Nghiên cứu khả năng sử dụng bọ đuôi kìm để phòng trừ sâu đục thân hại mía tại vùng nguyên liệu mía đường Lam Sơn Thanh Hoá

tailieuxyz 18 views 42 slides Nov 05, 2024
Slide 1
Slide 1 of 42
Slide 1
1
Slide 2
2
Slide 3
3
Slide 4
4
Slide 5
5
Slide 6
6
Slide 7
7
Slide 8
8
Slide 9
9
Slide 10
10
Slide 11
11
Slide 12
12
Slide 13
13
Slide 14
14
Slide 15
15
Slide 16
16
Slide 17
17
Slide 18
18
Slide 19
19
Slide 20
20
Slide 21
21
Slide 22
22
Slide 23
23
Slide 24
24
Slide 25
25
Slide 26
26
Slide 27
27
Slide 28
28
Slide 29
29
Slide 30
30
Slide 31
31
Slide 32
32
Slide 33
33
Slide 34
34
Slide 35
35
Slide 36
36
Slide 37
37
Slide 38
38
Slide 39
39
Slide 40
40
Slide 41
41
Slide 42
42

About This Presentation

Cây mía (Saccharum officinarum L.) là cây công nghiệp có nguồn gốc nhiệt đới, cung cấp nguyên liệu chủ yếu cho các ngành công nghệ chế biến đường ở nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam cây mía đang chiếm một vị trí quan trọng trong v...


Slide Content

1

PHẦN I. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Cây mía (Saccharum officinarum L.) là cây công nghiệp có nguồn gốc nhiệt đới,
cung cấp nguyên liệu chủ yếu cho các ngành công nghệ chế biến đường ở nhiều nước
trên thế giới. Ở Việt Nam cây mía đang chiếm một vị trí quan trọng trong việc chuyển
đổi cơ cấu cây trồng và đa dạng hoá sản phẩm nông nghiệp phục vụ cho công cuộc Công
nghiệp hoá - Hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
Việt Nam thuộc khu vực Bắc bán cầu nằm trải dài từ 8
0
30’ - 23
0
20’ vĩ độ bắc,
có tọa độ tương ứng với các nước trong khu vực trồng mía có năng suất cao như Đài
Loan là 456,1 tấn/ha, Ấn Độ 440,8 tấn/ha. Về vị trí địa lý của nước ta thuộc khu vực
có điều kiện tự nhiên khá thuận lợi cho việc phát triển và khai thác tiềm năng năng
suất cao về cây mía, song năng suất mía bình quân chung cả nước mới chỉ đạt 49,7
tấn/ha. Trong nhiều nguyên nhân làm năng suất mía thấp, thì nhóm sâu đục thân mía
làm giảm đáng kể về năng suất và chất lượng mía nguyên liệu (Đỗ Ngọc Diệp, 2002).
Từ sau năm 1975 đến nay, đặc biệt trong 10 năm gần đây ngành mía đường
đang có bước tiến đáng kể về diện tích, năng suất, sản lượng. Các nhà khoa học đã
khẳng định, để nâng cao năng suất mía cần phải sử dụng các giống mới, kết hợp với
đầu tư thâm canh cao, bón phân hợp lý. Tuy nhiên kinh nghiệm thực tiễn sản suất và
kết quả nghiên cứu cho thấy: Sâu, bệnh cỏ dại và chuột là những nhân tố gây nên
tổn thất rất lớn cho năng suất, chất lượng mía, ảnh hưởng đến hiệu quả chế biến
đường của các nhà máy chế biến đường.
Theo tài liệu điều tra của ngành mía đường Việt Nam năm 2000, thiệt hại làm
giảm sản lượng do sâu: 17,1%, do bệnh: 11,5%, do cỏ dại: 11,8%.[Báo cáo tổng kết
5 năm thực hiện chương trình mía đường của Bộ NN&PTNT [2]
Hiện nay việc phòng trừ sâu đục thân hại mía đang gặp rất nhiều khó khăn, vì
cây mía là cây lưu gốc nhiều năm, bộ giống mía phong phú, địa hình trồng mía đa
dạng và sâu đục thân mía ẩn nấp ở nhiều bộ phận khác nhau trên cây mía và các cây
trồng khác nên công tác phòng trừ không đạt hiệu quả cao.
Công tác phòng trừ sâu hại cây trồng nói chung và sâu đục thân mía nói riêng
là tìm ra các biện pháp phòng trừ có hiệu quả không gây ô nhiễm môi trường đạt https://tailieu.xyz/

