LVTS_Chuyển Giá Của Các Công Ty Đa Quốc Gia Trong Giai Đoạn Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế

hoangvanminh10031995 14 views 121 slides Dec 26, 2024
Slide 1
Slide 1 of 121
Slide 1
1
Slide 2
2
Slide 3
3
Slide 4
4
Slide 5
5
Slide 6
6
Slide 7
7
Slide 8
8
Slide 9
9
Slide 10
10
Slide 11
11
Slide 12
12
Slide 13
13
Slide 14
14
Slide 15
15
Slide 16
16
Slide 17
17
Slide 18
18
Slide 19
19
Slide 20
20
Slide 21
21
Slide 22
22
Slide 23
23
Slide 24
24
Slide 25
25
Slide 26
26
Slide 27
27
Slide 28
28
Slide 29
29
Slide 30
30
Slide 31
31
Slide 32
32
Slide 33
33
Slide 34
34
Slide 35
35
Slide 36
36
Slide 37
37
Slide 38
38
Slide 39
39
Slide 40
40
Slide 41
41
Slide 42
42
Slide 43
43
Slide 44
44
Slide 45
45
Slide 46
46
Slide 47
47
Slide 48
48
Slide 49
49
Slide 50
50
Slide 51
51
Slide 52
52
Slide 53
53
Slide 54
54
Slide 55
55
Slide 56
56
Slide 57
57
Slide 58
58
Slide 59
59
Slide 60
60
Slide 61
61
Slide 62
62
Slide 63
63
Slide 64
64
Slide 65
65
Slide 66
66
Slide 67
67
Slide 68
68
Slide 69
69
Slide 70
70
Slide 71
71
Slide 72
72
Slide 73
73
Slide 74
74
Slide 75
75
Slide 76
76
Slide 77
77
Slide 78
78
Slide 79
79
Slide 80
80
Slide 81
81
Slide 82
82
Slide 83
83
Slide 84
84
Slide 85
85
Slide 86
86
Slide 87
87
Slide 88
88
Slide 89
89
Slide 90
90
Slide 91
91
Slide 92
92
Slide 93
93
Slide 94
94
Slide 95
95
Slide 96
96
Slide 97
97
Slide 98
98
Slide 99
99
Slide 100
100
Slide 101
101
Slide 102
102
Slide 103
103
Slide 104
104
Slide 105
105
Slide 106
106
Slide 107
107
Slide 108
108
Slide 109
109
Slide 110
110
Slide 111
111
Slide 112
112
Slide 113
113
Slide 114
114
Slide 115
115
Slide 116
116
Slide 117
117
Slide 118
118
Slide 119
119
Slide 120
120
Slide 121
121

About This Presentation

Luận Văn Uy Tín viết thuê luận văn thạc sĩ - tốt nghiệp. Zalo: 0983 018 995


Slide Content

LUẬN VĂN UY TÍN
VIẾT THUÊ LUẬN VĂN THẠC SĨ – TỐT NGHIỆP
CHUYỂN GIÁ CỦA CÁC CÔNG TY ĐA QUỐC GIA
TRONG GIAI ĐOẠN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

LUẬN VĂN UY TÍN
VIẾT THUÊ LUẬN VĂN THẠC SĨ – TỐT NGHIỆP
CHUYỂN GIÁ CỦA CÁC CÔNG TY ĐA QUỐC GIA
TRONG GIAI ĐOẠN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Chuyên ngành: Kinh tế tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60.31.12
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
Tiến sĩ Trương Quang Thông

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan tất cả các nội dung của Luận văn này hoàn toàn được hình thành
và phát triển từ những quan điểm của chính cá nhân tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của
TS Trương Quang Thông. Các số liệu và kết quả trong Luận văn tốt nghiệp là hoàn toàn
trung thực.
Tác giả luận văn
Huỳnh Thiên Phú

MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ VÀ ĐỒ THỊ
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1:CÔNG TY ĐA QUỐC GIA VÀ HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIÁ ...............1
1.1Khái niệm, mục tiêu và tác động các các công ty đa quốc gia đối với nền kinh tế....1
1.1.1Khái niệm............................................................................................................1
1.1.2Mục tiêu và cơ cấu tổ chức của MNC.................................................................2
1.1.3Tác động của MNC đối với nền kinh tế..............................................................3
1.2Các nghiệp vụ mua bán nội bộ và khái niệm hoạt động chuyển giá của MNC..........6
1.2.1Các nghiệp vụ mua bán nội bộ của MNC...........................................................6
1.2.2Khái niệm hoạt động chuyển giá.........................................................................8
1.3Các yếu tố thúc đẩy MNC chuyển giá......................................................................14
1.3.1Các yếu tố thúc đẩy bên ngoài (động cơ bên ngoài).........................................14
1.3.2Các yếu tố thúc đẩy bên trong (động cơ bên trong)..........................................16
1.4Các tác động của chuyển giá....................................................................................18
1.4.1Dưới góc độ MNC.............................................................................................18
1.4.2Dưới góc độ các quốc gia liên quan..................................................................19
1.5Kinh nghiệm chống chuyển giá tại một số quốc gia trên thế giới............................22
1.5.1Kinh nghiệm chống chuyển giá tại Mỹ.............................................................22
1.5.2Kinh nghiệm chống chuyển giá tại Trung Quốc...............................................26
1.5.3Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam........................................................28
CHƯƠNG 2:THỰC TRẠNG CHUYỂN GIÁ TẠI VIỆT NAM ....................................30
2.1Môi trường pháp lý và tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp (FDI) tại Việt Nam. .30
2.2Phân tích tình hình hoạt động chuyển giá của các doanh nghiệp FDI trong thời gian
qua tại Việt Nam..................................................................................................................33
2.2.1Khái quát chung về tình hình chuyển giá tại Việt Nam....................................33

2.2.2Tìm hiểu một số trường hợp chuyển giá tiêu biểu tại Việt Nam.......................41
2.2.2.1Nâng giá trị vốn góp.......................................................................................41
2.2.2.2Chuyển giá thông qua chuyển giao công nghệ...............................................43
2.2.2.3Chuyển giá nhằm mục đích chiếm lĩnh thị trường.........................................45
2.2.2.4Chuyển giá thông qua chênh lệch thuế suất...................................................52
2.2.2.5Tìm hiểu một ví dụ thực tế chuyển giá theo phương pháp giá vốn cộng lãi. .54
CHƯƠNG 3:CÁC GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIÁ CỦA
CÁC CÔNG TY ĐA QUỐC GIA TRONG GIAI ĐOẠN HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ...................................................................................62
3.1Những cam kết thuế quan khi gia nhập WTO của Việt Nam và phối hợp giữa các
quốc gia chống lại chuyển giá.............................................................................................62
3.2Các biện pháp kiểm soát chuyển giá của Chính phủ Việt Nam................................64
3.2.1Hoàn thiện các văn bản pháp lý kiểm soát chuyển giá......................................64
3.2.2Ổn định kính tế vĩ mô và ổn định đồng tiền Việt Nam.....................................68
3.2.3Cải cách thuế của Chính phủ.............................................................................69
3.2.4Nhóm giải pháp mang tính chất kỹ thuật..........................................................71
3.3Một số giải pháp kiến nghị bổ sung..........................................................................73
3.3.1Xây cơ sở dữ liệu giá cả cho các giao dịch.......................................................73
3.3.2Xây dựng bảng tổng hợp tỷ suất lợi nhuận bình quân cho ngành.....................74
3.3.3Nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ của cán bộ quản lý khu vực đầu tư
nước ngoài.........................................................................................................75
3.3.4Các biện pháp hành chính và biện pháp phạt....................................................76
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
ALP Nguyên tắc căn bản giá thị trường
APA Thỏa thuận định giá trước
BOT Xây dựng vận hành và chuyển giao
BT Xây dựng và chuyển giao
BTO Xây dựng, chuyển giao và vận hành
CUP Phương pháp giá tự do có thể so sanh được
CPM Phương pháp giá vốn cộng thêm
EU Thị trường chung Châu Âu
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
IRS Cơ quan thuế nội địa của Mỹ
MNC Công ty đa quốc gia
OECD Tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển
SAT Cơ quan thuế Trung Quốc
TSCĐ Tài sản cố định
Thuế TNDN (CIT) Thuế thu nhập doanh nghiệp
TNMM Phương pháp lợi nhuận ròng của nghiệp vụ chuyển giao
VAT (GTGT) Thuế giá trị gia tăng
WTO Tổ chức thương mại thế giới

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Tình hình thu hút vốn đầu tư FDI từ năm 1988 đến năm 2008 31
Bảng 2.2: Tình hình khai lỗ tại các Doanh Nghiệp FDI trên địa bàn TP.HCM35
Bảng 2.3: Số các doanh nghiệp FDI kê khai lỗ qua các năm do Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư
khảo sát 36
Bảng 2.4: Bảng danh sách 25 trên 128 doanh nghiệp được phân tích ngành may mặc có lãi
trong năm 2005 37
Bảng 2.5: Bảng danh sách 24 trên 128 doanh nghiệp được phân tích ngành may mặc có lãi
trong năm 2006 38
Bảng 2.6: Thuế suất thuế TNDN tại các quốc gia vào thời điểm năm 2008 40
Bảng 2.7: Xác định giá trị vốn góp của các bên liên doanh 43
Bảng 2.8: Giá Bán của một thùng Coca cola từ năm 1996 đến 1999 49
Bảng 2.9: Kết quả kinh doanh của công ty Coca Cola từ năm 1996 đến 199850
Bảng 2.10: So sánh tổng hợp giữa ba công ty coca cola con tại ba quốc gia51
Bảng 2.11: Số liệu doanh thu và chi phí của công ty Coca Cola Chương Dương 199652
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Tỷ trọng chi phí trên tổng chi phí công ty Coca Cola Chương Dương
năm 1996 52
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Hình 1.1: Sơ đồ báo cáo thu nhập của các MNC 10
Hình 1.2: Mô hình trung tâm xuất hóa đơn 12

LỜI MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề
Trải qua khoảng thời gian hai mươi mốt năm mở cửa nền kinh tế kêu gọi đầu tư năm 1988,
Việt Nam nhận được nguồn vốn FDI trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm khác nhau.
Nhưng đặc biệt trong khoảng ba năm từ năm 2006 đến tháng 8 năm 2008, nguồn vốn FDI
đổ vào Việt Nam không ngừng tăng lên và vượt xa so với những năm trước và liên tiếp lập
những mốc kỷ lục mới về tổng mức vốn đầu tư . Nguồn vốn FDI đổ vào nước ta không chỉ
là tăng về số lượng các dự án mà tăng về cả quy mô và chất lượng của các dự án. Nguồn
vốn FDI phân bố rộng rãi vào nhiều tỉnh và thành phố trên khắp cả nước, các lĩnh vực tiếp
nhận vốn đầu tư cũng được mở rộng tạo điều kiện cho việc tiếp nhận trình độ khoa học kỹ
thuật hiện đại, trình độ quản lý kinh tế tầm cao, giải quyết công ăn việc làm cho lao động
trong nước. FDI trở thành một trong những nguồn cung cấp vốn quan trọng cho nền kinh
tế, là động lực thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển, tạo nên tính năng động và cạnh tranh
cho thị trường.
Bên cạnh những đóng góp tích cực của luồng vốn FDI đối với sự phát triển của kinh tế và
xã hội Việt Nam thì trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài đã và đang nổi lên hiện tượng các
doanh nghiệp FDI kê khai lỗ kéo dài nhiều năm làm cho chính phủ Việt Nam bị thất thu
thuế ảnh hưởng trực tiếp đến ngân sách, bên cạnh đó tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh
với các doanh nghiệp trong nước, tác động không tốt đến cơ chế quản lý tài chính của
chính phủ trong lĩnh vực FDI, và ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng nguồn vốn này cũng
như tác động xấu đến mục tiêu thu hút và quản lý vĩ mô vốn FDI của chính phủ.
Tình trạng các doanh nghiệp FDI khai lỗ diễn ra tại nhiều tỉnh thành đã làm cho chính phủ,
cơ quan thuế, các cơ quan quản lý khu vực vốn đầu tư nước ngoài cần phải nhìn nhận và
xem xét vấn đề một cách đúng mức. Vấn đề “chuyển giá “tại các doanh nghiệp FDI đang
là vấn đề được các đại biểu quốc hội chất vấn sôi nổi trong nhiều kỳ họp quốc hội gần đây.
Trong kỳ họp quốc hội ngày 05 tháng 10 năm 2008, Đại biểu Trần Du Lịch

đã cho biết thống kê qua cục thuế TP.HCM thì 70% doanh nghiệp FDI trên địa bàn thành
phố kê khai làm ăn thua lỗ cho dù làm ăn tốt, tăng trưởng cao và không ngừng mở rộng.
Các đại biểu quốc hội nêu lên lo ngại tình trạng “lỗ giả, lãi thật “ở các doanh nghiệp FDI
và cuối buổi thảo luận Bộ Trưởng Bộ Tài Chính Vũ Văn Ninh cũng đã thừa nhận hiện
tượng “chuyển giá” là có, chính phủ đã cố gắng kiểm soát “nhưng nói thực với Quốc hội
là không kiểm soát được”.
Hiện nay, việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam là một cuộc chạy đua
và cạnh tranh gay gắt với các nước trong khu vực .Quan trọng hơn nữa là sau khi thu hút
được vốn thì quản lý nguồn vốn đó sao cho có hiệu quả và phục vụ cho mục tiêu phát triển
vĩ mô nền kinh tế kinh tế đồng thời tạo ra một môi trường kinh tế cạnh tranh lành mạnh.
Để thực hiện được điều này cần phải có sự quan tâm một cách đúng mức của Chính Phủ
Việt Nam, cơ quan thuế, hải quan và các ban ngành có liên quan.
Thông qua các phương tiện truyền thông cũng như trong quá trình học tập nghiên cứu và
trong thực tế công việc, tôi quyết định chọn đề tài “Chuyển giá của các công ty đa quốc
gia tại Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế” làm luận văn tốt nghiệp cao
học.
2.Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục đích của đề tài này là tìm hiểu, nghiên cứu và phân tích hiện tượng chuyển giá ngày
càng phổ biến trong các doanh nghiệp FDI đang có mặt tại Việt Nam trong thời gian từ khi
Việt Nam bắt đầu mở cửa kinh tế đến khi Việt Nam đã chính thức là thành viên của tổ
chức thương mại thế giới. Thông qua việc tìm hiểu và nghiên cứu này sẽ đề ra một số biện
pháp chống chuyển giá nhằm đảm bảo ổn định phát triển kinh tế tại Việt Nam và phù hợp
với kinh tế các nước trong khu vực và trên thế giới.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các doanh nghiệp FDI và hiện tượng chuyển giá của
các doanh nghiệp này tại Việt Nam trong khoảng thời gian từ khi mở của kinh tế đến nay.
Chuyển giá là một vấn đề rất nhạy cảm trong việc kinh doanh của các doanh nghiệp cũng
như là đối với cơ quan quản lý nhà nước, vì vậy trong đề tài sẽ tập trung vào các sự kiện

đã được công bố trên phương tiện truyền thông đại chúng và trong giới hạn tìm hiểu các ví
dụ thực tế cho phép.
3.Phương pháp luận nghiên cứu
Phương pháp sử dụng xuyên suốt trong đề tài là phương pháp duy vật biện chứng, bên
cạnh đó kết hợp với các phương pháp thống kê, liệt kê, phân tích các nguồn số liệu trong
và ngoài nước nhằm làm rõ vấn đề cần nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu thì đề tài được áp dụng nguyên tắc khách quan, logic trong
phân tích và nhận xét. Ngoài ra, đề tài còn áp dụng phương pháp diễn dịch, quy nạp, so
sánh trong quá trình phân tích và làm rõ vấn đề.
4.Bố cục của đề tài
Đề tài được trình bày theo bố cục như sau:
Chương 1: Công ty đa quốc gia và hoạt động chuyển giá
Chương 2: Thực trạng chuyển giá tại Việt Nam
Chương 3: Các giải pháp kiểm soát chuyển giá của các công ty đa quốc gia trong giai đoạn
hội nhập kinh tế quốc tế.

CHƯƠNG 1: CÔNG TY ĐA QUỐC GIA VÀ HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIÁ
1.1Khái niệm, mục tiêu và tác động các các công ty đa quốc gia đối với nền kinh tế
1.1.1Khái niệm
Ban đầu, các công ty đa quốc gia cũng được thành lập tại một quốc gia tức là công ty quốc
gia. Công ty quốc gia này mang quốc tịch của một nước và vốn đầu tư vào công ty này
thuộc quyền sở hữu của các nhà tư bản nước sở tại. Công ty quốc gia này kinh doanh ngày
càng phát triển và hàng hóa, dịch vụ do công ty này sản xuất ra ngày càng nhiều và chất
lượng. Vì vậy mà nhu cầu mở rộng thị trường tiêu thụ các sản phẩm của công ty là tất yếu.
Lúc bấy giờ, thị trường các nước lân cận hay các nước có nhu cầu sản phẩm của công ty
trở nên thật hấp dẫn. Các công ty này sẽ bắt đầu tiến hành mở rộng thị trường tiêu thụ sản
phẩm sang các thị trường này bằng cách xuất khẩu các sản phẩm. Thị trường ngày càng
được mở rộng vì vậy mà các công ty bắt đầu nghĩ đến việc mở rộng sản xuất kinh doanh
sang các nước lân cận, các nước mà có nhu cầu sản phẩm của công ty nhiều. Do quá trình
phát triển thị trường tiêu thụ, các công ty này tìm được các nguồn nguyên liệu và nhân
công có chi phí thấp hơn tại quốc gia mà công ty trú ngụ. Vì vậy mà công ty sẽ tiến hành
xây dựng các chi nhánh hay các công ty con tại các quốc gia mà có những lợi thế so sánh
về chi phí nguyên vật liệu, nhân công đầu vào nhằm tìm kiếm mức lợi nhuận ngày càng
cao. Như vậy do nhu cầu phát triển và mở rộng thị trường của mình mà các công ty này đã
thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn rộng lớn và vượt ra khỏi biên giới
của một quốc gia nên được gọi là công ty đa quốc gia. Vì vậy chúng ta có thể xây dựng
khái niệm công ty đa quốc gia như sau:
Công ty đa quốc gia – Multinational Corporations (MNC) hoặc Multinational Enterprises
(MNE) là công ty có hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc cung cấp dịch vụ không chỉ nằm
gói gọn trong lãnh thổ của một quốc gia mà hoạt động sản xuất kinh doanh và cung cấp
dịch vụ trải dài ít nhất ở hai quốc gia và có công ty có mặt lên đến hơn trăm quốc gia khác
nhau.

1.1.2Mục tiêu và cơ cấu tổ chức của MNC
Các công ty quốc gia thành lập các chi nhánh và các công ty con tại các quốc gia khác sẽ
trở thành công ty đa quốc gia. Các công ty đa quốc gia này với hoạt động sản xuất và kinh
doanh ngày càng phát triển chúng sản xuất ra ngày càng nhiều hàng hóa và của cải, khai
thác các thị trường hiện tại một cách hiệu quả và tìm kiếm các thị trường mới. Mục tiêu
của các MNC này còn bao hàm cả việc tìm kiếm các nguồn nguyên liệu, nhân công với giá
cả so sánh, tìm kiếm những ưu đãi về thuế, ưu đãi về kinh tế nhằm phục vụ cho mục tiêu
to lớn nhất của các công ty là tối đa hóa lợi nhuận và tối đa hóa giá trị tài sản công ty.
Các MNC có thể xếp vào 3 nhóm lớn theo cấu trúc phương tiện sản xuất như sau:
-Công ty đa quốc gia “theo chiều ngang” là các công ty đa quốc gia mà có hoạt động
sản xuất kinh doanh các sản phẩm cùng loại hoặc tương tự tại các quốc gia mà công
ty này có mặt. Một công ty điển hình với cấu trúc này là công ty Mc Donalds.
-Công ty đa quốc gia “theo chiều dọc” là công ty có các cơ sở sản xuất hay các chi
nhánh, công ty con tại một số quốc gia sản xuất ra các sản phẩm mà các sản phẩm
này lại là đầu vào để sản xuất ra sản phẩm của các công ty con hay các chi nhánh
tại các quốc gia khác. Một ví dụ điển hình cho loại hình cấu trúc công ty “theo
chiều dọc” là công ty Adidas.
-Công ty đa quốc gia “nhiều chiều” là công ty có nhiều chi nhánh hay công ty con
tại nhiều quốc gia khác nhau mà các công ty này phát triển và hợp tác với nhau cả
chiều ngang lẫn chiều dọc. Một ví dụ điển hình cho loại hình công ty đa quốc gia có
cầu trúc như trên là Microsoft.
1.1.3Tác động của MNC đối với nền kinh tế
Các MNC ngày các phát triển, điều này chỉ ra rằng các MNC đều dựa vào các lợi thế riêng
biệt của mình là sự độc quyền và lợi thế trên lãnh thổ rộng lớn mà công ty này hoạt động.
Các công ty đa quốc gia phát triển về cả số lượng và qui mô vốn cũng như lĩnh vực hoạt
động của minh. Từ chỉ khoảng 3000 công ty đa quốc gia vào năm 1900, nay đã tăng lên

đến hơn 63.000 công ty với hơn 821.000 chi nhánh và công ty con trên khắp thế giới. Các
công ty này tuy chỉ sử dụng khoảng 90 triệu lao động (trong đó khoảng 20 triệu lao động ở
các nước đang phát triển) nhưng đã tạo ra đến 25% tổng sản phẩm của thế giới, riêng
1.000 công ty hàng đầu đã chiếm đến 80% sản lượng công nghiệp của thế giới.
Một báo cáo gần đây của Liên Hiệp Quốc cho biết 53/100 tổ chức kinh tế lớn nhất thế giới
là các công ty đa quốc gia (MNC). Các công ty tư nhân này còn giàu hơn những 120 quốc
gia. Các công ty này với nguồn vốn khổng lồ và thu nhập hàng năm có thể đem so sánh
với GDP của một quốc gia. Các công đa quốc gia lớn thường có trụ sở chính tại các nước
tư bản lớn như Mỹ, Nhật và Châu Âu. Một báo cáo cho biết 93/100 công ty lớn nhất thế
giới có trụ sở chính tại Mỹ, Nhật và Châu Âu. Những suy nghĩ cho rằng các công ty đa
quốc gia lớn thường là của Mỹ không còn đúng nữa, vì số lượng các công ty đa quốc gia
này bắt đầu phân tán ra nhiều nước và châu lục khác nhau. Một số liệu thông kê cho thấy:
năm 1962 gần 60% trong tổng số 500 công ty đa quốc gia lớn nhất thế giới là của Mỹ.
Nhưng tỷ lệ này thay đổi dần theo thời gian và đến năm 1999 thì tỷ lệ này chỉ còn 36%.
Với những đặc điểm về qui mô hoạt động, lượng vốn mà các MNC nắm giữ thì các MNC
này có một vai trò và ảnh hưởng lớn đến kinh tế, văn hóa và chính trị của các quốc gia.
Lĩnh vực văn hóa là lĩnh vực mà thể hiện sự ảnh hưởng rõ sức ảnh hưởng của các MNC, vì
các MNC thống lĩnh hoạt động sản xuất và phân phối sản phẩm truyền thông (chỉ có 6
công ty bán đến 80% tổng số băng đĩa nhạc trên toàn thế giới). Họ du nhập những ý tưởng
và hình ảnh khiến cho một số chính phủ và tôn giáo lo ngại về sự bất ổn cho xã hội. Như
công ty Mc Donald có khoảng 29.000 nhà hàng tại 120 quốc gia và bị cáo buộc là cổ xúy
cho chế độ ăn uống không có lợi cho sức khỏe.
Bên cạnh những ảnh hưởng không tốt thì các công ty đa quốc gia lại mang lại một lợi ích
to lớn cho các quốc gia sở tại như đóng thuế, tạo công ăn việc làm, cung cấp sản phẩm và
dịch vụ mà trước đó không có, trên hết là nguồn vốn, công nghệ và kiến thức. Với vai trò
cung ứng vốn cho nền kinh tế thì các MNC càng thể hiện sự ảnh hưởng của nó đối với nền
kinh tế các quốc gia mà nó có trụ sở. Chính sự quốc tế hóa hoạt động kinh doanh của các

công ty đa quốc gia mà nguyên nhân chủ yếu tác động đến sự hình thành và phát triển của
các luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI - Forgeign Direct Invesment).
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư mà chủ sở hữu vốn đầu tư sẽ trực tiếp quản
lý và điều hành vốn đầu tư.Trong các chủ thể của đầu tư trực tiếp nước ngoài thì các công
ty đa quốc gia chiếm tỷ trọng cao nhất rồi mới đến các tổ chức chính phủ và phi chính phủ
khác. Theo số liệu thông kê cho thấy, có hơn 90% vốn đầu tư nước ngoài trên thế giới là
do các công ty đa quốc gia. Trong bối cảnh kinh tế hiện nay, FDI được xem là giải pháp
hỗ trợ vốn cho các nước nghèo và là một trong những thành phần không thể thiếu của nền
kinh tế hiện đại. Thông qua hình thức đầu tư FDI đã chuyển cho nước tiếp nhận đầu tư kỹ
thuật, công nghệ, bí quyết công nghệ mới, năng lực quản lý marketing, kinh nghiệm quản
lý và điều hành, nguồn nhân sự với trình độ cao... thông qua các hợp đồng kinh tế, các hợp
đồng liên doanh, liên kết hay các hợp đồng chuyển giao công nghệ.
Thông qua cách thức đầu tư của các MNC mà FDI sẽ có các hình thức biểu hiện như sau:
-Thành lập công ty 100% vốn nước ngoài: đây là hình thức các MNC đầu tư vốn vào
nền kinh tế của một nước để lập công ty 100% vốn nước ngoài. Các công ty này
thuộc quyền sở hữu và chịu sự quản lý điều hành của chủ thế là cá nhân hay tổ chức
nước ngoài. Các công ty này tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của mình trước pháp luật của nước sở tại.
-Tham gia các hợp đồng kinh tế, hợp đồng kinh doanh: là hình thức mà một chủ đầu
tư nước ngoài liên kết một một chủ đầu tư trong nước sở tại để thực hiện một hay
nhiều hoạt động kinh doanh ở nước sở tại trên cơ sở qui định rõ về trách nhiệm của
từng bên cũng như quyền lợi trong việc phân chia lợi nhuận. Đối với hình thức này
thì không cần thành lập công ty hay xí nghiệp hay nói cách khác là không ra đời
một tư cách pháp nhân khác tại nước tiếp nhận đầu tư.
-Mua lại một phần hay toàn bộ một doanh nghiệp đang hoạt động tại nước tiếp nhận
đầu tư.

-Góp vốn liên doanh liên kết với nước chủ nhà: các bên tham gia góp vốn liên doanh
phải có trách nhiệm góp vốn liên doanh, đồng thời phân chia lợi nhuận và rủi ro
theo tỷ lệ góp vốn.
-Hình thức xây dựng-vận hành-chuyển giao (BOT) và một số hình thức tương tự
khác như BTO, BT là các loại hình đầu tư nhằm khuyến khích xây dựng các công
trình hạ tầng như: cầu, đường, bến cảng và công trình cung cấp năng lượng trong
lúc mà nhà nước tiếp nhận đầu tư còn nhiều khó khăn về mặt tài chính. Các hình
thức này sẽ dễ dàng được nhìn thấy ở các nước đang phát triển. Trong hình thức
BOT thì nhà đầu tư sẽ tự bỏ vốn, kỹ thuật để xây dựng công trình như cầu đường,
tự tiến hành hoạt động kinh doanh như tổ chức thu phí và sau một thời gian khai
thác nhất định theo thỏa thuận và các công ty này đã hoàn vốn cung như một mức
lợi nhuận hợp lý thì họ sẽ tiến hành bàn giao lại cho nước sở tại công trình đã được
họ xây dựng.
Tại Việt Nam cũng tồn tại đầy đủ các hình thức của FDI nêu trên. Từ khi thực hiện mở
cửa nền kinh tế thì luồng vốn FDI đổ vào ngày càng nhiều, kể cả về mặt số lượng cũng
như chất lượng. Cụ thể là năm 2007, Việt Nam đã thu hút được một lượng FDI kỷ lục là
20,3 tỷ USD và trong năm 2008 là 64 tỷ USD. Đây là một kết quả ngoài sự mong đợi. Với
sự có mặt của nhiều công ty đa quốc gia tại Việt Nam như Coca Cola, Pepsi, Intel,
Microsoft, Unilever, P&G, Nestle, Metro, PWC, Kao, Avon, Mercedes Benz… cùng với
sự bành trướng ra khỏi phạm vi chính quốc (Home Country) bằng nguồn vốn FDI. Các
MNC sẽ tạo ra một mạng lưới các công ty con (Subsidaries) trên phạm vi toàn cầu mà lẽ
đương nhiên là giữa các công ty con này với nhau và với chính bản thân công ty mẹ ở
chính quốc sẽ có các mối quan hệ ràng buộc về nhiều mặt mà trong đó sự ràng buộc về
kinh tế là quan trọng và rõ nhất nhằm phục vụ cho tối đa hóa lợi nhuận của toàn bộ MNC.

1.2Các nghiệp vụ mua bán nội bộ và khái niệm hoạt động chuyển giá của MNC
1.2.1Các nghiệp vụ mua bán nội bộ của MNC
Các MNC do hoạt động trên phạm vi của nhiều quốc gia khác nhau và ở mỗi quốc gia
thường có chi nhánh hay công ty con vì vậy mà hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty
phải phù hợp với phong tục, tập quán và luật pháp kinh doanh tại quốc gia đó. Các đặc
điểm kinh doanh trên đã dẫn đến các giao dịch nội bộ của các MNC diễn ra rất đa dạng và
phức tạp vì vậy mà các cơ quan thuế riêng lẻ của từng quốc gia sẽ rất khó khăn trong việc
quản lý và kiểm soát. Các hoạt động mua bán qua lại giữa công ty mẹ và công ty con hoặc
giữa các công ty con với nhau diễn ra với số lượng ngày càng nhiều và giá trị ngày càng
lớn. Các hoạt động mua bán nội bộ này tuy diễn ra với nhiều hình thức và biểu hiện khác
nhau nhưng chúng ta có thể nhận dạng chúng thông qua các giao dịch như: giao dịch
chuyển giao nội bộ tài sản cố định hữu hình hay tài sản cố định vô hình; chuyển giao
nguyên vật liệu, thành phẩm, thông qua sư dịch chuyển nguồn vốn như cho vay và đi vay
nội bộ; qua sự cung cấp các dịch vụ tư vấn tài chính, tư vấn quản lý; qua các chi phí cho
việc quảng cáo và chi phí nghiên cứu phát triển … Với tính chất đặc biệt quan trọng và
tính bảo mật cao của các nghiệp vụ này, các nghiệp vụ chuyển giao nội bộ sẽ được bảo
mật và chỉ có các nhà quản trị cấp cao trong MNC mới tiếp cận được. Các nghiệp vụ
chuyển giao nội bộ này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chiến lược phát triển của các MNC.
Do tính bảo mật, tầm ảnh hưởng quan trọng của các nghiệp vụ chuyển giao nội bộ vì các
nghiệp vụ chuyển giao nội bộ thường được thực hiện theo ý muốn, chủ trương trong chiến
lược phát triển công ty của các nhà quản lý cao cấp. Trong thực tế đã có các nghiệp vụ
chuyển giao nội bộ được thực hiện theo chỉ thị của các nhà quản trị cao cấp với các giá trị
rất lớn nhưng giá trị này đã không được ghi nhận hoặc chỉ thể hiện một số rất nhỏ. Các
chứng từ, chứng cứ kèm theo không thể hiện chính xác các giá trị và bản chất của nghiệp
vụ vì vậy đã gây khó khăn cho các cơ quan thuế trong việc đưa ra bằng chứng chứng minh
các MNC đã thực hiện hành vi chuyển giá.

