấn đề chưa
giải quyết được như chưa xét đến các yếu tố cụ thể của các địa phương khác nhau,
chưa được cụ thể hóa việc chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành. Đây cũng là
những hướng phát triển nghiên cứu tiếp theo của tác giả.

151
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ
1.Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
Vùng đồng bằng sông Cửu Long, Tạp chí Kinh tế Châu Á, Thái Bình Dương,
số 615 (7/2022), 2022, ISSN:0868-3808
2.Ảnh hưởng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Vùng đồng bằng sông Cửu Long, Tạp chí Công Thương, số 17 (7.2022), 2022,
ISSN:0866-7756
3.Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và tăng trưởng kinh tế của thành phố Hồ Chí
Minh, Tạp chí Kinh tế Châu Á, Thái Bình Dương, số 593 ( 7/2021), 2021,
ISSN: ISSN:0868-3808

152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1.Nguyễn Thị Tuệ Anh, Bùi Thị Phương Liên (2007), Đánh giá đóng góp của
các ngành kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành đến tăng trưởng năng suất
(lao động) ở Việt Nam. Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Nghiên cứu quản lý
Kinh tế Trung ương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
2.Phạm Việt Bình và Phạm Tấn Phát (2021). Quá trình chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế trên địa bàn các tỉnh khu vực duyên hải Trung bộ. Tạp chí Công
thương, https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/qua-trinh-chuyen-dich-co-cau-
nganh-kinh-te-tren-dia-ban-cac-tinh-khu-vuc-duyen-hai-trung-bo-77820.htm
3.CIIS (2022). Hội nghị “Hội nhập và phát triển trong tình hình mới”. Trung
tâm Hội nhập quốc tế, http://hoinhap.org.vn/hoat-dong-hoi-nhap-kinh-te-quoc-
te/trung-tam-wto/tap-huan/42045-xu-huong-hoi-nhap-va-phat-trien-trong-tinh-
hinh-moi.html
4.Trần Thọ Đạt và Ngô Quang Cảnh (2015). Giáo trình Ứng dụng một số lý
thuyết trong nghiên cứu kinh tế. Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà
Nội.
5.Minh Hà (2022). Kinh tế Việt Nam đang trở lại quỹ đạo tăng trưởng nhanh.
Tạp chí kinh tế Việt Nam, https://vneconomy.vn/kinh-te-viet-nam-dang-tro-lai-
quy-dao-tang-truong-nhanh.htm
6.Đào Văn Hiệp (2011). Đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ngành ở Hải Phòng, Nhà xuất bản Khoa học và Xã hội, Hà Nội.
7.Đào Văn Hiệp (2012). Xu hướng vận động của đầu tư trực tiếp nước ngoài
trên thế giới và các giải pháp thu hút vào Việt Nam. Tạp chí Nghiên cứu Kinh
tế, ISSN 0866 -7489, số 10, tr.13 – 21.
8.Hoàng Mạnh Hùng (2018b). Phân tích mối quan hệ nhân quả giữa FDI, tăng
trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, 697, tr3-7.
9.Vũ Thị Thu Hương (2017), Chuyển dịch cơ cấu lao động tại Việt Nam: Các
yếu tố tác động và vai trò đối với tăng trưởng kinh tế.
10.Nguyễn Phương Lam và Vũ Thành Tự Anh (2020). Báo cáo Kinh tế thường
niên Đồng bằng sông Cửu Long 2020: Nâng cao năng lực cạnh tranh để phát
triển bền vững. Nhà xuất bản Đại học Cần Thơ.

153
11.Đặng Hoài Linh (2020), Thu hút vốn FDI vào Việt Nam trong giai đoạn hậu
đại dịch Covid-19. Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ,
https://thitruongtaichinhtiente.vn/thu-hut-von-fdi-vao-viet-nam-trong-giai-
doan-hau-dai-dich-covid-19-32615.html
12.Nguyễn Tiến Long (2010). Đầu tư trực tiếp nước ngoài với chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của Việt Nam: Hiện trạng và những vấn đề đặt ra. Tạp chí Khoa
học và Công nghệ - ĐH Thái Nguyên, chỉ số ISSN: 1859-2171, Tập 70, số 08;
trang 3-13.
13.Nguyễn Tiến Long (2016). Chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo ngành kinh tế ở
tỉnh Thái Nguyên. Tạp chí Kinh tế & Phát triển, chỉ số ISSN: 1859-0012; số
234(II); trang 41-49
14.Ngô Thắng Lợi (2012). Giáo trình Kinh tế phát triển. Nhà xuất bản Kinh tế
Quốc dân, Hà Nội.
15.Phạm Đức Minh (2013), Thu hút FDI vào Bắc Bộ tương quan với các vùng
kinh tế trọng điểm khác. Tạp chí Tài chính, https://tapchitaichinh.vn/nghien-
cuu-trao-doi/thu-hut-fdi-vao-bac-bo-trong-tuong-quan-voi-cac-vung-kinh-te-
trong-diem-khac-58559.html
16.Lê Trung Kiên (2022). Sự chuyển dịch địa – kinh tế thế giới hiện nay và một
số hàm ý chính sách đối với Việt Nam, Tạp chí cộng sản,
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/the-gioi-van-de-su-kien/-
/2018/825529/su-chuyen-dich-dia---kinh-te-the-gioi-hien-nay-va-mot-so-ham-
y-chinh-sach-doi-voi-viet-nam.aspx#
17.Bùi Tất Thắng (2006), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở Việt Nam, Nhà
xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội
18.Tổng cục thống kê (2022). Tổng quan dự báo tình hình kinh tế thế giới quý I
vàcảnăm2022,https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-
ke/2022/03/tong-quan-du-bao-tinh-hinh-kinh-te-the-gioi-quy-i-va-ca-nam-
2022/
19.Lục Tùng (202). Kiên Giang có nhiều tiềm năng để phát triển tất cả các ngành
kinh tế”. Báo Lao động, https://laodong.vn/thoi-su/kien-giang-co-nhieu-tiem-
nang-de-phat-trien-tat-ca-cac-nganh-kinh-te-845736.ldo

