Lịch sử chiến tranh Nam Bắc Triều Tiên và Triều Tiên sau chiến tranh

giaoanorg 13 views 25 slides Nov 03, 2024
Slide 1
Slide 1 of 25
Slide 1
1
Slide 2
2
Slide 3
3
Slide 4
4
Slide 5
5
Slide 6
6
Slide 7
7
Slide 8
8
Slide 9
9
Slide 10
10
Slide 11
11
Slide 12
12
Slide 13
13
Slide 14
14
Slide 15
15
Slide 16
16
Slide 17
17
Slide 18
18
Slide 19
19
Slide 20
20
Slide 21
21
Slide 22
22
Slide 23
23
Slide 24
24
Slide 25
25

About This Presentation

Lịch sử chiến tranh Nam Bắc Triều Tiên và Triều Tiên sau chiến tranh
Chiến tranh Triều Tiên là cuộc chiến đầu tiên mà Liên Hiệp Quốc (LHQ), một tổ chức quốc tế, đã đóng vai trò quân sự. Tổ chức này mới được thành lập 5 năm về t...


Slide Content

1


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH



 

MÔN : LỊCH SỬ THẾ GIỚI


ĐỀ TÀI



LỊCH SỬ CHIẾN TRANH NAM BẮC TRIỀU
TIÊN VÀ TRIỀU TIÊN SAU CHIẾN TRANH




Giảng viên hướng dẫn: Lê Phụng Hoàng

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Mộng Ý

MSSV: 41.01.602.099




Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 29 tháng 11 năm 2017
https://giaoan.org/

2


MỤC LỤC
I. Sự kiện mở đầu .................................................................. 3
II. Cuộc tấn công của Bắc Triều Tiên ................................... 5
III. Trung Quốc tham chiến .................................................... 6
IV. Đình chiến .......................................................................... 7
V. Bắc Triều Tiên hậu chiến 1953 ....................................... 10
1. Phát triển chính trị và quân sự .................................... 11
2. Xây dựng quân đội ......................................................... 12
3. Phát triển kinh tế và xã hội ............................................ 13
4. Thay đổi văn hóa và giáo dục ........................................ 20
5. Văn hóa và cách mạng .................................................... 21
















LỊCH SỬ CHIẾN TRANH NAM BẮC TRIÊU TIÊN VÀ
TRIỀU TIÊN SAU CHIẾN TRANH https://giaoan.org/

3


Chiến tranh Triều Tiên là cuộc chiến đầu tiên mà Liên Hiệp Quốc (LHQ), một
tổ chức quốc tế, đã đóng vai trò quân sự. Tổ chức này mới được thành lập 5
năm về trước.
Chiến Tranh Triều Tiên bùng nổ vào ngày 25/6/1950 khi quân đội Bắc Triều
Tiên theo chế độ Xã hội, đã tràn qua biên giới, xâm lăng Nam Triều Tiên. LHQ
đã gọi cuộc xâm lăng này là một vi phạm vào nền hòa bình thế giới và đã đòi
hỏi quân đội Cộng Sản phải rút ra khỏi Nam Triều Tiên. Nhưng sau khi quân
đội Cộng Sản Bắc Triều Tiên tiếp tục tấn công, Hoa Kỳ phải kêu gọi các quốc
gia hội viên LHQ giúp đỡ quân sự cho Nam Triều Tiên. 16 quốc gia đã gửi quân
tham chiến tới đây và 41 nước khác cũng đã chuyển tới các dụng cụ, thực phẩm
và các tiếp liệu khác, trong khi đó Hoa Kỳ cung cấp 90 phần trăm binh lính,
dụng cụ quân sự và các tiếp tế khác cho Nam Triều Tiên. Phía Cộng Sản, ngoài
Bắc Triều Tiên còn có Trung Cộng, trong khi Liên Xô trợ giúp Bắc Triều Tiên
bằng các dụng cụ quân sự.


I. Sự kiện mở đầu
Từ tháng 9 năm 1948, Chính phủ Bắc Triều Tiên đã ủng hộ nhiều cuộc nổi dậy
và đình công lao động ở Nam Triều Tiên khi họ tán thành sự thống nhất đất nước.
Tháng 4 năm 1948, họ đã thành công trong việc kêu gọi cuộc nổi dậy trên đảo Cheju
(Tế Châu loan), sau đó vào tháng 10 họ gây ra một cuộc nổi dậy quân sự ở khu vực
Yõsu Sunch'õn trong tỉnh Nam Chõlla (Toàn La đạo) qua các đặc vụ của mình trong
các đơn vị quân đội đóng ở Yỗsu Cuộc nổi dậy này xảy ra khi quân đội ở Yỗsu dược
lệnh đến đảo Cheju (Tế Châu loan) để khuất phục cuộc nổi dậy ở đó. Bắt đầu tháng
5 năm l949, một loạt các cuộc xung đột biên giới ngang vĩ tuyến 38 thường xuyên
xảy ra và ở những nơi khác ở Nam Triều Tiên những người cộng sản đã tham gia
chiến tranh du kích vào mùa thu năm 1949. Tuy nhiên, tất cả các cuộc nổi dậy và
các cuộc nổi loạn này đầu bị quân đội Nam Triều Tiên dập tắt vào cuối năm 1949.
Nhận thấy các cuộc nôi dậy và đình công này không lật đổ chính phủ Nam Triều
Tiên, Kim Il-sung (Kim Nhật Thành) đã viếng thăm Moscow hai lần năm 1949, ký
các hiệp định về kinh tế và quân sự với Liên Bang Xô Viết.
Theo những nguồn tin khác nhau của Trung Quốc và Nga cho biết lúc đó Kim
Nhật Thành đã thảo luận kế hoạch tấn công Nam Triều Tiên với Stalin. Và khi Mao
Trạch Đông ở Trung Quốc viếng thăm Moscow năm 1949, Stalin và Mao Trạch
Đông cũng đã thảo luận kế hoạch của Kim Nhật Thành. Được lời tuyên bố của ngoại https://giaoan.org/

4

trưởng Mỹ Dean Acheson (tháng giêng năm 1950) khuyến khích là loại trừ Nam
Triều Tiên ra khỏi "vành đai phòng thủ" của Mỹ ở Viễn Đông, Chính phủ Bắc Triều
Tiên quyết định tiến hành chiến tranh để thống nhất Triều Tiên bằng vũ lực. Đầu
năm 1950, sau khi quyết định, Kim II-sung (Kim Nhật Thành) đến Moscow, và yêu
cầu Stalin tán thành việc Bắc Triều Tiên tấn công Nam Triều Tiên. Cuối cùng Stalin
chấp thuận, ông trở về Pyongyang (Bình Nhưỡng). Sau khi được chấp thuận, Kim
Nhật Thành cho Mao Trạch Đông biết về kế hoạch của mình. Khi kế hoạch của Kim
Il-sung (Kim Nhật Thành) được chấp thuận, Liên Bang Xô Viết thay thế tất cả các
cố vân quân sự ở Bắc Triều Tiên bằng các sĩ quan cấp cao có kinh nghiệm chiến đấu,
nhanh chóng gửi nhiều xe tăng và các vũ khí khác tới Bắc Triều Tiên. Khi các cố
vân quân sự đến, kế hoạch tấn công do các sĩ quan Liên Xô và sĩ quan Triều Tiên
sinh ở Nga trong quân đội Liên Xô thảo ra, và kế hoạch chiến đấu hoàn thành được
gửi cho Kim Il-sung (Kim Nhật Thành) cuối tháng năm. Các đơn vị quân sự sẵn sàng
chiến đấu được triển khai dọc theo vĩ tuyến 38. Vào ngày 22 tháng 6, hai tổng hành
dinh chỉ huy được thành lập. Lệnh chiến đấu đầu tiên bằng tiếng Nga và tiếng Hàn
được phát ra cho các vị chỉ huy sư đoàn ngày 24 tháng 6. https://giaoan.org/

5

II. Cuộc tấn công của Bắc Triều Tiên
Sáng sớm chủ nhật ngày 25 tháng 6 năm 1950, bộ đội Bắc Triều Tiên khai hỏa
và các xe tăng do Nga chế tạo làm mũi nhọn dẫn đầu, băng qua vĩ tuyến 38. Chiến
tranh Triều Tiên đã bắt đầu. 56.000 bộ đội Bắc Triều Tiên thâm nhập vào Nam Triều
Tiên từ mọi điếm dọc theo vĩ tuyến 38 với tốc độ đáng kinh ngạc mà không bị quân
đội Nam Triều Tiên kháng cự nhiều. Chỉ ba ngày sau, ngày 28 tháng, 6, Seoul bị
chiếm và chính phú Nam Triều Tiên bị buộc phải chạy trốn về phía nam.
Bị bất ngờ, chính phủ Mỹ vội vàng gửi một số quân từ Nhật Bản tới Triều Tiên
để chặn đứng cuộc tiến quân của Bắc Triều Tiên. Nhưng vào giữa tháng bảy các đơn
vị đầu tiên của quân đội Mỹ đã bị bộ đội Bắc Triều Tiên gần Taejõn (Đại Điền) tiêu
diệt hoàn toàn. Trong khi đó, Mỹ yêu cầu Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc lên án
Bắc Triều Tiên và thành lập một lực lượng Liên Hiệp Quốc gửi tới Triều Tiên để
giúp đỡ miền nam.
Sau khi lên án Bắc Triều Tiên, Hội đồng Bảo An yêu cầu các nước hội viên
Liên Hiệp Quốc gửi quân. Mười sáu quốc gia thân Mỹ hưởng ứng lời kêu gọi này
và lực lượng Liên Hiệp Quốc được thành lập vơi tướng Mỹ Douglas, Mac-Arthur
làm chỉ huy trưởng. Chính phủ Nam Triều Tiên cũng đặt các lực lượng vũ trang của
Nam Triều Tiên dưới quyền chỉ huy của Liên Hiệp Quốc.
Các nước hội viên Liên Hiệp Quốc giúp đỡ quân sự cho Triều Tiên như sau:
Lục quân: Úc, Bỉ, Canada, Colombia, Cuba, Ethiopia Pháp, Hy Lạp,
Luxembourg, Hà lan, Tân Tây Lan, Philippines, Thái Lan, Thô Nhĩ Kỳ, Anh và Mỹ.