Dựa vào tính chất và các đặc điểm của các nghiệp vụ mua bán nội bộ phổ biến trên thị
trường, chúng ta có thể phân chia các nghiệp vụ mua bán nội bộ ra thành các nhóm như
sau:
-Các nghiệp vụ mua bán nội bộ liên quan nguyên vật liệu có tính đặc thù cao, hay
các nguyên vật liệu mà một công ty con đặt tại một quốc gia có các lợi thế riêng
làm cho giá của nguyên vật liệu ấy thấp.
-Các nghiệp vụ mua bán nội bộ liên quan đến các thành phẩm, các công ty con tại
các quốc gia khác nhau có thể mua thành phẩm được sản xuất tại một quốc gia
(Sourcing Country) và sau đó bán lại mà không cần phải đầu tư máy móc hay nhân
công cho sản xuất.
-Các giao dịch liên quan việc dịch chuyển một lượng lớn máy móc, thiết bị cho sản
xuất mà đặc biệt hơn là điểm đến của các giao dịch này là các quốc gia đang phát
triển.
-Các giao dịch liên quan đến các tài sản vô hình như nhượng quyền, bản quyền,
thương hiệu, nhãn hàng, các chi phí liên quan đến nghiên cứu và phát triển sản
phẩm.
-Có sự cung cấp các dịch vụ quản lý, dịch vụ tài chính hay chi phí cho các chuyên
gia vào làm việc tại nước nhận chuyển giao.
-Có sự tài trợ và nhận tài trợ về các nguồn lực như tài lực và nhân lực
-Có các khoản đi vay và cho vay nội bộ các công ty con của MNC hay giữa công ty
mẹ và các công ty con.
Các nghiệp vụ chuyển giao nội bộ này diễn ra thường xuyên với giá trị lớn, vì vậy mà
để hạn chế các tác động tiêu cực của các nghiệp vụ này thì cần phải có một nguyên tắc
áp dụng chung và thông nhất trên các quốc gia. Nguyên tắc này được lập ra nhằm đảm
bảo tính công bằng trong thương mại, là cơ sở cho các nghiệp vụ mua bán, trao đổi
hàng hóa và cung cấp dịch vụ giữa các quốc gia. Một nguyên tắc được áp dụng là

nguyên tắc dựa trên căn bản giá thị trường ALP (The Arm’s –Length Principle).
Nguyên tắc này đòi hỏi các nghiệp vụ mua bán nội bộ trong các MNC phải được thực
hiện như các nghiệp vụ mua bán diễn ra giữa các bên độc lập với nhau nhằm thể hiện
được tính khách quan của quan hệ thị trường, quan hệ cung cầu.
1.2.2Khái niệm hoạt động chuyển giá
Trong công tác quản trị tại các MNC thì việc nghiệp mua bán nội bộ là rất cần thiết và
giúp cho các MNC giảm các rủi ro về thị trường, rủi ro về công nợ. Đi đôi với các nghiệp
vụ mua bán nội bộ này là việc định giá chuyển giao nội bộ và nó được xem là một phương
pháp quản trị ứng dụng được các nhà quản trị áp dụng một cách bài bản và điêu luyện
nhằm mang lại hiệu quả cao trong công tác quản lý. Các phương pháp định giá chuyển
giao nội bộ đã được các quốc gia thừa nhận và tuân theo, tuy nhiên trong thực tế việc định
giá chuyển giao này không được áp dụng theo căn bản giá thị trường mà nó có thể được
tính toán theo một mục đích nào đó của MNC. Việc định giá chuyển giao nội bộ diễn ra
theo một sự áp đặt giá mang tính chất chủ quan của hai bên tham gia vào giao dịch. Vì vậy
mà các trường hợp này được gọi là hành vi chuyển giá. Vì vậy chuyển giá có khái niệm
như sau:
Chuyển giá là hoạt động mang tính chủ quan, áp đặt giá cả mua bán lên các giao dịch nội
bộ không căn cứ trên giá cả thị trường, quy luật cung cầu giữa công ty mẹ và công ty con
hay giữa các công ty con với nhau trong cùng một MNC nhằm mục đích cuối cùng là tối
thiểu số thuế phải nộp.
Thông qua hoạt động chuyển giá, các MNC sẽ thực hiện ý đồ trốn tránh việc nộp thuế thu
nhập doanh nghiệp (Income Corporate Tax) tại các quốc gia có thuế suất cao. Thông qua
các nghiệp vụ chuyển giá, các MNC sẽ chuyển thu nhập ra khỏi quốc gia có mức thuế thu
nhập doanh nghiệp cao mà MNC này có trụ sở. Trong nhiều trường hợp các MNC còn chủ
động “móc túi” các chính phủ thông qua việc chiếm đoạt gián tiếp các khoản thuế mà
những người đóng thuế lương thiện đã đóng góp. Chuyển giá là một trong những vấn đề
phức tạp và khó tiếp cận trong thời đại kinh tế quốc tế hội nhập, khi mà các MNC này có

nhiều chi nhánh, công ty con trên nhiều quốc gia khác nhau mà các công ty này mua bán
hàng hóa, cung cấp dịch vụ cho nhau. Các hoạt động này có thể chứa đựng trong đó là các
hoạt động “chuyển giá”, giá cả của hàng hóa dịch vụ trong các nghiệp vụ chuyển giao này
được tính theo một xu hướng chủ quan mà không hề dựa trên chi phí thực tế tạo nên sản
phẩm hay dịch vụ được cung cấp. Thông qua hoạt động chuyển giá sẽ mang về cho các
MNC một khoảng lợi nhuận lớn trong khi các MNC này không cần phải nỗ lực nâng cao
chất lượng sản phẩm, dịch vụ hay mở rộng phát triển thị trường mà chỉ cần những hoạt
động phù phép trên sổ sách kế toán.
Tuy nhiên, một nguyên nhân quan trọng khác dẫn đến hoạt động chuyển giá xảy ra đó là
tính đặc thù của sản phẩm, có những sản phẩm không tìm thấy hay rất khó tìm thấy các
sản phẩm tương tự thay thế. Chúng ta thường tìm thấy đặc tính này đối với các tài sản cố
định vô hình như lợi thế thương mại, bản quyền sáng chế, phát minh, bí quyết công
nghệ… Chính do tính đặc thù cao này đã gây ra những khó khăn khi áp dụng nguyên tắc
ALP vào trong việc định và so sánh giá thị trường.
Mục đích cuối cùng của hoạt động chuyển giá là tối đa hóa lợi nhuận của MNC bằng cách
tối thiểu hóa thuế thu nhập doanh nghiệp mà MNC phải nộp cho các chính phủ. Chính vì
mục đích là tối thiểu hóa số thuế phải nộp nên MNC sẽ tiến hành điều phối thu nhập của
các công ty con tại các quốc gia có thuế suất cao sang các quốc gia có thuế suất thuế thu
nhập thấp. Việc chuyển lợi nhuận này có thể được thực hiện trên phần thu nhập trước thuế
hay sau thuế dựa trên cấu trúc bảng báo cáo thu nhập sau:

Báo cáo thu nhập của công ty con thanh toán cho công ty mẹ
Doanh số
Giá vốn hàng
bán Lãi gộp
Chi phí chung và chi phí
quản lý
+ Phí bảng quyền
+ Bằng phát minh
+ Thương hiệu
+ Nhượng quyền
+ Chi phí được phân
bổ
+ Phí
quản lý Chi
phí khấu hao
Lợi nhuận trước lãi vay và
Thuế Lãi/ lỗ ngoại tệ
Lãi vay
Lợi nhuận trước thuế
Thuế thu nhập doanh
nghiệp
Giá nguyên vật liệu Giá
hàng hóa, dịch vụ
Chi phí quản lý
Chi phí tài sản vô hình
Chi phí lãi vay
Trước thuế
Lãi ròng Cổ tức
Lợi nhuận giữ lại
Phân phối lợi nhuận
Sau thuế
Hình 1.1: Sơ đồ báo cáo thu nhập của các MNC
Dựa vào sơ đồ báo cáo thu nhập trên, các MNC trên thực tế đã áp dụng các hình thức sau:
Chuyển giá thông qua việc mua bán nguyên vật liệu sản xuất, bán thành phẩm hay thành
phẩm. Các thành viên của MNC có trụ sở tại các quốc gia có thuế suất thuế TNDN cao sẽ
mua vào các nguyên vật liệu, bán thành phẩm hay thành phẩm với giá cao và bán ra cho
các công ty thành viên với giá thấp nhằm tối thiểu hóa thuế TNDN. Giá mua vào và giá
bán ra cho các thành viên trong MNC bị áp đặt nhằm tối thiểu hóa thu nhập phải nộp thuế.

Ngoài ra, thông qua việc xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa các MNC cũng thu lợi từ các
biểu thuế xuất khẩu hay nhập khẩu nhằm tối đa hóa lợi nhuận sau thuế của MNC.
Chuyển giá thông qua các TSCĐ hữu hình như định giá thật cao các TSCĐ chuyển giao
cho các công ty thành viên tại các quốc gia có thuế suất cao. Giá chuyển giao được xác
định cao hơn nhiều lần so với giá trị thật của tài sản đó. Thông qua hoạt động chuyển giao
tài sản này thì các MNC đã chuyển một phần thu nhập ra nước ngoài. Vì vậy mà thu nhập
chịu thuế sẽ bị giảm. Khi thực hiện hành động này thì các MNC một mặt tiết kiệm được
chi phí thanh lý các TSCĐ lỗi thời, một mặt lại chuyển được thu nhập về quốc gia có thuế
suất thấp từ đó có thể tối đa hóa lợi nhuận của MNC.
Chuyển giá thông qua việc mua các TSCĐ vô hình với giá thật cao hay chi trả các chi phí
bản quyền, các chi phí để xây dựng thương hiệu sản phẩm, các chi phí nghiên cứu và phát
triển sản phẩm. Các MNC sẽ xây dựng các phòng nghiên cứu và phát triển sản phẩm tại
các quốc gia có thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp cao, tất cả các chi phí nghiên cứu
phát triển sản phẩm sẽ do thành viên MNC tại quốc gia có thuế suất cao này gánh chịu.
Nhưng kết quả của việc nghiên cứu và phát triển sản phẩm thì các thành viên khác vẫn
được áp dụng như nhau. Hoặc một chương trình quảng cáo nhằm xây dựng thương hiệu
cho sản phẩm trên phạm vi khu vực, nhưng chi phí lại được phân bổ hết về cho thành viên
có trụ sở tại quốc gia có thuế suất cao. Các hoạt động trên đều nhằm tối thiểu hóa số thuế
phải nộp và việc phân bổ chi phí trên hoàn toàn là hành động chủ quan của các nhà quản
lý của MNC vì vậy đây cũng là hình thức chuyển giá.
Các thành viên trong MNC có sự cung ứng các dịch vụ tài chính, tư vấn pháp lý với giá cả
cao hơn nhiều lần so với giá cả thị trường. Cung cấp các khoản tín dụng ngắn hạn, trung
hạn và dài hạn với lãi suất cao hơn mức thị trường.
Có sự tài trợ liên quan đến các nguồn lực cơ bản như nhân sự, vật chất. Các chi phí cho
các chuyên gia tham gia tư vấn như các chi phí về tiền lương, chi phí nhà ở, đi lại, các chi
phí khác phục vụ cho các chuyên gia yên tâm làm việc.

Xây dựng các trung tâm xuất hóa đơn đóng vai trò người trung gian giữa công ty mẹ và
các công ty con. Hàng hóa trên chứng từ hóa đơn thì được bán từ công ty nơi sản xuất
hàng hóa qua trung tâm xuất hóa đơn và sau đó thì trung tâm xuất hóa đơn này lại bán lại
cho công ty phân phối bằng cách xuất hóa đơn và chứng từ kèm theo. Nhưng trên thực tế,
hàng hóa được chuyển giao trực tiếp từ công ty sản xuất qua thẳng công ty phân phối mà
không qua trung tâm xuất hóa đơn. Hình thức này thường xảy ra trong ngành dược phẩm.
Mô hình trung tâm xuất hóa đơn:
Hàng Hóa
Hàng hóa trên hóa đơn được bán
từ công ty sản xuất tại Mỹ cho
TT xuất hóa đơn bằng
Hàng hoá
trên hóa đơn
được bán từ
TT xuất hóa
đơn cho
công ty
phân phối
tại Mexico
Hình 1.2: Mô hình trung tâm xuất hóa đơn
Bước 1: Công ty sản xuất tại Mỹ sẽ chuyển hàng trực tiếp sang công ty phân phối tại Mexico.
Bước 2: Hóa đơn được xuất từ công ty phân phối tại Mỹ sang trung tâm xuất hóa đơn bằng
tiền đô la Mỹ
Trung Tâm
Xuất Hóa đơn
Công ty Sản
xuất tại Nước
MỸ
Công ty Sản phân
Phối Tại MEXICO

Bước 3: Trung tâm xuất hóa đơn nắm lấy quyền sở hữu hợp pháp của hàng hóa từ công ty
sản xuất tại Mỹ.
Bước 4: Trung tâm xuất hóa đơn sẽ xuất hóa đơn lại cho công ty phân phối tại Mexico
bằng đồng Pesos. Thông qua việc này sẽ định vị lại loại ngoại tệ của cả đơn vị sản xuất và
trung tâm xuất hóa đơn.
Thông thường, các trung tâm xuất hóa đơn này để tránh bị cáo buộc là chuyển lợi nhuận
thì giá bán lại họ sẽ lấy giá vốn cộng thêm một tỷ lệ hoa hồng rất nhỏ. Tỷ lệ hoa hồng mà
trung tâm được hưởng chỉ đủ để trang trải chi phí hoạt động của trung tâm.
1.3Các yếu tố thúc đẩy MNC chuyển giá
Xem xét các yếu tố tác động thúc đẩy MNC thực hiện hành vi chuyển giá chúng ta có thể
chia ra thành các yếu tố bên ngoài và các yếu tố bên trong:
1.3.1Các yếu tố thúc đẩy bên ngoài (động cơ bên ngoài)
-Khi phát hiện ra thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp giữa hai quốc gia có sự khác
biệt lớn, với mục tiêu luôn muốn tối đa hóa lợi nhuận của mình các MNC sẽ tiến
hành thực hiện hành vi chuyển giá nhằm mục đích giảm thiểu tối đa khoản thuế mà
MNC này phải nộp cũng như là tối đa hóa lợi nhuận sau thuế của MNC. Khi có
chênh lệch về thuế suất thì thủ thuật chuyển giá mà các MNC thường sử dụng đó là
nâng giá mua đầu vào các nguyên, vật liệu, hàng hóa và định giá bán ra hay giá
xuất khẩu thấp tại các công ty con đóng trên các quốc gia có thuế suất thuế thu nhập
doanh nghiệp cao. Như vậy, bằng cách thực hiện này thì MNC đã chuyển một phần
lợi nhuận từ quốc gia có thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp cao sang quốc gia có
thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp và như vậy mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận
đã được thực hiện thành công. Như vậy động cơ ở đây là có sự khác biệt về thuế
suất thuế thu nhập doanh nghiệp.
-Yếu tố khác là mong muốn bảo toàn vốn đầu tư theo nguyên tệ, kỳ vọng về sự biến
đổi trong tỷ giá và trong chi phí cơ hội đầu tư. Với mục đích là bảo toàn và phát

triển nguồn vốn đầu tư ban đầu, các MNC sẽ tiến hành đầu tư vào một quốc gia nếu
họ dự đoán rằng trong tương lai đồng tiền của quốc gia này sẽ mạnh lên nghĩa là số
vốn đầu tư ban đầu của họ được bảo toàn và phát triển, ngược lại họ sẽ rút đầu tư ra
khỏi một quốc gia nếu họ dự đoán rằng trong tương lai đồng tiền của quốc gia này
sẽ bị yếu đi nghĩa là vốn đầu tư ban đầu của họ bị giảm đi. Ví dụ sau: giả sử có một
MNC đang định đầu từ vào sản xuất tại Việt Nam với số vốn ban đầu bỏ ra là 100
triệu USD với tỷ giá USD/VND là 16.000 tại thời điểm đầu tư, như vậy tổng vốn
đầu tư tương đương là 1.600 tỷ đồng. Thời hạn đầu tư của dự án là 10 năm và giả
sử cuối thời hạn đầu tư, MNC rút vốn đầu tư trong tình trạng là hòa vốn kinh
doanh. Xảy ra 3 trường hợp đối với lợi nhuận mà MNC thu được từ Việt Nam do
chênh lệch tỷ giá:
⮚Tỷ giá của USD/VND vẫn giữ nguyên là 16.000: như vậy với tình trạng hòa
vốn thì vốn vẫn bảo tồn là 1.600 tỷ đồng, MNC rút vốn ra khỏi Việt Nam là
100 triệu USD. Do đó lợi nhuận mang lại do chênh lệch tỷ giá là 0%.
⮚Việt Nam Đồng tăng giá 10% so với USD, tức lúc này tỷ giá USD/VND
giảm và 1.600 tỷ VND quy đổi thành 110 triệu USD. Như vậy lúc này MNC
thu được do chênh lệch tỷ giá bằng đúng 10% do Đồng Việt Nam tăng giá.
⮚Trường hợp ngược lại là Đồng Việt Nam giảm giá 10% tức là tỷ giá
USD/VND tăng lên làm cho 1.600 tỷ VND lúc này chỉ đổi được 90 triệu
USD. Như vậy vốn đầu tư của MNC rút ra khỏi Việt Nam bị giảm xuống.
Lúc này lỗ do chênh lệch tỷ giá cùng bằng đúng tỷ lệ giảm giá của Đồng
Việt Nam là 10%.
-Dựa trên các dự báo về tình hình tỷ giá mà các MNC có thể thực hiện các khoản
thanh toán nội bộ sớm hơn hay muộn hơn nhằm giảm rủi ro về tỷ giá. Các khoản
công nợ có thể được thanh toán sớm hơn nếu các dự báo cho rằng đồng tiền của
quốc gia mà MNC có công ty con sẽ bị mất giá. Và ngược lại các khoản thanh toán
sẽ bị trì hoãn nếu dự báo cho rằng đồng tiền của quốc gia đó có xu hướng mạnh lên.

-Chi phí cơ hội cũng là một động lực để các MNC thực hiện hành vi chuyển giá. Các
MNC nhận ra rằng các khoản lợi nhuận của họ chỉ có thể chuyển về nước sau khi
kết thúc năm tài chính và sau khi được kiểm tra của cơ quan thuế và chịu sự kiểm
soát ngoại tệ của cơ quan quản lý ngoại hối. Vì vậy mà các cơ hội đầu tư có thể sẽ
bị bỏ lỡ. Do đó các MNC sẽ tiến hành thủ thuật chuyển giá nhằm thu hồi nhanh vốn
đầu tư và bắt lấy cơ hội đầu tư khác.
-Trong các hoạt động liên doanh liên kết với các đối tác trong nước thì các MNC sẽ
định giá thật cao các yếu tố đầu vào mua từ công ty mẹ nhằm tăng cường tỷ lệ góp
vốn và nắm quyền quản lý. Ngoài ra, các MNC có thể cấu kết với các công ty nước
ngoài khác làm lũng đoạn thị trường trong nước.
-Do tình hình lạm phát của các quốc gia khác nhau, nếu quốc gia nào có tỷ lệ lạm
phát cao tức đồng tiền nước đó bị mất giá. Do đó MNC sẽ tiến hành hoạt động
chuyển giá nhằm bảo toàn lượng vốn đầu tư và lợi nhuận.
-Yếu tố tình hình kinh tế-chính trị của quốc gia mà MNC có chi nhánh hay công ty
con. Các chính sách kinh tế thay đổi ảnh hưởng đến quyền lợi của các công ty con
của MNC thì MNC sẽ thực hiện các hành vi chuyển giá nhằm chống lại các tác
động. Hoặc nếu tình hình chính trị bất ổn, để giảm rủi ro và bảo tồn vốn kinh doanh
bằng cách chuyển giá thì MNC muốn thu hồi vốn đầu tư sớm. Ngoài ra hoạt động
chuyển giá cũng nhằm làm giảm các khoản lãi từ đó giảm áp lực đòi tăng lương của
lực lượng lao động, cũng như giảm sự chú ý của các cơ quan thuế của nước sở tại.
1.3.2Các yếu tố thúc đẩy bên trong (động cơ bên trong)
Ngoài những yếu tố bên ngoài đã nêu trên, thì hoạt động chuyển giá còn được thực hiện do
các yếu tố thúc đẩy từ bên trong:
-Khi các hoạt động sản xuất kinh doanh của MNC tại chính quốc bị thua lỗ hay tại
các công ty thành viên trên các quốc gia khác. Lý do dẫn đến sự thua lỗ có thể là do
sai lầm trong kế hoạch kinh doanh, sai lầm trong việc nghiên cứu và đưa sản phẩm

mới vào thị trường, các chi phí quản lý hay chi phí quảng cáo, quảng bá sản phẩm
quá cao dẫn đến kết quả kinh doanh bị thua lỗ. Để tạo ra một bức tranh tài chính
tươi sáng hơn cho công ty khi đứng trước các cổ đông và các bên hữu quan khác thì
chuyển giá như là một cứu cánh để thực hiện ý đồ trên. Chuyển giá giúp cho các
MNC san sẻ thua lỗ giữa các thành viên với nhau từ đó làm giảm các khoản thuế
phải nộp và tạo nên bức tranh kết quả kinh doanh giả tạo vi phạm pháp luật của các
quốc gia.
-Các MNC khi thâm nhập vào một thị trường mới thì điều quan trọng trong giai
đoạn này là phải chiếm lĩnh thị trường, chiếm lĩnh thị phần nhằm xây dựng nền
móng ban đầu cho hoạt động kinh doanh sau này. Vì vậy mà các MNC trong giai
đoạn này sẽ tăng cường các hoạt động quảng cáo, quảng bá sản phẩm làm cho giai
đoạn này MNC sẽ bị lỗ nặng và kéo dài. Trong các mối liên kết kinh doanh hay hợp
tác kinh doanh thì các MNC sẽ dựa vào tiềm lực tài chính hùng hậu của mình mà
thực hiện các hành vi chuyển giá bất hợp pháp để làm cho hoạt động kinh doanh
thua lỗ kéo dài và chiếm lấy quyền quản lý và kiểm soát công ty. Tồi tệ hơn là đẩy
các đối tác ra khỏi hoạt động kinh doanh và chiếm toàn bộ quyền kiểm soát và
chuyển quyền sở hữu công ty. Tình trạng này thường xảy ra phổ biến tại các quốc
gia đang phát triển như Việt Nam khi mà trình độ quản lý còn yếu kém. Sau khi
đánh bật các các đối thủ và những bên liên kết kinh doanh ra khỏi thị trường thì
MNC sẽ chiếm lĩnh thị trường và nâng giá sản phẩm để bù lại phần chi phí trước
đây đã bỏ ra.
-Do được hưởng các đặc quyền, đặc lợi trong quá trình kêu gọi đầu tư của nước chủ
nhà và nắm trong tay các quyền về kinh tế chính trị và xã hội mà MNC xem công ty
con đặt trên quốc gia này như là trung tâm lợi nhuận của cả MNC và thực hiện hành
vi chuyển giá để lại hậu quả đáng kể cho nước tiếp nhận đầu tư.
-Ngoài ra chuyển giá còn được thực hiện do việc chuyển giao các sản phẩm và dịch
vụ có tính đặc thù cao, độc quyền và tính bảo mật cao như trong các ngành công

nghệ thông tin, công nghệ sinh học, dầu khí, y dược… nhằm giảm các rủi ro khi
giao dịch các sản phẩm này thì chuyển giá là phương pháp được các MNC lựa
chọn.
1.4Các tác động của chuyển giá
1.4.1Dưới góc độ MNC
Hoạt động chuyển giá dưới góc độ của MNC sẽ được nhìn nhận theo hai hướng khác
nhau, đó là có thể giúp cho MNC dễ dàng thực hiện kế hoạch và mục tiêu kinh doanh của
mình về lợi nhuận và thuế. Nhưng một mặt khác, chuyển giá lại mang lại nguy cơ MNC
phải gánh chịu những hình phạt nặng nề của quốc gia sở tại và các quốc gia có liên quan.
+Dựa vào các lợi thế về tiềm lực tài chính, những ưu đãi mà các quốc gia đặc cách
cho các MNC khi kêu gọi thu hút đầu tư như thuế suất, hạn ngạch, lĩnh vực đầu
tư… thì các MNC có thể thực hiện việc chuyển giá nhằm giảm thiểu việc thực hiện
nghĩa vụ về thuế đối với quốc gia mà mình đặt trụ sở.
+Thực hiện việc chuyển giá sẽ giúp cho MNC dễ dàng chuyển lợi nhuận ra nước
ngoài và thực hiện những kế hoạch kinh doanh một cách nhanh chóng, không bỏ lỡ
các cơ hội kinh doanh. Trường hợp này thường được các MNC thực hiện tại các
quốc gia có chính sách tiền tệ thắt chặt.
+Việc chuyển giá còn giúp cho các MNC nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường nội địa,
đánh bật và thâu tóm các công ty nhỏ lẻ trong nước dựa vào nguồn lực tài chính dồi
dào của mình. Khi thực hiện việc xâm chiếm thị trường thì chi phí sẽ được chia sẻ
cho các công ty con khác và cả công ty mẹ. Vì vậy đứng trên phương diện tài chính
thì MNC sẽ không bị áp lực nhiều về tình trạng thua lỗ.
+Các MNC sẽ xây dựng một kế hoạch về thuế trên qui mô tổng thể sao cho có lợi
nhất và từ đó dựa vào sự chênh lệch về mức lãi suất giữa các quốc gia để thực hiện
việc mua bán nội bộ, chuyển giá nếu cần thiết nhằm đạt mục tiêu về thuế.

+Thông qua việc bán các tài sản, thiết bị lỗi thời với giá cao thì một mặt giúp các
công ty tại chính quốc thay đổi được công nghệ với chi phí thấp, một mặt lại thu
hồi vốn đầu tư nhanh tại các quốc gia tiếp nhận đầu tư.
+Thông qua việc mua bán qua lại thì các MNC có thể tránh được các rủi ro trong
hoạt động nghiên cứu và phát triển sản phẩm vì các hoạt động này thường tốn nhiều
chi phí và khả năng thành công cũng không cao. MNC sẽ giảm được một số các rủi
ro về tỷ giá, rủi ro về thị trường tiêu thụ sản phẩm, rủi ro về tính ổn định của nhà
cung cấp nguyên vật liệu và chất lượng nguyên vật liệu và một số rủi ro khác.
Bên cạnh những lợi ích của việc chuyên giá mang lại cho MNC thì MNC sẽ phải gánh
chịu những hình phạt rất nghiêm khắc nếu việc chuyển giá bị cơ quan thuế của các quốc
gia mà các MNC có mặt phát hiện được. MNC sẽ bị phạt một số tiền rất lớn, có khả năng
bị rút giấy phép kinh doanh và chấm dứt mọi hoạt động sản xuất kinh doanh tại quốc gia
đó. Bên cạnh đó uy tín của MNC trên thương trường quốc tế cũng sẽ bị ảnh hưởng nghiêm
trọng và là tâm điểm chú ý của các cơ quan thuế của các quốc gia khác mà MNC có trụ sở.
1.4.2Dưới góc độ các quốc gia liên quan
Hoạt động chuyển giá không chỉ có tác động tiêu cực đến quốc gia tiếp nhận đầu tư mà
còn ảnh hưởng một cách nghiêm trọng đối với quốc gia xuất khẩu đầu tư. Các MNC với
mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận có thể thực hiện mọi phương thức chuyển giá và gây ra hậu
quả nghiêm trọng và lâu dài đối với nền kinh tế của cả hai quốc gia xuất khẩu và tiếp nhận
đầu tư.
Tác động của chuyển giá đối với quốc gia tiếp nhận dòng vốn đầu tư
-Thông qua hoạt động chuyển giá, các MNC định giá cao các yếu tố đầu vào từ đó
các MNC này rút ngắn thời gian thu hồi vốn, vì vậy mà các luồng vốn có xu hướng
chảy ngược ra khỏi quốc gia tiếp nhận đầu tư. Các hành động chuyển giá nhằm thu
hồi vốn nhanh hơn so với kế hoạch đầu tư ban đầu sẽ làm cho thay đổi cơ cấu vốn
của nền kinh tế quốc gia tiếp nhận đầu tư. Hậu quả là tạo ra sự phản ánh sai lệch kết

quả hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế, tạo ra một bức tranh kinh tế
không trung thực.
-Trong một số trường hợp, quốc gia tiếp nhận đầu tư có thuế suất thuế thu nhập
doanh nghiệp thấp hơn nên trở thành người được hưởng lợi từ hoạt động chuyển giá
của các MNC. Vì vậy mà các quốc gia này cố ý làm lơ để các MNC tha hồ thực
hiện hành vi chuyển giá và các quốc gia này không sẵn lòng hợp tác với chính quốc
để ngăn chặn hành vi chuyển giá. Về lâu dài, khi mà có sự chuyển biến của môi
trường kinh doanh quốc tế thì các quốc gia này từng được xem là “thiên đường về
thuế” sẽ đến lượt gánh chịu những hậu quả do việc thả lỏng và thờ ơ trong công tác
quản lý trước đây gây ra. Lúc này các quốc gia này sẽ phải đương đầu với khó khăn
về tài chính do các nguồn thu không bền vững đã phản ánh không chính xác sức
mạnh của nền kinh tế và khủng hoảng kinh tế sẽ xảy ra.
-Thông qua hoạt động chuyển giá nhằm xâm chiếm thị phần khi mới tham gia vào
thị trường, các MNC sẽ tiến hành các chiêu thức quảng cáo và khuyến mãi quá
mức, và hậu quả là lũng đoạn thị trường. Các doanh nghiệp trong nước không đủ
tiềm lực tài chính để cạnh tranh vì vậy mà dần dần sẽ bị phá sản hoặc buộc phải
chuyển sang kinh doanh trong các ngành khác. Các MNC sẽ dần trở nên độc quyền
và thao túng thị trường trong nước, kiểm soát giá cả và mất dần tính tự do cạnh
tranh của thị trường tự do. Chính phủ của quốc gia này sẽ gặp khó khăn trong quá
trình hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô và không thể thúc đẩy ngành sản xuất
trong nước phát triển.
-Thông qua hoạt động chuyển giá, các MNC sẽ thực hiện kế hoạch thôn tính các
doanh nghiệp trong nước. Với tiềm lực tài chính mạnh, các MNC sẽ tiến hành liên
doanh với các doanh nghiệp trong nước với tỷ lệ vốn góp cao để nắm quyền quản
lý. Khi đã nắm được quyền quản lý các MNC sẽ thực hiện hành vi chuyển giá nhằm
làm cho kết quả kinh doanh thua lỗ kéo dài. Khi kết quả hoạt động kinh doanh bị
thua lỗ thì bắt buộc phải tăng vốn góp lên, nếu các đối tác trong nước không đủ

tiềm lực tài chính sẽ phải bán lại phần vốn góp của mình và như vậy là từ công ty
liên doanh chuyển thành công ty 100% vốn nước ngoài. Kế hoạch thôn tính doanh
nghiệp trong nước đã thành công.
-Các hoạt động chuyển giá sẽ làm phá sản kế hoạch phát triển nền kinh tế quốc dân
của các quốc gia tiếp nhận đầu tư. Nếu không bị ngăn chặn kịp thời thì về lâu dài
các quốc gia tiếp nhận đầu tư sẽ phải phụ thuộc về mặt kinh tế và tiếp theo sau đó là
sự chi phối về mặt chính trị. Hoạt động chuyển giá sẽ gây ra tình trạng mất cân đối
trong cán cân thanh toán quốc tế của quốc giá đó.
Tác động đối với quốc gia xuất khẩu đầu tư
-Xem xét toàn bộ quá trình thực hiện hành vi chuyển giá thì chúng ta có thể nhận ra
là các MNC là người được hưởng lợi nhiều nhất vì tối thiểu được khoản thuế phải
nộp. Quốc gia nào có thuế suất thấp hơn sẽ được hưởng lợi, trong ví dụ trên chính
quốc là quốc gia bị thiệt thòi nhất và chính quốc cũng chính là quốc gia xuất khẩu
đầu tư. Chuyển giá làm thất thu thuế của quốc gia xuất khẩu đầu tư nếu thuế suất ở
quốc gia này cao hơn thuế suất của quốc gia tiếp nhận đầu tư, làm mất cân đối trong
kế hoạch thuế của quốc gia này. Trong một số trường hợp nghiệm trọng hơn thì các
quốc gia này còn bị các MNC “móc túi” tiền thuế thu được từ các công ty làm ăn
lương thiện khác đã nộp.
-Hoạt động chuyển giá sẽ làm cho dòng vốn đầu tư dịch chuyển không theo ý muốn
quản lý của chính phủ của quốc gia xuất khẩu đầu tư, vì vậy mục tiêu quản lý kinh
tế vĩ mô sẽ gặp nhiều khó khăn.
Tuy hành vi chuyển giá của MNC mang lại những tác động không tốt cả cho nước tiếp
nhận đầu tư và nước xuất khẩu đầu tư nhưng có một số quốc gia vì lợi ích riêng của mình
và tạo điều kiện thuận lợi cho các MNC thực hiện hành vi chuyển giá nhằm chuyển lợi
nhuận của MNC tại các quốc gia khác về. Các quốc gia này xây dựng các mức thuế suất
thật thấp, thậm chí bằng không và tạo thành các “thiên đường về thuế” để các MNC thực
hiện việc chuyển giá thông qua việc thành lập chi nhánh tại những quốc gia này và mang

những tài sản có giá trị như bí quyết công nghệ, bằng phát minh sáng chế, nghiên cứu phát
minh sản phẩm mới, chi phí quảng cáo và khai lợi nhuận phát sinh tại đây là cao nhất. Các
quốc gia này với các mục tiêu khác nhau như kêu gọi đầu tư, tạo công ăn việc làm cho dân
cư trong nước… Ví dụ như các quốc gia Puerto-Rico và Bahamas với việc thực hiện
“thiên đường về thuế” đã thu hút được các MNC đóng trụ sở chính tại các quốc gia này và
chuyển tài sản, lợi nhuận, các luồng vốn từ Mỹ về đã gây khó khăn trong công tác quản lý
các nguồn vốn, quản lý vĩ mô về kinh tế tại Mỹ.
1.5Kinh nghiệm chống chuyển giá tại một số quốc gia trên thế giới
1.5.1Kinh nghiệm chống chuyển giá tại Mỹ
Hoạt động chuyển giá là hoạt động tác động trực tiếp tới tất cả các quốc gia, hoạt động này
luôn tồn tại ngầm trong môi trường hoạt động kinh doanh quốc tế. Các hoạt động này chỉ
được biết đến khi các cơ quan thuế của các quốc gia phát hiện và thực hiện những hình
phạt nghiêm khắc đối với các MNC thì mới được công bố rộng rãi ra công chúng. Trong
lịch sử đã xảy ra những vụ chuyển giá bị phát hiện và các MNC thực hiện hành động
chuyển giá phải nhận lấy những mức tiền phạt rất lớn.
Một trong những vụ nổi cộm trong lịch sử là vào năm 1993, cơ quan thuế nội địa của Mỹ
(IRS) đã điều tra và phán quyết rằng công ty ô tô Nissan của Nhật đã tránh thuế bằng cách
định giá rất cao các loại xe nhập vào Mỹ. Cuối cùng công ty Nissan phải nộp một khoảng
tiền phạt là 170 triệu USD vì bị cáo buộc thực hiện hành vi chuyển giá. Một năm sau, để
trả đũa lại việc cơ quan thuế của Mỹ đã phạt công ty của Nhật với cáo buộc là thực hiện
hành vi chuyển giá thì cơ quan thuế vụ Nhật (NTA) tố cáo tập đoàn Coca-Cola đã cố ý
khai thấp lợi nhuận thu được tại Nhật bằng cách tính giá “quá đáng” các nguyên liệu nhập
từ Mỹ và áp đặt chi phí bản quyền quá cao đối với công ty con tại Nhật. Với hành vi này
cơ quan thuế Nhật đã cáo buộc Coca-Cola thực hiện hành vi chuyển giá và buộc Coca-
Cola phải nộp một khoản tiền phạt là 150 triệu USD.