2

mục tiêu: kinh tế - xã hội - môi trường. Thời gian qua, chương trình phòng trừ dịch
hại tổng hợp (IPM) đã được tiến hành trên nhiều loại cây trồng, với nhiều sâu hại
khác nhau, đã mang lại hiệu quả kinh tế, đảm bảo không gây ô nhiễm môi trường.
Việc tiến hành phòng trừ sâu đục thân hại mía theo hướng IPM cần nắm vững hệ
sinh thái đồng mía, mối quan hệ của cây mía với dịch hại và thiên địch của chúng.
Nguyên tắc chung của biện pháp này là bảo vệ và sử dụng các loài thiên địch của
sâu hại nhằm khống chế quần thể sâu hại phát triển dưới ngưỡng gây hại kinh tế, bảo
vệ cây trồng.
Cho đến nay, các nghiên cứu về sâu đục thân mía và sử dụng bọ đuôi kìm
trong phòng trừ sâu đục thân mía tại Bắc Trung Bộ hầu như chưa được quan tâm.
Có một số kết quả nghiên cứu đã công bố, nhưng vừa rất tản mạn về không gian và
thời gian, vừa quá lạc hậu với điều kiện sản xuất mới. Với những kết quả đã có không
thể xây dựng được quy trình hay mô hình phòng trừ sâu đục thân mía nào phù hợp
mang lại hiệu quả cao cho người trồng mía. Hiện nay, phần lớn người trồng mía tại
Thanh Hoá chưa chú trọng phòng trừ sâu đục thân, nếu có thì các biện pháp phòng
mang tính tự phát, riêng rẽ nên hiệu quả không cao, mà còn ảnh hưởng đến môi
trường, không bảo vệ và sử dụng được thiên địch trong tự nhiên, ảnh hưởng đến chất
lượng sản phẩm theo hướng GAP.
Vì lẽ đó, để góp phần vào công tác nghiên cứu, giải quyết đòi hỏi cấp bách
của người trồng mía trong việc phòng trừ sâu đục thân và sử dụng bọ đuôi kìm phòng
trừ chúng tại Thanh Hoá. Chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu khả năng sử dụng
bọ đuôi kìm để phòng trừ sâu đục thân hại mía tại vùng nguyên liệu mía đường
Lam Sơn Thanh Hoá”
1.2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩ thực tiễn
1. 2.1. Ý nghĩa khoa học:
Đề tài được tiến hành sẽ cung cấp các dẫn liệu khoa học về thành phần loài,
phân bố tác hại của sâu hại mía nói chung, sâu đục thân hại mía nói riêng. Cũng như
thành phần thiên địch của chúng tại ở vùng mía Thanh Hoá.