Hải quân: Úc, Canada, Colombia, Pháp, Tân Tây Lan, Thái Lan, Anh và Mỹ.
Không quân: Úc, Canada, Nam Phi, Anh và Mỹ.
Y tế: Đan Mạch, Ấn Độ, Ý, Na uy, Thụy điển, Anh và Mỹ.
Các nước hội viên Liên Hiệp Quốc còn lại có sự trợ giúp khác là Costa Rica và
Panama. Quân đội Trung Quốc, Costa Rica, E1 Salvador và Panama trợ giúp quân
sự nhưng được hoãn lại.
Chính phủ Bắc Triều Tiên đã tính sai ba điều quan trọng khi họ tiến hành chiến
tranh. Sai lầm thứ nhất là Mỹ sẽ không can thiệp, chưa kể đến Liên Hiệp Quốc. Sai
lầm thứ hai là nếu họ tiếp quản Seoul thì chính phủ Nam Triều Tiên sẽ đầu hàng và
chiến tranh sẽ kết thúc. Sai lầm thứ ba là khoảng "500.000" đảng viên bí mật của
Đảng Công nhân Nam Triều Tiên sẽ cộng tác với Bắc Triều Tiên và cuộc khởi nghĩa
của nhân dân cả nước và lật đổ chính phủ Nam Triều Tiên sẽ nổ ra. Lúc này rõ ràng
sai lầm thứ ba được dựa trên đề nghị của Pak Hõn-yõng (Phác Hiến Vĩnh), nguyên
lãnh tụ của Đảng Công nhân Nam Triều Tiên đã chạy trốn ra miền bắc, trở thành https://giaoan.org/

6

phó thủ tướng và ngoại trưởng tháng 9 năm 1948.
Bấy giờ, người ta biết rằng Chính phủ Bắc Triều Tiên không có ý định mở rộng
chiến tranh ra mọi nơi ở Nam Triều Tiên. Do đó, sau khi tiếp quản Seoul (ở gần biên
giới Bắc Triều Tiên, là một mục tiêu tương đối dễ), họ chờ đợi sự đầu hàng của chính
phủ Nam Triều Tiên và các cuộc nôi dậy của quần chúng khắp cả Nam Triều Tiên.
Khi cả hai điều đó không xảy ra, họ tranh luận trong ba ngày về việc làm gì tiếp theo.
Ngày 1 tháng 7, Kim Il-sung ra lệnh cho bộ đội tiến về hướng nam.
Ngày 20 tháng 7, lực lượng Bắc Triều Tiên tiếp quản Taejõn (Đại Điền) buộc
chính phủ Nam Triều Tiên di chuyến xa hơn nữa về phía nam, và hơn 2/3 lãnh thổ
của Nam Triều Tiên rơi vào tay của Bắc Triều Tiên. Ngày 15 tháng 8, Kim Il-sung
(Kim Nhật Thành) ra lệnh cho bộ dội tiếp quản vành đai Pusan (Phù Sơn) khi quân
đội Nam Triều Tiên và Mỹ chiếm được vị trí cuối cùng của họ trong khu vực nhỏ ở
phía đông sông Naktong (Lục Đông giang). Trong khi đó, lực lượng Liên Hiệp Quốc
bắt đầu đến Triều Tiên.
Ngày 15 tháng 9, khi lực lượng Liên Hiệp Quốc dược củng cố đầy đủ, tướng
MacArthur thực hiện thành công cuộc đổ bộ ở Inch'õn (Nhân Xuyên), làm cho bộ
đội Bắc Triều Tiên mắc kẹt ở miền nam. Đồng thời, quân đội Liên Hiệp Quốc mở
một cuộc tấn công từ vành đai Pusan (Phủ Sơn), tiến về phía bắc. Ngày 28 tháng 9,
Seoul được lấy lại, đầu tháng 10 quân đội Liên Hiệp Quốc dưới quyền của chính phù
Mỹ và Liên Hiệp Quốc vượt qua vĩ tuyến 38 đuổi theo bộ dội Bắc Triều Tiên đang
rút lui. Lúc này, Kim Il-sung (Kim Nhật Thành) cử công sứ sang Bắc Kinh tìm kiếm
sự trợ giúp quân sự của Trung Quốc.
III. Trung Quốc tham chiến
Một thời gian sau khi cuộc phản công của Liên Hiệp Quốc bắt đầu, các nhà
lãnh đạo Cộng sản Trung Quốc có những cuộc thảo luận sôi nổi về sự khôn ngoan
của việc gửi quân đội giải phóng Trung Quốc tới Triều Tiên. Khi thủ tường Chu Ân
Lai và những người khác phản đối biện pháp đó và quyết định không thể đạt được,
Mao Trạch Đông cửDdoonu Âm Lai đến Moscow, tìm sự giúp đỡ ý kiến của Stalin.
Sau khi tuyên bố Liên Bang Xô Viết không sẵn sàng tiến hành chiến tranh ở châu
Á, Stalin khuyến khích Trung Quốc giúp đỡ quân sự cho Bắc Triều Tiên. Ngay sau
đó, Chu Ân Lai yêu cầu Nga cho bộ đội Liên Xô bảo vệ Trung Quốc khi ông đồng https://giaoan.org/

7

ý đưa bộ đội Trung Quốc tham gia vào chiến tranh Triều Tiên. Thực hiện đúng lời
cam kết của mình, Stalin gửi một sư đoàn không quân, một sư đoàn pháo binh và
nhiều tiểu đoàn chiến đấu đến biên giới Trung - Hàn. Sử dụng các căn cứ ở Mãn
Châu, chính sư đoàn không quân này đã tham gia vào các trận không chiến với lực
lượng Liên Hiệp Quốc.
Mao Trạch Đông đã huy động bộ đội của quân đội giải phóng nhân dân Trung
Quốc và gửi họ đến Mãn Châu. Ngày 20 tháng 10, khi lực lượng Liên Hiệp Quốc
chiếm Pyongyang (Bình Nhưỡng) và tiến lên về phía sông Yalu (Ap Lục giang),
nhiều nhà lãnh đạo và quân đội Bắc Triều Tiên chạy vào Mãn Châu. Chiến tranh có
vẻ gần chấm dứt, và tướng Mac Arthur tuyên bố những người con Mỹ sẽ về nhà vào
lễ Giáng sinh. Lúc đó, ngày 18 tháng 10, chính phủ Trung Quốc quyết định gửi bộ
đội đến Triều Tiên.
Giữa tháng 10, 250.000 "chí nguyện quân" cùa quân đội giải phóng nhân dân Trung
Quốc tham gia chiến tranh với Bắc Triều Tiên và một “cuộc chiến tranh toàn diện
mới” bắt đầu. Khoảng 1,5 triệu bộ đội Trung Quốc nữa tham chiến, buộc quân đội
Liên Hiệp Quốc rút về phía nam. Deoul đổ nát đã đổi chủ lần thứ tư ngày 14 tháng
3, khi lực lượng đồng minh lấy lại nó.
IV. Đình chiến
Cuối mùa xuân năm 1951, lực lượng Liên Hiệp Quốc có thể chặn đứng
hai cuộc tấn công lớn của Bắc Triều tiên đã bộc lộ bế tắc khi cuộc chiến đấu
đẫm máu vẫn tiếp tục trong chiến tranh phía đông và những cuộc không kích
của các đợn vị không quân được tăng cường khắp Bắc Triều Tiên. Lúc đó, chính
phủ Mỹ bắt đầu những cuộc hội đàm bí mật với Trung Quốc, Nhưng Trung Quốc
đề nghị rút lui lực lượng Liên Hiệp Quốc và bộ đội Trung Quốc Ra khỏi Triều
Tiên đã tạo nên một rào chắc trong cuộc thương lượng. Lúc này, Trung Quốc tố
cáo Mỹ đã tiến hành chiến tranh vi trùng.
Tháng 6 năm 1951, bế tắc bị phá vỡ khi liên bang Xô Viết đề nghị một kế
hoạch ngưng bắn. Kết quả, các cuộc thảo luận đình chiến vào cuối tháng sáu bắt
đầu lần đầu tiên ở Kaesõng (Khai Thành), một thành phố Nam Triều Tiên bị
quân đội Bắc Triều Tiên tiếp quản, sau đó ở một ấp nhỏ tên là Panmunjom (Bàn
Môn Điếm). Hai vấn đề khó khăn nhất phải giải quyết là vị trí tuyến ngừng bắn
(giới tuyến quân sự) và sự hồi hương tù binh. Các cuộc thảo luận ngừng bắn kéo
dài cho tới tháng 7 năm 1953, trong khi cuộc chiến đấu tiếp tục ở mặt trận phía
đông.
Trong khi đó, không muốn thấy chấm dứt đánh nhau trước khi Bắc Triều https://giaoan.org/

8

Tiên hoàn toàn bị tiêu diệt, tổng thống Rhee đã phóng thích khoảng 27.000 tù
binh Bắc Triều Tiên không muốn hồi hương vào giữa tháng 6 năm 1953. Việc
này tổng thống Rhee không biết có tham khảo ý kiến trước hay không Bộ tư
lệnh Liên Hiệp Quốc cho phép đã gây ra mối đe dọa nghiêm trọng cho các cuộc
thương lượng ngừng bắn. Tuy nhiên, chính phú Mỹ thuyết phục Rhee không
làm bế tắc các cuộc tọa đàm bằng cách hứa hẹn một hiệp ước phòng thủ hỗ
tương giữa Mỹ và Nam Triều Tiên.
Do đó, ngày 27 tháng 7 năm 1953, hiệp định đình chiến Triều Tiên được ký.
Với sự đình chiến này, khoảng 82.000 tù binh của Bắc Triều tiên, kể cả 6.700 tù binh
Trung Quốc được cho hồi hương. Lúc này, 16 nước hội viên Liên Hiệp Quốc đã gửi
quân tới Triều Tiên ra tuyên ngôn họ sẽ chiến đấu lại nếu Bắc Triều Tiên tiếp tục
chiến tranh chống miền Nam.