Các nghiên cứu về giá cả hàng hóa cũng chỉ ra rằng có hoạt động chuyển giá diễn ra tại
các thời điểm khác nhau. LeeRaw (1985) nghiên cứu các MNC hoạt động tại khu vực
ASEAN và nhận ra rằng hầu hết các MNC đều sử dụng không phải là giá thị trường trong
các nghiệp vụ xuất nhập khẩu mua bán trong nội bộ MNC với nhau. Một nghiên cứu khác
của Lall (1973) cho thấy rằng các MNC hoạt động trong ngành dược đã nâng giá nhập
khẩu lên từ 33% đến 300%, đối với ngành cao su và ngành điện thì từ 24% đến 81%. Điều
tra của Rahman và Scapens (1986) về giá nhập khẩu của 10 mặt hàng dược phẩm của
Bangladesh và kết quả là các MNC đã nâng giá nhập khẩu từ 78% - 600%. Vào năm 1993,
Lin và các cộng sự phân tích môi trường kinh tế các nước Châu Á – Thái Bình Dương và
khẳng định là việc sử dụng cơ chế định giá chuyển giao là rất phổ biến trong khu vực này.
Các nghiên cứu này cũng đồng thời chỉ ra nguyên nhân các công ty đa quốc gia thường
xuyên kê khai lỗ. Theo một báo cáo của Tổng cục Thống kê Trung Quốc vào tháng 8 năm
2008 thì có khoảng 70% các doanh nghiệp FDI bao gồm các doanh nghiệp có 100% vốn
nước ngoài, công ty liên doanh cổ phần hay công ty liên doanh theo hợp đồng kê khai lỗ
trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thông qua các báo cáo và các công trình nghiên cứu trên chúng ta có thể nhận thấy là hoạt
động chuyển giá rất đa dạng và diễn ra rộng khắp các quốc gia trên thế giới. Trong bối
cảnh hiện nay, Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của WTO thì việc theo dõi,
nghiên cứu và học tập kinh nghiệm chống chuyển giá của các quốc gia khác là điều hết
sức quan trọng và cần thiết. Chúng ta cần phải tìm ra những đặc điểm kinh tế, chính trị và
xã hội của các quốc gia có tính tương đồng với Việt Nam từ đó ứng dụng các phương pháp
chống chuyển giá một cách phù hợp. Sau đây chúng ta sẽ đi vào nghiên cứu kinh nghiệm
chống chuyển giá của một số quốc gia như Mỹ, Trung Quốc và một số quốc gia Châu Á
khác.
Hoạt động chuyển giá ngày càng trở nên tinh vi và phức tạp hơn, ngay cả các quốc gia có
nền kinh tế mạnh và bề dày lịch sử kinh nghiệm quản lý thì cũng phải đương đầu với hoạt
động chuyển giá diễn ra từng ngày trong nền kinh tế. Nền kinh tế Mỹ là nền kinh tế lớn
nhất thế giới, có kinh nghiệm quản lý kinh tế cũng như pháp luật về kinh tế tiến bộ so với

các quốc gia phát triển khác nhưng Mỹ cũng không là quốc gia ngoại lệ trong việc chống
hành vi chuyển giá của các MNC.
Pháp luật của Mỹ qui định là phần thu nhập được tạo ra trên lãnh thổ của Mỹ thì phải nộp
thuế thu nhập cho dù là Công ty đa quốc gia này có thuộc quyền sở hữu của Mỹ hay
không. Các công ty này không được né tránnh nộp thuế thu nhập cho phần thu nhập phát
sinh trên đất Mỹ bằng cách chuyển lợi nhuận ra nước ngoài thông qua hành vi chuyển giá
hay chuyển dịch hoạt động sản xuất kinh doanh hay đầu tư vào các quốc gia có thuế suất
cực thấp còn được gọi là “các thiên đường về thuế”. Mặc dù luật pháp kinh tế Mỹ rất phát
triển và hiện đại nhưng vẫn tỏ ra bất lực trong việc cố gắng để đạt các chỉ tiêu kinh tế vĩ
mô được đưa ra.
Tổ chức IRS (Internal Revennue Service) đã khảo sát và đưa ra được bằng chứng là các
công ty đa quốc gia đang hoạt động trên đất Mỹ mà không thuộc quyền sở hữu của Mỹ thì
hầu hết nộp thuế ít hơn so với các công ty nội địa. Các kẽ hở về luật pháp cũng được các
công ty đa quốc gia thuộc sở hữu của Mỹ lợi dụng để giảm khoản thuế phải nộp và dần tạo
nên xu hướng chuyển dịch đầu tư của các công ty Mỹ ra ngoài nước Mỹ.
Trong thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của các MNC rất rộng lớn và phức tạp, các
nghiệp vụ mua bán diễn ra với khối lượng lớn và độ phức tạp cao, vì vậy mà tiếp cận các
nghiệp vụ nào có chứa đựng hành vi chuyển giá là rất khó. Tương tự rất khó xác định lợi
nhuận nào là tạo ra trên đất Mỹ và lợi nhuận nào là tạo ra ngoài đất Mỹ một cách chính
xác. Do đặc điểm là thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp của Mỹ (CIT) so với các quốc
gia khác là rất cao (40%) nên các MNC có xu hướng là chuyển lợi nhuận ra nước ngoài vì
họ cho rằng thuế suất tại Mỹ cao và chính phủ không xem xét hết các chi phí của họ.
Một số ví dụ dẫn chứng các MNC đã tối thiểu hóa số thuế phải nộp:
-Vào năm 1987, Công ty IBM trình báo cáo tài chính hàng năm trước đại hội cô
đông thì hãng này cho rằng 1/3 lợi nhuận kiếm được trong năm là từ hoạt động kinh
doanh trên đất Mỹ. Tuy nhiên khi kê khai với cơ quan thuế thì IBM đã kê khai rất
nhiều chi phí R&D liên quan đến thị trường Mỹ vì vậy mà phần lợi nhuận kiếm

được trên thị trường Mỹ gần như bằng không và kết quả là IBM tránh được nghĩa
vụ nộp thuế cho chính phủ Mỹ mặt dù doanh thu thuần của IBM vào năm 1987 là
25 tỷ USD.
-Một ví dụ khác là Tập đoàn Intel đã thắng một vụ kiện liên quan đến thuế khi bị cáo
buộc là đã che giấu hàng triệu USD lợi nhuận từ nguồn doanh thu bán các vi mạch
sản xuất tại Mỹ nhưng được khai báo với cơ quan thuế là sản xuất tại Nhật Bản. Do
bất cập trong hiệp ước thuế quan giữa Mỹ và Nhật Bản mà cả hai quốc gia này bị
thất thu thuế và tập đoàn Intel đã tránh được khoảng thuế phải nộp.
-Một cách tránh thuế đánh vào lợi nhuận phổ biến là các công ty sẽ đầu tư mở chi
nhánh tại Puerto Rico. Sau đó các công ty này sẽ chuyển các tài sản có giá trị như:
bí quyết thương mại, bằng sáng chế và các hoạt động R&D đến Puerto Rico. Các
MNC sẽ khai báo phần lớn lợi nhuận kiếm được là tại Puerto Rico và với thuế suất
thấp tại đây thì các MNC sẽ tối thiểu được thuế phải nộp. Theo một thông báo của
cơ quan thuế của Mỹ thì trong vòng 7 năm các MNC đã làm thiệt hại 95 tỷ USD
cho ngân khố Mỹ.
Trước tình hình chuyển giá do các MNC thực hiện trên đất Mỹ thì cơ quan thuế của Mỹ đã
có ban hành các qui định, các đạo luật chống chuyển giá. Một trong những đạo luật chống
chuyển giá cơ bản và đầy đủ là IRS Sec 482. Đạo luật này quy định nguyên tắc căn bản
giá thị trường là cơ sở cho thực hiện định giá chuyển giao giữa các MNC với nhau nhưng
đồng thời cổ vũ cho việc vận dụng phương pháp định giá chuyển giao trên cơ sở chiết tách
lợi nhuận. Năm 1993, căn cứ theo Omnibus Budget Reconciliation Act, Đạo luật chống
chuyển giá IRS Sec 6662 ra đời kèm theo một số thay đổi nhằm chặt chẽ hơn và tăng
cường hiệu quả chống chuyển giá. Trong Đạo luật 6662 có hai nguyên tắc chế tài mới
dành cho hành vi chuyển giá:
-Phạt chuyển giá trong giao dịch (Transactional Penalty): là loại hình chế tài khi có
chênh lệch đáng kể trong giá chuyển giao nếu so sánh với căn bản giá thị trường
theo Quy định IRS sec 482, mà hậu quả là số thu nhập chịu thuế không phản ánh

đúng thực tế của nghiệp vụ phát sinh. Mức phạt chuyển giá 20% dành cho trường
hợp có sai sót đáng kể do chuyển giá khi chuyển giá vượt quá mức 200% (hay ít
hơn 50%) so với mức mà IRS sec 482 xác định được.
-Phạt bổ sung (Net Adjustment Penalty): phạt bổ sung được áp dụng nếu phần thu
nhập chịu thuế sau khi tính lại theo IRS Sec 482 tăng vượt mức qui định có thể cho
trước. Ví dụ khoản phạt bổ sung 20% trên số thuế truy thu sẽ áp dụng trong trường
hợp phần thu nhập tăng thêm vượt quá mức thấp nhất trong hai mức sau – 5 triệu
USD hoặc 10% trên tổng số thuế phải nộp. Phạt bổ sung 40% trên số thuế truy thu
sẽ áp dụng trong trường hợp phần thu nhập tăng thêm vượt quá mức thấp nhất trong
hai mức sau – 20 triệu USD hoặc 20% trên tổng số thuế phải nộp.
1.5.2Kinh nghiệm chống chuyển giá tại Trung Quốc
Trung Quốc là quốc gia có nền kinh tế đang phát triển mạnh trong thời gian gần đây, là
một quốc gia thu hút nhiều nhất các nguồn vốn FDI trên thế giới. Đây là một thị trường
đầy tiềm năng về nguồn lực cũng như thị trường tiêu thụ rộng lớn vì vậy mà các MNC đều
muốn tham gia vào thị trường này. Thực tế trong năm 2005, Trung Quốc đã thu hút được
52 tỷ USD từ nguồn vốm FDI và có hơn 150.000 công ty FDI đang hoạt động tại quốc gia
này. Các công ty FDI sử dụng hơn 20 triệu lao động, chiếm khoản một nửa kim ngạch
xuất nhập khẩu nhưng hầu hết kết quả này là giao dịch nội bộ trong tập đoàn.
Theo kết quả điều tra của cơ quan thuế Trung Quốc thì thông qua hoạt động sản xuất kinh
doanh thì các MNC đang thực hiện thủ thuật chuyển giá nhằm tránh nộp thuế thu nhập.
Các công ty này vẫn đang tiếp tục khai lỗ trong khi lại tăng cường mở rộng sản xuất tại
Trung quốc. Chính phủ Trung Quốc đang tiến hành những cuộc kiểm tra hoạt động của
các công ty FDI này đặc biệt là đối với hành vi chuyển giá. Tuy nhiên Trung Quốc là một
quốc gia cũng mới phát triển, chưa có kinh nghiệm trong công tác chống chuyển giá và
luật pháp cũng chưa bắt kịp với tình hình kinh tế hiện tại và công tác kiểm tra chưa được
chuẩn bị tốt. Vì vậy mà các cuộc kiểm tra này mang tính chất thu thập kinh nghiệm và tỏ
ra ngần ngại phải đưa ra kết luận các MNC có thực hiện hành vi chuyển giá. Một nguyên

nhân khác là trong thời gian này Trung Quốc đang thu hút FDI và xem đây là một nguồn
lực lớn để thúc đẩy phát triển kinh tế.
Trong thời gian điều tra thì cơ quan thuế của Trung quốc (China SAT) đã thanh tra và điều
chỉnh gần 1600 trường hợp chuyển giá trong năm 2004 (nguồn hội thảo về chống chuyển
giá và cập nhật tình hình thuế tại Nhật Bản và Việt Nam của Công ty kiểm toán Vaco
Deloitte). Các doanh nghiệp thường được chọn là đối tượng điều tra là các doanh nghiệp
khai lỗ trong 2 năm hoặc nhiều hơn 2 năm, các doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận thấp hơn
so với các doanh nghiệp cùng ngành. Cơ quan thuế Trung Quốc (China SAT) đã ban hành
“Qui định về quản lý thuế đối với các giao dịch giữa các bên liên kết, luật quản lý thuế số
59 vào tháng 4 năm 1998”.
Các qui định chống chuyển giá của Trung Quốc cũng xây dựng dựa trên cở sở hướng dẫn
của OECD, tuy nhiên luật chống chuyển giá của Trung Quốc có một số điểm khác cơ bản
so với luật chống chuyển giá của Mỹ như sau:
-Nghĩa vụ nộp thuế ở Trung Quốc không được hợp nhất, nếu một tập đoàn kinh tế
có các chi nhánh tại các tỉnh thành khác nhau của Trung Quốc sẽ chịu thanh tra về
thuế chống chuyển giá nhiều lần.
-Một điểm khác nữa là, khi cơ quan thuế của tỉnh này chấp nhận một vấn đề nào đó
về thuế thì chưa chắc cơ quan thuế ở địa phương khác chấp nhận. Điều này khác
hoàn toàn nếu các tập đoàn kinh tế có nhiều chi nhánh tại Mỹ, các vấn đề về thuế
được cơ quan thuế tiểu bang chấp nhận thì xem như là được chấp nhận tại các tiểu
bang khác.
-Nếu bị xác định là có hành vi chuyển giá tại công ty, thì các điều chỉnh về định giá
chuyển giao do cơ quan thuế Trung Quốc đưa ra sẽ được áp đặt cho tất cả các loại
thuế có liên quan như: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế GTGT, thuế xuất nhập
khẩu… Trong khi tại Mỹ chỉ áp đặt tính lại thuế thu nhập doanh nghiệp mà thôi.

-Tại Mỹ, các chỉ số về mức nâng giá hợp lý do cơ quan thuế lập nên dựa trên các
nguồn thông tin đại chúng và mọi người đều biết. Nhưng tại Trung Quốc thì cơ
quan thuế Trung Quốc xây dựng các nguồn dữ liệu từ việc so sánh bí mật.
-Luật thuế chống chuyển giá của Trung Quốc cần phải phối hợp hài hòa giữa hai
mục tiêu là quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các MNC đang hoạt động
tại Trung Quốc, nhưng đồng thời phải đảm bảo mục tiêu thu hút vốn đầu tư nước
ngoài.
Nghiên cứu pháp luật thuế của Trung Quốc tìm ra những mối tương đồng giữa nền kinh tế
Trung Quốc và Việt Nam, từ đó có thể rút ra những bài học bổ ích trong quá trình xây
dựng các chính sách quản lý thuế chống chuyển giá cho các MNC Việt Nam. Chúng ta có
thể thấy hai mối tương quan giữa nền kinh tế Trung Quốc và Việt Nam như sau:
-Đều là nền kinh tế thị trường sơ khai, vừa chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang. Đặc
điểm về chính trị cũng giống nhau là có một đảng duy nhất và cả hai quốc gia đều
đặt nền kinh tế dưới sự quản lý của Đảng theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa.
-Đều là nền kinh tế đang trong giai đoạn phát triển và có sức thu hút mạnh nguồn
vốn FDI.
1.5.3Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam
Thông qua kinh nghiệm chống chuyển giá của Mỹ, Trung Quốc và một số quốc gia khác
trong khu vực, chúng ta có thể rút ra một vài kinh nghiệm chống chuyển giá có thể áp
dụng cho Việt Nam như sau:
-Xây dựng và hoàn chỉnh pháp luật về kinh tế, chuẩn bị sẵn sàng cho việc tiếp nhận
đầu tư nước ngoài phục vụ cho việc phát triển kinh tế đất nước. Phải đảm bảo pháp
luật kinh tế bắt kịp sự phát triển kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế phát
triển nhưng đồng thời phải ngăn chặn hiệu quả các hành vi gây tiêu cực cho nền
kinh tế.

-Xây dựng luật thế phù hợp với tình hình kinh tế trong nước và xu thế của các nước
trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam bên cạnh việc tăng cường tính cạnh tranh
trong việc thu hút vốn đầu tư thì phải chọn lọc các dự án đầu tư nhằm mang lại hiệu
quả kinh tế xã hội cao. Luật thuế phải đảm bảo các mục tiêu là đảm bảo tính công
bằng về quyền lợi và nghĩa vụ thuế đối với các thành phần kinh tế, đảm bảo nguồn
thu thuế và đồng thời phải đảm bảo kích thích thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
-Phải nghiên cứu và tìm hiểu lịch sử phát triển kinh tế của các quốc gia phát triển đi
trước cũng như các quốc gia trong khu vực có những nét tương đồng về kinh tế.
Chúng ta phải tiếp thu những kinh nghiệm quý báu và những thành công kinh tế mà
các quốc gia này đạt được để áp dụng vào kinh tế Việt Nam giúp cho kinh tế Việt
Nam phát triển nhanh và đón đầu kinh tế thế giới. Nhưng đồng thời phải tránh
những sai lầm mà các quốc gia đã vấp phải để rút ngắn thời gian phát triiển kinh tế.
-Việt Nam cần phải chuẩn bị nguồn nhân lực với chất lượng cao nhằm phục vụ cho
việc quản lý nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Nguồn nhân sự này phải được thường
xuyên cập nhật kiến thức về kinh tế, kinh nghiệm quản lý kinh tế, kinh nghiệm về
hoạt động chuyển giá của các MNC tại các quốc gia trên thế giới.
Các cơ quan quản lý kinh tế của Việt Nam, đặc biệt là cơ quan Thuế và Hải Quan cần phải
giao lưu học kinh nghiệm với các nước. Cần phải phối hợp với cơ quan quản lý các nước
cùng nhau hành động chống lại các hành động chuyển giá mà các MNC gây ra làm ảnh
hưởng tiêu cực đến kinh tế của các quốc gia.

Kết luận Chương 1:
Định giá chuyển giao nội bộ và chuyển giá là hai mặt của một vấn đề. Định giá chuyển
giao là một công cụ quản lý hữu hiệu của các MNC nhằm chia sẻ và sử dụng nguồn lực
một cách hiệu quả. Khi nói đến định giá chuyển giao là chúng ta muốn nói đến khía cạnh
khách quan của việc quản lý và sử dụng nguồn lực nhằm giúp các MNC thực hiện mục
tiêu quản lý trên phạm vi toàn cầu. Việc định giá mua bán nội bộ được thực hiện dựa trên
cơ sở tính toán và phương pháp tính toán khách quan, tuân theo các quy luật thị trường và
được chấp nhận rộng rãi tại nhiều quốc gia.
Chuyển giá là việc thực hiện áp đặt giá cả một cách chủ quan trong quan hệ mua bán của
các thành viên trong nội bộ MNC. Chuyển giá có tác động tiêu cực đến các quốc gia tiếp
nhận đầu tư và cả các quốc gia liên quan mà đối tượng được lợi nhiều nhất là bản thân
MNC. Thông qua chuyển giá các MNC sẽ thực hiện việc trốn thuế, thực hiện việc lũng
đoạn thị trường làm ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến các doanh nghiệp làm ăn chân
chính, tác động xấu đến môi trường kinh doanh.
Vấn đề chuyển giá hiện nay đang làm đau đầu các nhà quản lý từ các quốc gia phát triển
nhất như Mỹ, Nhật cho đến các quốc gia mới bước qua cơ chế kinh tế thị trường như Việt
Nam. Với những thủ đoạn và chiêu thức ngày càng tinh vi thì các MNC đã gây ra nhiều
khó khăn và thậm chí vô hiệu hóa các công cụ quản lý của các quốc gia. Chuyển giá đã
làm cho các quốc gia thất thu thuế một cách nặng nề. Vì vậy, thiết nghĩ các quốc gia cần
phải có sự phối hợp trong công tác chống lại chuyển giá, đừng vì lợi ích riêng của quốc gia
mình mà dung túng cho các MNC có hành vi chuyển giá.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHUYỂN GIÁ TẠI VIỆT NAM
2.1Môi trường pháp lý và tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp (FDI) tại Việt Nam
Nếu năm 2007, Việt Nam thu hút được 20,3 tỷ USD từ FDI và được coi là mức kỷ lục từ
khi mở của thu hút vốn đầu tư năm 1988 đến năm 2006. Trong năm 2008, lượng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài đã nâng lên gấp 3 lần năm 2007 và lập mốc kỷ lục mới là 64 tỷ USD.
Trong đó đáng chú ý là các dự án dầu khí có tổng giá trị trên 10 tỷ USD và dự án của
Formosa với 7,8 tỷ USD.
Trong các quốc gia đầu tư vào Việt Nam trong năm 2008 thì Malaysia là quốc gia dẫn đầu
với 14,9 tỷ USD với 55 dự án . Kế tiếp là các quốc gia Đài Loan (8,64 tỷ USD) với 132 dự
án, Nhật Bản (7,28 tỷUSD) với 105 dự án, Singapore ( 4,46 tỷ USD) với 101 dự án, Brunei
(4,4 tỷ USD) với 19 dự án.
Các địa phương thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhiều nhất trong năm 2008 (trừ 8
dự án thăm dò và khai thác dầu khí) là Ninh Thuận do có dự án liên doanh sản xuất thép với
tập đoàn Lion Malaysia với tập đoàn Vinashin có tổng mức đầu tư đăng ký là 9,79 tỷ USD.
Đứng thứ hai là tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu có 4 dự án với tổng mức vốn đăng ký lên đến 9,35
tỷ USD, TP.HCM, Hà Tĩnh và Thanh Hóa. Như vậy chúng ta có thể thấy cơ cấu các tỉnh
thành dẫn đầu trong việc thu hút vốn đầu tư có thay đổi và các tỉnh Miền Trung đã có
những bước tiến đáng chú ý. Trong đó đáng chú ý là tỉnh Bà Rịa – Vũng tàu thu hút đến
9,35 tỷ USD (gần bằng cả năm 2006 thu hút vốn đầu tư của cả nước 10,2 tỷ).
Để có một cái nhìn tổng quát thì chúng ta cùng nhìn lại toàn bộ quá trình thu hút vốn đầu tư
từ lúc bắt đầu mở cửa nền kinh tế năm 1988 đến năm 2008.
Bảng 2.1 Tình hình thu hút vốn đầu tư FDI từ năm 1988 năm 2008

m
198
8
198
9
199
0
199119921993 1994 1995 199619971998
Triệ
u
US
D
371,
8
582,
5
839 1
322,3
2.16
5
2.90
0
3.765,
6
6.530,
8
8.497,
3
4.649,
1
3.89
7

Năm1999200020012002 200320042005 2006 2007 2008
Triệ
u
US
D
1.5682.012,
4
2.50
3
1.557,71.512,
8
2.08
4
5.30010.20020.30064.00
0
(Nguồn VietPartners)
Thông qua xem xét biểu đồ thu hút vốn đầu tư từ năm 1998 đến nay, chúng ta có thể chia
thành ba giai đoạn chính:
Giai đoạn từ năm 1988 đến năm 1996: Đây là giai đoạn đầu tiên thực hiện mở cửa thu hút,
kêu gọi đầu tư. Năm 1988 cũng là năm đầu tiên thực hiện luật đầu tư nước ngoài, ngay năm
1988 chúng ta đã thu hút được 37 dự án đăng ký với số vốn là 371,8 triệu USD. Sau hai
năm thì số dự án được cấp phép hoạt động đã lên tới 107 dự án với tổng số vốn là 839 triệu
USD, tốc độ tăng thu hút vốn tăng cao và quy mô vốn trung bình đạt 8,42 triệu USD/dự án.
Đồng thời trong gia đoạn (1991- 1995) luật đầu tư sửa đổi kịp thời (2 lần vào năm 1990 và
1992) đã bổ sung và tăng cường chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài một cách hiệu
quả. Trong giai đoạn này, chính phủ đồng thời quyết định thành lập một loạt các khu công
nghiệp tại các địa phương cũng đã tạo ra được một lực hút mạnh đối với FDI. Kết quả đạt
được là số dự án được cấp phép đã đạt 6,24 lần tổng vốn đăng ký và gấp 9,3 lần so với thời
kỳ hai năm đầu 1988 và 1989. Đồng thời trong giai đoạn này thì tổng vốn FDI cũng đạt
đỉnh điểm tại năm 1996 với con số là 8 497,3 triệu USD. Từ những con số nêu trên đã cho
chúng ta thấy được những thành công ban đầu trong công tác thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài của chính phủ Việt Nam.
Giai đoạn từ năm 1997 đến năm 2003: Tháng 7 năm 1997 xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế
trong khu vực, các nước chịu tác động lớn nhất của cuộc khủng hoảng này là Thái Lan,
Philippines, Indonesia và Malaysia… Nước ta lại nằm ngoài “tâm bão”, đây chính là thời
cơ cho việc thu hút nguồn vốn quốc tế khi mà các nước trong khu vực phải đang đối đầu
với cuộc khủng hoảng kinh tế. Nhưng do chưa chuẩn bị tốt và việc sửa đổi luật đầu tư năm
1996 vẫn chưa đủ hấp dẫn để có thể thu hút FDI vì vậy mà trong giai đoạn này việc thu hút
vốn FDI của nước ta giảm đi một cách nhánh chóng. Việc thu hút vốn FDI giảm từ 8497,3

triệu USD năm 1996 xuống 4649,1 triệu USD (gần 50 %), và tiếp tục giảm trong những
năm kế tiếp. Tuy Việt Nam không năm trong “tâm bão” của cuộc khủng hoảng tài chính,
nhưng chúng ta cũng bị ảnh hưởng nặng nề và kéo dài sang những năm sau đó. Kết quả là
việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp FDI tiếp tục giảm mạnh và ở mức thấp nhất là 1.568 triệu
USD vào năm 1999. Để cải thiện tình hình thu hút vốn đầu tư thì vào năm 2000, Quốc hội
đã quyết định bổ sung và sửa đổi Luật Đầu Tư Nước Ngoài thay thế luật bổ sung năm 1996.
bước đầu luật được sửa đổi bổ sung tỏ ra hiệu quả. Trong hai năm 2000 và 2001 thì tình
hình thu hút vốn FDI có được cải thiện, tuy nhiên do dư chấn của cuộc khủng hoảng kinh tế
Châu Á vẫn còn và các sửa đổi bổ sung của luật đầu tư vẫn chưa đủ hấp dẫn để kích thích
việc gia tăng thu hút FDI, vì vậy mà nguồn vốn FDI lại tiếp tuc bị tuột dốc và thấp hơn cả
năm 1999 đạt con số 1 512,8 triệu USD vào năm 2003.
Giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2008: Đây là giai đoạn phục hồi và tăng tốc một cách
nhanh chóng của việc thu hút vốn FDI. Sau khi cơn bão tài chính qua đi, kinh tế của các
nước Châu Á đã vực dậy và phát triển nhanh chóng. Nền kinh tế Việt Nam cũng không là
ngoại lệ. Việt Nam và Trung Quốc trở thành những quốc gia có sức hút mạnh đối với đầu tư
trực tiếp nước ngoài, và luôn nằm trong danh sách các quốc gia dẫn đầu thu hút FDI. Năm
2006, Luật Đầu Tư và Luật Doanh Nghiệp mới ra đời đánh dấu một bước ngoặc mới và một
bước tiến quan trọng trên lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực luật pháp. Chính
phủ đã phân cấp cho chính quyền tỉnh, thành phố việc thẩm định và cấp phép. Việc này đã
tạo ra sự chủ động trong việc quản lý nguồn vốn FDI tại các địa phương và quan trọng hơn
là tạo ra một cuộc thi đua giữa các địa phương thực hiện việc cải cách hành chính thông
thoáng, tạo ra điều kiện tốt cho môi trường đầu tư. Từ đó tăng cường việc thu hút đầu tư và
tạo cho các nhà đầu tư cảm thấy thuận tiện. Kết quả của việc cải cách hành chính của các
địa phương cho ta kết quả hết sức khả quan là năm 2006 đạt mức thu hút vốn FDI là 10,2 tỷ
USD vượt qua mức kỷ lục năm 1996. Tiếp tục năm 2007, việc thu hút FDI lại lập ra một kỷ
lục mới ở mức 20,3 tỷ USD. Năm 2008, mặt dù tính hình kinh tế thế giới khó khăn, giá dầu
và lạm phát tăng cao nhưng việc thu hút FDI của Việt Nam vẫn tăng rất cao và tiếp