154
20.Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2014), Tổng quan về chuyển dịch cơ cấu ngành
trongtăngtrưởngkinhtế.http://tailieu.ttbd.gov.vn:8080/index.php/tai-
lieu/chuyen-de-chuyen-sau/item/370-tong-quan-ve-chuyen-dich-co-cau-
nganh-trong-tang-truong-kinh-te
21.Nguyễn Thị Cẩm Vân (2020), Tác động của toàn cầu hoá đến sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế ở Việt Nam. Tạp chí Kinh tế & Phát triển, số 271, tháng
01/2020, p. 30-40
22.VCCI và FSPPM (2022). Báo cáo kinh tế thường niên Đồng bằng sông Cửu
Long – Chuyển đổi mô hình phát triển và Quy hoạch tích hợp 2022, Nhà xuất
bản Đại học Cần Thơ, 2022.
23.Nguyễn Tấn Vinh (2012). Đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với chuyển dịch cơ
cấu kinh tế TP. Hồ Chí Minh, NXB Chính trị - Hành chính
24.Nguyễn Trọng Xuân (2002), Đầu tư trực tiếp nước ngoài với công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội
Tiếng Anh
1.Abdulsalam et. al. (2021). Exploration of the Impact of China’s Outward
Foreign Direct Investment (FDI) on Economic Growth in Asia and North
Africa along the Belt and Road (B&R) Initiative, Sustainability 13, no. 4:
1623. https://doi.org/10.3390/su13041623
2.Adejumo, A. V. (2020). Foreign direct investment-led industrialisation: any
direction for spillovers in Nigeria?. Journal of Co-operative and Business
Studies (JCBS), 5(1).
3.Aitken, B., Hanson, G. H., & Harrison, A. E. (1997). Spillovers, foreign
investment, and export behavior. Journal of International economics, 43(1-2),
103-132.
4.Alin, A. (2010). Multicollinearity. Wiley Interdisciplinary Reviews:
Computational Statistics, 2(3), 370-374
5.Amendolagine, V. (2016). FDI and structural change in Africa: Does the
origin of investors matter. United Nations Industrial Development
Organization.

155
6.Blomstrom, M., Konan, D., & Lipsey, R. E. (2000). FDI in the Restructuring
of the Japanese Economy (No. w7693). National Bureau of Economic
Research
7.Buckley, P. J., & Casson, M. (1976). A long-run theory of the multinational
enterprise. In The future of the multinational enterprise (pp. 32-65). Palgrave
Macmillan, London.
8.Cardillo, C., Montanjees, M. M., Motala, M. J., & Patterson, M. N. K.
(2004). Foreign direct investment: trends, data availability, concepts, and
recording practices. International Monetary Fund.
9.Clark, C. (1967). The conditions of economic progress. The conditions of
economic progress.
10.Rodriguez-Clare, A. (1996). Multinationals, linkages, and economic
development. The American economic review, 852-873.
11.Croux, C., Dhaene, G., & Hoorelbeke, D. (2004). Robust standard errors for
robust estimators. CES-Discussion paper series (DPS) 03.16, 1-20.
12.Dayal-Gulati, A., & Husain, A. M. (2002). Centripetal forces in China's
economic takeoff. IMF Staff Papers, 49(3), 364-394.
13.Démurger, S. (1996). Différences régionales de la croissance industrielle en
Chine. Revue d'économie du développement, 4(1), 145-168.
14.Démurger S. (2000). Economic Opening and Growth in China. OECD
Development Centre Studies, Paris, March
15.De Mello Jr, L. R. (1996). Foreign direct investment, international knowledge
transfers, and endogenous growth: Time series evidence (No. 9610). School of
Economics, University of Kent
16.Dees, S. (1998). Foreign direct investment in China: determinants and
effects. Economics of planning, 31(2), 175-194
17.De Vries, G., Timmer, M., & De Vries, K. (2015). Structural transformation in
Africa: Static gains, dynamic losses. The Journal of Development
Studies, 51(6), 674-688.

156
18.De Vries, G. J., Erumban, A. A., Timmer, M. P., Voskoboynikov, I., & Wu,
H. X. (2012). Deconstructing the BRICs: Structural transformation and
aggregate
19.Dhahri, S., & Omri, A. (2020). Does foreign capital really matter for the host
country agricultural production? Evidence from developing countries. Review
of World Economics, 156(1), 153-181
20.Diao, X., McMillan, M., & Rodrik, D. (2019). The recent growth boom in
developing economies: A structural-change perspective. In The Palgrave
Handbook of Development Economics (pp. 281-334). Palgrave Macmillan,
Cham.
21.Djokoto, J. G. (2013). Openness and agricultural performance in
Ghana. Journal of Science and Technology (Ghana), 33(2), 24-36
22.Drukker, D. M. (2003). Testing for serial correlation in linear panel-data
models. The stata journal, 3(2), 168-177
23.Dunning, J. H. (2002). Global capitalism, FDI and competitiveness (Vol. 2).
Edward Elgar Publishing.
24.Fisher, A. G. (1935). Clash of progress and security. Macmillan and Co.
Limited, London.
25.Fisher, A. G. (1939). Production, primary, secondary and tertiary. Economic
record, 15(1), 24-38.
26.Fosfuri, A., Motta, M., & Rønde, T. (2001). Foreign direct investment and
spillovers through workers’ mobility. Journal of international
economics, 53(1), 205-222.
27.Fukao, K., & Paul, S. (2018). A framework to study the role of structural
transformation in productivity growth and regional convergence, https://think-
asia.org/handle/11540/8289
28.Javorcik, B. S. (2004). The composition of foreign direct investment and
protection of intellectual property rights: Evidence from transition economies.
European economic review, 48(1), 39-62.
29.Jiang, Y. (2014). China: Trade, foreign direct investment, and development
strategies. Chandos Publishing, London, United Kingdom, pp.99-113