Với việc ký kết ngừng bắn, một giới tuyến quân sự ngừng bắn theo hình chữ
chi dài 137,1m được thiết lập, và một vùng phi quân sự rộng l,371km được thành
lập ở mỗi bên của giới tuyến. Đồng thời, Panmunjom (Bàn Môn Điếm) nơi ký kết
ngừng bắn được chọn làm một vùng trung lập đế Ủy ban giám sát đình chiến của các
quốc gia trung lập thành lập tổng hành dinh của ủy ban. Với sự đình chiến, Bắc Triều
Tiên mất một lượng đất khá lớn ở phía đông, đồng thời chiếm được một khu vực
trồng lúa nhỏ nhưng màu mỡ ở phía tây kể cả thành phố' Kaesong (Khai Thành).
Trong số những điều khác, đình chiến quy định ba tháng sau khi hiệp định được
ký và trở nên có hiệu lực, một hội nghị chính trị của cả hai phía sẽ được tổ chức để
giải quyết vấn đề thoái lui tất cả quân đội nước ngoài và "giải quyết êm thấm vấn đề
Triều Tiên". Tháng 10 năm 1953, hội nghị chính trị được tổ chức ở Panmunjom (Bàn
Môn Điếm) nhưng hội nghị bị đổ vỡ vào tháng 12. Lúc đó, tại hội nghị các ngoại
trưởng ở Berlin tháng 2 năm 1954 mọi người quyết định rằng một hội nghị phải được
triệu tập ở Geneva để tìm kiếm một giải pháp hòa bình cho vấn đề Triều Tiên.
Tháng 4 năm 1954, hội nghị Geneva tổ chức, 16 nước hội viên Liên Hiệp Quốc
dã gửi quân tới Triều Tiên tham dự cùng với Nam Triều Tiên, Bắc Triều Tiên, Trung
Quốc và Liên Bang Xô Viết. Tuy nhiên, hội nghị sụp đổ khi Bắc Triều Tiên và các
đồng minh từ chối công nhận thẩm quyền và khả năng của Liên Hiệp Quốc trong
việc giải quyết vấn đề Triều Tiên. Bắc Triều Tiên bác bỏ đề nghị do Liên Hiệp Quốc
đưa ra là lực lượng Liên Hiệp Quốc vẫn còn ở Triều Tiên cho tới khi nhiệm vụ Liên
Hiệp Quốc được hoàn thành bằng việc tạo Lập một Triều Tiên thông nhất, độc lập
và dân chủ. https://giaoan.org/

9

Khi không đạt được thỏa thuận nào về vấn đề Triều Tiên ở Geneva, 16 nước
tham chiến ở Triều Tiên ra tuyên ngôn tuyên bố rằng Liên Hiệp Quốc được toàn
quyền hành động tập thể để đấy lùi sự tấn công, phục hồi hòa bình và an ninh, mở
rộng sự giúp đỡ để tìm kiếm giải quyết hòa bình ở Triều Tiên. Các nước còn tuyên
bố thêm là, các cuộc bầu cử tự do thực sự sẽ được tổ chức dưới sự giám sát của Liên
Hiệp Quốc để thành lập một quốc hội chung cho cả Triều Tiên, trong đó người đại
diện sẽ tương ứng trực tiếp với dân số bản xứ ở miền bắc và miền nam.
Khi hội nghị Geneva giải tán vào tháng sáu, dù có tuyên ngôn của 16 nước,
miễn cưỡng chấp nhận ngừng bắn, nhưng tổng thống Rhee biểu lộ ước muốn của
ông là cuộc chiến tranh thống nhất Triều Tiên tiếp tục lại. Tuy nhiên, Đại hội đồng
Liên Hiệp Quốc thông qua một nghị quyết tháng 11 năm 1955 tuyên bố sự đình chiến
sẽ có hiệu lực cho tới khi một hiệp định giải quyết vấn đề hòa bình Triều Tiên được
thay thế. Do đó, vấn đề thống nhất được hoãn lại vô thời hạn.
Chiến tranh Triều Tiên gây ra nhiều thiệt hại về người cũng như tài sản:
157.500 người Mỹ thương vong, kể cả 33.625 người chết; số thương vong của quân
đội Liên Hiệp Quốc là 14.000 (3.188 người chết); và 225.784 binh sĩ Nam Triều
Tiên bị giết chết, 717.037 người bị thương, và 43.572 người mất tích. Khoảng
244.663 thường dân Nam Triều Tiên bị giết chết, trên 229.000 người bị thương và
387.744 được liệt kê là mất tích và 84.523 người nữa bị bắt làm tù nhân ở Bắc Triều
Tiên. Thủ đô Seoul hoàn toàn bị tiêu hủy và nhiều thành phố lớn khác bị hủy diệt
tương tự. Thực tế của cuộc chiến tranh tàn phá này sẽ sớm được người Mỹ ở trong
nước biết rõ khi các chuyến không vận (máy bay vận chuyên) nhiều trẻ sơ sinh và
trẻ em mồ côi được các gia đình người Mỹ nhận làm con nuôi sau này bắt đầu đến
Mỹ.
Thương vong về phía bộ đội Bắc Triều Tiên là 294.151 người chết, 229.849
người bị thương, và 91.206 người mất tích. Số thương vong thương dân Bắc Triều
Tiên là 406.000 người chết, 1.594.000 người bị thương, và 680.000 người mất tích.
Ngoài ra, 184.128 bộ đội Trung Quốc bị giết chết, 711.872 người bị thương, và
21.836 người được liệt kê là mất tích. Đa số các thành phố lớn của Bắc Triều Tiên
kể cả Pyongyang (Bình Nhưỡng), các nhà máy công nghiệp, các thiết bị thủy điện,
và hệ thống vận tải đường sắt hoặc bị tiêu hủy hoặc bị thiệt hại nặng.
Chiến tranh Bắc Triều Tiên tiến hành để thống nhất đất nước bằng vũ lực đã
không đạt được mục tiêu của nó. Chiến tranh chỉ gây ra cho con người sự đau khổ https://giaoan.org/

10

khủng khiếp và mất mát tài sản. Chiến tranh đã để lại phía sau sự bât lợi cho các nỗ
lực thông nhất vùng đất bị chia cắt sau này.


Vĩ tuyến 38 là ranh giới chia cắt bán đảo Triều Tiên thành hai quốc gia là CHDCND
Triều Tiên và Cộng hòa Triều Tiên (Hàn Quốc) từ sau cuộc chiến tranh Triều Tiên
1950 - 1953. Tại đây đang tồn tại một giới tuyến quân sự và cả một bức tường ngăn
cách hai miền còn đồ sộ hơn cả bức tường Berlin ở nước Đức trước đây.



V. Bắc Triều Tiên sau chiến tranh 1953
Sau năm 1953 Bắc Triều Tiên phải đối phó với nhiều vấn dề. Ngoài tái thiết https://giaoan.org/