tục tạo ra một kỷ lục mới tại mức 64 tỷ USD. Điều này chứng tỏ Việt Nam là đang là nơi lý
tưởng để thu hút vốn đầu tư, và là môi trường đầu tư cạnh tranh.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế từ lúc mở của nền kinh tế kêu gọi đầu tư nước
ngoài vào năm 1987 đến khi chính thức trở thành thành viên của WTO thì hệ thống pháp
luật kinh tế của Việt Nam cũng có rất nhiều thay đổi để phù hợp với tình hình kinh tế trong
nước và phù hợp với thông lệ quốc tế. Chúng ta không thể phủ nhận vai trò quan trọng của
pháp luật đối với sức thu hút FDI của nền kinh tế. Từ khi mở của kinh tế đến nay, mỗi lần
chỉnh sửa Luật Đầu Tư gần với thông lệ quốc tế hơn là mỗi lần chúng ta lại gặt hái được
thành công trong việc thu hút vốn FDI về cả số lượng và chất lượng.
2.2Phân tích tình hình hoạt động chuyển giá của các doanh nghiệp FDI trong thời
gian qua tại Việt Nam
2.2.1Khái quát chung về tình hình chuyển giá tại Việt Nam
Theo thống kê của Cục thuế Thành Phố Hồ Chí Minh thì có hơn 70% các doanh nghiệp FDI
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh kê khai lỗ mặc dù làm ăn tốt và tăng trưởng cao, điều
này cho thấy hiện tượng chuyển giá trong các doanh nghiệp FDI là rất nghiêm trọng. Trong
năm 2006, hầu hết các nguồn thu ngân sách đều tăng, chỉ có nguồn thu từ khu vực đầu tư
nước ngoài (FDI) là thấp hơn dự toán ngân sách tới 7%. Thông tin xấu trên được công bố
trong báo cáo kiểm toán nhà nước và thẩm tra của Ủy Ban Tài Chính Ngân Sách. Theo luật
định, quyết toán ngân sách nhà nước năm 2006 phải 18 tháng sau mới hoàn tất thủ tục kiểm
toán. Thời gian quá dài để có thể đưa ra một bảng báo cáo kiểm toán nhưng đó không phải
là nguyên nhân chủ yếu mà tình trạng gian dối của các doanh nghiệp FDI (theo ý kiến phát
biểu của tiến sĩ Trần Du Lịch tại kỳ hợp Quốc hội diễn ra ngày 10 tháng 05 năm 2008).
Tình hình khai lỗ của các doanh nghiệp FDI càng phổ biến và nghiêm trọng hơn trong
những năm đầu mở của kêu gọi đầu tư, khi mà luật pháp chưa được chuẩn bị tốt để có thể
bắt kịp với sự gia tăng nhanh chóng của FDI cũng như trình độ quản lý của các cơ quan

quản lý về thuế so với trình độ quản lý của các doanh nghiệp FDI các nước. Chúng ta cùng
xem xét số liệu thông kê tình hình khai lỗ của các doanh nghiệp do Cục Thuế Thành Phố
Hồ chí Minh và Cục Thống kê thực hiện.
Bảng 2.2: Tình hình khai lỗ tại các doanh nghiệp FDI trên địa bàn TP.HCM
Năm Sốdoanh nghiệp
được khảo
sát
Sốdoanh nghiệp
FDI kê khai
lỗ
Tỷ Lệ (%)
1996 451 310 68,7%
1997 510 358 70,2%
1998 500 341 68,2%
1999 395 281 71,1%
2000 352 235 66,8%
2001 704 545 77,4%
Trung bình 71,1%
Nguồn: Cục Thuế TP.HCM
Thông qua số liệu trong bảng trên, chúng ta có thể thấy được 71,1% các doanh nghiệp được
khảo sát đã kê khai lỗ. Vậy trong số các doanh nghiệp này, có bao nhiêu doanh nghiệp lỗ
thiệt và bao nhiêu doanh nghiệp nào lỗ giả (thực hiện các hành vi chuyển giá hay gian lận
trong kê khai thuế).
Một nguồn số liệu khác từ Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư cũng tiến hành khảo sát các doanh
nghiệp FDI hoạt động trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, kết quả công bố chỉ trong 6
tháng đầu năm năm 2005 trong 1.450 doanh nghiệp FDI được khảo sát thì đã có đến 1.260
doanh nghiệp kê khai làm ăn thua lỗ, chiếm đến 87% các doanh nghiệp được khảo sát. Các
doanh nghiệp làm ăn có lãi chỉ có 190 doanh nghiệp tương đương khoảng 13% các doanh
nghiệp được khảo sát. Đứng trước những con số thống kê trên cho thấy được tình hình
nghiêm trọng của hành vi chuyển giá các doanh nghiệp FDI. Tính đến tháng 12 năm 2005
đã có 116 doanh nghiệp liên doanh chuyển sang hình thức công ty 100% vốn nước ngoài và

tổng số vốn đầu tư lên đến 1,3 tỷ USD. Nguyên nhân chủ yếu của việc chuyển đổi hình thức
sở hữu doanh nghiệp này là do thua lỗ kéo dài và bên phía liên doanh Việt Nam không còn
đủ khả năng tài chính để tiếp tục hợp tác kinh doanh vì vậy phải bán phần vốn của mình lại
cho đối tác.
Bảng 2.3: Số các doanh nghiệp FDI kê khai lỗ qua các năm do Bộ Kế Hoạch và Đầu
Tư khảo sát
Năm Số doanh nghiệp
được khảo sát
Số doanh nghiệp
khai
lỗ
Tỷ lệ %
1995 525 390 74,3%
1996 654 481 73,6%
1997 860 576 67%
1998 981 702 71,5%

2003 525 390 74,3%
2004 654 481 73.6%
2005 1.450 1.260 87%
(Nguồn: Tổng kế hoạch thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài 1998 – 2000, Bộ Kế Hoạch
ĐầuTư năm 2001 và Bộ Kế Hoạch Đầu Tư năm 2005)
Từ những con số thống kê trên, nghi ngờ tính trung thực trong các báo cáo kê khai nộp thuế
do các doanh nghiệp nộp về cơ quan thuế. Trong vòng 6 tháng đầu năm 2005 thì Cục thuế
TP.HCM đã tiến hành kiểm tra hơn 50 doanh nghiệp có vốn FDI và phát hiện ra nhiều sai
phạm của các công ty này. Các doanh nghiệp này khai man lợi nhuận trước thuế và tổng số
thuế truy thu từ các doanh nghiệp gần 60 tỷ đồng. Trong năm 2008, Cục Thuế TP.HCM đã
thực hiện việc kiểm tra kết quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp may mặc trên
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong hai năm 2005 và 2006 thì kết quả thu được không lấy
làm khả quan. Kết quả kinh doanh trong năm 2005 của 128 doanh nghiệp may mặc được

kiểm tra thì chỉ có 25 doanh nghiệp làm ăn có lãi và tỷ suất sinh lợi bình quân là 6,07%.
Như vậy tỷ suất sinh lợi của các công ty này nhỏ hơn cả lãi suất ngân hàng tại thời điểm lúc
bấy giờ vì vậy chúng ta có thể đặt câu hỏi liệu có hiện tượng chuyển giá xảy ra ở các doanh
nghiệp này không?
Bảng 2.4: Bảng danh sách 25 trên 128 doanh nghiệp được phân tích ngành may mặc
có lãi trong năm 2005
S
T
T
TÊN DOANH NGHIỆP DOANH THU LỢI NHUẬN
LỢI
NHUẬN
TRÊN
DOANH
THU
1Cty TNHH PROCEEDING 71.700.523.3525.419.201.6907,55 %
2Cty TNHH GUNZE (Việt Nam) 145.608.221.6107.782.018.6635,34 %
3Cty TNHH SX UPGAIN (VN) 111.562.737.30612.610.893.64511,30 %
4Cty TNHH IGM 20.485.601.726722.522.683 3,52 %
5Cty May Mặc Quảng Việt 64.595.759.4471.078.168.0201,67 %
6Cty TNHH May Mặc Wonderful
SG
14.748.869.266220.085.743 1,49 %
7Cty TNHH Đại Quang Maika 13.509.078.199398.343.680 2,95 %
8Cty TNHH May Mặc Quốc Miên 29.922.031.1251.407.485.9674,70 %
9Cty TNHH TI - HUA VIETNAM 4.106.437.998164.894.872 4,01 %
1
0
Cty LD May Seven Corporation20.166.795.5111.871.880.3049,28 %
1
1
Cty TNHH ELAND VIETNAM 90.937.378.6156.667.386.4727,33 %
1
2
Cty Cổ Phần May Phương Đông 421.950.312.7874.365.337.4441,03 %
1
3
Cty Liên Doanh Vĩnh Hưng 140.095.404.6943.140.195.3642,24 %
1
4
Cty TNHH Sae Hwa Vina 279.012.455.13813.440.801.9764,81 %
1
5
Cty Cổ Phần Việt Hưng 63.175.817.3466.066.773.5329,60 %
1
6
Cty TNHH Wooyang Vina 90.823.077.86719.412.299.28821,37 %

1
7
Cty LD Newell Nhà Bè Việt Nam24.135.767.8711.061.076.2004,39 %
1
8
Cty TNHH O-Sung Vina 18.462.460.9192.847.919.25315,42 %

S
T
T
TÊN DOANH NGHIỆP DOANH THU LỢI NHUẬN
LỢI
NHUẬN
TRÊN
DOANH
THU
1
9
Cty TNHH King Ken 25.845.761.0534.280.830.62016,56 %
2
0
Cty TNHH LD Kavio Đông á 44.424.679.9845.917.768.42513,32 %
2
1
Cty TNHH Super Art (Việt Nam)48.624.913.2035.724.932.31111,77 %
2
2
Cty Cổ Phần May Phú Thịnh Nhà

29.847.672.3343.079.301.50910,31 %
2
3
Cty TNHH May DN Trên Không 8.601.904.417252.061.984 2,93 %
2
4
Cty TNHH Hae Chang Vina 2.004.002.118281.087.581 14,02 %
2
5
Cty TNHH Đông Nam Việt Nam 5.026.310.250321.343.253 6,39 %
1.789.373.974.1
36
108.534.610.47
9
6.06 %
(Nguồn Cục Thuế TP.HCM)
Cục thuế TP.HCM tiếp tục thực hiện kiểm tra và phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của 128 doanh nghiệp may mặc trên địa bàn thành phố thì kết quả chỉ có 24 doanh
nghiệp làm ăn có lãi và tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu chỉ còn 5,64%. Như vậy kết quả
kinh doanh của các doanh nghiệp may năm 2006 cho chúng ta thấy được khả năng có hoạt
động chuyển giá tại các doanh nghiệp này càng cao hơn.
Bảng 2.4: Bảng danh sách 24 trên 128 doanh nghiệp được phân tích ngành may mặc
có lãi trong năm 2006
ST
T
TÊN DOANH NGHIỆP DOANH THU LỢI NHUẬN
LỢI
NHUẬN
TRÊN
DOANH
THU
1Cty Cổ Phần May Nhà Bè 1.304.572.832.99
0
21.956.679.5021,68%

2Cty TNHH GUNZE (VIệT
NAM)
169.115.911.1088.489.907.8835,02%
3Cty TNHH SX UPGAIN (VN) 167.238.124.46617.589.243.79110,52%
4Cty TNHH Đại Quang Maika 15.512.271.9231.235.661.7097,96%
5Cty LD May Seven Corporation34.516.509.4247.101.297.16020,57%

ST
T
TÊN DOANH NGHIỆP DOANH THU LỢI NHUẬN
LỢI
NHUẬN
TRÊN
DOANH
THU
6Cty TNHH ELAND
VIETNAM
98.800.582.3897.666.767.0727,76%
7Cty TNHH Vĩnh Phát 4.609.361.94996.999.962 2,10%
8Cty TNHH Hansae Việt Nam 387.444.806.01314.794.273.9513,82%
9Cty Cổ Phần Việt Hưng 80.063.471.9992.938.108.1713,67%
10Cty TNHH May Effort 17.538.405.1261.498.804.7508,55%
11Cty TNHH Wooyang Vina 126.811.871.44432.817.167.29625,88%
12
CtyTNHH Perfect
Quality
Industrial (VN) Inc
8.278.366.182358.144.365 4,33%
13Cty TNHH O-Sung Vina 25.605.685.9281.784.957.7676,97%
14Cty TNHH Dệt Đông Minh
(VN)
84.336.761.42510.031.630.52711,89%
15Cty TNHH LD Kavio Đông á 44.424.679.9845.917.768.42513,32%
16Cty TNHH Yesum Vina 35.354.797.4505.210.816.35714,74%
17Cty TNHH New Trend 7.042.768.251463.207.766 6,58%
18Cty CP May Phú Thịnh Nhà Bè35.075.879.3103.253.646.0569,28%
19Cty TNHH Haekwang Vina 7.942.493.777926.588.165 11,66%
20
Cty TNHH May Xuất Khẩu Sơn
Hà Vina
26.824.882.7703.664.852.37113,66%
21Cty TNHH May DN Trên
Không
7.513.820.971532.766.260 7,09%
22Cty TNHH Ampfield (Việt
Nam)
20.071.201.136789.075.327 3,93%
23Cty TNHH May SHIN DONG 26.655.296.3964.646.595.61217,43%
24Cty TNHH Hae Chang Vina 5.769.033.335713.926.557 12,37%
2.741.119.815.74
6
154.478.886.80
2
5,64%
(Nguồn Cục Thuế TP.HCM)

Một câu hỏi được đặt ra là tại sao các doanh nghiệp FDI có tiềm lực tài chính hùng hậu.
Trình độ quản lý cao thì nguyên nhân dẫn đến thua lỗ là do đâu? Thật ra nguyên nhân chủ
yếu dẫn đến tình trạng trên là do các doanh nghiệp FDI dựa vào sự chênh lệch thuế suất
thuế TNDN giữa các quốc gia để thực hiện hành vi chuyển giá. So với các nước trong khu
vực thì thuế suất thuế TNDN tại nước ta vẫn còn cao hơn so với các nước trong khu vực.
Thuế suất thuế TNDN tại Việt Nam trước thời điểm năm 2003 là 32% và cuối năm 2003
chính phủ đã giảm xuống còn 28% cho đến hết năm 2008. Bắt đầu từ năm 2009 thì thuế
suất thuế thu nhập doanh nghiệp của Việt Nam là 25 %.
Như vậy thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp tại Việt Nam so với thuế suất thuế thu nhập
doanh tại các nước trong khu vực và trên thế giới vẫn còn cao, vì vậy sẽ có một số hướng
chuyển lợi nhuận như bảng thuế suất sau.
Bảng 2.6: Thuế suất thuế TNDN tại các quốc gia vào thời điểm năm 2008
Quốc gia Thuế suất cao nhất
Hồng Kông 16,5%
Ireland 12,5%
Hungary 16%
Nga 24%
Đài Loan 25%
Hàn Quốc 27,5%
Úc 30%
Thái Lan 30%
Trung Quốc 25%
Pháp 33,33%
Mỹ 40%
Nhật Bản 40,69%
Việt Nam 28%
(Nguồn: KPMG 2008 khảo sát về Thuế suất thuế TNDN)

Căn cứ vào bảng thuế suất được khảo sát vào năm 2002 thì thuế suất tại Việt Nam được
xem là thuộc nhóm các quốc gia có thuế suất cao trong khu vực. Mặc dù đến cuối năm 2003
chính phủ đã có sự điều chỉnh thuế suất từ 32% xuống 28% nhưng trong thời gian này thì
các quốc gia trong khu vực cũng điều chỉnh thuế suất xuống mức thấp hơn. Như Singapore
điều chỉnh thuế suất từ 20% xuống 19%, Philippine điều chỉnh thuế suất từ 35% xuống 30%
và gần đây nhất là Trung Quốc điều chỉnh thuế suất từ 33% xuống mức thuế suất mới là
25% để tăng tính cạnh tranh và chuyển hướng hoạt động chuyển giá. Sự cắt giảm thuế suất
của các quốc gia trong khu vực càng làm tăng thêm áp lực hoạt động chuyển giá của các
MNC lên Việt Nam.
Một trong những nguyên nhân khác dẫn đến tình trạng chuyển giá xảy ra một cách nghiêm
trọng tại Việt Nam là do luật pháp chưa hoàn thiện và luật pháp thường có một độ trễ so với
tình hình thực tế kinh tế quốc gia đó. Các qui định pháp luật còn nhiều chỗ chưa phù hợp và
nhiều khe hở, vì vậy mà các MNC lách luật hay trái luật để thực hiện các hành vi chuyển
giá mà không bị phát hiện. Mặt khác năng lực của cán bộ thuế còn nhiều hạn chế và cơ
quan quản lý chưa xây dựng được một cơ sở dữ liệu về giá cả của các giao dịch nội bộ để
có cơ sở làm căn cứ để so sánh. Năng lực về thẩm định giá của cán bộ vẫn còn hạn chế. Các
yếu kém trên cần được khắc phục để tránh làm mất nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Theo một báo cáo mới đây của Bộ Tài Chính thì tình hình hoạt động chuyển giá diễn ra một
cách nghiêm trọng trong các ngành sản xuất lắp ráp ô tô, bia và các chất tẩy rửa. Hậu quả
của hoạt động chuyển giá đối với xã hội và quyền lợi của người dân rất nghiêm trọng, vì
vậy các cơ quan chức năng cần phải quan tâm và quản lý một cách hiệu quả hơn.
2.2.2Tìm hiểu một số trường hợp chuyển giá tiêu biểu tại Việt Nam
Các MNC thực hiện hành vi chuyển giá nhằm mục đích cuối cùng là tối đa hóa lợi nhuận
của mình và tối thiểu hóa số thuế mà MNC phải nộp cho chính phủ nước sở tại. Từ mục
đích này thì các MNC sẽ thực hiện hành vi chuyển giá bằng nhiều cách khác nhau. Thông
qua các tư liệu thì chúng ta có thể chia các hành động chuyển giá của các MNC tại Việt
Nam theo các nhóm tiêu biểu sau:

2.2.2.1Nâng giá trị vốn góp
Trong quá trình đầu tư vào Việt Nam để sản xuất kinh doanh, do các MNC có máy móc
thiết bị công nghệ hiện đại nên các MNC sẽ tiến hành góp vốn bằng máy móc thiết bị và
công nghệ hiện đại. Do phía Việt Nam chưa có đủ năng lực và trình độ để thẩm định giá các
loại thiết bị công nghệ hiện đại này nên thường sẽ bị các đối tác nước ngoài định giá các
thiết bị, công nghệ cao hơn giá trị thực tế của chúng. Việc định giá cao sẽ làm nâng giá trị
vốn góp trong liên doanh của bên đối tác và chiếm lấy quyền quản trị công ty. Về phía đối
tác Việt Nam đa phần chỉ góp vốn bằng giá trị sử dụng đất nên giá trị vốn góp trong liên
doanh thường rất thấp.
Việc định giá cao thiết bị máy móc đầu tư ban đầu đã giúp cho các MNC chuyển một lượng
tiền đi ngược trở ra cho công ty mẹ ngay từ lúc đầu tư và thông qua chi phí khấu hao hàng
năm sẽ làm cho nhà nước thất thu thuế. Một trường hợp như sau công ty nâng giá trị của
máy móc thiết bị lên 1.000 USD (giá trị thực của máy móc thiết bị chỉ có 10.000 USD,
nhưng khi góp vốn liên doanh thì đối tác nước ngoài đã nâng lên là 11.000 USD). Ngay khi
góp vốn nếu máy móc này được mua từ công ty mẹ thì đối tác nước ngoài đã chuyển 1.000
USD này về cho công ty mẹ và nếu máy móc này được khấu hao theo đường thẳng trong 10
năm thì mỗi năm chi phí khấu hao tăng thêm do phần định giá nâng lên là 100 USD một
năm. Thuế suất hiện nay là 28% thì Chính phủ Việt Nam mỗi năm mất thêm 28 USD tiền
thuế TNDN. Hiện tượng nâng giá này diễn ra một cách nghiêm trọng tại Việt Nam:
Ví dụ 1: Công ty Liên doanh gia cầm Việt Thái đi vào hoạt động với phần vốn góp của đối
tác Thái Lan là dây chuyền giết mổ, giá trị thực tế của dây chuyền này được thẩm định chỉ
có 400.000 USD. Nhưng khi tham gia góp vốn bên đối tác Thái Lan đã kê khai khống nâng
giá trị vốn góp của dây chuyền này lên đến 600.000 USD. Giá trị vốn góp nâng lên chiếm
đến 50% giá trị thật của dây chuyền giết mổ.
Ví dụ 2: một khách sạn liên doanh giữa Tổng Công ty Du lịch Sài Gòn và Vina Group đã
xác định giá trị đưa vào góp vốn của Vina Group là 4.340.000 USD. Nhưng theo sự thẩm
định giá của công ty giám định giá Quốc Tế thì giá trị tài sản góp vốn của Vina Group chỉ

có giá trị là 2.990.000 USD. Như vậy trong nghiệp vụ định giá giá trị góp vốn liên doanh
này phía Việt Nam đã bị thiệt 1.350.000 USD tương đương 45.2%.
Theo một báo cáo giám định của công ty kiểm định Quốc Tế về việc xác định giá trị vốn
góp của các bên liên doanh thực hiện vào năm 1993 cho ta kết quả trong bảng số liệu dưới
đây:
Bảng 2.7: Xác định giá trị vốn góp của các bên liên doanh
SốT
T
Tên dự án liên doanh
Giá trị thiết
bị khai
báo
Giá trị thiết
bị thẩm
định
Chênh
lệch do
khai
khống
Tỷ
lệ
kh
ai
khống
1 Liên doanh K/s Thăng Long 496.906 306.900 190.00640.43 %
(TP.HCM)
2 Công ty ô Tô Hòa Bình (Hà Nội)5.823.8184.221.5201.602.29827.51 %
3 Công ty BGI Tiền Giang 28.461.91420.667.4367.794.47827.38 %
4 Nhà máy sợ Joubo (TP.HCM) 3.497.8483.003.930493.91814.12 %
5 Khách Sạn Hà Nội (Hà Nội) 2.002.6121.738.752263.86013.17 %
6 TT Quốc tế DV – VP Hà Nội 1.288.1701.028.170260.00021.16 %
7 Công ty Sài Gòn VeWong 4.972.0734.612.640359.4337.22 %
(TPHCM)
(Nguồn: Báo cáo kết quả giám định của SGS năm 1993)
Tình trạng nâng giá tài sản góp vốn trên mang lại sự thiệt hại cho cả 3 đối tượng là phía liên
doanh góp vốn Việt Nam, chính phủ Việt Nam và cả người tiêu dùng Việt Nam. Bên liên
doanh Việt Nam bị thiệt trong phần vốn góp, làm cho tỷ lệ góp vốn nhỏ lại; Chính phủ Việt
Nam bị thất thu thuế; còn người tiêu dùng Việt Nam phải tiêu dùng sản phẩm với giá cả đắt
hơn giá trị thực tế của sản phẩm.

Do nâng giá trị tài sản góp vốn nên tỷ lệ vốn cao hơn phía Việt Nam, vì vậy bên đối tác
nước ngoài thường sẽ nắm quyền kiểm soát và điều hành doanh nghiệp. Đối tác nước ngoài
sẽ điều hành công ty theo mục đích của họ để cho tình hình thua lỗ kéo dài và bên liên
doanh Việt Nam không đủ tiềm lực tài chính để tiếp tục hoạt động đành phải bán lại phần
vốn góp và hàng loạt các công ty liên doanh trở thành công ty 100% vốn nước ngoài.
2.2.2.2Chuyển giá thông qua chuyển giao công nghệ
Ngoài việc nâng giá trị tài sản vốn góp khi tiến hành liên doanh thì các MNC còn thực hiện
việc chuyển giá thông qua việc chuyển giao công nghệ và thu phí tiền bản quyền, đây là
một loại chi phí chiếm tỷ trọng lớn do khấu hao giá trị tài sản cố định vô hình. Một ví dụ
điển hình cho việc chuyển giá thông qua chuyển giao công nghệ đó là tại Công ty Liên
doanh Nhà máy Bia Việt Nam.
Công ty Liên doanh Nhà máy Bia Việt Nam là một liên doanh hoạt động theo Luật Đầu tư
Nước ngoài được Ủy ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư (nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
cấp phép số 287/GP ngày 09 tháng 12 năm 1991. Hai đối tác liên doanh là Công ty Thực
phẩm II tại thành phố Hồ Chí Minh và Công ty Heneiken International Behler (Hà Lan).
Đến năm 1994 thì giấy phép liên doanh này được chuyển nhượng sang giấy phép số
287/GPDCI ngày 27/10/1994 liên doanh với Asia Pacific Breweries PTE.LTD (Singapore).
Tổng số vốn đầu tư là 49,5 triệu USD và vốn pháp định là 17 triệu USD. Bên liên doanh
Việt Nam chiếm 40% và bên liên doanh Singapore chiếm 60% vốn, ngành nghề sản xuất
của liên doanh là sản xuất bia để tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.
Khi đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì tình trạng kinh doanh của công ty bị thua lỗ
kéo dài qua các năm, nguyên nhân chủ yếu là do phải trả cho chi phí bản quyền quá cao và
tăng dần qua các năm. Trong tình hình công ty liên doanh thường xuyên thua lỗ, phía liên
doanh Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề nhưng ngược lại phía liên doanh nước ngoài vẫn
không hề hấn gì vì họ vẫn nhận đủ tiền bản quyền từ nhãn hiệu và tiền bản quyền lại có xu
hướng ngày càng tăng ngày càng tăng.

Trong hơn 2.000 dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép thì chỉ có 94 trường hợp chuyển
giao công nghệ với tổng giá trị hơn 200 triệu USD được trình lên Bộ Khoa học Công nghệ
và Môi trường. Trong đó có 80 hợp đồng đã được phê duyệt, còn lại đang được xem xét và
yêu cầu bổ sung. Trong các dự án đầu tư nước ngoài trực tiếp vào Việt Nam, một số công
nghệ đã rất lỗi thời và bán tự động do không thông qua việc đăng ký với Bộ Khoa Học và
Môi Trường vẫn được xem là chuyển giao công nghệ trong các liên doanh. Điều này đã dẫn
đến tình trạng là chúng ta vẫn đang sử dụng công nghệ cũ, lỗi thời trên thế giới. Hậu quả là
một mặt gây ảnh hưởng môi trường, đồng thời chúng ta phải trả phí bản quyền chuyển giao
công nghệ. Một nguyên nhân khác dẫn đến tình trang này là do chúng ta không chuẩn bị tốt
trong khâu soạn thảo hợp đồng và đàm phán chi phí bản quyền khi tham gia liên doanh vì
vậy mà chi phí cao hơn mức chi phí chuyển giao công nghệ cho phép là 5%. Phía Việt Nam
thường ký vào hợp đồng đã được bên đối tác soạn sẵn. Trong số hơn 80% hợp đồng đã
được Bộ Khoa Học Công Nghệ và Môi Trường phê duyệt thì bên Việt Nam sau khi thực
hiện đàm phán lại chi phí bản quyền đã giảm đi so với giá trị hợp đồng trước khi đàm phán
từ 20 % đến 50%. Trong năm 1998. chỉ riêng 6 trong số các hợp đồng đã được phê duyệt đã
thu lai được 35 triệu USD.
Một số ví dụ điển hình như sau:
Ban đầu liên doanh Mecedes- Benz (Đức) trước khi đàm phán đòi chi phí bản quyền
chuyển giao công nghệ là 42 triệu USD. Sau khi phía Việt Nam đàm phán lại giảm xuống
chỉ còn 9,6 triệu USD; giảm đi 77% so với chi phí ban đầu phía Đức đưa ra.
Một trường hợp khác cung trong ngành sản xuất xe ô tô đó là công ty Mitsubishi Motor
Corporation (Nhật Bản) trong liên doanh sản xuất ôtô Ngôi Sao đòi phí bản quyền chuyển
giao công nghệ là 61 triệu USD. Sau khi đàm phán lại thì giảm xuống chỉ còn 4,4 triệu
USD; tức giảm đi gần 15 lần.
Công ty mía đường Đài Loan đòi phí bản quyền là 54 triệu USD nhưng sau khi đàm phán
thì phí bản quyền chỉ còn là 6 triệu USD, giảm 9 lần.