157
30.Jude, C. (2016). Technology spillovers from FDI. Evidence on the intensity of
different spillover channels. The World Economy, 39(12), 1947-1973.
31.Giles, J., Park, A., & Cai, F. (2006). How has economic restructuring affected
China's urban workers?. The China Quarterly, 185, 61-95.
32.Glejser, H. (1969). A new test for heteroscedasticity. Journal of the American
Statistical Association. 64 (325): 316–
323. doi:10.1080/01621459.1969.10500976.
33.Gujarati, D. N. (2021). Essentials of econometrics. Chapter 12, SAGE
Publications.
34.Gui-Diby, S. L., & Renard, M. F. (2015). Foreign direct investment inflows
and the industrialization of African countries. World Development, 74, 43-57.
35.Herrendorf, B., Rogerson, R., & Valentinyi, A. (2014). Growth and structural
transformation. In Handbook of economic growth (Vol. 2, pp. 855-941).
Elsevier.
36.Hosain, Md. S. (2006). Impacts of Foreign Direct investment, Foreign Aid and
Export Values on Industrialization and Economic Growth in Bangladesh. The
Journal of Business Studies, Southeast University, 5, pp.53-74
37.Kalotay, K. (2010). Patterns of inward FDI in economies in transition. Eastern
Journal of European Studies, 1(2), 55-76
38.Kojima, K., & Ozawa, T. (1984). Micro-and macro-economic models of direct
foreign investment: toward a synthesis. Hitotsubashi Journal of Economics, 1-
20.
39.Krüger, J. J. (2008). Productivity and structural change: a review of the
literature. Journal of Economic Surveys, 22(2), 330-363.
40.Kuznets, S., & Murphy, J. T. (1966). Modern economic growth: Rate,
structure, and spread (Vol. 2). New Haven: Yale University Press.
41.Kuznets, S. (1961). Quantitative aspects of the economic growth of nations:
VI. Long-term trends in capital formation proportions. Economic Development
and Cultural Change, 9(4, Part 2), 1-124.
42.Lall, S. (1980). Transnationals, domestic enterprises and industrial structure in
host LDCs: A survey. The Multinational Corporation, 29-64.

158
43.Lewis, W. A. (1954). Economic development with unlimited supplies of
labour. The Manchester School, 22(2), pp. 139-934
44.Jie, L., & Shamshedin, A. (2019). The impact of FDI on industrialization in
Ethiopia. International Journal of Academic Research in Business and Social
Sciences, 9(7), 726-742.
45.Nguyen, X. H., Lan, T. P. T. N. T., Tang, N. M. H., & Nguyen, T. N. (2020).
Impact of Foreign Direct Investment on Economic Restructuring in Bac Ninh.
European Journal of Business and Management, ISSN 2222-1905 (Paper)
ISSN 2222-2839 (Online), Vol.12, No.15, pp.19-25
46.Mamba, E., Gniniguè, M., & Ali, E. (2020). Effect of foreign direct
investment on structural transformation in West African Economic and
Monetary Union (WAEMU) countries. Cogent Economics & Finance, 8(1),
1783910.
47.MacDougall, D. (1975). The benefits and costs of private investment from
abroad: A theoretical approach. In Studies in Political Economy (pp. 109-134).
Palgrave Macmillan, London.
48.Mankiw, N. G., Romer, D., & Weil, D. N. (1992). A contribution to the
empirics of economic growth. The quarterly journal of economics, 107(2),
407-437
49.Mijiyawa, A. G. (2017). Drivers of structural transformation: The case of the
manufacturing sector in Africa. World Development, 99, 141-159
50.Mody, A., & Wang, F. Y. (1997). Explaining industrial growth in coastal
China: economic reforms… and what else?. The World Bank Economic
Review, 11(2), 293-325.
51.Moore, J. H. (1978). A measure of structural change in output. Review of
Income and Wealth, 24(1), 105-118.
52.Morsy, H., Levy, A., & Sanchez, C. (2014). Growing without changing: a tale
of Egypt's weak productivity growth. Available at SSRN 3093017.
53.Mühlen, H., & Escobar, O. (2020). The role of FDI in structural change:
Evidence from Mexico. The World Economy, 43(3), 557-585.

159
54.Nicolas, F. (2003). FDI as a factor of economic restructuring: the case of
South Korea. Na, in Bende-Nabende, A.(ed.), International Trade, Capital
Flows and Economic Development in East Asia - The Challenge in the 21st
century, Ashgate, Aldershot.
55.Ngoc, B. H., & Hai, D. B. (2019). The Impact of Foreign Direct Investment on
Structural Economic in Vietnam. In International Econometric Conference of
Vietnam (pp. 352-362). Springer, Cham
56.Okoli, T.T. & Agu, O.C. (2015). Foreign Direct Investment Flow and
Manufacturing Sector Performance in Nigeria.
International Journal of Economics, Commerce and Management, 3(7), pp.
412-428
57.Ozawa, T. (2001). The “hidden” side of the “flying-geese” catch-up model:
Japan’s dirigiste institutional setup and a deepening financial morass. Journal
of Asian Economics, 12(4), 471-491
58.Pao, H.T.; Tsai, C.M (2011), Multivariate granger causality between CO2
emissions, energy consumption, FDI and GDP: Evidence from a panel of
BRIC (Brazil, Russian Federation, India, and China) countries. Energy 2011,
36
59.Pazienza, P. (2015). The relationship between CO2 and Foreign Direct
Investment in the agriculture and fishing sector of OECD countries: Evidence
and policy considerations. Intelektinė ekonomika, 9(1), 55-66.
60.Pineli, A., Narula, R., & Belderbos, R. (2019). FDI, multinationals and
structural change in developing countries (No. 004). United Nations
University-Maastricht Economic and Social Research Institute on Innovation
and Technology (MERIT).
61.Fry, M. J. (1993). Foreign direct investment in a macroeconomic framework:
finance, efficiency, incentives and distortions (Vol. 1141). World Bank
Publications.
62.Rodrik, D. (1999). The new global economy and developing countries: making
openness work (Vol. 24). Washington, DC: Overseas Development Council