11

kinh tế và xã hội ra, đối với Kim II - sung (Kim Nhật Thành) bốn nhiệm vụ khẩn cấp
nhất là cúng cố lại chính quyền, xây dựng lại đảng, phục hồi kinh tế và củng cố quân
đội.
Dù có những trở ngại hình như không thể vượt qua được, nhưng với sự giúp đỡ
của Liên Bang Xô Viết, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác, các nhà
lãnh đạo Bắc Triều Tiên đã xây dựng lại cơ sở chính trị và phát triển kinh tế khi họ
biến đôi Bắc Triều Tiên thành một nhà nước xã hội chủ nghĩa có tổ chức cao.
1. Phát triển chính trị và quân sự
Cấu trúc chính trị của Bắc Triều Tiên vẫn giống như vậy, nhưng số tỉnh tăng
lên do lập ra hai tỉnh mới là Chagang và Yanggang. Tỉnh Hwanghae (Hoàng Hải
đạo) phân chia thành nam và bắc, mở rộng tỉnh Kangwon (Giang Nguyên đạo) để
bao gồm thành phố Wonsan (Nguyên Sơn) ở tỉnh Nam Hamgyõng (Hàm Kính đạo)
khi thị xã (Provincial capital) của nó trở thành tổng số chín tỉnh, giống như ở Nam
Triều Tiên sau sự kiện này, Ch'õngjin (Thanh Tân) và Hamhũng (Hàm Hưng) được
nâng lên cấp thành phố đặc biệt, trong khi Kaesõng và Namp'o được chọn làm khu
vực thành phố đặc biệt.
Tháng 8 năm 1957, các cuộc bầu cử SPA lần đầu tiên sau chiến tranh được tổ
chức, 215 đại biêu được bầu. Lúc bắt đầu, mỗi đại biểu đại diện cho 50.000 cử tri,
nhưng từ năm 1962 mỗi đại biểu đại diện cho 30.000 cử tri, tăng thêm số đại biểu.
Tháng 12 năm 1972, SPA thông qua một hiến pháp "Xã hội Chủ nghĩa" mới, lập ra
chức chủ tịch và phó chủ tịch, bầu Kim Il-sung (Kim Nhật Thành) là chủ tịch. Đồng
thời, hiến pháp mới hạ thấp tuổi đi bầu từ 18 tuổi xuống 17 tuổi và đặt tên Pyongyang
là thủ đô của nước. Với dân số tăng, số đại biếu tăng lên 687 khi cuộc bầu cử SPA
lần thư chín được tô chức vào tháng 4 năm 1990.
Việc xây dựng lại KWP dần dần được hoàn thành. Trong chiến tranh, số đảng
viên từ trên 1 triệu giảm xuống dưới 600.000. Tuy nhiên, tiến trình tuyển thêm được
đẩy nhanh dẫn đến số đảng viên tăng lên 1,6 triệu (năm 1971) và trên 2, 5 triệu một
chút (năm 1989) làm cho đảng Cộng sản Bắc Triều Tiên trở thành một đảng Cộng
sản lớn nhất thế giới tính theo mỗi đầu người. Năm 1989 dân sô Bắc Triều Tiên là
21,4 triệu.
Năm 1989, năm thành viên trong ủy ban thường trực thuộc Bộ chính trị có 15
thành viên và thuộc ủy ban trung ương KWP gồm 145 thành viên được thành lập, là
cơ quan hoạch định chính sách tối cao của nước với Kim Il-sung làm chủ tịch. Con
trai của ông (Kim Jõng-il) được chuẩn bị làm người kế vị cha mình, được bầu làm https://giaoan.org/

12

thành viên của ủy ban có quyền lực lớn này cũng như làm thành viên của Ủy ban
quân sự mà Kim Il-sung cũng là chủ tịch.
Chính trị phát triển đáng kể nhất là củng cố chế độ của Kim Il-sung. Kim Il-
sung đã thanh trừng một số tướng lĩnh, kể cả Mu Chõng vào tháng 12 năm 1950 vì
họ không tiếp quản được Nam Triều Tiên. Sau chiến tranh, Kim Il-sung buộc tội phó
thủ tướng kiêm ngoại trưởng Pak Hon-yõng (Phác Hiến Vĩnh) và các cựu Lãnh tụ
khác của đảng Công nhân Nam Triều Tiên. Pak bị buộc tội cụ thể là "gián điệp Mỹ"
và những người khác bị tố cáo có âm mưu lật đổ sự lãnh đạo của Kim Il-sung. Tiếp
theo sự kiện này, Kim Il-sung thanh trừng một số lớn những người theo Pak. Tháng
12 năm 1955, việc xử tử Pak được thông báo.


Năm 1955, Kim I1-sung (Kim Nhật Thành) đưa vào cái ông gọi là ý thức hệ
chuch'e (juche). Chuch'e có nghĩa là sự tự trị, sự độc lập, hay sự tự lực. Kim Il-sung
khẳng định rằng đó là "sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Mác - Lênin." Kim Il-sung
làm cho tư tưởng chuch'e của mình trở thành tính chất chính thống của chủ nghĩa Xã
Hội Triều Tiên. Ông nhấn mạnh rằng đường lối đó thích hợp nhất cho cách mạng
Triều Tiên" và các đặc điểm của Triều Tiên.
Người ta báo cáo rằng từ năm 1956 đến năm 1958, khoảng 5.500 cá nhân chống
lại đảng đã bị bắt giữ và được gửi tới "các trung tâm cải tạo", khoảng 2.500 người
bị xử tử, vả khoảng 60% đảng viên và nhân viên chính phủ bị thay thế vì không đáng
tin cậy. Do đó, năm 1961, Kim Il-sung tuyên bố rằng "các phần tử bè phái chống
đảng và ảnh hưởng ý thức hệ xấu xa đã bị trừ tiệt, và nhiệm vụ lịch sử là thống nhất
hoàn toàn phong trào Cộng sản Triều Tiên" đã được hoàn thành.
Năm 1966, Kim Il-sung bãi bỏ chức phó chủ tịch của đảng, tăng thêm quyền
hạn của chức chủ tịch Đảng mà ông đang giữ. Năm 1972, khi hiến pháp mới được
thông qua, ý thức hệ chuch'e được tuyên bố là "nguyên tắc chỉ đạo của nước Cộng
hòa". Đồng thời, Kim Il-sung trở thành chủ tịch nước Cộng hòa trong khi giữ chức
chủ tịch của đảng. Chức chủ tịch đảng được đổi tên là tổng bí thư. Đồng thời, ông
đã chuẩn bị cho em trai mình làm người kế vị mình trong thập niên 1960. Nhưng
giữa thập niên 1970, ông thay đổi ý kiến, ông chọn con trai mình (Kim Jong-il) làm
người kế vị mình.

2. Xây dựng quân đội https://giaoan.org/

13

Quân đội xây dựng lại cũng được đấy mạnh với việc chấp nhận chế độ nghĩa
vụ quân sự cường bách năm 1957. Luật cưỡng bách tòng quân quy định tất cả thanh
niên khỏe mạnh tuổi từ 18 đến 20, và tất cả lính quân dịch thi hành nghĩa vụ quân
sự trong năm hay sáu năm.
Số bộ đội của quân đội nhân dân tăng lên 678.000 (từ năm 1957 đến năm 1979)
và sau đó tăng lên 990.000 (năm 1990). Hiện thời, có 16 quân đoàn, 49 sư đoàn và
65 lữ đoàn, các quân binh chủng được trang bị 3.600 xe tăng, 2.300 xe bọc sắt, và
9.400 pháo. Năm 1990, số thủy thủ trong hải quân tăng lên 45.000 và không quân
tăng lên 80.000. Hải quân được báo cáo có 429 tàu chiến, 24 tàu ngầm, 237 tàu khác
và không quân có 840 chiến đâu cơ, 480 phi cơ hộ tống và 280 trực thăng chiến đấu.
Ngoài lực lượng quân đội chính quy ra, Bắc Triều Tiên có 6,8 triệu quân dự bị,
và một lực lượng dân quân hai triệu người (thành lập năm 1959), gồm có đàn ông
lên tới 60 tuổi và phụ nữ lên tới 40 tuổi được huân luyện quân sự cưỡng bách, tham
gia vào các cuộc diễn tập quân sự hàng năm và đột xuất để sẵn sàng tham gia chiến
đâu vào bất cứ lúc nào đã định sẵn. Từ năm 1970, tất cả học sinh trên trình độ trung
học đều được tổ chức thành Đội hồng quân thanh niên (Red Youth Guards) và được
huấn luyện quân sự cơ bản. Trong khi đó, năm 1966, tiến trình phòng thủ toàn quốc
bắt đầu khi nhiều phi trường được xây dựng và các đường hầm lớn được đào để chứa
máy bay, tàu hải quân. Một thời gian sau, quân đội Bắc Triều Tiên bắt đầu đào nhiều
đường hầm ở dưới vùng phi quân sự ngang qua giới tuyến ngừng bắn để làm các lộ
trình bí mật vào Nam Triều Tiên. Các đường hầm này dược khám phá năm 1974,
1975 và 1978. Bắc Triều Tiên không chỉ sản xuất một số lớn tên lửa Scub B sau năm
1987 mà còn thiết lập các bệ phóng tên lứa Scub dọc theo giới tuyến ngừng bắn.

3. Phát triển kinh tế và xã hội
Phục hồi và phát triển kinh tế không chỉ là nhiệm vụ cap bách nhất mà còn là
nhiệm vụ khó khăn đối với chính phủ Bắc Triều Tiên sau chiến tranh. Ước tính
khoảng 80% khả năng sản xuất của Bắc Triều Tiên bị chiến tranh tiêu hủy, nhiều
nhà máy công nghiệp và các đập thủy điện hoặc bị tiêu hủy hoặc bị thiệt hại nặng.
Sản xuất điện năng giảm còn 708.000 tấn, và xi măng 27.000 tấn năm 1953. Sản
xuất ngũ cốc giảm dưới một triệu tân trong năm đó. Dân số cũng giảm xuống còn
khoảng 7,5 triệu. . https://giaoan.org/