2.2.2.3Chuyển giá nhằm mục đích chiếm lĩnh thị trường
Các MNC khi đi vào đầu tư kinh doanh tại một quốc gia thì họ thường sẽ thích liên doanh
với một công ty nội địa hơn là vào đầu tư thẳng là công ty 100% vốn nước ngoài. Nguyên
nhân là các MNC này muốn sử dụng hệ thống phân phối và thị phần có sẵn của các công ty
nội địa. Sau một thời gian liên doanh thì các MNC này sẽ dùng các thủ thuật khác nhau,
trong đó có thủ thuật chuyển giá để đẩy công ty nội địa ra và chuyển công ty liên doanh
thành công ty 100% vốn nước ngoài. Dưới đây chúng ta sẽ theo dõi hai ví dụ đã xảy ra tại
công ty P&G Việt Nam và công ty liên doanh Coca Cola Chương Dương.
* Trường hợp P&G Việt Nam
P&G Việt Nam là một công ty liên doanh giữa Công ty Proter & Gamble Far Earst với
Công ty Phương Đông, được thành lập vào ngày 23 tháng 11 năm 1994. Tổng số vốn đầu tư
ban đầu của liên doanh này là 14,3 triệu USD và đến năm 1996 tăng lên là 367 triệu USD.
Trong đó Việt Nam góp 30% và phía đối tác chiếm 70% (tương đương 28 triệu USD).
Sau hai năm hoạt động (năm 1995 và 1996) liên doanh này đã lỗ đến một con số khổng lồ
là 311 tỷ đồng. Số tiền lỗ này tương đương với ¾ giá trị vốn góp của cả liên doanh. Trong
con số thua lỗ 311 tỷ này thì năm 1995 lỗ 123,7 tỷ đồng và năm 1996 lỗ 187,5 tỷ đồng. Để
giải thích cho số tiền thua lỗ này thì chúng ta sẽ phân tích các nguyên nhân và chi phí sau:
Do thời điểm năm 1995 và 1996 đây là gia đoạn mới vào Việt Nam nên P&G muốn xây
dựng thương hiệu tại Việt Nam và muốn các sản phẩm của mình đều được người tiêu dùng
biết đến và sử dụng. Với mục đích chiếm lĩnh thị trường, trong hai năm 1995 và 1996, P&G
đã chi cho quảng cáo một số tiền rất lớn lên đến 65,8 tỷ đồng. Đây là một con số quá lớn
đối với quảng cáo tại Việt Nam vào thời điểm đó. Trong thời điểm này hầu như các kênh
truyền hình. đài phát thanh và báo chí đều có sự xuất hiện quảng cáo của các sản phẩm của
công ty P&G như Safeguard, Lux, Pantene, Header & Shouder, Rejoice… Vào thời điểm
này, mọi người đều nghe các khẩu hiệu quảng cáo như “Rejoice tạo mái tóc mượt và không
có gàu”, “Pantene giúp tóc bạn khỏe hơn”, “Header & Shoulder khám phá bí quyết trị gàu”,
“bột giặt Tide thách thức mọi vết bẩn”… Tổng các chi phí quảng cáo này chiếm đến 35%

doanh thu thuần của công ty và đã vượt xa mức cho phép của luật thuế là không quá 5%
trên tổng chi phí và nó cũng đã gấp 7 lần so với chi phí trong luận chứng kinh tế ban đầu.
Ngoài các khoản quảng cáo này thì các khoản chi phí khác cũng vượt xa so với luận chứng
kinh tế ban đầu. Quỹ lương năm đầu tiên xây dựng trong luận chứng kinh tế là 1 triệu USD
nhưng thực tế đã chi đến 3,4 triệu USD, tức là gấp 3,4 lần. Nguyên nhân chủ yếu là do P&G
đã sử dụng đến 16 chuyên gia là người nước ngoài trong khi trong luận chứng kinh tế chỉ
đưa ra từ 5 đến 6 người.
Ngoài hai chi phí trên thì các chi phí khác cũng phát sinh lớn hơn nhiều so với luận chứng
kinh tế ban đầu như chi phí cho chuyên gia xây dựng cơ bản ban đầu là 7 tỷ đồng, chi phí tư
vấn pháp lý hết 7,6 tỷ và chi phí thanh lý hết 20 tỷ… Ngoài ra một nguyên nhân khác dẫn
đến việc thua lỗ nặng nề trong năm đầu tiên là do doanh số thực tế năm chỉ đạt 54% kế
hoạch và phải gánh chịu chi phí tăng cao, dẫn đến kết quả là năm đầu tiên hoạt động thua lỗ
123,7 tỷ đồng.
Tình hình này lại tiếp tục lặp lại vào năm thứ hai và kết quả là năm thứ hai lại tiếp tục thua
lỗ thêm 187,5 tỷ đồng với con số thua lỗ lũy kế hai năm đến 311,2 tỷ đồng; chiếm ¾ tổng
số vốn của liên doanh, và đến tháng 7 năm 1997 thì tổng giám đốc của P&G đã đầu tư quá
giấy phép là 6 triệu USD, công ty phải vay tiền mặt để trả tiền lương cho nhân viên. Đứng
trước tình thế thua lỗ nặng nề và để tiếp tục kinh doanh thì bên phía đối tác nước ngoài đề
nghị tăng vốn thêm 60 triệu USD. Như vậy phía Việt Nam cần phải tăng theo tỷ lệ vốn góp
30% (18 triệu USD). Vì bên phía Việt Nam không có đủ tiềm lực tài chính nên cuối cùng đã
phải bán lại toàn bộ số cổ phần của mình cho đối tác nước ngoài. Như vậy công ty P&G
Việt Nam từ hình thức là công ty liên doanh đã trở thành công ty 100% vốn nước ngoài.

* Trường hợp công ty liên doanh Coca Cola Chương Dương
Công ty liên doanh Coca Cola Chương Dương là một liên doanh giữa hai đối tác là Công ty
Nước giải khát Chương Dương trực thuộc Bộ Công Nghiệp Việt Nam và Công ty Coca
Cola Indochina PTE.. LTD. Liên doanh này được cấp phép hoạt động vào ngày 27 tháng 9
năm 1995 với tổng số vốn đầu tư là 48,7 triệu USD. Vốn pháp định của liên doanh này là
20,7 triệu USD. Trong đó phía Việt Nam góp 8,3 triệu USD bằng quyền sử dụng 6 ha đất
trong thời gian là 30 năm và chiếm 40% trong tổng vốn đầu tư. Liên doanh này được cấp
phép ngành nghề sản xuất kinh doanh là nước giải khát mang nhãn hiệu Coca Cola, Fanta,
Sprite theo license của công ty Coca Cola Company, Atlanta, Georgia Hoa Kỳ và một số
loại nước giải khát khác. Sau khi đi vào hoạt động thì công ty đã tiến hành các hoạt động
chuyển giá thông qua các hành vi như sau:
Khi tham gia góp vốn liên doanh thì bên đối tác nước ngoài đã tiến hành nâng giá trị tài sản
vốn góp bằng cách định giá cao các máy móc thiết bị và dây chuyền sản xuất nước giải
khát. Do tại thời điểm này trình độ chuyên môn cũng như thẩm định giá trị tài sản của Việt
Nam còn nhiều hạn chế nên không kiểm soát được vấn đề này. Luật pháp trong giai đoạn
này cũng chưa điều chỉnh được các tình huống trên. Đến năm 1996, do nhận thấy được tình
trạng trên nên Luật đầu tư đã có những sửa đổi nhưng vẫn còn chung chung, chưa cụ thể
hóa. Như vậy bên liên doanh đã định giá cao các thiết bị máy móc và dây chuyền sản xuất
và thực hiện thành công việc chuyển giá thông qua việc nâng giá trị tài sản vốn góp.
Sau khi bắt đầu sản xuất kinh doanh thì công ty Coca Cola bắt đầu thực hiện các chiến lược
chiếm lĩnh thị phần của các công ty nội địa. Để thực hiện việc chiếm lĩnh thị trường thì
công ty Coca Cola đã thực hiện các chiến lược bán phá giá sản phẩm, chiến lược quảng bá
sản phẩm và xây dựng thương hiệu thông qua quảng cáo và marketing sản phẩm, thực hiện
các chiến lược khuyến mãi, tài trợ để xây dựng thương hiệu và đánh bóng tên tuổi tại thị
trường Việt Nam. Mặc dù mới xâm nhập vào thị trường Việt Nam với một thời gian không
lâu nhưng sản phẩm mang nhãn hiệu Coca Cola đã tràn ngập thị trường và đã dần dần
chiếm lấy thị phần của các công ty nội địa. Cuộc đối đầu giữa hai nhãn hiệu nước giải khát

lớn là Coca Cola và Pepsi đã dần dần loại bỏ các nhà sản xuất nước giải khát nội địa như
Hòa Bình, Cavinco, Chương Dương… Các công ty nội địa một số phải đóng cửa hoặc phải
bỏ thị trường chính như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và các thành thị để chuyển đến các
thị trường nông thôn. Một số ít các công ty phải chuyển đổi sang kinh doanh sản phẩm khác
như công ty Tribico. Tribico nhờ chuyển hướng kinh doanh sang sản phẩm sữa đậu nành và
đây là một sản phẩm mà hai đại gia trong ngành nước giải khát chưa sản xuất nên mới có
thể tiếp tục tồn tại.
Trong chiến lược xâm chiếm thị phần của mình thì công ty Coca Cola Chương Dương đã
thực hiện chính sách bán phá giá. Giá bán của sản phẩm giảm một cách rõ rệt qua từng
năm. Có những thời điểm giá bán phá giá từ 25% đến 30% doanh thu. Chính điều này góp
phần vào làm cho công ty Coca Cola Chương Dương lỗ nặng nề hơn. Theo số liệu thống kê
của Cục Thuế TP.HCM thì giá bán giữa tháng 3 năm 2007 và tháng 3 năm 2008 giảm đến
23%.
Bảng 2.8: Giá bán của một thùng Coca Cola từ năm 1996 đến 1999
Thời Điểm Giá Bán (VND/Thùng) Tỷ lệ thay đổi
23/06/96 32.400
03/06/97 29.700 9%
01/09/97 28.350 5%
19/09/07 27.700 2%
01/03/98 22.600 24%
(Nguồn: Cục Thuế TP. Hồ Chí Minh)
Thông qua việc bán phá giá này thì công ty Coca Cola Chương Dương đã thao túng thị
trường nội địa Việt Nam. Giá bán của một thùng sản phẩm giảm nhưng doanh số của Coca
Cola vẫn tăng. Điều này chứng tỏ lượng hàng tiêu thụ tăng từ thị phần được mở rộng của
Coca Cola. Khi tiến hành so sánh giá của một lon coca được bán tại thị trường Việt Nam và
thị trường Mỹ thì chúng ta sẽ thấy sự chênh lệch giá một cách rõ rệt. Giá một lon coca tại
thị trường Mỹ tại thời điểm lúc bấy giờ được bán với giá là 75 cents với tỷ giá lúc bấy giờ 1

USD = 14.000 VND, tức là 1 lon coca được bán với giá 10.500 đồng. Một lon coca cùng
thời điểm trên được bán tại thị trường Việt Nam với giá từ 5.000 đồng đến 7.000 đồng
(tương đương từ 40 đến 50 cents). Như vậy giá một lon coca được bán tại Việt Nam thấp
hơn so với thị trường Mỹ là 25 cent (khoảng 50%). Thông qua phân tích giá bán sản phẩm
thì liệu chúng ta có thể xác định chính sách bán phá giá này có được sự điều phối từ công ty
mẹ ở chính quốc.
Trong thời điểm diễn ra cúp bóng đá thế giới vào năm 1998, để đánh bóng thêm cho tên
tuổi và thương hiệu Coca Cola tại thị trường Việt Nam thì công ty Coca Cola còn tiếp tục
thực hiện việc tài trợ 1,3 tỷ đồng bất chấp sự không đồng ý của phía liên doanh Việt Nam.
Đi đôi với chiến dịch khuyến mãi này là việc tăng dung tích chai Coca Cola từ 200 ml lên
thành 300 ml (tương đương 50%) nhưng giá bán không đổi. Chiến dịch khuyến mãi này
được quảng cáo rầm rộ trong suốt thời gian diễn ra cúp bóng đá thế giới trên các phương
tiện truyền thông như các kênh truyền hình, đài phát thanh, và báo chí… Kết quả của chiến
dịch khuyến mãi này đã làm cho công ty Coca Cola đã lỗ hết 20 tỷ đồng.
Bảng 2.9: Kết quả kinh doanh của công ty Coca Cola từ năm 1996 đến 1998
Diễn Giải 1996 1997 1998
Tỷ suất lợi nhuận -24.80% -24.50% -52.10%
Lợi nhuận/ tài sản ròng -11.30% 26.30%
Lợi nhuận/doanh thu -22.10% -22.13% -46.50%
Thay đổi (%) 11% 53%
(Nguồn: Cục Thuế TP. Hồ Chí Minh)
Ngoài những hoạt động như khuyến mãi quảng cáo thì tại công ty Coca Cola có một đặc
điểm là có hơn 40% chi phí nguyên vật liệu cho sản xuất được nhập khẩu trực tiếp từ công
ty mẹ. Đối với ngành sản xuất nước giải khát thì chi phí nguyên vật liệu chiếm hơn 50%
trong tổng chi phí, vì vậy giá trị nguyên vật liệu nhập từ công ty mẹ là rất lớn. Do đó chắc
chắn sẽ có hiện tượng nâng giá đầu vào tại khâu mua nguyên vật liệu từ công ty mẹ.

Theo báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh của công ty, xem xét tỷ trọng chi phí nguyên vật
liệu chiếm trong tổng chi phí thì chi phí nguyên vật liệu chiếm tới 60,14% trong tổng chi
phí. Khi so sánh với doanh thu thì chi phí nguyên vật liệu chiếm 66,82%. Nếu đem tỷ lệ chi
phí nguyên vật liệu so với doanh thu và chi phí tại công ty Coca Cola so sánh với các công
ty trong cùng ngành sản xuất nước giải khát thì tỷ lệ này quá cao và không phù hợp với đặc
điểm và tỷ suất lợi nhuận của ngành này.
Trong thời điểm mà Nhà nước chưa quản lý được giá mua nguyên vật liệu giữa công ty
Coca Cola Chương Dương và công ty Coca Cola mẹ ở chính quốc thì có thể xảy ra tình
trạng kê khai nâng giá mua vào trên hóa đơn so với giá thực tế (đây là hiện tượng chuyển
giá). Mục đích của việc làm này là gây lỗ cho công ty tại Việt Nam nhưng công ty mẹ tại
chính quốc sẽ thu lợi do giá nguyên vật liệu đuợc bán với giá cao. Đây cũng là một hình
thức chuyển lợi nhuận về chính quốc trong khi công ty con tại Việt Nam phải chịu lỗ. So
sánh tỷ lệ nguyên vật liệu trên giá vốn hàng bán (NVL/GVHB) của công ty Coca Cola
Chương Dương và hai công ty con của Coca Cola mẹ hoạt động tại Úc và Canada. Cả ba
công ty này cùng mua nguyên vật liệu và hương liệu từ công ty mẹ trong bảng sau:
Bảng 2.10: So sánh tổng hợp giữa ba công ty Coca Cola con tại ba quốc gia:

m
Coca Cola Enterprises Cocacola Amati Coca Cola Chương
Dương
NV
L
DT
T
NV
L
GVH
B
GVH
B
DT
T
NV
L
DT
T
NV
L
GVH
B
GVH
B
DT
T
NV
L
DT
T
NV
L
GVH
B
GVH
B
DT
T
199620.20
%
32.67
%
61.81
%
15.49
%
25.91
%
59.80
%
66.82
%
199722.16
%
35.23
%
62.92
%
17.87
%
31.68
%
56.41
%
52.42
%
81.00
%
74.80
%
199823.11
%
36.94
%
62.55
%
20.00
%
34.84
%
57.38
%
70.00
%
86.87
%
89.13
%
(Nguồn: Cục Thuế TP. Hồ Chí Minh)

Xem xét trong bảng phân tích chúng ta có thể thấy được là tỷ lệ nguyên vật liệu trên giá vốn
của hai công ty Coca Cola Enterpises and Coca Cola Amati chỉ chiếm từ 31% đến 37%.
Trong khi tỷ lệ nguyên vật liệu trên giá vốn hàng bán tại Coca Cola Chương Dương luôn
luôn lớn hơn 80% trong cả hai năm 1997 và 1998. Điều này đã đặt ra câu hỏi tại sao lại có
sự khác biệt quá lớn về tỷ trọng chi phí nguyên vật liệu trong cùng một ngành sản xuất
nước giải khát như vậy? Và điều này cũng khẳng định thêm là có hành vi chuyển giá trong
các nghiệp vụ mua nguyên vật liệu từ công ty mẹ. Cụ thể hơn chúng ta có thể xem xét bảng
số liệu doanh thu và chi phí của công ty Coca Cola Chương Dương năm 1996
Bảng 2.11: Số liệu doanh thu và chi phí của công ty Coca Cola Chương Dương 1996
Chỉ Tiêu Giá trị (USD)
Tỷ lệ phần trăm trên
tổng
chi phí
Doanh Thu 239.761.715
Tổng chi phí 266.375.982 100%
Chi Phí nguyên vật liệu 160.204.461 60%
Chi phí khấu hao 7.991.279 3%
Thuế doanh thu 18.646.318 7%
Chi phí tiếp thị. bán hàng 71.921.515 27%
Các khoản khấu trừ khác 7.612.409 3%
(Nguồn Cục Thuế TP.HCM)

Biểu đồ 2.1: Tỷ trọng chi phí trên tổng chi phí công ty Coca Cola Chương Dương năm 1996
2.2.2.4Chuyển giá thông qua chênh lệch thuế suất
Các trường hợp chuyển giá được xem xét ở trên là chuyển giá dựa vào sự chênh lệch thuế
suất thuế TNDN giữa các quốc gia. Trong trường hợp của công ty Foster’s Việt Nam đã né
tránh thuế tiêu thụ đặc biệt. Công ty Foster’s Việt Nam đã dựa vào luật pháp của Việt Nam
tại thời điểm đó chưa được chặt chẽ để né tránh và lách thuế nhằm giám đáng kể số thuế
phải nộp.
Vào thời điểm mà giá bán một két bia Foster’s được công ty bia Foster’s Việt Nam bán cho
các đại lý là 240.000 đồng/két với thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt cho bia chai là 75% thì
mỗi két bia phải đóng thuế tiêu thu đặc biệt là:
Giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt = Giá bán đã có thuế tiêu thụ đặc biệt/(1+thuế suất)
=240.000/(1+75%) = 137.143 VND
Thuế tiêu thụ đặc biệt tính=137.143 x 75%= 102.857 VND
Như vậy với giá bán một két bia là 240.000 VND thì công ty bia Foster’s Việt Nam phải có
nghĩa vụ nộp thuế tiêu thụ đặc biệt cho nhà nước là 102.857 VND. Với một số thuế nộp lớn
như vậy thì chủ đầu tư của Foster’s Việt Nam đã tìm cách để lách thuế và nộp số thuế nhỏ
Chi phi
NVL Chi phí
KH Chi phí
khác
Thuế doanh
thu3% 3%
60%7%
27%
Tỷ trọng chi phí trên tổng chi phí năm

hơn. Chủ đầu tư Foster’s tại Việt Nam đã quyết định thành lập thêm một công ty TNHH
Foster’s Việt Nam. Công ty này có nhiệm vụ chuyên thực hiện nhiệm vụ tiêu thụ sản phẩm
do hai nhà máy bia Foster’s sản xuất ra. Giá bán một két bia Foster’s của hai nhà máy bia
cho công ty TNHH Foster’s Việt Nam chỉ là 137.500 VND. Với giá bán như vậy thì thuế
tiêu thụ đặc biệt phải nộp cho mỗi két bia sẽ là:
137.500
Thuế tiêu thụ đặc biệt = x 75 % = 58.929 VND
1+ 75%
Công ty TNHH Foster’s Việt Nam bán bia ra thị trường thì công ty này phải nộp thêm thuế
giá trị gia tăng là 5%. Giả sử giá bán một két bia không đổi vẫn là 240.000 VND/két thì số
thuế giá trị gia tăng mà công ty TNHH bia Foster’s phải nộp là
240.000
Thuế tiêu thụ đặc biệt = x 5 % =11.429 VND
1+ 5%
Như vậy tổng cộng số thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị gia tăng mà chủ đầu tư phải nộp
trong trường hợp chủ đầu tư thành lập thêm công ty TNHH Foster’s Việt Nam cho mỗi két
bia là 58.929 VND + 11.429 VND = 70.358 VND. Nếu chúng ta đem so sánh tổng số tiền
thuế phải nộp của chủ đầu tư trước và sau khi thành lập công ty TNHH Foster’s Việt Nam
thì chúng ta có thể thấy là chủ đầu tư đã tiết kiệm được một khoản tiền thuế phải nộp là
32.499 VND (tương đương 31,60%). Với cách thực hiện này thì thuế TNDN mà chủ đầu tư
phải nộp có thể là không thay đổi hoặc thay đổi theo hướng có lợi cho chủ đầu tư vì chủ đầu
tư có thể đưa thêm các chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí khấu hao hay chi phí quảng
cáo nhằm giảm số thuế TNDN phải nộp. Với trường hợp trên thì các chuyên gia tài chính
nhận định mặc dù cơ quan nhà nước có thể nhận diện ra đây là một hành vi chuyển giá
nhưng do pháp luật Việt Nam tại thời điểm đó còn nhiều điểm chưa chặt chẽ hoặc không có
điều luật chế tài đối với hành vi trên vì vậy mà cơ quan nhà nước không thể bắt bẻ về thủ

thuật tách rời khâu sản xuất và khâu thương mại của công ty bia Foster nhằm mục đích lách
thuế và giảm số thuế phải nộp.
2.2.2.5Tìm hiểu một ví dụ thực tế chuyển giá theo phương pháp giá vốn cộng lãi
Trong phần này tác giả sẽ trình bày một ví dụ thực tế của việc định giá bán nội bộ tại một
tập đoàn kinh tế. Vì lý do nhạy cảm của vấn đề nên tác giả xin phép không nêu tên MNC và
sản phẩm trong ví dụ mà chỉ gọi là MNC và sản phẩm là một loại dầu gội đầu.
Chi nhánh MNC tại Việt Nam là một trong những thành viên của MNC mà MNC này đã có
nhiều chi nhánh đặt tại nhiều quốc gia trong khu vực Đông Nam Á và trên thế giới. Do
những điều kiện về kinh tế và lợi thế so sánh của các chi nhánh có mặt tại các quốc gia khác
nhau mà MNC chọn chi nhánh tại Việt Nam để sản xuất và xuất khẩu cho các nước. Chi
nhánh MNC tại Việt Nam sẽ trở thành một chi nhánh chuyên sản xuất ra sản phẩm, sau đó
cung cấp cho các chi nhánh của MNC tại các quốc gia khác. MNC tại Việt Nam sẽ thực
hiện chào giá bán nội bộ cho các thành viên khác và việc báo giá nội bộ sẽ được thực hiện
hàng quý hay theo một vài trường hợp cụ thể tùy theo yêu cầu của các thành viên trong nội
bộ của MNC.
Sau đây là biểu mẫu chào giá mà MNC này đang thực hiện:

Để tính được bảng báo giá cho các công ty thành viên của MNC thì MNC tại Việt Nam
cũng dựa vào phương pháp giá vốn cộng lãi để báo giá, đưa ra chi tiết bản tính cụ thể cho
một tấn sản phẩm và một thùng sản phẩm. MNC tại Việt Nam sẽ đưa ra cấu trúc chi phí để
sản xuất ra một tấn sản phẩm bao gồm những chi phí gì và lợi nhuận nội bộ mà MNC tại
Việt Nam đã cộng vào một tấn hay một thùng sản phẩm. Giá bán của một thùng sản phẩm
được tính bằng cách lấy giá bán của một tấn sản phẩm chia cho số lượng thùng để tạo thành
một tấn sản phẩm.
Trong quá trình báo giá thì MNC tại Việt Nam cũng phải thể hiện rõ cấu trúc chi phí cấu
thành nên giá thành của một tấn sản phẩm. Cấu trúc chi phí được thể hiện như sau :

Trong bảng cấu trúc chi phí này các yếu tố chi phí cấu thành nên giá của một tấn sản phẩm
sẽ lại được tiếp tục chi tiết trong các bảng tính kèm theo. Để hiểu rõ hơn phương pháp tính
giá nội bộ này, tác giả sẽ trình bày phương pháp tính toán của từng khoản mục chi phí trong
bảng cấu trúc chi phí.
Trước tiên chúng ta đi vào tìm hiểu yếu tố chi phí nguyên liệu. Nguyên liệu để sản xuất ra
một tấn sản phẩm dầu gội đầu có thể được mua từ trong nước hoặc nhập khẩu. MNC tại
Việt Nam sẽ tính ra giá nguyên vật liệu cho sản phẩm xuất khẩu, và thông thường sẽ cộng
thêm 10% chênh lệch giữa giá có thuế nhập khẩu và giá chưa có thuế nhập khẩu. Phần
chênh lệch này là chi phí cho việc làm thủ tục hoàn thuế nhập khẩu đối với các nguyên liệu
nhập khẩu. Vì vậy giá nguyên vật liệu tính cho xuất khẩu nội bộ sẽ được tính bằng giá mua
không có thuế nhập khẩu cộng cho 10% chênh lệch giữa giá có thuế nhập khẩu và giá
không có thuế nhập khẩu.

Ngoài yêu tố giá của nguyên liệu sản xuất cho xuất khẩu thì MNC tại Việt Nam cũng phải
trình bày chi tiết tỷ trọng các nguyên liệu để cấu thành một tấn sản phẩm. Tỷ trọng này sẽ
được phòng nghiên cứu và phát triển sản phẩm hay phòng kế hoạch sản xuất cung cấp.
Tương tự cho chi phí bao bì của sản phẩm như sau:
Trong phần tính toán chi phí bao bì đã chỉ ra được các chỉ số như số lượng sản phẩm cho
một thùng, trọng lượng của một sản phẩm, số lượng thùng trên một tấn sản phẩm và số

lượng sản phẩm trên một tấn sản phẩm. Các thông tin này giúp cho công ty nhập khẩu biết
được số lượng sản phẩm để đưa ra quyết định nhập khẩu.
Chi phí sản xuất cố định và chi phí sản xuất biến đổi để sản xuất ra một tấn sản phẩm sẽ
được bộ phận kế toán chi phí tại nhà máy cung cấp. Kế toán chi phí sẽ căn cứ vào số lượng
giờ công và giờ máy chạy thực tế và đơn giá của một giờ công và giờ máy thực tế phát sinh
để tính ra chi phí sản xuất cố định và chi phí sản xuất biến đổi.
Chi phí sản xuất chung sẽ được tính bằng cách lấy tổng của chi phí nguyên liệu, chi phí bao
bì, chi phí sản xuất cố định và chi phí sản xuất biến đổi nhân với tỷ lệ đóng góp của chi phí
sản xuất chung trong một đồng chi phí để sản xuất ra sản phẩm. Tỷ lệ này được tính như
sau:
Tỷ lệ chi phí sản xuất chung được tính bằng cách lấy tổng chi phí của các bộ phận liên quan
phục vụ cho hoạt động xuất khẩu của công ty chia cho tổng chi phí sản phẩm sản xuất ra
trong một năm.

Cộng các khoảng chi phí nguyên liệu, chi phí bao bì, chi phí sản xuất cố định, chi phí sản
xuất biến đổi và chi phí sản xuất chung lại với nhau thì có được giá xuất xưởng của một tấn
sản phẩm.
Nhìn vào bảng cấu trúc chi phí của sản phẩm chúng ta còn hai yếu tố chi phí là chi phí vận
tải và lợi nhuận cộng thêm mà MNC tại Việt Nam sẽ cộng vào khi báo giá bán nội bộ, chi
phí vận tải sẽ tùy thuộc vào điều kiện mua bán thỏa thuận giữa hai bên mua và bán sao cho
có lợi nhất. Chi phí vận chuyển và bốc xếp hàng hóa này sẽ được cộng trực tiếp vào giá của
một tấn sản phẩm hay một thùng sản phẩm được bán ra. Chúng ta xem bảng tính chi phí
xuất nhập khẩu sau:
Sau khi đã tính đủ các chi phí cần thiết để cấu thành nên chi phí của 1 tấn sản phẩm thì
MNC tại Việt Nam sẽ tính đến phần lợi nhuận mà MNC tại Việt Nam được hưởng. Phần lợi
nhuận cộng thêm này được xác định bằng một tỷ lệ qui định trong nội bộ của MNC vì vậy
lợi nhuận cộng thêm này sẽ không giống với lợi nhuận của hàng hóa mà MNC bán tại thị
trường Việt Nam. Trong ví dụ này thì tỷ lệ lợi nhuận cộng thêm được tính bằng 10% tổng
vốn tham gia vào sản xuất ra 1 tấn sản phẩm, tổng vốn tham gia vào sản xuất ra 1 tấn sản
phẩm bao gồm vốn lưu động, hàng tồn kho, công nợ và vốn cố định tham gia vào sản xuất
ra một tấn sản phẩm.
Cách tính lợi nhuận cộng thêm như sau:

Như vậy với mỗi tấn sản phẩm xuất khẩu thì phần lợi nhuận của MNC tại Việt Nam chính
là phần lợi nhuận cộng thêm. Nếu tỷ lệ lợi nhuận cộng thêm không được tính toán khách
quan thì hiện tượng chuyển giá sẽ xảy ra.

Kết Luận Chương 2:
Nhìn chung tất cả các trường hợp chuyển giá nêu trên của các công ty có vốn đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam đều thực hiện các thủ đoạn như là:
-Chủ động hạch toán thu lỗ thông qua các hình thức quảng cáo, khuyến mãi, tăng chi phí
chuyên gia, chi phí đại diện nhằm mục đích đẩy phía liên doanh Việt Nam ra khỏi công
ty dựa vào tiềm lực tài chính vững mạnh của các công ty mẹ ở nước ngoài.
-Thực hiện mọi biện pháp để giảm thiểu số thuế TNDN phải nộp tại Việt Nam, không
loại trừ các hành vi lách luật và sai luật.
-Cố gắng chuyển lợi nhuận về nước càng nhiều càng tốt bằng cách thông qua các hình
thức định giá cao tài sản, nguyên vật liệu đầu vào, các chi phí về bản quyền và bí quyết
công nghệ để các công ty mẹ tại chính quốc sẽ được hưởng lợi trong khi công ty tại Việt
Nam phải gánh chịu thua lỗ nặng nề.
-Thực hiện việc xâm nhập thị trường, chiếm lấy thị phần và cuối cùng đánh bật các đối
thủ cạnh tranh nội địa ra khỏi thị trường nhờ các hình thức quảng cáo, khuyến mãi và
tiếp thị. Khi đã xây dựng được một thương hiệu vững chắc, đồng thời đẩy phía đối tác
Việt Nam ra khỏi liên doanh thì các MNC sẽ tha hồ khai thác thị trường và hưởng lợi.
Với thế mạnh trên thị trường thì các MNC sẽ thao túng thị trường và tạo ra sự mất công
bằng trong nghĩa vụ thuế so với các công ty nội địa đồng thời làm tổn hại, mất cân bằng
cho nền kinh tế.

CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIÁ
CỦA CÁC CÔNG TY ĐA QUỐC GIA TRONG GIAI ĐOẠN
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ.
3.1Những cam kết thuế quan khi gia nhập WTO của Việt Nam và phối hợp giữa
các quốc gia chống lại chuyển giá
Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO sẽ gắn liền giữa
quyền lợi được hưởng và nghĩa vụ phải thực hiện. Việt Nam cam kết lấy các nguyên tắc
của WTO làm nền tảng cho các chính sách thương mại của mình. Để làm được điều này
thì Việt Nam phải từng bước rà soát và chỉnh sửa luật pháp sao cho phù hợp với các qui
định và nguyên tắc của WTO. Việt Nam phải theo đuổi các chính sách kinh tế, thuế quan
nhằm tạo nên một thị trường mang tính minh bạch, tự do hóa và mang đúng nghĩa của một
nền kinh tế thị trường.
Việt Nam đã xây dựng cam kết về thuế quan và lộ trình điều chỉnh mức thuế suất phù hợp
với các nguyên tắc của WTO. Trong biểu thuế cam kết, Việt Nam xây dựng cụ thể mức
thuế suất và lộ trình thay đổi cho loại sản phẩm của các lĩnh vực kinh tế khác nhau.
Trong công tác kiểm soát chuyển giá thì Việt Nam tham khảo các hướng dẫn và qui định
của các nước phát triển (OECD). Mặc dù Việt Nam không phải là thành viên của tổ chức
này nhưng các hướng dẫn về chuyển giá của OECD mang tính phổ biến và áp dụng rộng
rãi tại các quốc gia phát triển. Dựa vào đây, Chính phủ Việt Nam đã xây dựng Thông tư
117 ban hành ngày 19 tháng 12 năm 2005 để điều tiết và quản lý hoạt động chuyển giá.
Nội dung chính của Thông tư 117 đã đưa ra được hướng dẫn cụ thể về các phương pháp
định giá chuyển giao, điều kiện áp dụng của các phương pháp này. Đây được xem là thước
đo chuẩn khi cơ quan thuế thanh tra và kiểm tra hoạt động mua bán nội bộ của các tập
đoàn đa quốc gia có mặt tại Việt Nam. Các hướng dẫn của Thông tư 117 cũng đi sát với
các hướng dẫn của tổ chức OECD vì vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các MNC hiểu và
thực hiện.
`

Hàng năm các nước Châu Á có tổ chức diễn đàn thuế Châu Á (The Annual Asia Tax
Forum), các chuyên gia về kinh tế, thuế và cơ quan thuế của các quốc gia tham dự diễn
đàn này để cùng chia sẻ kinh nghiệm về các vấn đề liên quan đến thuế quan và mỗi năm sẽ
có một chủ đề khác nhau. Năm 2008, tại Thượng Hải Trung Quốc, diễn đàn đã đưa ra vấn
đề chuyển giá trong các tập đoàn đa quốc gia để cùng thảo luận. Các chuyên gia thuế, kinh
tế và cơ quan thuế của Việt Nam cũng tham gia vào diễn đàn này để chia sẻ và học hỏi
kinh nghiệm từ các quốc gia bạn. Ngoài ra, Chính phủ Việt Nam cũng thực hiện việc ký
các hiệp định song phương và đa phương với các quốc gia khi gia nhập WTO. Các hiệp
định song phương này còn bao hàm việc tạo môi trường đầu tư, giải quyết các tranh chấp
và cung cấp số liệu kinh tế khi nước bạn cần và ngược lại. Khi cơ quan thuế của một quốc
gia điều tra về hoạt động chuyển giá của một tập đoàn đa quốc gia thì có thể liên lạc với cơ
quan thuế trên nước bạn để lấy thông tin. Việc ký hiệp định song phương giúp cho hai
quốc gia liên kết chặt chẽ hơn và phối hợp cùng nhau kiểm soát các hành vi gian lận kinh
tế của các tập đoàn đa quốc gia trong đó có hoạt động chuyển giá. Việt Nam cũng đã ký
nhiều hiệp định song phương với các quốc gia khác nhằm tạo mối liên hệ gắn kết về kinh
tế, trong đó có Hiệp định thương mại song phương Hoa Kỳ - Việt Nam.
Song song với việc ký kết hiệp định song phương, các quốc gia đang có xu hướng tiến
hành ký kết các hiệp định ba bên giữa chính quốc, quốc gia sở tại và tập đoàn kinh tế có
trụ sở tại quốc gia sở tại các nội dung về thuế và giá cả. Việc ký kết này nhằm tạo một nền
tảng vững chắc về thuế, tạo môi trường minh bạch để thu hút đầu tư và kiểm soát hành vi
gian lận kinh tế.
3.2Các biện pháp kiểm soát chuyển giá của Chính phủ Việt Nam
3.2.1Hoàn thiện các văn bản pháp lý kiểm soát chuyển giá
Từ khi mở của kinh tế kêu gọi đầu tư nước ngoài đến nay thì kinh tế Việt Nam đã trải qua
những giai đoạn thăng trầm khác nhau, có những thời điểm chúng ta thành công trong việc
kêu gọi vốn đầu tư và cũng có những lúc lượng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam rất ít.
Sau khi Quốc hội khóa III thông qua Luật Đầu tư đã tạo điều kiện cho việc thu hút vốn
`

đầu tư và đạt đỉnh điểm vào năm 1996 là 8,497 tỷ USD, sau đó do ảnh hưởng của khủng
hoảng kinh tế Châu Á thì lượng vốn đầu tư vào nước ta đã suy giảm một cách đáng kể.
Tuy nhiên, trong khoảng 3 năm gần đây thì Việt Nam đã chứng kiến sự gia tăng một cách
nhanh chóng của dòng vốn FDI đổ vào với những con số kỷ lục liên tiếp bị phá vỡ như
năm 2006 thu hút được 10,2 tỷ USD; năm 2007 là 20,3 tỷ USD và năm 2008 tổng vốn FDI
đăng ký đã tăng vọt lên con số 64 tỷ USD, lập một con số kỷ lục mới. Đây là năm mà Việt
Nam thu hút mạnh mẽ nhất luồng vốn FDI từ trước đến nay.
Các nguồn vốn nước ngoài, trong đó có FDI, đã và đang đóng vai trò quan trọng trong sự
phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế khá cao và liên
tục thông qua mở rộng quy mô đầu tư và chất lượng đầu tư. Luồng vốn này tạo điều kiện
cho nền kinh tế tiếp xúc và sử dụng được các dòng vốn lớn và chất lượng. Đi đôi với việc
thu hút các nguồn vốn nước ngoài thì việc quản lý và tạo ra một môi trường kinh tế công
bằng và phát triển ổn định là điều kiện tiên quyết và sống còn. Đây cũng là thách thức lớn
đặt ra đối với Chính phủ Việt Nam trong khi nền kinh tế chúng ta mới chuyển từ nền kinh
tế bao cấp tập trung sang nền kinh tế thị trường.
Từ khi mở cửa nền kinh tế năm 1987 thì Luật Đầu tư Nước ngoài là cơ sở pháp lý cho các
hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam. Mặc dù Luật Đầu tư Nước
ngoài đã qua hai lần sửa đổi và bổ sung vào tháng 11 năm 1996 và tháng 6 năm 2000
nhưng trong nội dung của luật vẫn chưa đề cập một cách rõ ràng và cụ thể vấn đề chống
chuyển giá. Vấn đề chống chuyển giá được nêu ra trong Thông tư số 74/TC/BTC ngày
20/10/1997 và sau đó được bổ sung và thay thế bằng Thông tư số 89/1999/TT-BTC ngày
16/07/1999. Về mặt nội dung thì cả hai thông tư này chưa có nội dung gì mới so với các
văn bản trước đây mà chỉ là tổng hợp lại các biện pháp chống chuyển giá của các văn bản
trước đây.
Đến ngày 19/12/2005 thì Thông tư 117/2005/TT-BTC được ban hành. Thông tư này là cơ
sở pháp lý hướng dẫn các biện pháp chống chuyển giá và là cơ sở hướng dẫn thực hiện
việc xác định giá thị trường trong các giao dịch kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên
`

kết. Thông tư 117 được xem là văn bản pháp lý hướng dẫn một cách chi tiết và cụ thể nhất
về vấn đề chuyển giá tính đến thời điểm này. Trong nội dung của thông tư có những
hướng dẫn và định nghĩa rõ ràng dùng làm căn cứ cho việc xác định các hoạt động của
doanh nghiệp FDI có mang yếu tố chuyển giá hay không.
Việc xác định quan hệ của các công ty có liên kết hay độc lập trong một giao dịch kinh
doanh được Thông tư 117 hướng dẫn một cách cụ thể. Ví dụ như các bên được coi là “có
quan hệ liên kết” gọi chung là các bên liên kết như sau:
“1. Một bên tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc điều hành, kiểm soát, góp vốn hoặc
đầu tư dưới mọi hình thức vốn hoặc đầu tư dưới mọi hình thức vào bên kia.
2.Các bên trực tiếp hay gián tiếp cùng chịu sự điều hành, kiểm soát, góp vốn hoặc đầu tư
dưới mọi hình thức của một bên khác.
3.Các bên cùng tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào việc điều hành, kiểm soát, góp vốn
hoặc đầu tư dưới mọi hình thức, vào một bên khác. Thông thường, hai cơ sở kinh doanh sẽ
được coi là có quan hệ liên kết trong một kỳ tính thuế nếu trong kỳ đó:
a.Một cơ sở kinh doanh nắm giữ trực tiếp hoặc gián tiếp 20% vốn cổ phần hoặc tổng tài
sản của cơ sở kinh doanh kia; hoặc
b.Cả hai cơ sở kinh doanh đều có ít nhất 20% vốn cổ phần hoặc tổng tài sản do một cơ sở
kinh doanh hoặc bên thứ ba nắm giữ trực tiếp hay gián tiếp; hoặc
c.Một cơ sở kinh doanh là cổ đông lớn nhất nắm giữ trực tiếp hoặc gián tiếp cổ phần có
giá trị ít nhất 10% vốn cổ phần hoặc tài sản của một cơ sở khác; hoặc
d.Một cơ sở kinh doanh bảo lãnh hoặc cho một cơ sở kinh doanh khác vay vốn dưới bất
kỳ hình thức nào với điều kiện khoản vay chiếm 50% tổng giá trị các khoản nợ trung dài
hạn của cơ sở kinh doanh đi vay; hoặc
e.Một cơ sở kinh doanh chỉ định thành viên ban lãnh đạo điều hành hoặc kiểm soát của
một cơ sở kinh doanh khác với điều kiện số lượng các thành viên được cơ sở kinh doanh
thứ nhất chỉ định chiếm 50% tổng số thành viên ban lãnh đạo điều hành hoặc kiểm soát
`

của cơ sở kinh doanh thứ hai; hoặc một thành viên được cơ sở kinh doanh thứ nhất chỉ
định có quyền quyết định chính sách tài chính hoặc hoạt động kinh doanh của cơ sở kinh
doanh thứ hai; hoặc
f.Hai cơ sở kinh doanh cùng có trên 50% thành viên ban lãnh đạo hoặc cùng có một thành
viên ban lãnh đạo có quyền quyết định các chính sách tài chính hoặc hoạt động kinh doanh
được chỉ định bởi bên thứ ba; hoặc
g.Hai cơ sở kinh doanh được điều hành hoặc chịu sự kiểm soát về nhân sự tài chính và
hoạt động kinh doanh bởi cá nhân cùng là thành viên của một gia đình trong mối quan hệ
vợ và chồng; bố mẹ và các con không phân biệt con đẻ, con nuôi hoặc con dâu, con rể;
anh, chị, em có cùng cha mẹ (không phân biệt cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi); ông bà và cháu có
quan hệ huyết thống; cô, chú, bác, cậu, dì và các cháu có quan hệ huyết thống với nhau;
hoặc
h.Hai cơ sở kinh doanh có mối quan hệ trụ sở chính và cơ sở thường trú hoặc cùng là cơ
sở thường trú của tổ chức, cá nhân nước ngoài; hoặc
i.Một cơ sở kinh doanh sản xuất, kinh doanh sản phẩm vô hình và hoặc quyền sở hữu trí
tuệ của một cơ sở kinh doanh khác với điều kiện chi phí phải trả cho việc sử dụng tài sản
vô hình và/hoặc quyền sở hữu trí tuệ đó chiếm 50% giá vốn (hoặc giá thành) sản phẩm;
hoặc
j.Một cơ sở kinh doanh cung cấp trực tiếp hoặc gián tiếp trên 50% tổng giá trị nguyên vật
liệu, vật tư hoặc sản phẩm đầu vào (không bao gồm các chi phí khấu hao đối với tài sản cố
định) để sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh sản phẩm đầu ra có liên quan của một
cơ sở kinh doanh khác; hoặc
k.Một cơ sở kinh doanh kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp trên 50% sản lượng tiêu thụ
(tính theo từng chủng loại sản phẩm) của một cơ sở kinh doanh khác; hoặc
l.Hai cơ sở kinh doanh có thỏa thuận hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng.”
`

Trong nội dung của Thông tư 117, ngoài việc đưa ra những định nghĩa giải thích từ ngữ
một cách rõ ràng cụ thể thì trong thông tư cũng hướng dẫn 5 phương pháp cơ bản để
hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện các nghiệp vụ định giá chuyển giao cũng như làm
cơ sở cho việc kiểm soát hoạt động chuyển giá.
Nhìn chung từ khi mở cửa nền kinh tế đến nay, Chính phủ Việt Nam đã có những cố gắng
rất đáng kể để nền kinh tế Việt Nam có thể từng bước hội nhập với kinh tế thế giới. Chúng
ta cũng không thể phủ định những chuyển biến tích cực về pháp luật, về môi trường đầu tư
của Việt Nam ngày càng gần với thông lệ quốc tế và hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay vẫn còn tồn tại những bất cập về hệ thống văn bản pháp
luật và thi hành các văn bản pháp luật mà chính phủ cần có biện pháp giải quyết nhằm
nâng cao tính hiệu quả của các văn bản luật:
-Khi ban hành một văn bản luật phải xuất phát từ nhu cầu thực tế của nền kinh tế,
phải phù hợp với điều kiện thực tế trong từng thời kỳ và phù hợp với mục tiêu quản
lý kinh tế của chính phủ. Các văn bản luật phải được ban hành kịp thời, đáp ứng
nhu cầu thực tiễn và độ trễ không quá lớn so với thực tiễn.
-Các văn bản luật khi ban hành phải thống nhất, không chồng chéo lên nhau, văn
bản luật này qui định trái ngược với văn bản luật kia làm cho các doanh nghiệp và
người thực thi luật lúng túng trong việc áp dụng.
-Các văn bản hướng dẫn dưới luật phải được phổ biến nhanh chóng, tránh các
trường hợp nghị định đã có nhưng thông tư hướng dẫn của bộ ngành chưa được ban
hành triển khai. Vì như vậy làm cho việc hành xử của các doanh nghiệp lúng túng
khi các vần đề phát sinh.
-Ngôn ngữ trình bày trong văn bản luật phải rõ ràng, không dùng những từ ngữ mập
mờ gây dễ hiểu nhầm và các đối tượng xấu dựa vào đó để lách luật. Đồng thời ngôn
ngữ rõ ràng sẽ giúp cho các cơ quan thi hành luật thực hiện nhất quán trong việc
hành xử với doanh nghiệp. Tránh trường hợp mỗi cơ quan hiểu mỗi cách khác
nhau, gây nhũng nhiễu cho các doanh nghiệp.
`

-Riêng đối với hoạt động định giá chuyển giao và chuyển giá đã được xây dựng
thông tư nhưng cần phải có các văn bản luật khác hỗ trợ như Luật chống phá giá,
Luật cạnh tranh, Luật chống độc quyền. Vì vậy các văn bản luật này cần được hoàn
thiện và hướng dẫn rõ ràng để việc áp dụng hiệu quả.
3.2.2Ổn định kính tế vĩ mô và ổn định đồng tiền Việt Nam
Việc ổn định nền kinh tế vĩ mô và đảm bảo giữ vững tốc độ phát triển kinh tế vĩ mô là điều
hết sức quan trọng. Thông thường các nhà đầu tư chỉ muốn đầu tư vào một nền kinh tế có
tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định, vì ở đó sẽ có nhiều cơ hội làm ăn và khả năng sinh
lợi cao. Muốn làm được điều này thì chính phủ cần xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế
cụ thể dựa trên thực trạng của nền kinh tế, đưa ra những chiến lược phát triển kinh tế phù
hợp dựa trên lợi thế so sánh của mình. Việt Nam có một lợi thế hơn so với các quốc gia
khác là tình hình chính trị rất ổn định và đây có thể được xem là một lợi thế trong việc
cạnh tranh thu hút đầu từ nước ngoài.
Vấn đề về việc mất giá của đồng tiền Việt Nam so với các loại ngoại tệ khác là một trong
những mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam.
Do việc mất giá của đồng tiền Việt Nam so với các loại ngoại tệ mạnh khác sẽ làm ảnh
hưởng trực tiếp đến việc bảo toàn vốn đầu tư của các nhà đầu tư, vì vậy sự mất giá của
đồng tiền sẽ là động cơ thúc đẩy các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện hành vi chuyển giá
nhằm bảo tồn vốn đầu tư của họ. Về vấn đề ổn định đồng tiền thì thiết nghĩ chính phủ cần
phải phối hợp chặt chẽ với các Bộ Ngân Hàng, Bộ Tài chính đưa ra các biện pháp tài
chính nhằm kiểm soát và ổn định đồng tiền.Chính phủ cần phải đảm bao một lượng ngoại
tệ cần thiết để khi cần thiết có thể tham gia vào điều tiết thị trường nhằm tránh trường hợp
tỷ giá biến động bất thường, gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất và xuất nhập khẩu
hàng hóa. Ví dụ như vào những tháng giữa năm 2008 tỷ giá USD/VND biến động bất
thường từ khoảng 16.000 VND/USD có lúc lên đến 19.000 VND/USD và tình trạng có lúc
ngân hàng không muốn thu USD và tính các phụ phí rất cao, nhưng đồng thời có lúc các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu cần USD đến ngân hàng mua nhưng ngân hàng đã đáp ứng
`

không đủ vì vậy mà các doanh nghiệp phải lựa chọn hoặc mua USD ở thị trường chợ đen
hoặc gặp khó khăn trong thanh toán.
3.2.3Cải cách thuế của Chính phủ
Thuế là một nguồn thu chủ yếu của chính phủ và cũng là một nhân tố hết sức quan trọng
tác động trực tiếp đến tình hình hoạt động kinh doanh của tất cả cả doanh nghiệp trong
quốc gia đó. Chính phủ xây dựng chính sách thuế như thế nào cho phù hợp, đảm bảo
nguồn thu đồng thời phải nuôi dưỡng các nguồn thu cho mục tiêu dài hạn. Đối với các
doanh nghiệp thì chính sách thuế không những phải tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp mà còn phải tăng sức hấp dẫn về môi trường đầu tư kinh doanh và thu hút được các
dòng vốn quốc tế.
Nắm bắt được yêu cầu này, Chính phủ Việt Nam đã từng bước xây dựng các chính sách
thuế ngày càng phù hợp hơn với tình hình kinh tế của Việt Nam và tình hình trong khu
vực. Để tăng tính cạnh tranh trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời hạn chế
các hoạt động chuyển giá của các MNC dựa vào chênh lệch thuế suất thuế TNDN thì
Chính phủ Việt Nam cũng từng bước tiến hành giảm thuế suất, mở rộng diện chịu thuế
nhằm khuyến khích sản xuất, tăng cường đầu tư phát triển và đồng thời bảo đảm nguồn
thu. Trước khi luật thuế TNDN (sửa đổi) được Quốc hội thông qua thì cũng có nhiều ý
kiến cho rằng nếu thuế TNDN giảm xuống 25% thì nguồn thu ngân sách của Nhà nước sẽ
giảm đi khoảng 5.000 tỷ đến 7.000 tỷ đồng năm. Nhưng điều này trong thực tế lại hoàn
toàn ngược lại. Thực tế vào năm 2003, khi mức thuế TNDN điều chỉnh từ 32% xuống
28% thì nguồn thu ngân sách từ thuế TNDN không những không giảm đi mà còn tăng với
tốc độ tăng bình quân là 17% năm. Cụ thể trong năm 2003, tổng thu ngân sách đạt 21.147
tỷ đồng, năm 2004 thu ngân sách 24.201 tỷ đồng, năm 2005 đạt 28.729 tỷ đồng; năm 2006
đạt 33.663 tỷ đồng và năm 2007 là 39.469 tỷ đồng.
Nhìn vào những số liệu thu ngân sách qua các năm do thay đổi thuế suất thuế TNDN
chúng ta có thể thấy được tính hiệu quả của việc giảm thuế suất là vừa tăng nguồn thu vừa
khuyến khích sản xuất đầu tư phát triển. Tăng nguồn thu là do mở rộng được đối tượng
`

Ngoài thuế TNDN ra thì Chính phủ cũng cần quan tấm đến việc cải cách thuế xuất nhập
khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập cá nhân sao cho phù hợp với tình hình thực tế.
Đối với thuế xuất nhập khẩu thì thuế suất phải đảm bảo kích thích xuất khẩu và hạn chế
nhập khẩu các mặt hàng không cần thiết, xây dựng danh mục các mặt hàng nhập khẩu,
tránh trường hợp nhập các máy móc, thiết bị và công nghệ lỗi thời với chi phí cao. Thông
qua việc thiết lập danh mục nhập khẩu sẽ hạn chế được các doanh nghiệp FDI thực hiện
việc chuyển giá thông qua việc chuyển giao công nghệ lỗi thời với giá cao. Danh mục giá
cả hàng hóa xuất nhập khẩu cũng giúp cho cơ quan Hải quan chú ý đến các giao dịch với
giá quá cao hay quá thấp so với bình thường để phát hiện ra hiện tượng chuyển giá xảy ra
tại khâu xuất khẩu hàng hóa.
Tăng cường việc tham gia ký kết các hiệp định tránh đánh thuế hai lần giữa Việt Nam và
các quốc gia khác nhằm tạo điều kiện cho việc phát triển thương mại với các quốc gia bạn
và làm giảm gánh nặng về thuế cho các nhà đầu tư. Việc tránh đánh thuế hai lần sẽ góp
phần làm giảm áp lực về thuế cho các nhà đầu tư, từ đó sẽ làm giảm động cơ thực hiện
hành vi chuyển giá của các MNC. Hiệp định tránh đánh thuế hai lần thường nhắm vào các
loại thu nhập như cổ tức, tiền lãi vay, thu nhập tiền bản quyền hay lợi nhuận chuyển ra
nước ngoài.
`

Khi ký kết các hiệp định tránh đánh thuế thì cơ quan thuế của các quốc gia mới có thể
cung cấp cho nhau các số liệu liên quan đến các vấn đề về thuế, doanh thu, chi phí, lợi
nhuận, giá cả hàng hóa của các MNC có trụ sở tại các quốc gia khác nhau. Thông qua các
hiệp định này thì các quốc gia sẽ tăng cường phối hợp với nhau trong công tác kiểm soát
và chống chuyển giá.
3.2.4Nhóm giải pháp mang tính chất kỹ thuật
Khi xem xét một tập đoàn kinh tế có thực hiện hành vi chuyển giá hay không, đặc biệt là
trong nội bộ tập đoàn, thì việc xem xét các phương thức định giá và phân loại các giao
dịch nội bộ là hết sức quan trọng để có thể phát hiện yếu tố gian lận. Thông thường các
nghiệp vụ mua bán trong nội bộ một tập đoàn được chia thành các nhóm chính sau: mua
bán trao đổi nguyên vật liệu và hàng hóa, mua bán tài sản cố định, chuyển giao công nghệ
hoặc nhãn mác, cung cấp các dịch vụ tài chính.
Các nghiệp vụ giao dịch nội bộ nêu trên hầu như đã xuất hiện tại Việt Nam và trong các
cuộc kiểm tra của cơ quan thuế cũng đã phát hiện và xử lý về mặt thuế các trường hợp
gian lận. Như vậy chúng ta nên xây dựng giá giao dịch dựa trên cơ sở nào? Theo quan
điểm của OECD (lấy giá bán theo căn bản giá thị trường – APL làm cơ sở cho việc tính
giá chuyển giao trong nội bộ MNC hay theo quan điểm của Mỹ là lấy lợi nhuận làm căn
bản để đánh giá các hoạt động chuyển giao. Thật ra cả hai quan điểm đều là hai phương
pháp để đi đến một mục đích là hạn chế tiêu cực trong quá trình tính giá trong các giao
dịch nội bộ của MNC. Cả hai phương pháp này đã có từ lâu và được các quốc gia trên thế
giới áp dụng rộng rãi. Vì vậy thiết nghĩ Việt Nam không cần thiết phải xây dựng phương
pháp mới mà chỉ cần áp dụng các phương pháp này sao cho phù hợp với tình hình kinh tế
tại Việt Nam. Trong các phương pháp này thì mỗi phương pháp đều có một số điểm mạnh
và điểm yếu khác nhau, vì vậy mà tùy từng trường hợp cụ thể thì cơ quan thuế có thể áp
dụng phương pháp cho phù hợp, và nếu cần thiết cũng có thể kết hợp hai hay ba phương
pháp lại với nhau để có được kết quả tốt nhất.
`

Trong nội dung Thông tư 117/2005/TT-BTC ban hành ngày 19 tháng 12 năm 2005 đã có
hướng dẫn thực hiện 5 phương pháp xác định giá thị trường như sau:
-Phương pháp so sánh giá giao dịch độc lập
-Phương pháp giá bán lại
-Phương pháp giá vốn cộng lãi
-Phương pháp so sánh lợi nhuận
-Phương pháp tách lợi nhuận
Về nội dung các phương pháp này đã được trình bày rất kỹ trong thông tư cũng như trong
phần lý luận của luận văn này. Vấn đề còn lại là việc vận dụng các phương pháp này vào
từng trường hợp cụ thể trong thực tế và nhận biết các dấu hiệu gian lận để lựa chọn
phương pháp cho phù hợp và mang lại hiệu quả cao nhất.
3.3Một số giải pháp kiến nghị bổ sung
3.3.1Xây cơ sở dữ liệu giá cả cho các giao dịch
Hiện nay, các cơ quan chức năng hầu như đều chưa xây dựng được một cơ sở dữ liệu về
giá cả của các loại hàng hóa được giao dịch giữa các công ty độc lập và các công ty liên
kết với nhau. Vì vậy khi một nghiệp vụ mua bán nội bộ xảy ra, các cơ quan chức năng rất
khó khăn trong việc tìm kiếm một nghiệp vụ mua bán tương đương để so sánh xem nghiệp
vụ mua bán nội bộ này có tuân thủ theo nguyên tắc giá thị trường hay không.
Vì vậy, để có được một cơ sở dữ liệu làm nguồn số liệu để so sánh giá cả của các giao
dịch thì các cơ quan như thuế, thông kê, cơ quan tài chính vật giá và các công ty kiểm toán
cần phải tăng cường mối liên hệ qua lại và hỗ trợ lẫn nhau để cùng nhau xây dựng một cơ
sở dữ liệu thống nhất. Thông thường, mỗi cơ quan sẽ thu thập dữ liệu theo những cách
thức khác nhau sao cho phù hợp với từng mục đích riêng, điều này dẫn đến việc dữ liệu
của mỗi cơ quan sẽ khác nhau, các báo cáo số liệu chồng chéo lên nhau. Như vậy, hậu quả
`

là các cơ sở dữ liệu một mặt không chính xác về số liệu, mặt khác các báo cáo làm phiền
hà các doanh nghiệp, gây lãng phí cho doanh nghiệp và cho xã hội.
Để xây dựng cơ sở dữ liệu giá cả các giao dịch thị trường thì các cơ quan phải tập hợp số
liệu qua nhiều thời điểm khác nhau, các loại giao dịch khác nhau nhằm làm đa dạng hóa
cho cơ sở dữ liệu. Tránh những trường hợp số liệu được lấy trong một thời điểm biến động
lớn của thị trường (giá cả của các giao dịch không phản ánh được bản tính khách quan).
Cơ sở dự liệu về giá cả phải thống nhất một nguồn số liệu và nên được phổ biến cho công
chúng có thể vào tra cứu theo từng thời điểm. Nên xây dựng một trang web chứa cơ sở dữ
liệu giá cả giao dịch để các cơ quan hữu quan và doanh nghiệp có thể tra cứu và làm căn
cứ khi xem xét giao dịch mua bán tại doanh nghiệp có thực hiện thủ thuật chuyển giá hay
không.
Tăng cường kết hợp lấy thông tin từ hệ thống ngân hàng, đây là một kênh hiệu quả và
phản ánh trung thực các nghiệp vụ chuyển giao và giá cả chuyển giao. Đưa ra các biện
pháp khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng hệ thống ngân hàng, giảm các giao dịch tiền
mặt và tăng tính minh bạch cho thị trường. Hệ thống ngân hàng hoạt động tốt sẽ cung cấp
cho các cơ quan các thông tin mang tính chất vĩ mô như tỷ suất sinh lợi bình quân ngành,
chi phí hoạt động và doanh thu bình quân từng ngành rất chính xác và hữu ích cho các cơ
quan kiểm soát vấn đề chuyển giá làm tài liệu khi xem xét các MNC nghi ngờ có gian lận.
Trong một số trường hợp, các cơ quan quản lý có thể xây dựng một hệ thống thông tin tình
báo kinh tế về các MNC trên phạm vi quốc tế. Các trung tâm thu thập và cung cấp thông
tin về các MNC được đặt trụ sở tại nhiều quốc gia trên thế giới để có thể phản ảnh kịp thời
thông tin chi tiết về lịch sử hoạt động của các MNC khi các MNC đầu tư vào thị trường
Việt Nam. Các trung tâm này cũng cảnh báo về các hoạt động không lành mạnh của các
MNC nếu có xảy ra trên các nước khác cũng như các trung tâm xuất hóa đơn mà các MNC
này lập ra tại các quốc gia được xem là thiên đường về thuế. Các trung tâm tiến hành ghi
nhận các nghiệp vụ mua bán phát sinh giữa các công ty con trong nội bộ một MNC và các
`

công ty độc lập với nhau nhằm làm nên tảng số liệu khi cần so sánh và đối chiếu trong
công tác thanh tra điều tra.
3.3.2Xây dựng bảng tổng hợp tỷ suất lợi nhuận bình quân cho ngành
Hiện nay khó khăn của các cơ quan quản lý thuế là chưa có dữ liệu về tỷ suất lợi nhuận
bình quân của các ngành nghề nghề để áp dụng khi tiến hành kiểm tra hay thanh tra thuế.
Đây chính là vấn đề khó khăn mà cơ quan thuế hay gặp khi xem xét tỷ suất sinh lợi tại một
công ty vì không có một cơ sở pháp lý rõng ràng để làm căn cứ khi tiến hành thanh tra
thuế. Trong thực tế có nhiều doanh nghiệp kinh doanh trong những ngành nghề có tỷ suất
lợi nhuận rất cao nhừng doanh nghiệp này lãi thường xuyên thua lỗ kéo dài hoặc tỷ suất
sinh lợi rất thấp, thấp hơn cả lãi suất ngân hàng nhưng khi cơ quan thuế kiểm tra thì không
có cơ sở pháp lý vững chắc là tỷ suất lợi nhuận bình quân ngành để so sánh nên cơ quan
thuế thường không dám mạnh dạn thực hiện các hướng dẫn của thông tư 117 mặc dù có
dấu hiệu chuyển giá tại doanh nghiệp.
Vì vậy, giải pháp cần thực hiện la xây dựng một bảng tổng hợp tỷ suất lợi nhuận bình quân
cho từng ngành vào các năm khác nhau. Tổng Cục Thuế và Tổng Cục Thống Kê cần phải
cùng nhau phối hợp xây dựng và công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin để cho
các cơ quan quản lý thuế cơ sở và các doanh nghiệp thống nhất áp dụng. Bảng tỷ suất lợi
nhuận bình quân ngành là cơ sỏ pháp lý giúp cho cơ quan thanh tra thuế thực hiện thanh
tra khi thấy doanh nghiệp có những dấu hiệu bất thường về tỷ suất lợi nhuận như quá cao
hay quá thấp so với tỷ lệ bình quân ngành.
3.3.3Nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ của cán bộ quản lý khu vực đầu
tư nước ngoài
Để việc kiểm soát chuyển giá được thực hiện tốt thì ngoài việc chính phủ và các cơ quan
ban ngành xây dựng luật và các văn bản pháp lý phù hợp với tình hình thực tế và hiệu quả
thì một yếu tố mang tính quyết định cho tính thành công hay thất bại đó là yếu tố con
người. Đây chính là các nhân viên, cán bộ ngành thuế, hải quan trực tiếp làm việc trong
`

khu vực đầu tư nước ngoài, ngoài ra còn có nhân lực làm việc cho các MNC. Họ là những
người thực hiện luật, áp dụng các chính sách vào thực tế. Vì vậy họ cần phải am hiểu luật
một cách thấu đáo cặn kẽ để có thể hướng dẫn đúng cho các đối tượng khác cùng thực
hiện.
Về phía các cán bộ thuế và hải quan cần phải thường xuyên đào tạo cập nhật kiến thức và
nghiệp vụ chuyên môn phù hợp với tình hình thực tế, vì trong thực tế các MNC thường là
có trụ sở tại các quốc gia phát triển và có trình độ quản lý kinh tế cao. Ngoài ra, các cán bộ
ngành thuế và hải quan cần phải trang bị cho mình ngoại ngữ thật tốt để có thể tham gia
các khóa học ở nước ngoài và phục vụ cho các công tác nghiệp vụ. Ngoại ngữ và kiến
thức, kỹ năng tin học là hai yếu tố quyết định cho sự thành công trong việc làm việc với
các doanh nghiệp nước ngoài vì họ luôn có những nhân viên với kỹ năng ngoại ngữ và tin
học rất tốt.
Một vấn đề khó khăn thường hay gặp hiện nay của cán bộ quản lý thuế và hải quan là nếu
nhân sự hiểu biết rất giỏi về chuyên môn kế toán thì trình độ ngoại ngữ lại yếu kém, vì vậy
khó khăn trong việc giao tiếp và tìm hiểu tài liệu kiểm tra việc chuyển giá. Hay ngược lại,
cán bộ có trình độ ngoại ngữ rất giỏi nhưng lại không có chuyên môn về kế toán tài chính
nên vấn đề lại khó khăn trong công tác chuyên môn. Khi bố trí các cán bộ làm việc tại khu
vực đầu tư nước ngoài thì cơ quan thuế và hải quan cần chú ý đến vấn đề này. Bên cạnh đó
cần phải bồi dưỡng và đào tạo cho các cán bộ làm công tác này trình độ chuyên môn và
thẩm định giá thật tốt. Thường xuyên cập nhật kiến thức và gởi đi học hỏi kinh nghiệm tại
các quốc gia phát triển để có đủ năng lực làm việc vì thông thường các tập đoàn đa quốc
gia có trình độ quản lý cao và trụ sở tại các quốc gia phát triển.
Ngoài ra về phía cơ quan chức năng cần xem xét lại chế độ tiền lương thưởng cho các
nhân viên làm công tác tại các bộ phận này, vì nếu được thì chúng ta có thể thực hiện như
các nước làng giềng là “dung lương để dưỡng liêm”. Tạo cho các cán bộ an tâm về cuộc
sống để công tác tốt hơn. Nhưng đồng thời cũng có những hình thức xử lý nặng đối với
`

các cán bộ nhũng nhiểu các doanh nghiệp và gây khó khăn để nhằm đòi tiền hối lộ, quà
cáp.
3.3.4Các biện pháp hành chính và biện pháp phạt
Thực hiện cải cách hành chính trong khâu nhận thủ tục và cấp giấy phép đầu tư. Khi nhận
các dự án đầu từ và cấp phép phải xem xét thật kỷ hiệu quả kinh tế mà dự án đó mang lại
trong ngắn hạn và dài hạn. Chúng ta đang rất cần vốn đầu tư nước ngoài để phát triển kinh
tế nhưng cũng phải lựa chọn công nghệ và dự án kèm theo tiêu chí môi trường và phát
triển bền vững. Không nên lựa chọn các dự án tuy có mức đầu tư lớn nhưng lại là công
nghệ cũ và tác hại đến môi trường, dự án phải hài hòa với mục tiêu quy hoạch phát triển
của từng vùng và của cả nước.
Thủ tục đăng ký kinh doanh và cấp phép sau khi đã được chấp thuận thì cần phải rút ngắn
thời gian thực hiện để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, tránh trường hợp chồng
chéo thủ tục giữa các bên làm kéo dài thời gian đang ký và gây phiền hà tốn kém cho các
nhà đầu tư.
Hiện nay, Thông tư 117 hướng dẫn việc xác định giá cho các giao dịch đã ra đời nhưng
văn bản hướng dẫn cụ thể các mức phạt hay các hình thức xử phạt cụ thể vẫn chưa cụ thể
rõ ràng. Thiết nghĩ, chính phủ cần ban hành qui chế xử phạt cụ thể cho các trường hợp
phát hiện hành vi chuyển giá, phổ biến rộng rãi cho mọi thành phần kinh tế và nhà đầu tư
đều biết và chấp hành. Việc cụ thể hóa hình thức phạt và mức phạt sẽ tạo nên sư công
bằng và hiệu quả trong công tác kiểm tra và xử lý các trường hợp vi phạm đồng thời giảm
các tiêu cực có thể xảy ra trong công tác kiểm tra.
Dựa vào kinh nghiệm của các quốc gia khác thì Việt Nam có thể xây dựng cho mình một
tỷ lệ phạt cho các trường hợp thực hiện hành vi chuyển giá. Tương tự như mức phạt tại
Mỹ thì Việt Nam có thể áp dụng như sau:
-Khi cơ quan thuế xem xét các nghiệp vụ chuyển giao tại MNC trên cơ sở áp dụng
các phương pháp xác định giá thị trường theo hướng dẫn Thông tư 117, nếu phát
`

hiện có sai biệt giữa giá doanh nghiệp kê khai với giá thị trường, đồng thời doanh
nghiệp không chứng minh được lý do hợp lý của sự sai biệt này thì cơ quan thuế có
thể áp dụng mức phạt từ 20% đến 40% tùy theo mức độ sai lệch lớn hay nhỏ.
-Trường hợp cơ quan thuế xem xét sự khác biệt này dựa vào lợi nhuận sau khi áp
dụng các phương pháp căn bản so sánh lợi nhuận của doanh nghiệp với lợi nhuận
bình quân ngành thì có thể đưa ra một tỷ lệ phạt sao cho phù hợp, đồng thời phải
đảm bảo tính răn đe cho các doanh nghiệp khác
Tuy nhiên, trong những trường hợp đặc biệt, doanh nghiệp có đầy đủ chứng từ hợp pháp
để chứng minh sự khác biệt về giá cả là hợp lý thì doanh nghiệp sẽ không bị xử lý phạt
`