1.2.2. Ý nghĩa thực tiễn: https://tailieu.xyz/

3

Các kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần làm cơ sở để xây dựng quy
trình quản lý tổng hợp sâu đục thân mía đáp ứng 3 yêu cầu kinh tế, xã hội, môi
trường tại vùng nghiên cứu.
1.3. Mục đích, yêu cầu của đề tài
1.3.1. Mục đích
Đề tài tiến hành nhằm mục đích sử dụng bọ đuôi kìm để phòng trừ sâu đục thân
hại mía tại vùng nguyên liệu mía đường Lam Sơn Thanh Hoá. Từ đó, đề xuất giải pháp
sử dụng bọ đuôi kìm thay thế thuốc hoá học trong việc phòng trừ sâu đục thân mía hại
mía.
1.3.2. Yêu cầu
- Điều tra thành phần sâu hại mía nói chung và sâu đục thân hại mía nói riêng
tại vùng nguyên liệu mía Đường Lam Sơn Thanh Hóa.
- Điều tra biến động mật độ bọ đuôi kìm qua các tháng trong thời gian thực
hiện đề tài.
- Bố trí một số công thức thí nghiệm nghiên cứu khả năng sử dụng bọ đuôi
kìm để phòng trừ sâu đục thân hại mía
1.4. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
1.4.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
- Những nghiên cứu về thành phần và tình hình gây hại của sâu đục thân mía
Theo Hiệp hội Kỹ thuật Mía Đường Quốc tế (International Socienty of Sugar Cane
Technology - ISSCT), đến năm 1999 trên mía đã ghi nhận có 324 loài sâu gây hại. Trong
đó ngành chân khớp chiếm số lượng nhiều nhất (84,5%), tuyến trùng (4,9%), gặm nhấm
(5,9%), các loài khác (4,7%). [36]
Như vậy, trên phạm vi toàn thế giới, trong số các nhóm sâu hại mía, nhóm côn trùng
hại thân chiếm số đông nhất (49,7% tổng số loài đã phát hiện) trong đó nhóm sâu đục thân
mía luôn được đánh giá là sâu hại nguy hiểm nhất.
Thành phần sâu hại mía nói chung và sâu đục thân nói riêng không chỉ biến động
trên phạm vi toàn thế giới mà ngay trong một quốc gia cũng có sự biến động giữa vùng
này với vùng khác, giữa trước đây và sau này. https://tailieu.xyz/

4

Ở Malaysia, kết quả điều tra thành phần của Lim và Pan từ 1970 - 1978 (1980)
[40] cho thấy có khoảng 360 loài sâu hại mía thuộc 98 họ côn trùng. Trong đó có 32
loài được đánh giá là quan trọng với cây mía. Trong 360 loài sâu hại mía có 25 loài
sâu đục thân mía, trong số này có 11 loài sâu đục thân mía đã được xác định là sâu
hại quan trọng đối với cây mía.
Ở Ấn Độ, theo Isaac (1937) [38] thành phần sâu hại mía có 79 loài, còn theo
Box (1953) [26] thì có 125 loài, theo Gupta (1957) [34] thì có 18 loài sâu chủ yếu
và 21 loài sâu thứ yếu. Theo David (1977) [30] riêng sâu đục thân mía có tới 9 loài
thường xuyên gây hại.
Ở Ấn Độ, theo Isaac (1937) [38] người ta đã sử dụng bọ đuôi kìm để phòng trừ
sâu đục thân mía kết quả cho thấy, khi thả bọ đuôi kìm vào lúc mía 2 tháng sau trồng,
với lượng 400 con/ha, 600 con/ha và 800 con/ha thì năng suất mía tăng lần lượt so với
đối chứng là 11,26%, 16,44% và 18,89% và lượng đường tăng lần lượt là 5,06%, 7,15%
và 8,88%.
Ở Đài Loan, theo Cheng (1994) [29] nhóm sâu đục thân hại mía có 5 loài thường
xuyên gây hại là sâu đục thân mình vàng Eucosma schistaceana, sâu đục thân 5 vạch
Chilo infuscatellus Snellen, sâu đục thân 4 vạch Proceras venosatus Walker, sâu đục
thân mình trắng Scirpophaga nivella Fabricius và sâu đục thân mình hồng Sesamia
inferens Walker.
Đánh giá về tình hình thiệt hại do sâu đục thân mía, theo Solomon et al. (2000)
[41] cho thấy các loài sâu đục mầm làm giảm 26,65% mầm cấp 1; 6,4% mầm cấp 2;
27,1% mầm cấp 3 và 75,0% mầm cấp 4, làm giảm 22 - 30% năng suất mía và 12,5%
hàm lượng đường. Theo Avasthy và Tiwari (1986) [20] ở Ấn Độ sâu đục thân 5 vạch
là loài gây hại chính yếu, loài này có thể làm giảm tỷ lệ mầm từ 30 - 75% ở các vùng
mía khác nhau. Theo Waterhouse (1993) [43] đã tổng kết rằng sâu đục thân mía gây
hại nặng ở Philippines, Cam-pu-chia và thường gây hại nặng cục bộ tại Lào và
Indonesia. Theo Solomon et al. (2000), các loài sâu đục ngọn là nguyên nhân làm chết
khoảng 10% số mầm và 3-4% số cây ở giai đoạn vươn lóng, làm giảm năng suất từ
18,5-44,8% và 0,2-4,1 chữ đường (CCS). https://tailieu.xyz/