14

a. Phát triển kinh tế
Để tái thiết kinh tế, chế độ Bắc Triều Tiên thực hiện nhiều kế hoạch khác nhau
với sự giúp đỡ của Liên Bang Xô Viết và các nước Xã hội chủ nghĩa khác: kế hoạch
3 năm (1954 - 1956), kế hoạch 5 năm (1957 - 1961), kế hoạch 6 năm (1971 - 1976),
và hai kế hoạch 7 năm (1961 - 1967 và 1978 - 1984). Kế hoạch 3 năm (1954 - 1956)
dành để phục hồi hậu chiến, trong khi các kế hoạch theo sau nhắm đến khuếch trương
công nghiệp, đặc biệt công nghiệp nặng. Kế hoạch 7 năm lần thứ nhất (1961 - 1967)
được hoàn thành trong 10 năm, châm dứt năm 1970, vả kế hoạch 6 năm lần thứ nhất
(1971 - 1976) chấm dứt năm 1977 vì nhiều vấn đề, kể cả việc thiếu ngân quỹ và
nguyên liệu. Năm 1985, kế hoạch 7 năm lần thứ ba bắt đầu.
Trong hệ thông kinh tế bị kiểm soát chặt chẽ, kế hoạch nhà nước có hệ thống,
huy động toàn thể nhân lực, và được Liên Bang Xô Viết và các nước Xã hội chú
nghĩa khác giúp đỡ tài chánh và trợ giúp, Bắc Triều Tiên phục hồi và phát triển kinh
tế nhanh vào giữa thập niên 1960. Do đó, tổng sản lượng quốc gia (GNP) tăng tư
320 triệu đô la (năm 1953) lên 3,6 tỷ đô la (năm 1967) và lợi tức tính theo mỗi đầu
người tăng từ 41 đô la (năm 1953) lên 218 đô la (năm 1967). Trong thời kỳ này,
phần nông nghiệp trong tổng sản lượng quốc gia giảm tư 59.1% xuống 19,3% trong
khi phần công nghiệp tăng tư 23,2% lên 62,3%.
Sau năm 1967, Liên Xô giảm viện trợ, cộng với chế độ quan liêu ngày càng
tăng, kinh tế tăng trưởng chậm lại. Tuy nhiên, tổng sản lượng quốc gia đạt được 13,6
tỷ đô la vào năm 1982 với lợi tức tính theo mỗi đầu người là 736 đô la trong năm
đó. Năm 1989, tổng sản lượng quốc gia của Bắc Triều Tiên đạt đưực mức 21,1 tỷ đô
la với lợi tức tính theo mỗi đầu người là 987 đô la. Tỷ lệ tăng trưởng GNP trung bình
mỗi năm cho tới năm 1988 là 3,0% nhưng giảm xuống còn 2,4% năm 1989. Năm
1990, một học giả Liên Xô báo cáo là GNP của Bắc Triều Tiên năm 1989 thực tế là
19,5 tỷ đô la với lợi tức tính theo mỗi đầu người là 400 đô la.
Để tăng sản xuất, Kim Il-sung (Kim Nhật Thành) đã hướng dẫn "tại chỗ", mở
đầu nhiều chương trình mới. Chương trình đầu tiên trong các chương trình này là
phong trào "Ngựa bay" bắt đầu năm 1955. Trong phong trào này, khoảng một triệu
công nhân được huy động và được tổ chức thành "các tổ công tác Ngựa bay" (Flying
Horse Work Teams), họ được phân cho nhiều dự án khác nhau để hướng dẫn các
công nhân địa phương. Tất cả các nông trường đều được tổ chức thành 3.843 nông
trường hợp tác xã năm 1958, châm dứt quyền sở hữu tư đất canh tác, và các đất canh
tác được lệnh làm theo "phương pháp Ch'õngsan-ri," mà Kim Il-sung phác thảo tại
nông trại hợp tác xã mẫu ở Ch'õngsan-ri, gần Pyongyang (Bình nhưỡng) năm 1960. https://giaoan.org/

15

Phương pháp này nhằm làm cho các công nhân được phân công ở các nông trường
hợp tác xã tăng sự nhiệt tình và kỹ năng kỹ thuật cũng như các nông dân, hủy bỏ chế
độ quan liêu và "chế độ đô đốc phủ" (commanderism) của các công nhân đảng viên.
Đối với các công nhân công nghiệp, tháng 12 năm 1960 Kim I1-sung giới thiệu
"Phương pháp Taean" tại một nhà máy nằm ở Taean gần Pyongyang. Phương pháp
này được cho là bản sao của “Phương pháp Ch'õngsan-ri" nhằm thúc đẩy quyền lãnh
đạo tập thể của ủy ban đảng và công nhân ở mỗi nhà máy. Tháng 2 năm 1973, ba
cuộc cách mạng (cách mạng tư tưởng, cách mạng công nghệ và cách mạng văn hóa)
được đề xướng để thúc đẩy kinh tế phát triển. Với sự kiện này, khoảng 60.000 cán
bộ trẻ chọn lọc của đảng được tổ chức thành "ba đơn vị nhỏ Cách mạng", họ được
gửi tới các nông trường và nhà máy để khuyến khích các nông dân và công nhân làm
việc tích cực hơn.
Theo kế hoạch nhà nước (ưu tiên cho phát triển công nghiệp nặng), Bắc Triều
Tiên đạt được các kết quả tăng trưởng công nghiệp một cách ấn tượng. Tỷ lệ tăng
trưởng công nghiệp trung bình hàng năm trong thời kỳ 1957 - 1961 là 36,6% nhưng
giảm xuống còn 12,8% từ giữa Thập niên 1960, và trong thập niên 1970 và thập niên
1980 tỷ lệ tăng trưởng công nghiệp trung bình hàng năm giảm thêm nữa. Tuy nhiên,
từ năm 1954 - 1979, sản xuất điện năng tăng lên 40 triệu Kwh, sản xuất than tăng
lên 65 triệu tấn, xi măng tăng 8,8 triệu tấn, và phân bón hóa học tăng 4,5 triệu tấn
năm 1979. Sau năm 1979, Bắc Triều Tiên ngưng xuất bản các báo cáo chi tiết về
tăng trưởng kinh tế, và khó đánh giá chính xác sự phát triển kinh tế sau năm đó. Tuy
nhiên, người ta báo cáo là năm 1989, Bắc Triều Tiên sản xuất 55,5 triệu kwh điện
khí, 85 triệu tấn than, 7 triệu tấn thép, 13,5 triệu tấn xi măng và 5,6 triệu tấn phân
hóa học. Trong khi đó, từ năm 1953 - 1979, số công nhân công nghiệp tăng từ
524.000 lên 1,5 triệu. Vì nhấn mạnh đến phát triển công nghiệp nặng, phát triển công
nghiệp nhẹ tụt lại xa phía sau, làm cho hàng hóa hàng ngày thiếu hụt nghiêm trọng
và hạ thấp tiêu chuẩn sống. Tất cả các hàng hóa không cơ bản (như xà phòng, khăn
tắm, giày và quần áo) bị hạn chế, giá hàng hóa không được phân phối theo quy định
(như viết, máy thu thanh, và xe đạp) quá cao, công nhân trung bình không thể mua
sắm được.
Đốì với Bắc Triều Tiên, lương thực đầy đủ là một nhiệm vụ vĩ đại. Dù có nhiều
khu vực trồng lúa ở phía tây, nhưng Bắc Triều Tiên canh tác phần lớn là cây kê và
khoai tây, lệ thuộc nhiều vào nguồn cung cấp gạo từ miền nam trước năm 1945. Sau
chiến tranh Triều Tiên, các vùng phía đông trở thành các khu vực trồng bắp, trong https://giaoan.org/

16

khi các khu vực Hwangju (Hoàng Châu) và Sariwon vẫn còn là một vùng trồng trái
cây với táo là vụ chính.
Để tăng sản xuất gạo, Bắc Triều Tiên thực hiện các dự án khai hoang nhiều
tham vọng, biến đổi các vùng bằng phẳng chịu ảnh hưởng của thủy triều và các đồi
thấp thành những khu vực trồng lương thực. Các nhà trong nông trường được xây
dựng lại trên các sườn đồi cách xa ruộng lúa để tăng diện tích trồng lúa. Sản xuất
phân bón hóa học bắt đầu năm 1956, với việc tái thiết nhà máy phân bón hóa học ở
Hũngnam (Hưng Nam).
Chính phủ Bắc Triều Tiên thông báo số lượng ngũ cốc sản xuất tăng tăng từ
2,3 triệu tấn (năm 1954) lên 9 triệu tấn (năm 1979). Các nguồn tin tức độc lập khác
ước tính số lượng ngũ cốc thực sự sản xuất ở Bắc Triều Tiên năm 1979 không hơn
4,9 triệu tấn. Trong số này, 2,4 triệu tấn là gạo và phần còn lại là bắp. Năm 1989, số
lượng sản xuất ngũ cốc thực sự của Bắc Triều Tiên khoảng 4,9 triệu tấn, do hạn hán
và lũ lụt của bốn năm trước. Trong số này, 2,2 triệu tấn là gạo và 2,7 triệu tấn là bắp.
Do đó, lương thực tiếp tục thiếu hụt trầm trọng khi dân số tăng từ khoảng 7,5 triệu
(năm 1954) lên 21,4 triệu (năm 1989).
Ngũ cốc thiếu kinh niên buộc Bắc Triều Tiên mua một số lượng lớn lương thực
của Liên Bang Xô Viết và Trung Quốc. Chỉ riêng thời kỳ 1970 - 1976, Bắc Triều
Tiên bỏ ra 112 triệu đô la để mua ngũ cốc ở nước ngoài. Trong tình hình như thế,
lương thực được phân phối hạn chế cho cá nhân theo tuổi tác và loại công việc mà
người đó làm: công nhân công nghiệp được nhiều hơn, trong khi người già và trẻ em
được ít hơn. Số ngũ cốc được chia theo khẩu phần, 25% là gạo và 75% là bắp.
Thương mại theo đúng nghĩa không tồn tại ở Bắc Triều Tiên, tất cả các cửa
hàng đều do chính phủ quản lý. Không được phép có doanh nghiệp tư nhân kể cả
nhà hàng. Tất cả các căn hộ và nhà ở trong nông trường đều thuộc quyền sở hữu của
chính phủ, và tiền thuê thấp không thể tin được; tiền thuê mỗi tháng của một căn hộ
có một phòng ngủ, một nhà bếp, và một phòng tắm cho một công nhân trung bình là
2,50 đô la mỗi tháng, cộng với vật dụng (khoảng 4 đô la). Tuy nhiên, lương của công
nhân cũng thấp. Kể từ năm 1989, tiền lương trung bình của một công nhân nhà máy
khoảng 90 đô la mỗi tháng, tiền lương của bác sĩ y khoa và giáo sư đại học khoảng
185 đô la mỗi tháng.
Theo các nhà lãnh đạo Bắc Triều Tiên, việc đánh thuế bị bãi bỏ, nhưng người
dân có thu nhập được "khuyến khích" quyên tặng cho chính phú vì nhiều mục đích, https://giaoan.org/