Kết luận chương 3
Chuyển giá là một vấn đề hết sức phức tạp và đòi hỏi nhiều kinh nghiệm, vì vậy các cơ
quan quản lý của Việt Nam cần phải không ngừng học hỏi và thường xuyên cập nhật tình
hình trong khu vực và thế giới để đưa ra phương pháp quản lý cho phù hợp. Việt Nam là
nước đang phát triển kinh tế nên kinh nghiệm quản lý kinh tế còn nhiều hạn chế, hành lang
pháp lý điều chỉnh kinh tế vẫn còn nhiều kẽ hở, do đó học hỏi kinh nghiệm quản lý kinh tế
và tiếp nhận những kinh nghiệm quản lý hiện đại từ các quốc gia bạn là yêu cầu bức thiết.
Ngoài ra Việt Nam cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm từng bước nâng
cao hiệu quả trong công tác quản lý kinh tế nói chung và chống chuyển giá nói riêng.
Bên cạnh đó, Việt Nam phải đầu tư cho yếu tố con người trong công tác quản lý vì đây là
yếu tố then chốt và quyết định cho sự thành công hay thất bại của việc quản lý. Cán bộ
quản lý kinh tế cần được chọn lọc với các tiêu chuẩn cao về trình độ kinh tế và ngoại ngữ,
thường xuyên cử người đi học tập và trao đổi kinh nghiệm quản lý kinh tế với các quốc gia
có trình độ quản lý tiên tiến. Ngoài ra còn rất nhiều việc mà chính phủ Việt Nam cần phải
làm là yêu cầu có sự phối hợp giữa các bộ và các ban ngành mà cụ thể là Bộ Tài Chính,
Bộ Kế hoạch Đầu Tư, Bộ Thương mại và Hải Quan phải thực hiện các biện pháp phòng
chống chuyển giá nghiêm túc và có sự phối hợp hiệu quả.
`

PHẦN KẾT LUẬN
Sự kiện Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới, tổ chức
thành công hội nghị APEC và ký hiệp định bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ đã đánh
dấu một bước ngoặc lớn cho sự phát triển kinh tế và xã hội của nước ta. Cùng với việc mở
của quan hệ kinh tế làm ăn với các quốc gia thì Việt Nam đã đón nhận một luồng vốn FDI
lớn đầu tư vào nền kinh tế. Trong thời gian từ khi mở cửa đến nay, nguồn vốn FDI đổ vào
Việt Nam có những thăng trầm khác nhau nhưng vẫn luôn có vai trò rất lớn đối với việc
thúc đẩy nền kinh tế và xã hội phát triển. Thông qua kênh FDI, Việt Nam đã đón nhận
được các công nghệ mới, học hỏi được trình độ quản lý kinh tế tiên tiến và xã hội được sử
dụng hàng hóa ngày càng chất lượng hơn.
Không ai có thể phủ nhận được vai trò của nguồn vốn FDI đối với sự phát triển kinh tế và
xã hội của Việt Nam, tuy nhiên một vấn đề cần thiết các nhà quản lý kinh tế phải nghiêm
túc nhìn nhận và tìm ra biện pháp để kiểm soát là vấn đề chuyển giá. Chuyển giá là hoạt
động tài chính tinh vi và phức tạp mà các tập đoàn kinh tế thường hay áp dụng nhằm trốn
tránh nghĩa vụ về thuế. Chuyển giá có tác hại tiêu cực đến sự pháp triển của nền kinh tế
làm cho chuyển dịch cơ cấu đầu tư, thất thoát về thuế, tạo ra sự không công bằng trong
cạnh tranh, mất kiểm soát và tự chủ về kinh tế và nghiêm trọng hơn nữa là làm sai lệch
trong định hướng phát triển kinh tế của quốc gia đó. Chuyển giá là vấn đề hết sức phức
tạp nhưng lại được chủ thể thực hiện là các công ty đa quốc gia có trình độ quản lý kinh tế
tiên tiến thực hiện vì vậy mà hoạt động này rất khó tiếp cận và ngăn chặn. Chuyển giá là
một hệ quả khó tránh khỏi của việc tiếp nhận đầu tư, các quốc gia sẽ lần lượt trải qua và
từng bước tìm cách để khắc phục.
Để việc kiểm soát chuyển giá mang lại hiệu quả đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa
chính phủ, các ban ngành mà cụ thể nhất là cơ quan thuế và hải quan. Việt Nam là quốc
gia đi sau vì vậy chúng ta cần phải chắt lọc kinh nghiệm của các quốc gia đi trước và đồng
thời phải thường xuyên theo dõi, cập nhật tình hình chuyển giá xảy ra ở các nước trong
khu vực và trên thế giới. Việc thực hiện xây dựng các chính sách kinh tế phải dựa trên

những kinh nghiệm quý báu của các quốc gia đi trườc và đồng thời phải đón đầu được xu
hướng tương lai. Tránh những sai lầm đáng tiếc và chúng ta cũng không có thời gian để
sửa chữa những sai lầm không đáng xảy ra.
Trong nội dung đề tài này, tác giả tập hợp các sự kiện chuyển giá xảy ra trong thực tế,
muốn phản ánh một bức tranh tương đối về hoạt động chuyển giá đã và đang diễn ra trong
suốt quá trình thu hút đầu tư của nước ta. Bên cạnh đó cũng nhìn nhận một số giải pháp
kiểm soát chuyển giá mà chính phủ Việt Nam đã áp dụng trong thời gian qua cũng như
đưa ra một số kiến nghị đề suất nhằm tăng cường khả năng kiểm soát chuyển giá.
Vấn đề chuyển giá trong thực tế không ngừng vận động và diễn biến ngày càng phức tạp
hơn, vì vậy đề tài này chỉ là những ghi nhận và phản ánh thực tế. Để việc kiểm soát
chuyển giá hiệu quả thì chính phủ Việt Nam còn rất nhiều việc cần phải chuẩn bị về cả
nhân lực và vật lực để con thuyền kinh tế Việt Nam đủ sức giương buồm ra biển lớn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1.“Tài chính doanh nghiệp hiện đại”, chủ biên PGS, TS Trần Ngọc Thơ, Trường Đại
Học Kinh Tến Tp.HCM, NXB Thống Kê, 2003
2.Nguyễn Thị Liên Hoa (2003), “Vấn đề chuyển giá tại các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam”, đề tài nghiên cứu khoa học cơ sở, Trường Đại Học
Kinh Tế Tp.HCM
3.Hội thảo chống chuyển giá và cập nhật tình hình thuế tại Nhật Bản và Việt Nam,
tháng 08 năm 2006, công ty Vaco Delitte
4.Ngô Trần Kim Ngân (2005),“Một số giải pháp kiểm soát hoạt động chuyển giá tại
các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài”, luận văn thạc sỹ kinh tế, Trường Đại Học
Kinh Tế Tp.HCM
5.Nguyễn Chí Thành( 2004), “Các biện pháp kiểm soát hoạt động chuyển giá tại Việt
Nam trong giai đoạn hội nhập”, luận văn thạc sỹ kinh tế, Trường Đại Học Kinh Tế
Tp.HCM
6.Thông tư 117/2005/TT-BTC, “Hướng dẫn thực hiện việc xác định giá thị trường
trong giao dịch kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết” của Bộ Tài Chính ban
hành ngày 19 thang12 năm 2005.
7.Các trang Web :
-Trang Web Bộ Tài Chính tại địa chỉ www.mof.gov.vn
-Trang Web Bộ kế Hoạch và Đầu Tư tại địa chỉ www.mpi.gov.vn
-Trang Web Cục Thuế Tp.HCM tại địa chỉ www.hcmtax.gov.vn
-Trang web tin nhanh Việt Nam tại địa chỉ www.vnexpress.net
-Trang web báo Pháp Luật Tp.HCM tại địa chỉ www.phapluattp.vn
Tiếng Anh
1.A Meeting of minds-resolving transfer pricing controveries, Công ty Kiểm toán
KPMG
2.Globle transfer pricing survey 2007-2008, công ty kiểm toán ERNS & Young
3.Trang Web www.transferpricing.com
4.Trang Web www.vietpartners.com
5.Trang web http://money.cnn.com/magazines/fortune/fortune500/2008/full_list/

PHỤ LỤC 01: THUẾ NHẰM KIỂM SOÁT CHUYỂN GIÁ TẠI
MỘT SỐ QUỐC GIA CHÂU Á
Thuế chống chuyển giá tại Malaysia
-Từ năm 2003 trở về trước : chỉ có những
quy định chung
-Tháng 7 năm 2003 : ban hành hướng
dẫn cụ thể về chuyển giá
-Đưa ra phương pháp tính toán cụ thể
phù hợp với hướng dẫn của OECD, Mô
tả về tài liệu chứng minh
-Các điều kiện của việc thanh tra và điều
chỉnh giá chuyển giao; trong thời gian
gần đây IRB (cơ quan quản lý thuế của
Malaysia) gia tăng việc thanh tra về
chuyển giá đối với ngành công nghiệp
và thương mại.
-Các tiêu chí lựa chọn các doanh nghiệp
thuộc diện phải thanh tra là lỗ hoặc có
lợi nhuận thấp trong thời gia dài, các
doanh nghiệp kết thúc thời gian được ưu
đãi thuế.
Thuế chống chuyển giá tại Thái Lan
-Văn bản pháp quy : ban hành chỉ
dẫn Paw 113/2545 ( tháng 5 năm
2002)
-Qui định về thỏa thuận xác định giá
trước (APA)
-LTO ( cơ quan quản lý thuế của
các doanh nghiệp lớn), đã ban hành
một bản câu hỏi với 10 mục danh
cho các đối tượng nộp thuế là các
doanh nghiệp lớn
-Các lựa chọn về việc đệ trình hồ sơ :
●Trả lời bảng câu hỏi : đệ
trình tài liệu chứng minh
●Chuẩn bị các tài liệu chứng
minh ( mặc dù việc này
không bắt buộc nhưng
doanh nghiệp nên thực hiện
Thuế chống chuyển giá tại Đài Loan
-Trước đây không có quy định nào cụ thể
về thuế chống chuyển giá ngoài điều
luật 43-1 trong luật thuế thu nhập
-Tháng 12 năm 2004 luật thanh tra giá
chuyển giao dựa trên hướng dẫn của
OECD (bao gồm 37 điều, trong đó các
điều khoản về thỏa thuận xác định giá
trước APA) áp dụng đối với các công ty
Thương mại đã được ban hành.
-Việc chuẩn bị các tài liệu chứng minh
được qui định là yêu cầu bắt buộc kể từ
năm tài chính 2005 trở đi
-Trường hợp cơ quan thuế yêu cầu chứng
minh, doanh nghiệp phải cung cấp tài
liệu chứng minh trong vòng một tháng.
Thuế chống chuyển giá tại Singapore
-Hướng dẫn cụ thể về chuyển giá
được ban hành vào ngày 23 tháng 2
năm 2006:
●Hướng dẫn thi hành các vấn đề
chuyển giá
●Việc chuyển giá của các đối
tượng nộp thuế tại Singapore và
giảm các rủi ro đánh thuế hai
lần.
-Phương pháp xác định giá chuyển
giao phù hợp với hương dẫn của
OECD
-Việc chuẩn bị tài liệu chứng minh
là bắt buộc và doanh nghiệp phải
cung cấp các tài liệu đó nếu cơ
quan thuế yêu cầu
-Hiện tại Singapore đã ký kết một
số hiệp định về xác định giá
chuyển giao vối các nước và một

số thỏa thuận về việc xác định giá
trước với các doanh nghiệp (trước
đây cũng đã có một số thỏa thuận
xác định giá
trước được ký kết).

Thuế chống chuyển giá tại Indonesia
-Hiện tại chỉ có những điều khoản quy
định sơ sài về vấn đề chuyển giá trong
luật thuế thu nhập doanh nghiệp và luật
thuế giá trị gia tăng. Các điều khoản này
quy định rằng “ cơ quan thuế có quyền
xác định lại giá chuyển giáo giữa các
bên có quan hệ liên kết” và rằng “ Thỏa
thuận xác định giá trước –APA có thể
được chấp nhận”
-Việc hanh tra về chuyển giá sẽ được
thực hiện đồng thời với việc thanh tra về
thuế thu nhập doanh nghiệp.
-So sánh đơn giản giữa giá xuất khẩu cho
công ty mẹ và các công ty liên kết và giá
bán trong nước
-Trên thực tế chưa có thỏa thuận xác định
giá trước nào được xác lập.
Thuế chống chuyển giá tại Ấn Độ
-Các qui định về chống chuyển giá
được ban hành năm 2001
-Việc chuẩn bị tài liệu chứng minh
là bắt buộc
-Phương pháp tính toán phù hợp với
các quy định của OECD.
-Trường hợp doanh nghiệp không
tuân thủ các qui định có thể bị phạt
rất nặng.
-Hàng năm doanh nghiệp phải nộp
một báo cáo về giao dịch với các
bên liên kết có chữ ký xác nhận của
kế toán cùng với tờ quyết toán
thuế.
-Việc thanh tra đối với hoạt động
chuyển giá được chính thức thực
hiện từ năm 2003 -> cơ quan thuế
thành lập bộ phận chuyên trách về
thanh tra các hoạt động chuyển giá.
Nguồn lấy từ tài liệu hội thảo về chống chuyển giá và cập nhật tình hình thuế
tại nhật Bản và Việt Nam của Công ty Kiểm Toán Vaco tháng 8 năm 2006

Thu h
ú t Vố n FDI từ 1988- 2008
70000
64,000.00
60000
50000
40000
30000
20,300.00
20000
10000
0
0 371.80
582.50839.00
1,322.30 2,165.00
2,900.00
3,765.60
6,530.80
8,497.30
4,649.10
3,897.00
1,568.00 2,012.40
2,503.00
1,557.70
1,512.80 2,084.00
5,300.00
10,200.00
Năm 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Năm
Phụ lục 02: Đồ thị tình hình thu hút vốn đầu tư FDI của
Việt Nam từ năm 1988 đến năm 2008 (Nguồn Việt Partner)
Tri
ê
̣ u
US
D

PHỤ LỤC 03: DANH SÁCH 200 CÔNG TY LỚN NHẤT HÀNH TINH NĂM 2008
Hạng Tên Công Ty
Doanh Số Lợi Nhuận
(Triệu đô la) (Triệu đô la)
1 Wal-Mart Stores 378,799 12,731
2 Exxon Mobil 372,824 40,610
3 Royal Dutch Shell 355,782 31,331
4 BP 291,438 20,845
5 Toyota Motor 230,201 15,042
6 Chevron 210,783 18,688
7 ING Group 201,516 12,649
8 Total 187,280 18,042
9 General Motors 182,347 -38,732
10 ConocoPhillips 178,558 11,891
11 Daimler 177,167 5,446
12 General Electric 176,656 22,208
13 Ford Motor 172,468 -2,723
14 Fortis 164,877 5,467
15 AXA 162,762 7,755
16 Sinopec 159,260 4,166
17 Citigroup 159,229 3,617
18 Volkswagen 149,054 5,639
19 Dexia Group 147,648 3,467
20 HSBC Holdings 146,500 19,133
21 BNP Paribas 140,726 10,706
22 Allianz 140,618 10,904
23 Crédit Agricole 138,155 8,172
24 State Grid 132,885 4,423
25 China National Petroleum 129,798 14,925
26 Deutsche Bank 122,644 8,861
27 ENI 120,565 13,703
28 Bank of America Corp. 119,190 14,982
29 AT&T 118,928 11,951
30 Berkshire Hathaway 118,245 13,213
31 UBS 117,206 -3,654
32 J.P. Morgan Chase & Co. 116,353 15,365
33 Carrefour 115,585 3,147
34 Assicurazioni Generali 113,813 3,991
35 American International Group 110,064 6,200
36 Royal Bank of Scotland 108,392 15,103
37 Siemens 106,444 5,063
38 Samsung Electronics 106,006 7,986
39 ArcelorMittal 105,216 10,368
40 Honda Motor 105,102 5,254
41 Hewlett-Packard 104,286 7,264
42 Pemex 103,960 -1,675
43 Société Générale 103,443 1,296
44 McKesson 101,703 990
45 HBOS 100,267 8,093
46 International Business Machines 98,786 10,418
47 Gazprom 98,642 19,269
48 Hitachi 98,306 -509
49 Valero Energy 96,758 5,234

50 Nissan Motor 94,782 4,223
51 Tesco 94,703 4,253
52 E.ON 94,356 9,861
53 Verizon Communications 93,775 5,521
54 Nippon Telegraph & Telephone 93,527 5,562
55 Deutsche Post 90,472 1,901
56 Metro 90,267 1,129
57 Nestlé 89,630 8,874
58 Santander Central Hispano Group 89,295 12,401
59 Statoil Hydro 89,224 7,526
60 Cardinal Health 88,364 1,931
61 Goldman Sachs Group 87,968 11,599
62 Morgan Stanley 87,879 3,209
63 Petrobras 87,735 13,138
64 Deutsche Telekom 85,570 779
65 Home Depot 84,740 4,395
66 Peugeot 82,965 1,211
67 LG 82,096 2,916
68 Électricité de France 81,629 7,690
69 Aviva 81,317 2,655
70 Barclays 80,347 8,837
71 Fiat 80,112 2,673
72 Matsushita Electric Industrial 79,412 2,468
73 BASF 79,322 5,565
74 Credit Suisse 78,206 6,467
75 Sony 77,682 3,235
76 Telefónica 77,254 12,190
77 UniCredit Group 77,030 8,159
78 BMW 76,675 4,279
79 Procter & Gamble 76,476 10,340
80 CVS Caremark 76,330 2,637
81 UnitedHealth Group 75,431 4,654
82 Hyundai Motor 74,900 1,722
83 U.S. Postal Service 74,778 -5,142
84 France Télécom 72,488 8,623
85 Vodafone 71,202 13,366
86 SK Holdings 70,717 1,505
87 Kroger 70,235 1,180
88 Nokia 69,886 9,862
89 ThyssenKrupp 68,799 2,796
90 Lukoil 67,205 9,511
91 Toshiba 67,145 1,116
92 Repsol YPF 67,006 4,364
93 Boeing 66,387 4,074
94 Prudential 66,358 2,045
95 Petronas 66,218 18,118
96 AmerisourceBergen 66,074 469
97 Suez 64,982 5,370
98 Munich Re Group 64,774 5,275
99 Costco Wholesale 64,400 1,083
100 Merrill Lynch 64,217 -7,777
101 Robert Bosch 63,401 3,794
102 Target 63,367 2,849

103 Aegon 62,383 3,492
104 State Farm Insurance Cos. 61,612 5,464
105 WellPoint 61,134 3,345
106 Dell 61,133 2,947
107 Johnson & Johnson 61,095 10,576
108 Marathon Oil 60,044 3,956
109 Enel 59,778 5,444
110 Saint-Gobain 59,433 2,035
111 Lloyds TSB Group 59,226 6,580
112 CNP Assurances 59,071 1,672
113 Lehman Brothers Holdings 59,003 4,192
114 RWE 58,383 3,640
115 Nippon Life Insurance 57,859 2,264
116 Indian Oil 57,427 1,965
117 Nippon Oil 57,049 1,299
118 Mitsubishi UFJ Financial Group 55,988 5,575
119 Renault 55,684 3,653
120 Wachovia Corp. 55,528 6,312
121 Zurich Financial Services 55,163 5,626
122 Unilever 55,006 5,322
123 United Technologies 54,759 4,224
124 Groupe Caisse d'Épargne 53,992 1,871
125 Walgreen 53,762 2,041
126 Wells Fargo 53,593 8,057
127 EADS 53,550 -610
128 Dow Chemical 53,513 2,887
129 MetLife 53,150 4,317
130 Mitsubishi 52,808 4,052
131 A.P. Møller-Mærsk Group 52,381 3,275
132 Hon Hai Precision Industry 51,828 2,365
133 Industrial & Commercial Bank of China 51,526 10,718
134 Banco Bilbao Vizcaya Argentaria 51,449 8,385
135 PTT 51,192 3,347
136 Microsoft 51,122 14,065
137 Royal Ahold 50,739 4,012
138 Sears Holdings 50,703 826
139 Groupe Auchan 50,465 1,317
140 Mitsui 50,252 3,591
141 Seven & I Holdings 49,768 1,130
142 United Parcel Service 49,692 382
143 Pfizer 48,418 8,144
144 Intesa Sanpaolo 48,305 9,924
145 Lowe's 48,283 2,809
146 Tokyo Electric Power 47,980 -1,314
147 Rabobank 47,388 3,229
148 China Mobile Communications 47,055 8,426
149 Fujitsu 46,680 421
150 Time Warner 46,615 4,387
151 GlaxoSmithKline 45,447 10,432
152 Caterpillar 44,958 3,541
153 Veolia Environnement 44,750 1,270
154 AEON 44,706 380
155 Bayer 44,664 6,448

156 Medco Health Solutions 44,506 912
157 Supervalu 44,048 593
158 Archer Daniels Midland 44,018 2,162
159 China Life Insurance 43,440 2,936
160 Telecom Italia 43,394 3,351
161 Fannie Mae 43,355 -2,050
162 Freddie Mac 43,104 -3,094
163 Deutsche Bahn 42,855 2,328
164 Safeway 42,286 888
165 Nippon Steel 42,267 3,108
166 BT 42,252 3,486
167 Volvo 42,230 2,209
168 Sunoco 42,101 891
169 Vinci 41,969 2,000
170 Lockheed Martin 41,862 3,033
171 China Construction Bank 41,307 9,079
172 Bouygues 40,721 1,883
173 Sumitomo Mitsui Financial Group 40,486 4,041
174 NEC 40,430 199
175 Roche Group 40,315 8,134
176 Sprint Nextel 40,146 -29,580
177 Best Buy 40,023 1,407
178 Sanofi-Aventis 39,977 7,204
179 Franz Haniel 39,931 939
180 Dai-ichi Mutual Life Insurance 39,863 1,149
181 Novartis 39,800 11,946
182 Mizuho Financial Group 39,610 2,725
183 BHP Billiton 39,498 13,416
184 PepsiCo 39,474 5,658
185 Landesbank Baden-Württemberg 39,459 415
186 Koç Holding 39,392 1,758
187 Bank of China 38,904 7,395
188 Intel 38,334 6,976
189 Canon 38,060 4,147
190 Altria Group 38,051 9,786
191 Bunge 37,842 778
192 Tyco International 37,747 -1,742
193 Gaz de France 37,541 3,384
194 Royal Bank of Canada 37,526 4,989
195 Kraft Foods 37,241 2,590
196 Commerzbank 37,143 2,624
197 Royal Philips Electronics 37,007 5,705
198 Allstate 36,769 4,636
199 KFW Bankengruppe 36,757 -8,442
200 Motorola 36,622 -49
(Nguồn web http://money.cnn.com/manazines/fortune/fortune500/2008/full_list)

PHỤ LỤC 04: GIÁM SÁT QUỐC TẾ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIÁ
1.Nguyên tắc căn bản giá thị trường (The Arm’s Length Principle-APL):
Để đảm bảo tính khách quan và công bằng trong thương mại cũng như công bằng về mặt
nghĩa vụ thuế giữa các doanh nghiệp cũng như các MNC trên các quốc gia khác nhau, cần
phải có một nguyên tắc chung để các quốc gia thống nhất áp dụng. Đó là nguyên tắc xác
định giá trị của các nghiệp vụ chuyển giao nội bộ trong các MNC dựa trên căn bản giá thị
trường (The Arm’s Length Principle –ALP). Nguyên tắc căn bản giá thị trường ALP là
xương sống, cốt lõi của tất cả các vấn đề trong nghiệp vụ định giá chuyển giao hay chuyển
giá trong các MNC. Xuất phát từ nguyên tắc này và các phương pháp định giá chuyển giao
phù hợp mà những nhà quản lý doanh nghiệp, các nhà làm hoạch định chính sách kinh tế,
cơ quan thuế và các bên hữu quan khác có thể đưa ra kết luận là có hay không hiện tượng
chuyển giá xảy ra trong MNC đang được xem xét. Dựa theo nguyên tắc này, để xem xét
các hoạt động mua bán chuyển giao nội bộ xảy ra nội bộ MNC có căn cứ trên giá thị
trường hay không?
Vấn đề chuyển giá là vấn đề rất nhạy cảm trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các
MNC, việc kết luận về hoạt động chuyển giá có vai trò quan trọng và tác động rất lớn đến
hoạt động của MNC cũng như cơ quan thuế cũng như các bên hữu quan khác. Hậu quả của
việc kết luận có hoạt động chuyển giá xảy ra trong MNC là MNC sẽ bị chịu một hình phạt
nặng nề về thuế và việc kiểm tra kéo dài làm tổn hại đến uy tín, thời gian cũng như vật
chất của cả MNC, cơ quan thuế và các bên hữu quan khác. Nguyên tắc giá thị trường và
các phương pháp tính giá chuyển giao có vai trò rất quan trọng vì vậy mà bản thân các
MNC và cơ quan thuế cần phải nghiên cứu chi tiết và hiểu cụ thể để ứng dụng vào thực tế
một cách hiệu quả nhằm tránh đưa ra các kết luận không chính xác sẽ gây ra hậu quả
không lường.

Nguyên tắc căn bản giá thị trường và các phương pháp định giá chuyển giao mà tổ chức
OECD đưa ra được xem là những chuẩn mực quốc tế, là công cụ hữu hiệu trong việc giám
sát hoạt động chuyển giá của các MNC.
Nguyên tắc căn bản giá thị trường (ALP) là một chuẩn mực quốc tế do tổ chức Hợp Tác
Kinh Tế Và Phát Triển (Organisation for Enconamic Co-Operation and Development –
gọi tắt là OECD) đưa ra, nguyên tắc xem xét giá cả của hàng hóa, dịch vụ trong nghiệp vụ
mua bán diễn ra giữa các bên tham gia hoàn toàn độc lập với nhau.
Khi các bên tham gia vào hoạt động thương mại với tư cách là các bên độc lập thì các
quan hệ mua bán, các điều kiện hợp đồng kinh tế, các thương lượng về kinh tế, tài chính,
tín dụng sẽ mang tính khách quan và chịu sự chi phối của quan hệ cung cầu hàng hóa vì
vậy mà giá cả của hàng hóa và dịch vụ được xác định hoàn toàn theo nhu cầu thị trường và
qui luật cung cầu. Nếu các bên tham gia vào hoạt động thương mại mà có liên kết với
nhau thì tác động của những ràng buộc về các điều khoản trong hợp đồng kinh tế, tín dụng
và tài chính sẽ không rõ nét và không đáng kể, vì vậy giá cả hàng hóa và dịch vụ trong các
nghiệp vụ chuyển giao có thể không phản ánh khách quan giá trị của hàng hóa và qui luật
cung cầu hàng hóa có thể sẽ không được tuân theo.
Do tính chất khách quan của căn bản giá thị trường là phản ánh đúng bản chất thị trường,
quy luật thị trường, quy luật cung cầu hàng hóa dịch vụ và qui luật cạnh tranh của thị
trường. Vì vậy mà nguyên tắc giá thị trường được các nước thành viên của OECD thống
nhất dùng làm cơ sở khi tính giá cho các nghiệp vụ chuyển giao nội bộ và khi làm việc với
thuế. Bằng việc áp dụng nguyên tắc căn bản giá thị trường ALP một cách rộng rãi trên
nhiều quốc gia sẽ tạo nên tính công bằng về thuế cho các công ty nội địa độc lập và các
MNC, khắc phục được việc tạo ra các lợi thế hay các bất lợi về thuế nhằm tối thiểu hóa số
thuế phải nộp hay trốn thuế của các công ty đa quốc gia. Thông qua việc hạn chế các tác
động xấu của việc chuyển dịch lợi nhuận trên quy mô toàn cầu sẽ tăng cường khả năng
cạnh tranh của nền kinh tế và góp phần cho sự lớn mạnh của thương mại quốc tế và gia
tăng đầu tư.