160
63.Rostow, W. W. (1960). The Five Stages of Growth--A Summary. The Stages
of Economic Growth: A Non-Communist Manifesto, Cambridge: Cambridge
University Press, pp.4-16.
64.Schumpeter, J., & Backhaus, U. (2003). The theory of economic development.
In Joseph Alois Schumpeter (pp. 61-116). Springer, Boston, MA
65.Yao, S., & Wei, K. (2007). Economic growth in the presence of FDI: The
perspective of newly industrialising economies. Journal of Comparative
Economics, 35(1), 211-234.
66.Solow, R. M. (1956). A contribution to the theory of economic growth. The
quarterly journal of economics, 70(1), 65-94.
67.Solow, R. M. (1957). Technical change and the aggregate production
function. The review of Economics and Statistics, 39(3), 312-320.
68.Soni và Subrahmanya (2020)
69.Ssozi và Bbaale (2019)
70.Hymer, S. (1976). The international operations of national firms: a study of
FDI. Cambridge, Mass.
71.Sun, H. (1999). Impact of FDI on the foreign trade of China. Journal of the
Asia Pacific Economy, 4(2), 317-339.
72.Sun, H. (2018). Foreign investment and economic development in China:
1979–1996. Routledge.
73.Timmer, M., de Vries, G. J., & De Vries, K. (2015). Patterns of structural
change in developing countries. In Routledge handbook of industry and
development (pp. 79-97). Routledge.
74.Unctad Secretariat. (1993). Transnational Corporations and Integrated
International Production. Foreign Trade Review, 28(1), 91-112
75.Unctad. (1996). World Investment Report 1996: Investment, trade and
international policy arrangements. Foreign Trade Review, 31(3), 85-109.
76.UNCTAD (1998). World Investment Report: Trends and Determinants, New
York and Geneva
77.UNCTAD (2007). World Investment Report: Transnational Corporations,
Extractive Industries and Development, New York and Geneva

161
78.Veselovsky, M. Y., Khoroshavina, N. S., Bank, O. A., Suglobov, A. E., &
Khmelev, S. A. (2017). Characteristics of the innovation development of
Russia’s industrial enterprises under conditions of economic
sanctions. Journal of Applied Economic Sciences, 12(2), 48.
79.Wang, J. Y., & Blomström, M. (1992). Foreign investment and technology
transfer: A simple model. European economic review, 36(1), 137-155.
80.Wallace, C. D. (Ed.). (1990). Foreign direct investment in the 1990s [nineteen
hundred and nineties]: a new climate in the Third World. Martinus Nijhoff
Publishers
81.Wei, S. J. (1995). The open door policy and China's rapid growth: evidence
from city-level data. In Growth theories in light of the East Asian
experience (pp. 73-104). University of Chicago Press. Wei, S. J. (1996).
Foreign direct investment in China: sources and consequences. In Financial
deregulation and integration in East Asia (pp. 77-105). University of Chicago
Press.
82.Chowdhury, A., & Mavrotas, G. (2005). FDI and growth: a causal
relationship (No. 2005/25). WIDER Research Paper.
83.Graham, E. M. (1996). Direct investment and the future agenda of the World
Trade Organization. Inst. for Internat. Economics.
84.Wu, Y. (2000). Measuring the performance of foreign direct investment: a
case study of China. Economics letters, 66(2), 143-150.
85.Wu, Y., & Chen, C. (2016). The impact of foreign direct investment on
urbanization in China. Journal of the Asia Pacific Economy, 21(3), 339-356
86.Zhang, F., & Zheng, J. (1998). The impact of multinational enterprises on
economic structure and efficiency in China. China Center for Economic
Research, Beijing University, August
87.Zorska, A. (2005). Foreign direct investment and transformation: evolution
and impacts in the Polish economy. Eastern European Economics, 43(4), 52-
78.

162
PHỤ LỤC
Phụ lục 1. Thống kê mô tả các biến
Variable |Obs Mean Std. Dev.Min Max
+
cosx |130 .8478599 .3533312 0 1
|
Phụ lục 2. Kiểm định yếu tố riêng biệt mô hình CN-NN
Linear regression Number of obs= 112
F(20, 92)=511.36
Prob > F =0.0000
R-squared=0.8154
Root MSE =.47761
| Robust
Ind_Agr |Coef. Std. Err.t P>|t|[95% Conf. Interval]
+
I_Ind_Agr | -.000671 .0014722 -0.46 0.650 -.0035949 .0022529
FDI | .0350175 .0155782.25 0.027.0040783 .0659567
Emp | -.0046863 .0021866 -2.14 0.035-.009029 -.0003436
Growth | .0181129 .00409294.43 0.000.0099841 .0262418
Inf | .0422758 .04296020.98 0.328 -.0430469 .1275984
Urban | -.1684009 .0451799 -3.73 0.000-.258132 -.0786698
Private | -.0171319 .0052167 -3.28 0.001 -.0274926 -.0067712
Ind_Agr |126 .7858786.611356.2585476 5.250988
Ser_Agr |126 1.2225111.254432.3585332 12.13735
I_Ser_Agr |130 9.76715918.87324.5266012 114.2956
FDI |130 1.2767492.0741 0 8.67099
+
Firm |
Labor_FDI
130 .3757692 .9790336
105 1.2987831.88929
05.88
.00549.081
Emp |130 11.38438 9.489237 058.25
Growth |130 35.01184 14.22742 074.009
Inf |130 99.75062 8.830049 0103.37
+
Urban |13024.74972 14.004319.802358 69.68496
Private |1308.470495 5.299411 0 27.4416