17

và dành dụm càng nhiều càng tốt "để trợ giúp tài chính cho nhân dân Nam Triều
Tiên" sau này.
Các nông dân trong các nông trường hợp tác xã giao sản phẩm của mình cho
chính phủ và nhận dược một phần thu họach nào đó cũng như số tiền trả cho ngũ cốc
và các mặt hàng khác mà họ sản xuất. Tât cả nông dân bị ràng buộc vào nông trường
tập thể như tất cả công nhân nhà máy bị ràng buộc vào nhà máy của mình. Chỉ sau
khi được chính quyền cho phép, họ mới có thể đổi nghề. Nhưng hầu như không thể
có được sự cho phép đó.
Vấn đề kinh tế gây rắc rối nhiều nhất của Bắc Triều Tiên là thiếu hụt mậu dịch
kinh niên. Chi tiêu khoảng 35% ngân quỹ quốc gia hàng năm cho quân đội, và có ít
hảng hóa xuất khấu, các khoản nợ của Bắc Triều Tiên với các nước Xã hội chủ nghĩa
(là các đối tác kinh doanh chính của Bắc Triều Tiên) tăng đều đặn. Ví dụ, năm 1975
khôi lượng hàng xuất khẩu của Bắc Triều Tiên là $400 triệu so với khối lượng hàng
nhập khẩu là 1.075 triệu đô la. Năm 1970, sau khi Bcắc Triều Tiên thiết lập quan hệ
thương mại với Nhật Bản và một vài nước không theo Xã hội chủ nghĩa khác (Nam
Triều Tiên và Mỹ không có quan hệ thương mại bình thường với Bắc Triều Tiên kể
từ năm 1990), tình hình trở nên tồi tệ hơn. Năm 1989, khối lượng hàng nhập khẩu
của Bắc Triều Tiên đã tăng lên 2,5 tỷ đô la trong khi khối lượng hàng xuất khẩu chỉ
lên đến 1.559 triệu đô la. Do đó, năm 1979, Bắc Triều Tiên trở thành quốc gia Xã
Hội chủ nghĩa đầu tiên không trả được nợ nước ngoài, kết quả là tín dụng phương
Tây bị cắt bớt nghiêm trọng. Năm 1979, Bắc Triều Tiên ký một hợp đồng với Nhật,
sắp xếp lại việc trả nợ quá khứ trong 10 năm, bắt đầu năm 1980, nhưng năm 1983,
lại không thể trả nửa năm một lần, Bắc Triều Tiên tiếp xúc với Nhật để hoãn trả tiền
vốn nợ, và ký một hợp đồng khác với Nhật, hoãn trả nợ cho tới năm 1986. Tuy nhiên,
Bắc Triều Tiên không thể giữ lời hứa vào năm 1986.
Năm 1984, Bắc Triều Tiên đề xướng liên doanh với một số nước tư bản. Đồng
thời, "doanh nghiệp tư nhân" được cho phép hoạt động, nhưng năm 1989 du khách
báo cáo không thấy cửa hàng hay doanh nghiệp tư nhân nào theo đúng nghĩa.
Tình trạng kinh tế trở nên xấu hơn trong những năm gần đây. Theo nguồn tin
của Nhật Bản, ngoại thương của Bắc Triều Tiên giảm khoảng 10% (năm 1989), tình
hình không thể được cải thiện vì nợ chưa thanh toán và các nước Xã hội chủ nghĩa
chuyển đổi sang ngoại tệ mạnh. Năm 1989, khối lượng hàng xuất khẩu của Bắc Triều
Tiên là 1,6 tỷ đô la thấp hơn năm trước 6,6%, và khối lượng hàng nhập khẩu của https://giaoan.org/

18

Bắc Triều Tiên là 2,5 tỷ đô la cũng thấp hơn năm trước 12,1%. Khối lượng hàng
xuất khẩu của Bắc Triều Tiên sang Trung Quốc giảm khoảng 20,7% còn 185 triệu
đô la và khối lượng hàng nhập khẩu của Bắc Triều Tiên tăng khoảng 9,3% lên 377
triệu đô la. Mậu dịch của Bắc Triều Tiên thiếu hụt năm 1989 là 900 triệu đô la, và
nợ nước ngoài của Bắc Triều Tiên năm 1989 được ước tính là 6,8 tỷ đô la với số tiền
nợ Liên Bang Xô Viết kể từ tháng 11 là 3,6 tỷ đô la và tiền nợ Nhật khoảng 330 triệu
đô la.
Việc Liên Xô giảm mạnh viện trợ kinh tế cộng với việc Liên Xô yêu cầu Bắc
Triều Tiên thanh toán hàng hóa mà Bắc Triều Tiên mua của Liên Bang Xô viết bằng
ngoại tệ mạnh đã làm Bắc Triều Tiên thêm khó khăn về kinh tế. Đồng thời, Trung
Quốc và Liên Bang Xô Viết giảm bán dầu và ngũ cốc cho Bắc Triều Tiên sau năm
1987 đã làm cho tình hình kinh tế càng nghiêm trọng. Nhiều báo cáo khác nhau công
bố năm 1989 và 1990 cho biết lương thực và xăng dầu thiếu hụt chưa từng có đã gây
ra những kết quả suy thoái kinh tế ở Bắc Triều Tiên.
b. Xã hội
Bắc Triều Tiên là một xã hội khép kín, được tổ chức chặt chẽ, và được đặt vào
khuôn phép ở mức độ cao với lối sống khổ hạnh. Các khẩu hiệu như khổ hạnh, tính
chất đồng nhất, và phục tùng phản ánh cách sống của người dân. Hiến pháp nói rõ
rằng quyền và nghĩa vụ của công dân được dựa trên nguyên tắc tập thể một người vì
mọi người và mọi người vì một người". Dù Bắc Triều Tiên là một xã hội vô giai cấp,
nhưng một nhóm người ưu tú mới, tầng lớp các viên chức đảng cấp cao có đặc quyền
đã xuất hiện ở đó.
Một số ít người nước ngoài từ "các quốc gia tự do" được phép viếng thăm Bắc
Triều Tiên vì một mục đích đặc biệt cho tới năm 1980. Sau thời gian đó, nhiều du
khách nước ngoài được phép vào Bắc Triều Tiên. Tuy nhiên, cho tới năm 1988, con
số này vẫn còn nhỏ và chỉ những người được chọn mới được phép đến các địa
phương chọn sẵn trong Bắc Triều Tiên.
Mọi người đều phải tham gia ít nhất một tổ chức xã hội (trừ người già): trẻ em
đến 13 tuổi tham gia vào Thiếu niên tiền phong Triều Tiên, thanh niên và thanh nữ
từ 14 đến 30 tuổi tham gia vào Đoàn thanh niên lao động xã hội chủ nghĩa, tất cả
phụ nữ tuổi từ 30 đến 50 thuộc về Đoàn phụ nữ dân chủ Triều Tiên. Tất cả những tổ
chức đó được xem là "đội bảo vệ danh dự và các chiến sĩ coi thường cái chết" và
"người bảo vệ đảng", và họ được yêu cầu thực hiện các mệnh lệnh của Kim Il-sung https://giaoan.org/