5

Phương thức gây hại và thời kỳ cây mía bị sâu đục thân tấn công của các loài
sâu đục rất khác nhau. Các loài sâu đục lóng chủ yếu gây hại phần thân lóng, nhưng
cũng có thể gây hại phần đốt lóng. Triệu chứng gây hại của chúng khác nhau, ví dụ:
Sâu đục thân 4 vạch chủ yếu gây hại ở các lóng mềm còn bẹ lá (d
/
Emmerez de Charmoy,
1917) [32]
Trọng lượng cây mía giảm khi bị sâu đục thân hại nặng và có thể bị chết do
thân bị thối và khô. Các lóng bị đục thường dễ gãy và các mầm nách phát triển mạnh
làm giảm độ đường trong cây mía (Gupta và Avasthy, 1960) [35]
Khi cây mía bị sâu đục thân gây hại thì hàm lượng đường saccaro, độ Brix,
Pol, Ap giảm đáng kể. Ngược lại, hàm lượng N, chất tro và chất nhựa tăng lên (Box,
1929) [25]
- Những nghiên cứu về đặc điểm sinh học, sinh thái và quy luật phát sinh, phát triển
của sâu đục thân hại mía
Theo kết quả nghiên cứu về đặc điểm sinh học của sâu đục thân 4 vạch của các
tác giả Harris (1990) [37], Betbeder-Matibet (1990) [24], David (1980) [31] ở các nước
khu vực Ấn Độ Dương cho thấy: ngài thường vũ hoá tập trung trong thời gian khoảng
4 giờ sau khi mặt trời lặn và hoạt động chủ yếu vào đêm, ngài cái thường chỉ giao phối
1 lần duy nhất trong đời. Sau khi giao phối khoảng 1 đêm thì ngài cái đẻ trứng với số
trứng khoảng 850 quả. Chúng đẻ trứng thành ổ ở mặt trên hoặc dưới của lá, đôi khi
trứng còn đẻ cả trên bẹ lá, mỗi ổ trứng có từ 20-40 quả.
Các nghiên cứu về đặc điểm sinh học của sâu đục thân 5 vạch cho thấy: Trưởng
thành thường vũ hóa vào ban đêm, ban ngày ít hoạt động thường ẩn nấp bên dưới bẹ lá.
Ngài cái tiết pheromone dẫn dụ giới tính để thu hút ngài đực đến ghép đôi giao phối. Ngài
thường để trứng vào giữa đêm. Trứng đẻ thành ổ ở mặt dưới các lá còn xanh. Mỗi ổ từ 2
- 4 hàng trứng, với trung bình 25 quả/ổ. Trong một đêm ngài cái thường đẻ khoảng 400
quả trứng. Trứng sau khi đẻ 4 - 6 ngày thì nở, sâu non tuổi 1 phân tán bằng cách nhả tơ
đu sang cây khác để gây hại. Chúng rất thích ăn các đỉnh sinh trưởng và các mô mềm
gây nên hiện tượng nõn héo. Thời gian phát dục của pha sâu non (5-6 tuổi) từ 16 - 30
ngày, sau đó hóa nhộng ngay bên trong đường đục của thân cây (Harris, 1990 [37]; https://tailieu.xyz/