163
iprovince1 |.86742234.6734290.190.853-8.41441110.14926
iprovince2 |.40219074.6184590.090.931-8.7704679.574849
iprovince3 |-2.3666024.394337-0.540.591-11.094136.360931
iprovince4 |.10148564.5387240.020.982-8.9128129.115783
iprovince5 |7.602965.5385141.370.173-3.39700718.60293
iprovince6 |.26681864.5666820.060.954-8.8030069.336644
iprovince7 |.67545774.6216460.150.884-8.503539.854445
iprovince8 |-.34401644.430008-0.080.938-9.1423958.454362
iprovince9 |.5264854.6406660.110.910-8.6902789.743248
iprovince10 |-1.6660144.424741-0.380.707-10.453937.121904
iprovince11 |-1.4298254.477488-0.320.750-10.32257.462853
iprovince12 |-.69325724.707182-0.150.883-10.042138.655613
iprovince13 |-1.1170794.483218-0.250.804-10.021147.786979
. testparm iprovince1-iprovince13
(1)iprovince1 = 0
(2)iprovince2 = 0
(3)iprovince3 = 0
(4)iprovince4 = 0
(5)iprovince5 = 0
(6)iprovince6 = 0
(7)iprovince7 = 0
(8)iprovince8 = 0
(9)iprovince9 = 0
(10)iprovince10 = 0
(11)iprovince11 = 0
(12)iprovince12 = 0
(13)iprovince13 = 0
F( 13, 92) = 39.78
Prob > F = 0.0000
Phụ lục 3. Kiểm định yếu tố riêng biệt mô hình DV-NN
Linear regression Number of obs= 112
F(20, 92)=672.78
Prob > F =0.0000
R-squared=0.7282
Root MSE =1.0534

164
| Robust
Ser_Agr |Coef. Std. Err.t P>|t|[95% Conf. Interval]
+
I_Ser_Agr | -.0026857 .0019258 -1.39 0.167 -.0065106 .0011392
FDI | -.0544662 .0236744-2.30 0.024-.1014855-.0074468
Emp | -.0030692 .002917-1.05 0.295-.0088626.0027242
Growth | .019189 .00773282.48 0.015.003831.034547
Inf | -.0477299 .0691409 -0.69 0.492 -.1850497.0895899
Urban | .1002863 .0547971.83 0.070 -.0085453 .2091179
Private | -.0025065 .0120797 -0.21 0.836 -.0264978 .0214849
iprovince1 |2.1870196.5780430.33 0.740-10.8775415.25158
iprovince2 |2.1832836.621990.33 0.742-10.9685615.33513
iprovince3 |4.2811466.8082030.63 0.531-9.24053417.80283
iprovince4 |2.579476.6422130.39 0.699-10.6125415.77148
iprovince5 |.91471216.6936690.14 0.892-12.3794914.20892
iprovince6 |3.1551956.6209710.48 0.635-9.99462516.30502
iprovince7 |2.2421856.6432150.34 0.736-10.9518115.43618
iprovince8 |3.9661276.696790.59 0.555-9.33427717.26653
iprovince9 |2.4253816.5990570.37 0.714-10.6809215.53168
iprovince10 |3.6155956.7479380.54 0.593-9.78639217.01758
iprovince11 |3.3491456.7161490.50 0.619-9.98970616.688
iprovince12 |5.473697.4338170.74 0.463-9.29051320.23789
iprovince13 |3.2827196.6803910.49 0.624-9.98511516.55055
. testparm iprovince1-iprovince13
(1)iprovince1 = 0
(2)iprovince2 = 0
(3)iprovince3 = 0
(4)iprovince4 = 0
(5)iprovince5 = 0
(6)iprovince6 = 0
(7)iprovince7 = 0
(8)iprovince8 = 0
(9)iprovince9 = 0
(10)iprovince10 = 0
(11)iprovince11 = 0
(12)iprovince12 = 0

165
(13)iprovince13 = 0
F( 13, 92) = 30.41
Prob > F = 0.0000
Phụ lục 4. Kiểm định lựa chọn các mô hình đo lường tác động của FDI đến tốc
độ chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Vùng ĐBSCL
Phụ lục 4.1. Mô hình Pooled OLS
Source |SS dfMSNumber of obs =130
+ F(8, 121)=2.16
Model | 2.015444268 .251930533 Prob > F = 0.0349
Residual | 14.0892974121 .116440475 R-squared= 0.1251
+ Adj R-squared = 0.0673
Total | 16.1047417129 .124842959 Root MSE = .34123
cosx |Coef. Std. Err.t P>|t|[95% Conf. Interval]
+
FDI | -.0072801 .0188076 -0.39 0.699 -.0445147 .0299545
I_Ind_Agr | .0044203 .00405631.09 0.278-.0036103 .0124509
I_Ser_Agr | -.0035477 .0033116-1.07 0.286-.0101038 .0030085
growth1 | .8582334 .29311752.93 0.004.27793 1.438537
Emp | -.0005157 .0035291 -0.15 0.884 -.0075025 .0064712
Inf | -.0020679 .0034571 -0.60 0.551 -.0089122 .0047763
Urban |.0002973 .00321050.09 0.926-.0060588.0066534
Private |.0027753 .00721090.38 0.701-.0115006.0170512
_cons |.739102 .35509012.08 0.040.03610751.442097
Phụ lục 4.2. Mô hình FEM
Fixed-effects (within) regressionNumber of obs= 130
Group variable: Province_ID Number of groups = 13
R-sq: Obs per group:
within = 0.1762 min = 10
between = 0.0408 avg =10.0
overall = 0.0115 max = 10
F(8,109)=2.91
corr(u_i, Xb) = -0.9898 Prob > F =0.0055