19

nhân danh "cách mạng Triều Tiên".
Tất cả nông dân được tổ chức thành các hội nông dân, tất cả các nhân viên văn
phòng và công nhân nhà máy được tổ chức thành các công đoàn tương ứng. Nhiều
người có nghề nghiệp khác nhau như bác sĩ, y tá, giáo viên, nhà văn, nhạc sĩ, họa sĩ,
diễn viên, và những nhà làm phim thuộc về các công đoàn nghề nghiệp tương ứng
của mình. Cùng với quân đội, các tổ chức và công đoàn này trở thành các công cụ
hữu ích cho đảng, đấu tranh cho ý thức hệ chuch'e và tham gia vào phong trào "Ngựa
Bay" của thập niên 1950 và thập niên 1960, phong trào ba cách mạng - tư tưởng,
công nghệ và văn hóa - của thập niên 1970.
Các phong tục xã hội truyền thống bị bãi bỏ, tất cả những ngày nghỉ truyền
thống theo mùa được thay thế bằng những ngày lễ dân tộc mới, kể cả những ngày
nghỉ như ngày nghỉ sinh nhật của Kim Il-sung và con trai của ông, Kim Chong-il.
Chính phủ xem chế độ gia đình truyền thống là một di sản phong kiến. Tất cả
trẻ em được dạy phải xem Kim Il-sung là "người cha của dân tộc". Đồng thời, nhà
nước đảm nhận việc nuôi dạy con trẻ, tất cả trẻ em ba tháng tuổi tới năm tuổi được
nuôi dưỡng ở nhà trẻ hay trường mẫu giáo do nhà nước quản lý theo luật chăm sóc
và giáo dục trẻ em năm 1976. Năm 1981, khoảng 60.000 nhà trẻ và trường mẫu giáo
như thế được thành lập để chứa khoảng 3,5 triệu trẻ em. Trong hệ thống này, ở những
năm hình thành nhân cách, trẻ em được truyền bá ý thức hệ clinch's để trung thành
với Kim Il-sung và trở thành một "con người Xã hội chủ nghĩa".
Nhà nước quy định tuổi hôn nhân hợp pháp của đàn ông ở tuổi 30 và phụ nữ ở
tuổi 27. Các lễ cưới được đơn giản hóa, các lễ tang cũng vậy (theo truyền thống bị
coi là phức tạp và tốn tiền). Những tập tục thờ cúng tổ tiên truyền thống không bị
cấm, nhưng mọi người phải thay đổi phong tục phong kiến và lạc hậu.
Về phát triển kinh tế, tổng số km đường sắt của Bắc Triều Tiên tăng lên
4.312km năm 1989. Đa số đường sắt chỉ có một đường ray, trong khi một số dường
sắt được điện khí hóa. Hai tuyến đường sắt mới được xây dựng sau năm 1954 là
tuyến phía nam nối Sariwon với Wonsan (Nguyên Sơn) qua Sep'o, và tuyến phía bắc
từ Kanggye (Giang Khê) tới Hyesan. Trong khoảng 19.308km đường bộ, chỉ có
469,8km là các xa lộ hiện đại. Đa số mọi người chỉcó thể sử dụng vận tải công cộng
vì quyền sở hữu xe ô tô tư hầu như không thể có được. https://giaoan.org/

20

Công trình xã hội của Bắc Triều Tiên bao hàm đô thị hóa và tái thiết nông thôn.
Các đường phố mới và các căn hộ của công nhân được xây dựng, điện khí hóa được
thực hiện. Trong khi đó, tên của nhiều thành phố được thay dổi. Ví dụ, các thành
phố công nghiệp như Songjin ở tỉnh Bắc Hamgyõng (Bắc Hàm Kính đạo) trở thành
Kimch'aek, Chin-namp'o ở tỉnh Nam Pyong'an (Nam Bình An) được đổi tên là
Namp'o, và Kyomip'o, một thị trấn ở tỉnh Bắc Hwanghae (Bắc Hoàng Hải đạo) được
đổi tên là Songnim. Hai thành phố Hamhủng (Hàm Hưng) và Hũngnam (Hưng Nam)
được sáp nhập thành một trung tâm công nghiệp lớn.
Ngoài việc di chuyển các nhà ở trong nông trường từ ruộng lúa đến sườn đồi
để mở rộng diện tích trồng lúa, còn xây dựng các con đường mới, nhà mới cho nông
dân cùng với nhà trẻ, trường mẫu giáo,trường học và các cung văn hóa của nhân dân.
Chính phủ Bắc Triều Tiên khuyến khích tăng dân số cho tới giữa thập niên
1960, nhưng sau đó chính phủ ngăn cản do thiếu lương thực. Để đạt được mục đích
này, chính phủ ấn định tuổi kết hôn hợp pháp tối thiểu và khuyến khích các cặp vợ
chồng chỉ có hai con hay ít hơn. Kết quả, tỷ lệ tăng dân số hàng năm là 3,5% giảm
xuống còn 2,5% (năm 1980), và tỷ lệ tăng dân số hàng năm giảm thêm nữa còn
1,67% (vào năm 1989). Dân số Bắc Triều Tiên khoảng 7,5 triệu (năm 1953) đã tăng
lên 18,5 triệu (vào năm 1982), và năm 1990 dân số đạt mức 23 triệu. Khoảng 60%
dân số tập trung ở các vùng duyên hải phía tây.
4. Thay đổi văn hóa và giáo dục
Triết lý giáo dục và nội dung, hình thức văn hóa của Bắc Triều Tiên được cách
mạng hóa phù hợp với tính cách của Bắc Triều Tiên. Điều 36 của hiến pháp năm
1972 nói rõ nhà nước "xây dựng một nền văn hóa cách mạng thực sự của nhân dân,
phục vụ nhân dân lao động xã hội chủ nghĩa", và điều 39 trong hiến pháp đó nói rõ
"nhà nước thi hành các nguyên tắc sư phạm xã hội chủ nghĩa và giáo dục thế hệ đang
lớn trở thành những nhà cách mạng kiên định tranh đấu cho xã hội và nhân dân, là
những người Xã Hội chủ nghĩa mới ..."
Năm 1958, Kim Il-sung tuyên bố sáu mục tiêu giáo dục sau đây:
(1) Giáo dục nhân dân biết tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản đối với chủ nghĩa tư bản.
(2) thức đẩy nhân dân nhận thức rằng một tương lai tốt đẹp hơn sẽ và có thể
được xây dựng qua nỗ lực của con người. https://giaoan.org/

21

(3) Loại trừ chủ nghĩa cá nhân và tính ích kỷ.
(4) Thúc đẩy lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa quốc tế vô sản, (5)
trau dồi tinh thần yêu lao động.
(6) Dạy nhân dân ý thức hệ cách mạng về cuộc cách mạng liên tục và cải cách
văn hóa vì sự tiến bộ.
Theo triết lý và mục đích đó, chế độ giáo dục mới và khoa sư phạm được thành
lập. Năm 1954, chế độ học mới theo chương trình học 4 - 3 - 3 - 4 thay thế chế độ
học trước đây theo chương trình 5 - 3 - 3 - 4. Năm 1958, chế độ giáo dục tiểu học
phổ cập bốn năm được thực hiện. Sau khi thay thế chế độ học cấp ba, ba năm (năm
1959) bằng chế độ học kỹ thuật cấp hai hai năm và học kỹ thuật cấp ba hai năm (năm
1960), chế độ giáo dục chín năm (học tiểu học qua học kỹ thuật) được thực hiện.
Tuy nhiên, trong thời gian từ năm 1960 đến năm 1972, chế độ học theo chương trình
4-5-4 được thực hiện. Năm 1973, trường trung học trở thành trường học theo chương
trình bốn năm, kéo dài thời gian học trung học lên 6 năm và năm 1975 chương trình
giáo dục bắt buộc, phổ thông 11 năm, kể cả chương trình dự bị một năm, được khởi
đầu. Tất cả các trường ở Bắc Triều Tiên đều được miễn học phí.
Ngoài cơ sở giáo dục đại học Kim Il-sung hàng đầu trong nước ra, nhiều trường
đại học, cao đẳng kỹ thuật và chuyên ngành được thành lập khắp nước. Đa số các
trường đại học và cao đẳng là các cơ sở nhà nước, nhưng một sô trường cao đẳng
thuộc tỉnh cũng được thành lập. Chỉ những người tốt nghiệp trung học được tuyển
chọn mới có đặc quyền học ở những cơ sở giáo dục đại học này. Trong khi đó, sau
năm 1960 nhiều "trường cao đẳng nhà máy" được thành lập, dạy nghề cho thanh
niên lao động ở nơi làm việc. Các trường làng được thành lập để dạy nhân dân cách
đọc và viết, nâng tỉ lệ người biết chữ lên trên 90% vào năm 1989.
Năm 1988, có khoảng 4.700 trường tiểu học, 4.100 trường trung học, 600
trường kỹ thuật câp ba và 168 trường cao đẳng và đại học. Ngoài các trường đại học
ra, còn có các cơ sở học thuật cao nhất ở trong nước là Học viện khoa học và Học
viện khoa học xã hội. Sau năm 1960, nhiều học viện về các lãnh vực kinh tế chuyên
ngành và các viện nghiên cứu khác cũng được thành lập.
5. Văn hóa và cách mạng
Một nền văn hóa xã hội chủ nghĩa do Đảng duy trì và kiểm soát đã xuất hiện ở https://giaoan.org/