Tuy nhiên, trong thực tế thì các nghiệp vụ mua bán trao đổi hàng hoá diễn ra rất đa dạng
và phức tạp, các nghiệp vụ mua bán này diễn ra theo mục tiêu kinh doanh của các nhà
quản trị, vì vậy mà nó chứa đựng trong đó cả các yếu tố kinh tế và cả các yếu tố phi kinh
tế. Do đó chúng ta sẽ gặp khó khăn trong quá trình tìm kiếm các nghiệp vụ tương đương
để so sánh với nhau. khi đối diện với các giao dịch mua bán trao đổi nội bộ thì MNC, cơ
quan thuế và cả các cơ quan hữu quan khác sẽ mất rất nhiều thời gian và công sức để tìm
kiếm các nghiệp vụ mua bán trao đổi tương tự trên các phương tiện báo chí, truyền thông,
internet… để có thể áp dụng nguyên tắc căn bản giá thị trường.
Về nguyên tắc, một cách tốt nhất để xem xét mức độ liên kết giữa các công ty sẽ tác động
như thế nào đến giá cả hàng hoá chuyển giao trong nội bộ MNC là đem so sánh với giá cả
của hàng hoá dịch vụ trong các nghiệp vụ mua bán giữa MNC với một công ty độc lập hay
giữa hai công ty hoàn toàn độc lập với nhau trong những điều kiện tương ứng. Tuy nhiên
giống như đã đề cập ở phần trên, trong thực tế chúng ta rất khó có thể tìm ra các giao dịch
mà có thể áp dụng một cách trực tiếp nguyên tắc căn bản giá thị trường do vậy chúng ta
cần phải tiếp cận một cách gián tiếp bằng các phương pháp phân tích giá chuyển giao và
phân tích một cách hợp lý lãi gộp (ròng) của nghiệp vụ chuyển giao. Thông qua phân tích
chúng ta sẽ xem xét các nghiệp vụ chuyển giao nội bộ này có tuân thủ theo nguyên tắc căn
bản giá thi trường hay không.
2.Các phương pháp định giá chuyển giao nội bộ theo hướng dẫn của OECD:
Do gặp những khó khăn trong quá trình tìm kiếm các nghiệp vụ mua bán hàng hoá giữa
các công ty độc lập có cùng các điều kiện tương đương với các nghiệp vụ chuyển giao nội
bộ để có thể so sánh với nhau, và có thể áp dụng trực tiếp nguyên tắc căn bản giá thị
trường – ALP. Các MNC thường áp dụng các phương pháp tính giá chuyển giao nội bộ
khác nhau, tuỳ thuộc vào các đặc điểm của nghiệp vụ chuyển giao hàng hoá, tuỳ thuộc vào
đặc tính của hàng hoá mà chọn phương pháp thích hợp.

Các phương pháp định giá theo hướng dẫn của OECD được các MNC áp dụng phổ biến
như sau:
-Phương pháp định giá chuyển giao trên cơ sở giá tự do có thể so sánh được
(Comparable Uncontrolled Price – CUP)
-Phương pháp giá bán lại (Resales Price Method)
-Phương pháp giá vốn cộng Lãi (Cost Plus Method).
-Phương pháp chiết tách lợi nhuận (Profit Split Method)
-Phương pháp lợi nhuận ròng của nghiệp vụ chuyển giao (Transactional Net Margin
Method – TNMM)
Tuỳ theo mỗi phương pháp cụ thể nêu trên, giá thị trường của sản phẩm có thể được tính
trực tiếp hay gián tiếp ra đơn giá sản phẩm hoặc gián tiếp thông qua tỷ suất lợi nhuận gộp
hoặc tỷ suất sinh lời của sản phẩm.
2.1Phương pháp định giá chuyển giao trên cơ sở giá tự do có thể so sánh được
(Comparable Uncontrolled Price – CUP):
Phương pháp này được xem là gần gũi với nguyên tắc căn bản giá thị trường –ALP vì đây
là phương pháp giá tự do có thể so sánh được. Phương pháp CUP so sánh giá cả của hàng
hoá, dịch vụ, TSCĐ hữu hình và vô hình trong các giao dịch giữa các bên độc lập và liên
kết. Tuỳ vào mối quan hệ so sánh mà ta có thể chia phương pháp CUP ra thành hai loại:
-Phương pháp CUP nội bộ: Phương pháp này dùng giá của các sản phẩm hàng
hoá,dịch vụ được chuyển giao giữa các công ty con của một MNC (hay giữa công
ty Mẹ và công ty con) với giá cả hàng hoá, dịch vụ mà một thành viên của MNC
bán ra bên ngoài cho một công ty hoàn toàn độc lập trong cùng các điều kiện so
sánh được với nhau.

-Phương pháp CUP đối ngoại: Phương pháp này sử dụng giá hàng hoá, dịch vụ của
nghiệp vụ chuyển giao mua bán giữa nội bộ các công ty của MNC và giao dịch
giữa hai chủ thể hoàn toàn độc lập khác nhưng phải cùng điều kiện tương đương.
Phương pháp này được áp dụng kèm theo điều kiện là các giao dịch đem ra so sánh không
có các khác biệt nào trọng yếu ảnh hưởng đáng kể đến giá của sản phẩm và hàng hoá, dịch
vụ. Nếu có sự khác biệt thì sư khác biệt này phải được tính toán và điều chỉnh cho phù
hợp.
Các yếu tố ảnh hưởng trọng yếu đến giá của hàng hoá và dịch vụ thường là:
-Đặc tính vật chất, chất lượng và nhãn hiệu thương mại của sản phẩm
-Các điều kiện hợp đồng trong việc cung cấp, chuyển giao sản phẩm. Ví dụ như mua
hàng với số lượng lớn sẽ được chiếc khấu làm cho giá mua rẻ hơn hay thời hạn
thanh toán và thời hạn chuyển giao sản phẩm.
-Quyền phân phối, tiêu thụ sản phẩm có ảnh hưởng tới giá trị kinh tế
-Thị trường diễn ra các giao dịch mua bán.
Để đảm bảo các giao dịch nội bộ tuân thủ theo giá thị trường thì MNC cần phải thực hiện
so sánh giá chuyển giao nội bộ với giá của các giao dịch có thể so sánh như sau:
-Giá bán hàng hoá, dịch vụ của một công ty thành viên của MNC cho một công ty
hoàn toàn độc lập (công ty không phải là thành viên của MNC).
-Giá bán hàng hoá, dịch vụ trong một nghiệp vụ mua bán của hai công ty hoàn toàn
độc lập với MNC (tức hai công ty không là thành viên của MNC).
-Giá bán hàng hoá, dịch vụ của một công ty hoàn toàn độc lập cho một công ty là
thành viên của MNC.
Phương pháp CUP thường được áp dụng trong các trường hợp sau:
-Các giao dịch riêng lẻ về từng chủng loại hàng hoá lưu thông trên thị trường.
-Các giao dịch riêng lẻ về từng loại hình dịch vụ, bản quyền, khế ước vay nợ.

-Các công ty kinh doanh thực hiện cả giao dịch độc lập và giao dịch liên kết cho
cùng một chủng loại sản phẩm.
Đây là phương pháp được xem là gần gũi nhất với nguyên tắc căn bản giá thị trường.
Trong thực tế đây là phương pháp thích hợp nhất cho cả bên mua và bên bán vì giá cả có
thể so sánh với độ chính xác tương đối cao với giá cả trên thị trường vì vậy mà cả bên mua
và bên bán đều có một khoản lợi nhuận tương đối phù hợp với mức bình quân thị trường.
2.2Phương pháp giá bán lại (Resales Price Method):
Phương pháp giá bán lại này dựa vào giá bán lại (hay giá bán ra) của sản phẩm do cơ sở
kinh doanh bán cho bên độc lập để xác định giá (chi phí) mua vào của sản phẩm đó từ bên
liên kết. Như vậy, phương pháp này bắt đầu bằng việc lấy giá bán lại (hay giá bán ra) trừ
(-) lợi nhuận gộp trừ (-) các chi phí khác.
Trong đó lợi nhuận gộp bao gồm các khoản chiết khấu mà công ty độc lập này được
hưởng và tổng các khoảng chiết khấu này phải đủ bù đắp cho các chi phí bán hàng, chi phí
quản lý và điều hành doanh nghiệp cũng như một mức lợi nhuận hợp lý. Các khoản chi phí
khác là các chi phí liên quan đến việc mua sản phẩm và vận chuyển sản phẩm như thuế
nhập khẩu, chi phí hải quan, chí phí bảo hiểm, chi phí vận chuyển. Như vậy sau khi loại
trừ hai yếu tố lợi nhuận gộp và chi phí khác thì phần còn lại có thể được xem như là giá cả
theo nguyên tắc thị trường (ALP).
Điều kiện để áp dụng phương pháp này:
-Các bên giao dịch phải độc lập với nhau, không có bất cứ ràng buộc nào. Vì nếu có
tồn tại các ràng buộc, liên kết thì giá bán ra của các sản phẩm này sẽ không còn
mang tính khách quan và tuân theo qui luật thị trường nữa.
-Không có sự khác biệt quá lớn về điều kiện giao dịch khi so sánh giữa giao dịch
độc lập và giao dịch liên kết gây ảnh hưởng trọng yếu đến tỷ suất lợi nhuận gộp bán
ra (doanh thu thuần). Các nghiệp vụ mua hàng được chọn phải có liên quan đến
nghiệp vụ chuyển giao mà ta cần xác định giá thị trường.

-Nếu xảy ra trường hợp có khác biệt thì các khác biệt này cần phải được loại bỏ
trước khi đem ra so sánh.
Trong thực tế có các trường hợp không tồn tại các nghiệp vụ hoàn toàn phù hợp với nhau
để có thể so sánh, vì vậy có thể tính toán giá cả theo nguyên tắc thị trường bằng cách dựa
trên khoản chiết khấu có nguồn gốc từ chính công ty thương mại một thị trường tương tự.
Chúng ta cần phải biết là trong thực tế giữa các nghiệp vụ chuyển giao nội bộ của MNC và
nghiệp vụ chuyển giao có thể so sanh được tồn tại những khác biệt do sự vận động không
ngừng của nền kinh tế như lạm phát, lãi suất và các ràng buộc về kinh tế, các thoả ước
kinh tế…
Trong thực tế có một số trường hợp phương pháp này không thể thực hiện được do có
những yếu tố tác động đến mức chiết khấu (tỷ lệ lãi gộp) và các chi phí khác. Các yếu tố
đó xảy ra trong các trường hợp sau:
-Hàng hoá được các công ty thương mại mua về sau đó đem gia công chế biến thêm
và làm thay đổi đáng kể giá trị của sản phẩm vì vậy mà ảnh hưởng đến việc xác
định tỷ lệ chiết khấu hợp lý.
-Hàng hoá mua về sau đó đem thay đổi nhãn hiệu bằng nhãn hiệu có uy tín hơn và
bán ở mức giá cao hơn dẫn đến khó khăn trong việc xác định khoản chiết khấu hợp
lý.
-Thời gian từ lúc mua hàng đến lúc bán hàng quá lâu và khoảng cách địa lý làm cho
kéo theo các rủi ro về tỷ giá, lạm phát và những biến động của nền kinh tế.
-Khác nhau về mặt chức năng kinh doanh (ví dụ như đại lý phân phối độc quyền,
thực hiện các chương trình quảng cáo, khuyến mãi, bảo hành) cũng làm ảnh hưởng
đến tỷ suất lãi gộp hay mức chiết khấu.
-Khác nhau về chủng loại, qui mô, khối lượng, thời gian quay vòng của sản phẩm và
tính chất hoạt động của thị trường như là công ty thương mai này là bán buôn hay
bán lẻ

-Phương pháp hạch toán kế toán, phải đảm bảo các bên tham gia vào giao dịch liên
kết cùng hạch toán theo cùng phương pháp kế toán, phương pháp theo dõi hàng tồn
kho. Nếu các bên tham gia vào các giao dịch sử dụng các phương pháp kế toán
khác nhau vào các nghiệp vụ thì việc so sánh các nghiệp vụ sẽ trở nên bị khập
khiễng.
Do đó mấu chốt của phương pháp này là xác định mức chiết khấu (tỷ lệ lãi gộp) một cách
hợp lý. Nhưng chúng ta cũng không thể lấy tỷ lệ chiết khấu hay tỷ lệ lãi gộp bình quân cho
toàn ngành mà áp đặt vào để so sánh. Phương pháp này thường được áp dụng cho các
trường hợp giao dịch đối với các công ty thương mại các sản phẩm thuộc khâu cung cấp
các dịch vụ giản đơn và thường thời gian phân phối từ khi mua hàng đến khi bán hàng
ngắn và ít bị ảnh hưởng biến động của tính thời vụ. Đồng thời các sản phẩm bán ra không
qua gia công chế biến, lắp ráp hay thay đổi cấu trúc ban đầu của sản phẩm mà làm tăng
một phần đáng kể giá trị của sản phẩm.
2.3Phương pháp giá vốn cộng lãi (Cost Plus Method or Mark Up Method):
Phương pháp giá vốn cộng thêm dựa vào giá vốn hay giá thành của sản phẩm để xác định
giá bán ra của sản phẩm cho các bên liên kết. Giá bán ra của sản phẩm bằng giá vốn của
sản phẩm cộng thêm cho một khoản lợi nhuận hợp lý. Mức nâng lợi nhuận này phải được
xem xét tới tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình sản xuất ra sản phẩm như giá trị tổng
vốn trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất ra sản phẩm đó bao gồm cả TSCĐ hữu hình
và TSCĐ vô hình, các rủi ro có liên quan. Lợi nhuận nâng lên này phải được tính toán sao
cho giá cả chuyển giao trong nghiệp vụ này có thể so sánh căn bản giá thị trường trong các
nghiệp vụ mua bán chuyển giao giữa một công ty là thành viên của MNC và một công ty
độc lập hoặc là giao dịch giữa hai công ty hoàn toàn độc lập với nhau.
Đối với phương pháp này, điều quan trọng là phải xác định phần lợi nhuận tăng thêm bao
nhiêu là hợp lý. Phần lợi nhuận nâng thêm này bị ảnh hưởng bởi các yếu tố sau:
-Nếu công ty này chỉ sản xuất và thực hiện mua bán theo hợp đồng cho chỉ mỗi công
ty mẹ và không gia công cho bất cứ công ty nào khác thì phần lợi nhuận tăng thêm

này sẽ đựơc tính theo một tỷ lệ trên giá vốn sao cho hợp lý, tức là phần lợi nâng
thêm phải dựa trên cơ sở của loại hình hoạt động của một công ty độc lập khác trên
thị trường.
-Nếu công ty này sản xuất ra sản phẩm và bán theo các hợp đồng cho công ty mẹ và
bán theo hợp đồng cho các công ty độc lập khác thì tỷ lệ lợi nhuận tăng thêm (phần
lợi nhuận tăng thêm) cần phải được tính toán và phân bổ theo tỷ lệ tổng vốn tham
gia vào quá trình sản xuất ra sản phẩm. Ngoài ra cần phải đối chiếu so sánh giá cả
hàng hoá dịch vụ trong nghiệp vụ mua bán nội bộ và nghiệp vụ mua bán với công
ty độc lập.
-Ngoài ra còn các yếu tố như chức năng hoạt động của cơ sở kinh doanh sẽ kéo theo
một số các chi phí kèm theo sẽ ảnh hưởng đến tỷ lệ lãi gộp (ví dụ như công ty sản
xuất theo hợp đồng, nghiên cứu, phát triển, tỷ trọng gia tăng giá trị của sản phẩm so
với quy mô đầu tư kinh doanh).
-Các nghĩa vụ thực hiện hợp đồng như các ràng buộc giao hàng vể thời gian, số
lượng và chất lượng sản phẩm, lưu kho, lưu bãi, điều khoản thanh toán công nợ,
chiết khấu.
Phương pháp này thường được áp dụng trong trường hợp hai phương pháp nêu trên tỏ ra
không hiệu quả, thường được sử dụng trong các trường hợp sau:
-Đối với công ty sản xuất, chế biến, lắp ráp, chế tạo và bán cho các bên liên doanh
liên kết, gia công chế biến sản phẩm và phân phối.
-Giao dịch giữa các bên liên kết thực hiện hợp đồng liên doanh, hợp đồng hợp tác
kinh doanh để sản xuất, lắp ráp, chế tạo, chế biến sản phẩm, hoặc thực hiện các
thoả thuận về cung cấp các yếu tố đầu vào và bao tiêu sản phẩm đầu ra.
-Giao dịch cung cấp dịch vụ cho các bên liên kết.

2.4Phương pháp chiết tách lợi nhuận (Profit Split Method)
Trong thực tế, có những trường hợp các thành viên trong MNC có mối liên kết mua bán
qua lại với nhau qua chặt chẽ, các giao dịch với khối lượng các giao dịch nhiều và phức
tạp vì vậy mà các phương pháp trên tỏ ra không hiệu quả. Trong trường hợp này thì
phương pháp chiết tách lợi nhuận là phương pháp phù hợp nhất.
Phương pháp chiết tách lợi nhuận dựa vào lợi nhuận thu được từ một giao dịch liên kết
tổng hợp do nhiều thành viên của MNC liên kết thực hiện, từ đó thực hiện tính toán lợi
nhuận thích hợp cho từng thành viên tham gia vào liên kết đó theo cách mà các bên giao
dịch độc lập phân chia lợi nhuận trong điều kiện tương đương.
Giao dịch liên kết tổng hợp do nhiều cơ sở kinh doanh (các thành viên của MNC) liên kết
tham gia thường là các giao dịch mang tính đặc thù, duy nhất bao gồm nhiều giao dịch liên
kết có liên quan chặt chẽ với nhau về các đặc tính của sản phẩm. Ví dụ như các sản phẩm
chuyên dụng hay các sản phẩm mang tính độc quyền, hoặc các giao dịch liên kết khép kín
giữa các bên có liên quan. Các mối liên kết này thường kéo dài cả vòng đời sản phẩm từ
lúc mua nguyên vật liệu đầu vào, đến sản xuất, lắp ráp sản phẩm cho đến cả khâu phân
phối sản phẩm đến tay người tiêu dung.
Ví dụ như: một công ty A là công ty độc lập tại Việt Nam có liên kết với một công ty B là
thành viên của tập đoàn sản xuất màng hình máy tính tinh thể lỏng. Trong đó, công ty B sẽ
chuyển phụ kiện đầu vào cho công A lắp ráp và hoàn thiện sản phẩm. Sau khi hoàn thiện
thì sản phẩm sẽ được được bán trong nước bởi công ty A và một phần sẽ được bán lại cho
một công ty C (đây là một thành viên khác của MNC tại một quốc gia khác).
Dựa vào mối quan hệ liên kết giữa các bên tham gia thì phương pháp chiết tách lợi nhuận
có hai cách tính như sau:
Cách thứ nhất: Phân bổ lợi nhuận cho từng bên liên kết trên cơ sở đóng góp vốn (chi phí);
theo đó lợi nhuận của mỗi bên tham gia trong giao dịch được xác định trên cơ sở, phân bổ
tổng lợi nhuận thu được từ giao dịch liên kết tổng hợp theo tỷ lệ vốn (chi phí) sử dụng

trong giao dịch liên kết của cơ sở kinh doanh trong tổng vốn đầu tư để tạo ra sản phẩm
cuối cùng.
Cách thứ hai: phân chia lợi nhuận theo hai bước như sau:
Bước 1: mỗi bên tham gia vào giao dịch liên kết được phân chia phần lợi nhuận cơ bản
tương ứng với các chức năng hoạt động của mình. Phần lợi nhuận cơ bản này phản ánh giá
trị lợi nhuận của giao dịch liên kết tổng hợp mà mỗi bên thu được do thực hiện chức năng
hoạt động của mình và chưa tính đến các yếu tố đặc thù và duy nhất (ví dụ độc quyền sở
hữu hoặc sử dụng tài sản vô hình hoặc quyền sở hữu trí tuệ).
Phần lợi nhuận cơ bản được tính theo tỷ suất lợi nhuận gộp hoặc tỷ suất sinh lời tương ứng
với giá trị phù hợp nhất thuộc biên độ giá thị trường chuẩn theo tỷ suất lợi nhuận gộp.
Bước 2: Phân chia lợi nhuận phụ trội, Mỗi bên tham gia giao dịch liên kết được nhận tiếp
phần lợi nhuận phụ trội tương ứng với tỷ lệ đóng góp liên quan đến tổng lợi nhuận phụ trội
tức là tổng lợi nhuận thu được trừ (-) tổng lợi nhuận cơ bản đã phân chia ở bước thứ nhất
của giao dịch liên kết tổng hợp. Phần lợi nhuận phụ trội này phản ánh lợi nhuận của giao
dịch liên kết tổng hợp mà cơ sở kinh doanh thu được ngoài phần lợi nhuận cơ bản nhờ các
yêu tố đặc thù và duy nhất.
Phần lợi nhuận phụ trội của mỗi bên được tính bằng tổng lợi nhuận phụ trội thu được từ
các giao dịch liên kết tổng hợp nhân với tỷ lệ đóng góp các chi phí hoặc tài sản dưới đây
của mỗi bên:
-Chi phí nghiên cứu và phát triển sản phẩm.
-Giá trị (sau khi đã trừ khấu hao) của tài sản vô hình hoặc quyền sở hữu trí tuệ được
sử dụng để sản xuất, kinh doanh sản phẩm.
Phương pháp chiết tách lợi nhuận này trong thực tế thường được áp dụng trong các trường
hợp các bên liên kết cùng tham gia nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới hoặc phát triển
sản phẩm là tài sản vô hình độc quyền hoặc các giao dịch trong quy trình sản xuất, kinh

doanh chuyển tiếp giữa các bên liên kết từ khâu nguyên vật liệu đến thành phẩm cuối cùng
để lưu thông sản phẩm gắn liền với việc sở hữu hoặc quyền sở hữu trí tuệ duy nhất.
2.5Phương pháp lợi nhuận ròng của nghiệp vụ chuyển giao (Transaction Net
Margin Method – TNMM):
Theo phương pháp này thì lợi nhuận thu được từ các bên liên kết sau khi đã trừ đi các định
phí và biến phí liên quan, được xem xét theo theo tỷ lệ phần trăm của một khoản mục cơ
sở nào đó, ví dụ là doanh số bán hàng, tổng giá vốn hàng bán ra hay tổng giá trị tài sản…
thích hợp nhất là khi lợi nhuận này được so sánh với lợi nhuận của các hoạt động giao
dịch độc lập khác có thể so sánh được của cùng công ty mà chúng ta đang đề cập đến.
Trong trường hợp nếu không tồn tại các giao dịch độc lập có thể so sánh đối với công ty
con của MNC thì ta có thể lấy lợi nhuận thu được trong các chuyển giao có thể so sánh
được của hai công ty không liên kết khác làm cơ sở. Trong một số trường hợp cần phải áp
dụng các điều chỉnh mang tính định lượng cho các khác biệt về mặt vật chất giữa các
chuyển giao liên kết và các chuyển giao độc lập.
Do phương pháp này tập trung vào phân tích lợi nhuận phát sinh từng nghiệp vụ chuyển
giao một cách riêng lẻ, nên phương pháp này sẽ bị gặp khó khăn khi các nghiệp vụ phát
sinh có mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ với nhau. Các chuyển giao mang tính chất đa dạng
và phức tạp sẽ khó tìm được các giao dịch tương ứng để có thể so sánh được.
Dựa vào các phương pháp mà OECD hướng dẫn như trên các MNC sẽ lựa chọn cho mình
một phương pháp định giá chuyển giao sao cho phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh
của mình.Đồng thời, các phương pháp này là các công cụ hữu hiệu cho các quốc gia giám
sát các hoạt động chuyển giá mà các MNC thực hiện nhằm hạn chế các tác hại tiêu cực
của hoạt động chuyển giá đối với nên kinh tế.

STT
Quốc gia
N
ăm
20
03
(
%
)
Năm
20
04
(%
)
Năm
20
05
(
%
)
Năm
20
06
(%
)
Năm
20
07
(
%
)
Năm
20
08
(
%
)
1 Afghanistan 20 20
2 Albania 23 20 20 10
3 Angola 35 35
4 Argentina 35 35 35 35 35 35
5 Aruba 35 35 28 28
6 Australia
30 30 30 30 30 30
7 Austria 34 34 25 25 25 25
8 Bahrain 0 0 0
9 Bangladesh 30 30 30 30 30 30
10 Barbados 36 33 30 25 25 25
11 Belarus 24 24
12 Belgium 33.99 33.99 33.99 33.99 33.99 33.99
13 Bolivia 25 25 25 25 25 25
14 Bosnia and
Herzegovina
30 10
15 Botswana 25 25 25 25 25 25
16 Brazil 34 34 34 34 34 34
17 Bulgaria 15 15 10 10
18 Canada 36.6 36.1 36.1 36.1 36.1 33.5
19 Cayman Islands 0 0 0 0 0 0
20 Chile 16.5 17 17 17 17 17
21 China 33 33 33 33 33 25
22 Colombia 35 35 35 35 34 33
23 Costa Rica 36 30 30 30 30 30
24 Croatia 20 20 20 20 20 20
25 Cyprus 15.00 15.00 10 10 10 10
26 Czech Republic 31 28 26 24 24 21
27 Denmark 30 30 28 28 28 25
28 Dominican Republic 25 25 25 30 29 25
29 Ecuador 25 25 25 25 25 25
30 Egypt 20 20 20
31 Estonia 24 23 22 21
32 Fiji 32 31 31 31 31 31
33 Finland 29 29 26 26 26 26
34 France 34.33 34.33 33.83 33.33 33.33 33.33
35 Germany 39.58 38.29 38.31 38.34 38.36 29.51
36 Greece 35 35 32 29 25 25
37 Guatemala 31 31 31 31
38 Honduras 25 25 30 30 30 30
39 Hong Kong 16 17.5 17.5 17.5 17.5 16.5
40 Hungary 18 16 16 16 16 16
41 Iceland 18 18 18 18 18 15
42 India 36.75 35.875 36.592
5
33.66 33.99 33.99
43 Indonesia 30 30 30 30 30 30
44 Iran 25 25
45 Ireland 12.5 12.5 12.5 12.5 12.5 12.5
46 Israel 36 36 34 31 29 27
47 Italy 38.25 37.25 37.25 37.25 37.25 31.4
48 Jamaica 33.33 33.33 33.33 33.33
49 Japan 42 42 40.69 40.69 40.69 40.69
50 Jordan 35 35
51 Kazakhstan 30 30 30 30
52 Korea, Republic of 29.7 29.7 27.5 27.5 27.5 27.5

53 Kuwait 55 55
Phụ Lục 5: Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp tại 106 quốc gia
từ năm 2003 đến 2008

STT
Quốc gia
N
ăm2
003
(%)
Năm
20
04
(%
)
Năm
20
05
(
%
)
Năm
20
06
(%
)
Năm
20
07
(
%
)
Năm
20
08
(
%
)
54 Latvia 15 15 15 15
55 Libya 40 40
56 Lithuania 15 15 15 15
57 Luxembourg 30.38 30.3
8
30.38 29.63 29.63 29.63
58 Macau 12 12 12 12
59 Malaysia 28 28 28 28 27 26
60 Malta 35 35 35 35
61 Mauritius 25 25 25 25 22.5 15
62 Mexico 34 33 30 29 28 28
63 Montenegro 20 20 9 9 9 9
64 Mozambique 32 32 32 32
65 Netherlands 34.5 34.5 31.5 29.6 25.5 25.5
66 Netherlands Antilles 34.5 34.5 34.5 34.5
67 New Zealand 33 33 33 33 33 30
68 Norway 28 28 28 28 28 28
69 Oman 12 12 12 12 12 12
70 Pakistan 35 35 35 35 35 35
71 Palestine 16 16
72 Panama 30 30 30 30 30 30
73 Papua New Guinea 30 30 30 30 30 30
74 Paraguay 30 30 20 10 10 10
75 Peru 27 30 30 30 30 30
76 Philippines 32 32 32 35 35 35
77 Poland 27 19 19 19 19 19
78 Portugal 33 27.5 27.5 27.5 25 25
79 Qatar 35 35
80 Romania 25 25 16 16 16 16
81 Russia 24 24 24 24 24 24
82 Saudi Arabia 30 30 30 20 20 20
83 Serbia 14 12.3
3
10 10 10 10
84 Singapore 22 22 20 20 20 18
85 Slovak Republic 25 19 19 19 19 19
86 Slovenia 25 25 25 25 23 22
87 South Africa 37.8 37.8 37.8 36.9 36.9 34.55
88 Spain 35 35 35 35 32.5 30
89 Sri Lanka 35 35 32.5 32.5 35 35
90 Sudan 35 35
91 Sweden 28 28 28 28 28 28
92 Switzerland 24.1 24.1 21.3 21.3 21.32 19.2*
93 Syria 28 28
94 Taiwan 25 25 25 25 25 25
95 Thailand 30 30 30 30 30 30
96 Tunisia 33 33 35 35 30 30
97 Turkey 30 33 30 20 20 20
98 Ukraine 30 30 25 25 25 25
99 United Arab Emirates 40 40 55 55 55 55
100 United Kingdom 30 30 30 30 30 28
101 United States 34 34 40 40 40 40
102 Uruguay 35 30 30 30 30 25
103 Venezuela 34 34 34 34 34
104 Vietnam 32 28 28 28 28 28

105 Yemen 35 35
106 Zambia 35 35 35 35
(Nguồn KPMG Corporate and indirect Tax survey 2008)

BIỂU ĐỒ THUẾ SUẤT THUẾ TNDN BÌNH QUÂN
106 QUỐC GIA TỪ NĂM 1999 ĐẾN 2008
35
30
25
1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
CÁC QUỐC GIA THUỘC ASPAC 1999 – 2008
33
32
31
30
29
28
27
26
25
CÁC QUỐC GIA THUỘC KHỐI OECD 1999
ĐẾN 2008
37
35
33
31
29
27
25
25.
9
26.
8
26.
5
27.
4
28.
0
28.
9
29.
8
30.
6
31.
1
31.
4
Pe
rc
en
tag
e
1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
2007 2008
30.6
30 30 30
9.2
28.4
31.
5
31.
3
31.8
Pe
rc
en
tag
e
1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
2007 2008
26.
7
27.
7
28.
2
28.
8
29.
8
30.
6
31.
4
32.
8
34.
1
34.
8
Pe
rc
en
tag
e

CÁC NƯỚC KHỐI EU 1999-2008
36
34
32
30
28
26
24
22
20
1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
CÁC NƯỚC CHÂU MỸ LATIN 1999-2008
31
30
29
28
27
26
25
24
1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
SO SÁNH THEO T ỪNG KHU VỰC 1999-
2008
36
34
32
30
28
26
24
22
All
ASPAC
EU
23.
2
24.
2
25.
8
26.
1
29.7
28.3
30.
9
32
33.
9
34.
8
Pe
rc
en
tag
e
26.
6
27.
1
28.1
28.
0
28.
2
27.
9
28.
4
28.
5
28.
7
Pe
rc
en
tag
e
31.
4
34.
8
34.
8
23.
2
25.
9
26.
7
26.
6
28.
4
27.
9
31.
8
Pe
rc
en
tag
e

LLAATT
OOEECCDD
Source for all graph information: KPMG member firms.
© 2008 KPMG International. KPMG International provides no client services and is a Swiss cooperative with which the independent member firms of the KPMG network
are affiliated.

NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬN VĂN
1.Minh họa ví dụ một chuyển giá trong thực tế áp dụng theo phương pháp giá
vốn cộng thêm.
2.Trình bày chuyển giá thông qua sơ đồ báo cáo thu nhập của các MNC
3.Trình bày mô hình chuyển giá thông qua các trung tâm xuất hoá đơn
4.Phân tích các động cơ và thủ thuật thực hiện chuyển giá của các MNC
5.Cập nhật tình hình chuyển giá của các MNC tại Việt Nam mới nhất theo nguồn
số liệu từ chi cục thuế TP.HCM
6.Cập nhật và phân tích tình hình thu hút FDI của Việt Nam đến thời điểm năm
2008.
7.Cập nhật biểu thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp hơn 106 quốc gia đến thời
điểm năm 2008