166
cosx |Coef. Std. Err.t P>|t|[95% Conf. Interval]
+
FDI | .0176062 .02936730.60 0.550 -.0405989 .0758112
I_Ind_Agr | .0030595 .00516020.59 0.554 -.0071679.0132868
I_Ser_Agr | -.0000132 .0043108-0.00 0.998-.008557.0085306
growth1 | .4799443 .37780161.27 0.207 -.26884631.228735
Emp | -.0013349 .0043808 -0.30 0.761 -.0100175 .0073478
Inf | -.0021269 .0035303 -0.60 0.548 -.0091237.00487
Urban | .0858948.03348562.570.012.0195274.1522623
Private | .0094436.01293820.730.467-.0161995.0350867
_cons | -1.344226.9049238-1.490.140-3.137756.4493035
+
sigma_u | 1.269489
sigma_e | .33184864
rho | .93603887 (fraction of variance due to u_i)
F test that all u_i=0: F(12, 109) = 1.58 Prob > F = 0.1084
Kiểm định F test that all u_i=0 cho thấy mô hình Pooled OLS tốt hơn mô hình FEM
Phụ lục 4.3. Mô hình REM
Random-effects GLS regression Number of obs= 130
Group variable: Province_ID Number of groups = 13
R-sq: Obs per group:
within = 0.1184 min = 10
between = 0.2184 avg =10.0
overall = 0.1236 max = 10
Wald chi2(8)=16.66
corr(u_i, X) = 0 (assumed) Prob > chi2=0.0339
cosx |Coef. Std. Err.z P>|z|[95% Conf. Interval]
+
FDI | -.0040639 .0211105 -0.19 0.847 -.0454398 .0373119
I_Ind_Agr | .0039911 .00438180.91 0.362 -.0045971 .0125793
I_Ser_Agr | -.002655 .0035858 -0.74 0.459-.009683.004373
growth1 | .864035 .3064042.82 0.005.2634943 1.464576
Emp | -.0010088 .003769 -0.27 0.789 -.0083959 .0063782
Inf | -.0023852 .0034412 -0.69 0.488 -.0091298 .0043594
Urban |.0000763.00377470.020.984-.007322.0074745
Private |.0035234.00841180.420.675-.0129634.0200102
_cons |
+
.7638932.35657112.140.032.06502681.46276
sigma_u | .09298822

167
sigma_e | .33184864
rho | .07280277 (fraction of variance due to u_i)
Phụ lục 4.4. Kiểm định Hausman để lựa chọn giữa mô hình FEM và REM. Kết
quả kiểm định cho thấy mô hình REM tốt hơn mô hình FEM
---- Coefficients ----
|(b) (B) (b-B)sqrt(diag(V_b-V_B))
|fe re DifferenceS.E.
+
FDI | .0176062 -.0040639.0216701.0204153
I_Ind_Agr |.0030595.0039911-.0009316.0027253
I_Ser_Agr |-.0000132-.002655.0026417.0023927
growth1 |.4799443.864035-.3840907.2210219
Emp | -.0013349 -.0010088-.0003261 .002233
Inf | -.0021269 -.0023852.0002583 .000788
Urban | .0858948.0000763.0858186.0332722
Private | .0094436.0035234.0059202.0098305
b = consistent under Ho and Ha; obtained from xtreg
B = inconsistent under Ha, efficient under Ho; obtained from xtreg
Test: Ho: difference in coefficients not systematic
chi2(8) = (b-B)'[(V_b-V_B)^(-1)](b-B)
= 7.28
Prob>chi2 =0.5067
(V_b-V_B is not positive definite)
Phụ lục 4.5. Kiểm định Breusch and Pagan Lagrangian multiplier để lựa chọn
giữa mô hình Pooled OLS và REM. Kết quả kiểm định cho thấy mô hình Pooled
OLS tốt hơn mô hình REM
cosx[Province_ID,t] = Xb + u[Province_ID] + e[Province_ID,t]
Estimated results:
|Varsd = sqrt(Var)
+
Test: Var(u) = 0
chibar2(01) =0.25
Prob > chibar2 = 0.3086
cosx | .124843.3533312
e | .1101235.3318486
u | .0086468.0929882

168
Phụ lục 4.6. Kiểm định hệ số VIF đo lường hiện tượng đa cộng tuyến. Kết quả
cho thấy không có hiện tượng đa cộng tuyến
Variable |VIF1/VIF
+
I_Ser_Agr |4.33 0.231072
I_Ind_Agr |3.46 0.289396
Urban |2.24 0.446517
growth1 |1.93 0.519013
FDI |1.69 0.593181
Private |1.62 0.618131
Emp |1.24 0.804854
Inf |1.03 0.968639
+
Mean VIF |2.19
Phụ lục 4.7. Kiểm định hiện tượng phương sai thay đổi. Kết quả cho thấy có
hiện tượng phương sai thay đổi
White's test for Ho: homoskedasticity
against Ha: unrestricted heteroskedasticity
chi2(44)=63.71
Prob > chi2 = 0.0275
Cameron & Trivedi's decomposition of IM-test
Source |chi2dfp
+
Heteroskedasticity |63.7144 0.0275
Skewness |52.668 0.0000
Kurtosis |17.361 0.0000
+
Total |133.7353 0.0000
Phụ lục 4.8. Kiểm định hiện tượng tự tương quan.
Wooldridge test for autocorrelation in panel data
H0: no first order autocorrelation
F( 1,12) = 108.160
Prob > F =0.0000

169
Phụ lục 5. Kiểm định lựa chọn các mô hình đo lường tác động của FDI đến xu
hướng chuyển dịch từ nông nghiệp sang công nghiệp
Phụ lục 5.1. Mô hình Pooled OLS
Source |SS dfMSNumber of obs =126
+ F(7, 118)=4.70
Model | 10.19298657 1.45614093 Prob > F = 0.0001
Residual | 36.5265313118 .309546875 R-squared= 0.2182
+ Adj R-squared = 0.1718
Total | 46.7195178125 .373756142 Root MSE = .55637
Ind_Agr |Coef. Std. Err.t P>|t|[95% Conf. Interval]
+
FDI | .1031703 .03058983.37 0.001.0425942 .1637464
I_Ind_Agr | .0024417 .00439780.56 0.580 -.0062671 .0111505
Emp | -.0063196 .0057494 -1.10 0.274 -.0177049 .0050657
Growth | .0107484 .00516562.08 0.040.000519 .0209778
Inf | -.0012726 .0056398 -0.23 0.822 -.0124409 .0098957
Urban | -.0003177 .0048546-0.07 0.948-.009931.0092957
Private | -.0102957 .0115407-0.89 0.374-.0331495.0125581
_cons | .5426226 .57671880.94 0.349-.59943761.684683
Phụ lục 5.2. Mô hình FEM
Fixed-effects (within) regressionNumber of obs= 126
Group variable: Province_ID Number of groups =13
R-sq: Obs per group:
within = 0.1139 min = 6
between = 0.0127 avg = 9.7
overall = 0.0134 max = 10
F(7,106)=1.95
corr(u_i, Xb) = -0.8971 Prob > F =0.0694
Ind_Agr |Coef. Std. Err.t P>|t|[95% Conf. Interval]
+
FDI | .0589597 .04077981.45 0.151 -.0218903 .1398096
I_Ind_Agr | -.0004754 .0045001 -0.11 0.916 -.0093973 .0084464
Emp | -.0040813 .0059962 -0.68 0.498 -.0159693 .0078067
Growth | .0109553 .0054052.03 0.045.0002393 .0216713
Inf | .0043447 .00483050.90 0.370 -.0052322 .0139216
Urban | -.0655799 .0461594 -1.42 0.158 -.1570955 .0259357