22

Bắc Triều Tiên. Mục đích chính của Đảng là làm cho tất cả các hình thức văn học
và nghệ thuật phản ánh chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, hay lòng trung thành
Đảng. Kết quả, quan niệm "nghệ thuật vị nghệ thuật" bị loại bỏ hoàn toàn, Đảng
nhấn mạnh đến việc loại bỏ những tư tưởng cũ và văn hóa cũ.
Xem tôn giáo là "kẻ thù của khoa học và tiến bộ", Đảng xóa bỏ tất cả các tôn
giáo đã được củng cố, buộc tất cả các giáo sĩ và các nhà sư tham gia lực lượng lao
động. Tât cả các công trình xây dựng nhà thờ đều bị giật đổ, hầu như chỉ có một vài
đền thờ Phật giáo nổi tiếng trong lịch sử được duy trì. Chỉ sau năm 1984, chính phủ
Bắc Triều Tiên cho phép người dân tổ chức các cuộc họp tôn giáo, nhưng không
được phép thu phục tín đồ. Năm 1989, có khoảng 10.000 tín đồ Ki tô giáo và 10.000
tín đồ đạo Phật, khoảng 500 nhà được dùng tổ chức các cuộc họp của Ki tô giáo.
Tuy nhiên, chỉ khoảng 50 cá nhân được chính quyền chứng nhận, báo cáo đã tiến
hành các buổi lễ tôn giáo. Đa số những người đi "nhà thờ" được báo cáo là những
người trên 50 tuổi.
Tất cả các báo và tạp chí của Triều Tiên được đảng Công nhân Triều Tiên,
hoặc chính phủ hay cơ quan của chính phủ xuất bản, và không có một tờ báo hay tạp
chí nước ngoài nào được bán ở Bắc Triều Tiên. Các tờ báo lớn là Nhật báo Công
nhân (Rodong Shinmnn) và một tờ báo bằng tiếng Anh, Thời báo Bình Nhưỡng
(Pyongyang Times). Nhà Xuât bản Ngoại văn ở Pyongyang (Bình Nhưỡng) là một
cơ quan do nhà nước sở hữu và quản lý, là nhà xuất bản sách ngoại ngữ duy nhất.
Tất cả hệ thống phát thanh và truyền hình được nhà nước quản lý, và tần số
phát thanh được Đảng kiểm soát nghiêm nhặt. Không có phát thanh hay truyền hình
nước ngoài nào được phép xem hay nghe, và không có phim nước ngoài nào được
trình chiếu trừ những phim của Liên Bang Xô Viết và Trung Quốc.
Sau khi loại bỏ các bài dân ca truyền thông, các bài hát và điệu múa khácchính
phủ chỉ cho phép ca hát các bài hát mang âm hưởng cách mạng, những bài ca đó
tuyên dương và ca ngợi các thành quả của "nhà lãnh đạo vĩ đại Kim Il-sung" và
những người thân thuộc của ông. Một số bài ca được đề tặng cho "những chiến công
anh hùng" của ông, nhiều nhạc kịch và phim ảnh được sản xuất để ca ngợi ông, các
chiến sĩ dân quân, các cán bộ Đảng, và các anh hùng của Quân đội Nhân dân. Trong
số khoảng 300 bài ca của Bắc Triều Tiên có 80% bài ca ngợi Kim Il-sung. Các bài
hát thậm chí còn đổi tên các loài hoa nào đó thành "hoa Kim Il-sung" và "hoa Kim
Jong-il". https://giaoan.org/

23

Hội họa và văn học truyền thống cũng bị loại bỏ, chỉ hội họa và văn học nào
khơi dậy tinh thần cách mạng và ý thức xã hội chủ nghĩa mới được phép đưa ra. Do
đó, tất cả tranh, tiểu thuyết, truyện của Bắc Triều Tiên đều liên quan đến các hoạt
động cách mạng của Kim Il-sung, các chiến sĩ dân quân, cán bộ đảng, binh sĩ quân
đội nhân dân trước và trong chiến tranh Triều Tiên. Không có bài hát hay vở kịch
nước ngoài nào được du nhập vào quốc gia này, trừ những bài hát và kịch do những
hoạt động cách mạng của nhân dân Liên Xô và nhân dân Trung Quốc truyền cám
hứng.
Chính phủ bỏ việc sử dụng chữ Trung Quốc và xuất bản tất cả tài liệu in chỉ
bằng chư Hàn. Dưới sự lãnh đạo của Kim Il-sung và đảng Công nhân Triều Tiên,
phân nửa phía bắc của Triều Tiên trở thành một nhà nước Bắc Triều Tiên với hệ
thống chính trị, xã hội, kinh tế và văn hóa hoàn toàn khác với hệ thống của miền
nam.
Kể từ năm 1990, Kim Il-sung (con trai của ông là Kim Jong-il) cùng với những
người bà con thân thuộc, kiểm soát vững chắc quốc gia. Kim Il-sung hiện là chủ tịch
nước (được bầu lại năm 1990) và chủ tịch của Hội đồng quốc phòng, Tổng bí thư
đảng Công nhân Triều Tiên và chủ tịch của Ủy ban thường trực gồm năm người, chủ
tịch của Bộ chính trị gồm 15 người cũng như chủ tịch của ủy ban nhân dân trung
ương, và thành viên của nhóm cầm quyền thuộc Hội đồng nhân dân tối cao. Kim
Jong-il (người thừa kế hiển nhiên của cha mình) là phó chủ tịch thứ nhất của Hội
đồng quốc phòng, thành viên của ủy ban thường trực bộ chính trị, thành viên của
nhóm cầm quyền thuộc Hội đồng nhân dân tối cao và một trong những bí thư của
Đảng. Vợ của Kim 11-sung (Kim Chống - ae) là chủ tịch của Đoàn phụ nữ dân chủ
Triều Tiên và thành viên của Hội đồng nhân dân tối cao.
Phó chủ tịch Pak Sõng-ch'õl (con rể của nguyên cựu phó chủ tịch Kang Yang-
uk) cũng là thành viên của ủy ban nhân dân trung ương. Hõ Tam (Hồ Tam), chồng
quá cố của em họ Kim Il-sung vốn là ngoại trưởng trong một thời gian dài, là chủ
tịch của úy ban quan hệ đối ngoại thuộc Hội đồng nhân dân tối cao. Một người thân
khác (Kim Chung-lin) là một trong 12 bí thư đảng. Dù tướng O Chin-U, một đồng
chí cũ của Kim Il-sung thuộc thời dân quân kháng chiến ủng hộ Kim Jong-il, đã dời
khỏi ủy ban nhân dân trung ương tháng 6 năm 1990, nhưng ông giữ lại chức bộ
trưởng quốc phòng, và thành viên trong ủy ban thường trực gồm năm người thuộc
Bộ chính trị cũng như thành viên trong Hội đồng nhân dân tồi cao. https://giaoan.org/

24

Ban cấp nguyên soái (marshal) cho Kim Jong-il vào tháng 8 năm 1991. Sau đó,
thay thế cha ông làm chỉ huy tối cao các lực lượng vũ trang Bắc Triều Tiên (tháng
12) khiến cho nhiều người suy đoán rằng Kim Il-sung sẽ từ chức và con trai ông sẽ
kế vị cha mình làm Tổng bí thư của đảng Công nhân Triều Tiên và chú tịch DPRK
mùa xuân năm 1992. Nhưng những thay đổi đó đã không xảy ra khi Bắc Triều Tiên
ăn mừng ngày sinh thứ 50 của Kim jong-il vào tháng hai và sinh nhật thứ 80 của
Kim Il-sung tháng 4 năm 1992. Tuy nhiên, những thay đổi này củng cố địa vị người
thừa kế hiển nhiên của Kim Jõng-il đồng thời củng cố việc kiểm soát của ông đối
với nhà nước. Trong khi đó, em Kim Il-sung tái xuất hiện vào tháng 8 năm 1993 trên
sân khấn chính trị sau khoảng 17 năm vắng mặt, và việc bầu ông làm thành viên
thường trực của Bộ chính trị thuộc úy ban trung ương của đảng Công nhân Triều
Tiên cùng với việc bổ nhiệm ông làm phó chú tịch nhà nước hình như đã phục hồi
sự đoàn kết gia đình của Kim Il-sung và củng cố nền móng của triều đại Kim.
Tình hình kinh tế Bắc Triều Tiên tiếp tục trở nên xấu hơn sau khi Liên Bang
Xô Viết (viện trợ chính của Bắc Triều Tiên trong nhiều thập niên) sụp đổ năm 1990.
Năm 1989, tăng trưởng GNP của Bắc Triều Tiên là 2,4% nhưng giảm xuống - 3,7%
(năm 1990), - 5,2% (năm 1991), và - 7,6% (năm 1992). GNP của Bắc Triều Tiên
năm 1992 chỉ là 23,3 tỷ đô la với tổng sản lượng quốc gia trên mỗi đầu người là
1.000 đô la. Sản xuất ngũ cốc của Bắc Triều Tiên giảm từ 4,8 triệu tấn (năm 1990)
xuống còn 3,9 triệu tấn (năm 1993), làm cho nguồn cung cấp ngũ cốc thiếu hụt lên
hai triệu tấn. Khôi lượng ngoại thương của Bắc Triều Tiên giảm từ 4,64 tỷ đô la
(năm 1990) xuống còn 2,72 tỷ (năm 1991) với sự thiếu hụt mậu dịch là 700 triệu đô
la. Nợ nước ngoài tăng từ 7,86 tỷ đô la (năm 1990) lên 9,28 tỷ đô la (năm 1991).
Tình trạng kinh tế đó đã khiến cho đảng Công nhân Triều Tiên phải thừa nhận vào
tháng 12 năm 1993 là đảng đã không đạt được các mục tiêu của kế hoạch 7 năm lần
thứ ba (1988 - 1993).








https://giaoan.org/

25

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. https://nghiencuulichsu.com/2016/05/09/chien-tranh-trieu-tien-1950-53/

2. https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch_s%E1%BB%AD_Tri%E
1%BB%81u_Ti%C3%AAn


3. http://koreanhistory.info/NorthKoreanHistory.htm


4. http://koreanhistory.info/KimIlSungsLife.htm

5. https://asiasociety.org/education/korean -history-and-
political-geography

6. http://www.newworldencyclopedia.org/entry/History_of_Korea

7. https://web.stanford.edu/class/e297a/The%20Korean%20Peninsu
la.htm
8. http://www.academia.edu/29710476/North_Korean_Intellectuals
_and_Artists_from_Antagonism_to_Forced_Cooperation_with_the
_Workers_Party_of_Korea
9. http://www.academia.edu/Documents/in/Korean_History?page=5

10. Andrew C.Nahm: Korea : tradition & transformation : a history of the Korean people,
Hollym.














https://giaoan.org/