6

Butani, 1977 [27]; Avasthy và Tiwari, 1986 [20]; Kumar, K., S. C. Gupta, U. K.
Mishra, G. P. Dwivedi and N. N. Sharma (1987) [39]
- Những nghiên cứu về biện pháp phòng trừ
Theo Suhartawan và Wirioatmodjo (1996) [42] có thể áp dụng các biện pháp
phòng trừ như vệ sinh đồng ruộng và xử lý hom giống trong nước nóng 50
0
C trong
2 giờ, sử dụng các giống mía chống chịu cao với sâu đục thân hoặc sử dụng các loài
ong mắt đỏ kí sinh pha sâu non và pha trứng. Ngoài ra cũng có thể dùng thuốc hoá
học như Carbaryl, Dicrotophos, Monocrotophos và Acephate để phun phòng trừ sâu
non.
Theo CABI (2000) [28] có thể dùng biện pháp cắt bỏ cây bị ngọn héo và giết chết
sâu non, biện pháp này tốn nhiều công lao động. Ngoài ra người ta còn có thể sử dụng ong
mắt đỏ Trichogramma chilonis để trừ trứng của sâu đục thân.
Theo (David, 1980) [31], sử dụng các hom giống sạch sâu để trồng, kết hợp với việc
bóc lá vào các thời điểm 5, 7 và 9 tháng sau khi trồng, hạn chế sử dụng quá nhiều phân
đạm, đồng thời tiêu úng với vùng ngập úng cũng hạn chế sự xuất hiện và gây hại của sâu
đục thân 4 vạch. Tăng cường sử dụng các giống mía chống chịu cao đối với sâu đục thân
4 vạch như Co285, Co453, Co513, Co6860, Co915 để hạn chế thiệt hại do sâu đục thân 4
vạch..
Đối với sâu đục thận mình hồng, các biện pháp phòng trừ như: Cắt bỏ cây bị
sâu, rút bỏ ngọn héo và giết chết sâu non bên trong, vun luống sớm ở giai đoạn cây
con và bạt gốc ngay sau khi thu hoạch đối với mía để lưu gốc. Đây là các biện pháp
tương đối đơn giản mà hiệu quả lại cao trong việc phòng trừ sâu đục thân mình hồng.
Biện pháp sinh học, có thể sử dụng loài ruồi kí sinh để trừ sâu ở giai đoạn sâu non. Kết
quả thử nghiệm trong phòng cho thấy, loài ruồi này có thể kí sinh với tỷ lệ khá cao
(84,4%) (David, 1980) [31].
Đối với sâu đục thân mía thì đã có nhiều nghiên cứu và sử dụng khá thành công
bọ đuôi kìm trong việc phòng trừ sâu đục thân hại mía. Kết quả nghiên cứu cho thấy
khi thả bọ đuôi kìm với lượng 400 con/ha thì tỷ lệ lóng bị hại giảm 64,58% so với đối
chứng và năng suất mía tăng 26,48% (David, 1980) [31].
* Những nghiên cứu về bọ đuôi kìm https://tailieu.xyz/

7

Theo Easki Teiso et. al (1952) [69] Bọ đuôi kìm Dermaptera còn có tên khoa
học là Euplexoptera, Euplecoptera, Dermoptera, Labiduroida hay Forficulida; tên
tiếng anh là Earwigs.
Cơ thể kéo dài, kiểu đầu nhô về phía trước, hàm kiểu miệng nhai với râu đầu
nhiều đốt, mắt kép phát triển. Hầu hết trong bộ Dermaptera cánh ngắn, cánh ngoài
biến thái, gân cánh mịn, cánh trong dạng màng hình bàn nguyệt, gân cánh xếp hình
dẻ quạt. Các chân gân bằng nhau với 3 đốt bàn. Bụng 10 đốt, đốt bụng cuối cùng
kéo dài như cái kìm, theo Richard leung (2004) [109], bụng BĐK có 10 đốt ở con
đực (kể cả đuôi kìm), con cái có 8 đốt bụng. Máng đẻ trứng của con cái ngắn hoặc
tiêu biến tùy theo loài.
Bọ đuôi kìm được phát hiện ở hầu hết các nơi trên thế giới trừ những vùng
băng giá, rất phổ biến ở những vùng có khí hậu nóng ẩm. Có khoảng hơn chục loài
sống trong hang dơi vùng Châu á.
Có khoảng 1.200 loài đã được miêu tả, hầu hết chúng đều sống tự do, ăn tạp
(các côn trùng nhỏ), một số loài ăn chồi non thực vật nhưng khi xuất hiện con mồi
thì chúng lại chuyển sang ăn con mồi ngay. Bọ đuôi kìm thường sống ẩn nấp, chạy
nhanh, mặc dù có cánh nhưng không thấy chúng bay [69], chỉ tìm kiếm thức ăn trên
cây, ăn côn trùng nhỏ vào ban đêm [109].
Trưởng thành cái đẻ trứng vào trong ổ làm dưới đất, chúng có tập tính là chăm
sóc và bảo vệ trứng, thậm chí còn có hành động bảo vệ con 1 – 2 tuần sau nở. Trong
điều kiện ấm áp chúng đẻ nhiều, mùa hè chúng ít khi đẻ trứng, mùa đông lạnh chúng
đình dục hoàn toàn cho đến mùa xuân lại tiếp tục hoạt động, mỗi năm BĐk thường
có 7 lứa.
Pobham (1965) phân loại BĐK bộ Dermaptera theo kiểu hình giải phẫu bên
trong, theo cơ quan sinh dục ngoài và phân bố theo địa lý đã chia các loài BĐK bắt
mồi tập trung ở bộ phụ Porficulina gồm:
- Tổng họ Pygidicranoidea, tổng họ này sinh sống chủ yếu trog các kho chứa
ở các nước Asian, Australia, Nam Phi và Nam Mĩ.
- Tổng họ Karschilloidea rất lớn tập trung ở Nam Phi, tổng họ này chủ yếu là
BĐK ăn kiến. https://tailieu.xyz/

