10
28% người tham gia khảo sát có lưu trữ thuốc kháng sinh ở nhà. Các thuốc kháng
sinhchủ yếu là mua từ các hiệu thuốc cộng đồng mà không có đơn thuốc (p< 0,001)
(Abasaeed et al., 2009). Tỉ lệ tự điều trị bằng kháng sinh ở nghiên cứu này khá cao so
với kết quả thực hiện tại Cộng hòa Séc (31,1%), Jordan (23,0%), và Lithuania
(39,9%)(Al-Azzam S.I et al., 2007),(Berzanskyte A. et al., 2006). Ở Lithuania, nữ giới
có xu hướng sử dụng thuốc kháng sinh nhiều hơn nam giới, trong nghiên cứu này việc
sử dụng kháng sinh không có mối liên quan đến giới tính, nhưng bị ảnh hưởng đáng
kểtheo độ tuổi và trình độ học vấn. Các yếu tố truyền thống, văn hóa xã hội cũng ảnh
hưởng đến việc tự dùng thuốc kháng sinh, bất chấp những quy định sử dụng thuốc
theođơn. Và yếu tố đóng góp vào vấn đề này chính là sự tiếp cận dễ dàng với thuốc
kháng sinh từ các nhà thuốc trong cộng đồng.Nghiên cứu cũng cho thấy niềm tin của
cộng đồng về thuốc kháng sinh là có thể điều trị và diệt trừ bất kỳ loại nhiễm trùng nào
mà không cần phân biệt nguồn gốc của chúng. Những người tham gia nghiên cứu
không biết về sự nguy hiểm cũng như hậu quả của việc sử dụng thuốc kháng sinh
không phù hợp.
Năm 2011, một nghiên cứu cắt ngang được tiến hành ởđại học Ain Shams, Ai
Cập để khảo sát về kiến thức - thái độ - thực hành của sinh viên y khoa theo hướng tự
điều trị. Mẫu nghiên cứu gồm 300 sinh viên (67% nữ và 33% nam). Tỉ lệ tự dùng
thuốc là 55%. Trong đó 58,8% tự dùng kháng sinh, lần lượt 54,4%, 87,2%, 12% , 28%
với tỉ lệ tự ý dùng vitamin, thuốc giảm đau, thuốc an thần, các sản phẩm thảo dược
tương ứng mà không cần bác sĩ kê đơn. Liên quan đến hành vi cá nhân đối với đơn
thuốc: 14,4% luôn dùng đúng theođơn, so với 63,3% luôn luôn ngưng thuốc khi cảm
thấy khoẻ hơn, 13,6% dùng lại đơn thuốc cũ mà không tìm kiếm lời khuyên y tế, 60%
sinh viên tham gia nghiên cứu nói rằng họ tăng liều mà không cần có sự tư vấn y tế.
Liên quan đến việc thông báo các tác dụng phụ thì 4,8%, 1,6%, 12% là kết quả của sự
tương tác giữa các loại thuốc, tăng liều mà không có tư vấn y tế và dừng liều điều trị
tương ứng(El EzzN. F. and Ez-Elarab H. S., 2011).
Đại học chăm sóc y tế ở Tây Bengal, Ấn Độ năm 2012 có thực hiện nghiên cứu
về thực hành tự điều trị giữa các sinh viên y khoa chưa tốt nghiệp. Trong số 500 sinh
viên của học viện, 482 đồng ý tham gia nghiên cứu, thu được 468 bộ câu hỏi có giá trị
cho thấy rằng: 57,05% trả lời thực hành tự điều trị. Các bệnh lý chủ yếu để tìm kiếm
sự tự điều trị gồm ho và cảm lạnh thông thường, tiếp theo là tiêu chảy (25,47%), sốt
(15,73%), đau đầu (14,98%) và bụng đau do ợ nóng/loét dạ dày tá tràng (8,61%).
Nhóm thuốc/thuốc thường được sử dụng để tự điều trị bao gồm thuốc kháng sinh
(31,09%), tiếp theo là thuốc giảm đau (23,21%), thuốc hạ sốt (17,98%), các loại thuốc
chống loét (8,99%), ức chế ho (7,87%), vitamin tổng hợp (6,37%) và thuốc diệt giun
sán (4,49%). Trong số các lý do để tìm kiếm tự điều trị, 47,19% nghĩ do bệnh nhẹ,
28,46% lựa chọn vì điều này tiết kiệm thời gian, khoảng 15,73% cho rằng hiệu quả chi https://skkn.com.vn/