170
Private | -.0137298 .017086 -0.80 0.423 -.0476043 .0201448
_cons | 1.67963 1.2475871.35 0.181 -.7938328 4.153094
+
sigma_u | 1.019194
sigma_e | .45404601
rho |.8344 (fraction of variance due to u_i)
F test that all u_i=0: F(12, 106) = 5.93 Prob > F = 0.0000
Kiểm định F test that all u_i để lựa chọn giữa 2 mô hình Pooled OLS và FEM. Kết
quả kiểm định cho thấy nên lựa chọn mô hình FEM
Phụ lục 5.3. Mô hình REM
Random-effects GLS regression Number of obs= 126
Group variable: Province_ID Number of groups = 13
R-sq: Obs per group:
within = 0.0952 min = 6
between = 0.3152 avg = 9.7
overall = 0.2060 max = 10
Wald chi2(7)=15.99
corr(u_i, X) = 0 (assumed) Prob > chi2=0.0252
Ind_Agr |Coef. Std. Err.z P>|z|[95% Conf. Interval]
+
FDI | .0823305 .03568312.31 0.021.0123929 .1522682
I_Ind_Agr | .0007817 .0043030.18 0.856-.0076521.0092155
Emp | -.0041267 .0057249 -0.72 0.471-.0153472.0070938
Growth | .0078545 .00480011.64 0.102-.0015535.0172625
Inf | .0037727 .00481110.78 0.433 -.0056568 .0132023
Urban | -.0013001 .0077242-0.17 0.866-.0164393.0138392
Private | -.0097199 .0144802-0.67 0.502-.0381006.0186607
_cons | .1894212 .5207248
+
0.36 0.716-.83118061.210023
sigma_u | .32101239
sigma_e | .45404601
rho | .3332688 (fraction of variance due to u_i)
Phụ lục 5.4. Kiểm định Hausman để lựa chọn giữa 2 mô hình FEM và REM. Kết
quả kiểm định cho thấy mô hình FEM tốt hơn.
Coefficients ----
(b) (B) (b-B)sqrt(diag(V_b-V_B))

171
fe re DifferenceS.E.
FDI .0589597.0823305-.0233709 .019741
I_Ind_Agr -.0004754.0007817-.0012571 .001317
Emp -.0040813-.0041267.0000454.0017833
Growth.0109553.0078545.0031008.0024846
Inf .0043447.0037727.000572.0004326
Urban-.0655799-.0013001-.0642798.0455086
Private-.0137298-.0097199-.0040098.0090694
b = consistent under Ho and Ha; obtained from xtreg
B = inconsistent under Ha, efficient under Ho; obtained from xtreg
Test: Ho:difference in coefficients not systematic
chi2(7) = (b-B)'[(V_b-V_B)^(-1)](b-B)
= 16.05 chi2<0 Prob>chi2 =0.0047
(V_b-V_B is not positive definite)
Phụ lục 5.5. Kiểm định Breusch and Pagan Lagrangian multiplier để lựa chọn
giữa mô hình Pooled OLS và REM. Kết quả kiểm định cho thấy mô hình REM
tốt hơn mô hình Pooled OLS
Breusch and Pagan Lagrangian multiplier test for random effects
Ind_Agr[Province_ID,t] = Xb + u[Province_ID] + e[Province_ID,t]
Estimated results:
|Varsd = sqrt(Var)
+
Ind_Agr | .3737561.611356
e | .2061578.454046
u | .103049.3210124
Test: Var(u) = 0
chibar2(01) = 42.05
Prob > chibar2 = 0.0000
Phụ lục 5.6. Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến. Kết quả cho thấy không có
hiện tượng đa cộng tuyến
Variable |
+
VIF1/VIF
I_Ser_Agr |4.330.231072
I_Ind_Agr |3.460.289396
Urban |2.24 0.446517
growth1 |1.93 0.519013
FDI |1.690.593181
Private |1.620.618131
Emp |1.240.804854

172
Inf |1.03 0.968639
+
Mean VIF |2.19
Phụ lục 5.7. Kiểm định hiện tượng phương sai thay đổi. Kết quả cho thấy có hiện
tượng phương sai thay đổi
White's test for Ho: homoskedasticity
against Ha: unrestricted heteroskedasticity
chi2(44)=63.71
Prob > chi2 = 0.0275
Cameron & Trivedi's decomposition of IM-test
Source |chi2dfp
+
Heteroskedasticity |63.7144 0.0275
Skewness |52.668 0.0000
Kurtosis |17.361 0.0000
+
Total |133.7353 0.0000
Phụ lục 5.7. Kiểm định hiện tượng phương sai thay đổi.
Wooldridge test for autocorrelation in panel data
H0: no first order autocorrelation
F( 1,12) =1.724
Prob > F =0.2137
Phụ lục 6. Kiểm định lựa chọn các mô hình đo lường tác động của FDI đến xu
hướng chuyển dịch từ nông nghiệp sang dịch vụ
Phụ lục 6.1. Mô hình Pooled OLS
Source |SS dfMSNumber of obs =126
+ F(7, 118)=7.28
Model | 59.3501306 7 8.47859008 Prob > F = 0.0000
Residual | 137.349902118 1.16398222 R-squared= 0.3017
+ Adj R-squared =0.2603
Total | 196.700033125 1.57360026 Root MSE = 1.0789
Ser_Agr |Coef. Std. Err.t P>|t|[95% Conf. Interval]
+
FDI | .0129855 .05777490.22 0.823 -.1014245 .1273955
I_Ser_Agr | .0143867 .00695272.07 0.041.0006183.028155