8

- Tổng họ Labioidea có 3 họ là Labiidae, Carcinophoridea, Arixeniidea, họ
Labiidea phổ biến hơn, họ Arixeniidea gồm các loài kí sinh trên dơi.
- Tổng họ Forficuloidea có ba họ là Chelisochidea, Labiduridea, Forficuloi-
dea trong đó họ Labiduridea phân bố rộng, giống Labidura và Euborellia phổ biến
nhất
Theo Gullan, P.J. và P.S. Crranston (2000) có khoảng 1.800 loài bọ đuôi kìm
với 10 họ phân bố trên thế giới [73].
1.4.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
- Những nghiên cứu về thành phần và tình hình gây hại của sâu đục thân mía
Nhìn chung trước những năm 1990 công tác nghiên cứu về sâu đục thân hại mía ở
nước ta còn rất ít. Tuy nhiên, sau những năm 1990 đến nay, đặc biệt khi chương trình mía
đường được Nhà nước chú trọng, quan tâm là cây xoá đói giảm nghèo cho người dân nông
thôn miền núi thì các vùng nguyên liệu mới chú ý đưa các giống mới có năng suất cao, đầu
tư thâm canh công nghệ cao để theo kịp các nước trên Thế giới và khu vực, theo đó công
tác BVTV cũng được quan tâm.
Ở miền Bắc, theo Lương Minh Khôi (1963) [10] và Hồ Khắc Tín & CTV (1962)
[15] có 5 loài sâu đục thân hại mía thường xuyên là sâu đục thân mình vàng Eucosma
schistaceana, sâu đục thân 5 vạch Chilo infuscatellus Snellen, sâu đục thân 4 vạch Proceras
venosatus Walker, sâu đục thân mình trắng Scirpophaga nivella Fabricius và sâu đục thân
mình hồng Sesamia inferens Walker. Trong đó sâu đục thân mình vàng, sâu đục thân 4 vạch
và sâu đục thân mình trắng là những loài phát sinh gây hại phổ biến nhất tại Thanh Hóa và
các tỉnh Bắc Trung Bộ.
Theo Phạm Bình Quyền và CTV (1995) [1], ở miền Bắc có 2 loài sâu đục thân
mía phổ biến nhất là sâu đục thân mình trắng Scirpophaga nivella Fabricius và sâu
đục thân 4 vạch Proceras venosatus Walker. Kết quả điều tra cho thấy số lượng sâu
non của sâu đục thân mình trắng cao hơn số lượng sâu non của sâu đục thân 4 vạch
(tương ứng là 70,0 - 77,2% và 22,3 - 30,0%). Tuy nhiên theo kết quả điều tra trong
3 năm 2005, 2006 và 2007 của Nông trường Thống Nhất huyện Yên Định Thanh
Hoá là trong 5 loại sâu đục thân thì số lượng xuất hiện và gây hại nhiều nhất là sâu
đục thân 4 vạch tiếp đến là sâu đục thân mình vàng với tỷ lệ tương ứng là 70,16 và https://tailieu.xyz/