173
Emp | .001314 .01118860.12 0.907 -.0208424 .0234704
Growth | .0252506 .01001682.52 0.013.0054147 .0450866
Inf | -.0035184 .0109354 -0.32 0.748 -.0251734 .0181365
Urban | .0245815.01021562.410.018.0043519.0448112
Private | -.0248443.0223405-1.110.268-.0690847.019396
_cons | .09612921.1215560.090.932-2.1248582.317116
Phụ lục 6.2. Mô hình FEM
Fixed-effects (within) regressionNumber of obs= 126
Group variable: Province_ID Number of groups = 13
R-sq: Obs per group:
within = 0.0562 min = 6
between = 0.5292 avg = 9.7
overall = 0.2424 max = 10
F(7,106)=0.90
corr(u_i, Xb) = 0.1138 Prob > F =0.5077
Ser_Agr |Coef. Std. Err.t P>|t|[95% Conf. Interval]
+
FDI | -.0153697 .0922535 -0.17 0.868 -.1982712 .1675318
I_Ser_Agr | -.0032405 .0084595 -0.38 0.702 -.0200123 .0135313
Emp | .0119715 .01364560.88 0.382 -.0150822 .0390252
Growth | .0154867 .01239641.25 0.214 -.0090903 .0400637
Inf | -.000899.01091 -0.08 0.934 -.0225291 .0207311
Urban | .0332477.10457270.320.751-.1740779.2405733
Private | -.0131515.0402842-0.330.745-.0930189.0667159
_cons | -.04048112.821909-0.010.989-5.6351915.554229
+
sigma_u | .56038071
sigma_e | 1.0274007
rho | .22928698 (fraction of variance due to u_i)
F test that all u_i=0: F(12, 106) = 2.01 Prob > F = 0.0301
Kiểm định F test that all u_i để lựa chọn giữa 2 mô hình Pooled OLS và FEM.
Kết quả kiểm định cho thấy nên lựa chọn mô hình FEM
Phụ lục 6.3. Mô hình REM
Random-effects GLS regression Number of obs= 126
Group variable: Province_ID Number of groups = 13
R-sq: Obs per group:

174
within = 0.0259 min = 6
between = 0.7578 avg = 9.7
overall = 0.3016 max = 10
Wald chi2(7)=47.79
corr(u_i, X) = 0 (assumed) Prob > chi2=0.0000
Ser_Agr |Coef. Std. Err.z P>|z|[95% Conf. Interval]
+
+
sigma_u | .09154615
sigma_e | 1.0274007
rho | .00787709 (fraction of variance due to u_i)
Phụ lục 6.4. Kiểm định Hausman để lựa chọn giữa 2 mô hình FEM và REM. Kết
quả kiểm định cho thấy mô hình FEM tốt hơn.
---- Coefficients ----
|(b)
|fe1
(B)
re1
(b-B)sqrt(diag(V_b-V_B))
DifferenceS.E.
+
FDI | -.0153697.0131449-.0285146.0711513
I_Ser_Agr | -.0032405.013549-.0167894.0047521
Emp | .0119715.0018244.0101471.0076837
Growth | .0154867.0247923-.0093056.0072752
Inf | -.000899 -.0034015.0025025.0004311
Urban | .0332477.025368.0078797 .104054
Private | -.0131515 -.0246533.0115018.0332131
b = consistent under Ho and Ha; obtained from xtreg
B = inconsistent under Ha, efficient under Ho; obtained from xtreg
Test: Ho: difference in coefficients not systematic
chi2(7) = (b-B)'[(V_b-V_B)^(-1)](b-B)
=18.94
FDI | .0131449 .05872130.22 0.823 -.1019467 .1282365
I_Ser_Agr | .013549 .00699871.94 0.053 -.0001682 .0272661
Emp | .0018244 .01127660.16 0.871 -.0202774 .0239262
Growth | .0247923 .0100372.47 0.014.0051201 .0444645
Inf | -.0034015 .0
Urban | .025368
109015 -
.0104031
0.31 0.755
2.44 0.015
-.024768
.0049783
.017965
.0457577
Private | -.0246533.0227971-1.08 0.280-.0693349.0200283
_cons | .08206971.1187080.07 0.942-2.1105572.274697

175
Prob>chi2 =0.0084
(V_b-V_B is not positive definite)
Phụ lục 6.5. Kiểm định Breusch and Pagan Lagrangian multiplier để lựa chọn
giữa mô hình Pooled OLS và REM. Kết quả kiểm định cho thấy mô hình Pooled
OLS tốt hơn.
Ser_Agr[Province_ID,t] = Xb + u[Province_ID] + e[Province_ID,t]
Estimated results:
|Varsd = sqrt(Var)
+
Ser_Agr |1.57361.254432
e | 1.0555521.027401
u | .0083807.0915461
Test: Var(u) = 0
chibar2(01) =1.05
Prob > chibar2 = 0.1522
Phụ lục 6.6. Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến. Kết quả cho thấy không có
hiện tượng đa cộng tuyến
Variable |
+
VIF1/VIF
Urban |2.270.441316
Growth |
I_Ser_Agr |
1.93 0.519137
1.90 0.526518
FDI |1.570.635969
Private |1.500.665194
Emp |
Inf |
1.23 0.810226
1.03 0.968145
+
Mean VIF |1.63
Phụ lục 6.7. Kiểm định hiện tượng phương sai thay đổi. Kết quả cho thấy không
có hiện tượng phương sai thay đổi
White's test for Ho: homoskedasticity
against Ha: unrestricted heteroskedasticity
chi2(35)=18.22
Prob > chi2 = 0.9913
Cameron & Trivedi's decomposition of IM-test
Source |chi2dfp

176
+
Heteroskedasticity |18.2235 0.9913
Skewness |4.447 0.7273
Kurtosis |1.051 0.3053
+
Total |23.7243 0.9926
Phụ lục 6.7. Kiểm định hiện tượng tự tương quan
Wooldridge test for autocorrelation in panel data
H0: no first order autocorrelation
F( 1,12) =1.266
Prob > F =0.2826
Tags