9

42,44%. Kết quả này cũng trùng với kết quả điều tra của Nông trường Vân Du huyện
Thạch Thành và Nông trường Sao Vàng huyện Thọ Xuân tỉnh Thanh Hoá.
Theo kết quả điều tra của Lương Minh Khôi và Lê Thanh Hải (1997) [7] tại
Nông trường Hà Trung tỉnh Thanh Hoá và Nông trường Đồng Giao tỉnh Ninh Bình
cho thấy trên các giống mới của Đài Loan ROC1, ROC9, ROC10 và ROC16 trong
niên vụ 1995-1996 cho thấy đã xác định được 19 loài sâu hại mía, trong đó có 5 loài
sâu đục thân mía, loài gây hại nặng nhất là sâu đục thân mình vàng và sâu đục thân 4
vạch.
Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn văn Hoan trong 3 năm từ 1998-2000 tại
Vùng nguyên liệu mía đường Lam Sơn Thanh Hoá gồm 7 huyện 4 Nông trường, cho
thấy thành phần sâu hại mía gồm 26 loài thuộc 7 bộ 12 họ. Trong đó, nhóm sâu đục
thân mía có 5 loài là sâu đục thân mình vàng Eucosma schistaceana, sâu đục thân 5
vạch Chilo infuscatellus Snellen, sâu đục thân 4 vạch Proceras venosatus Walker, sâu
đục thân mình trắng Scirpophaga nivella Fabricius và sâu đục thân mình hồng Sesamia
inferens Walker.
Kết quả điều tra của Đỗ Ngọc Diệp tại khu vực miền Đông Nam bộ năm 1987
cho thấy có 20 loài sâu hại mía. Trong đó, sâu đục thân có 5 loài chiếm 25% tổng số
loài đã xác định. Chúng bao gồm sâu đục thân mình vàng Eucosma schistaceana,
sâu đục thân 5 vạch Chilo infuscatellus Snellen, sâu đục thân 4 vạch Proceras
venosatus Walker, sâu đục thân mình trắng Scirpophaga nivella Fabricius và sâu
đục thân mình hồng Sesamia inferens Walker. Tại Viện Nghiên cứu Mía đường Bến
Cát, các kết quả điều tra của Nguyễn Đức Quang năm 1997 [13], Vũ Hữu Hạnh năm
1995 [6] và Cao Anh Đương 1998 đều cho thấy trong thành phần sâu hại mía có 5
loài sâu đục thân tương tự như kết quả điều tra của các tác giả khác.
Kết quả điều tra trong phạm vi toàn quốc của Lương Minh Khôi từ 1992 -
1997 [8] cho thấy thành phần sâu hại mía có 27 loài trong đó nhóm sâu đục thân có
9 loài chiếm 33,33% tổng số loài đã xác định.
Trên các giống mía mới nhập về từ đài Loan và Trung Quốc hiện nay đang được
trồng phổ biến tại Thanh Hoá thì hầu hết đều bị sâu đục thân phá hại nhưng tỷ lệ hại từ
2,52-5,88% nhỏ hơn giống F134 (giống cũ của Trung Quốc) là 11,5% và giống MY55-https://tailieu.xyz/

10

14 của Cu Ba là 12,85%. Theo nghiên cứu của Lương Minh Khôi và Lê Thanh Hải
(1997) [7] cho thấy giống F134 bị sâu đục thân hại nặng hơn các giống ROC1, ROC9,
ROC10 và ROC16 từ 1,4 - 2,3 lần. Tuy nhiên theo báo cáo của Nông trường Vân Du
huyện Thạch Thành tỉnh Thanh Hoá cho thấy trong 4 năm từ 2004 - 2007 khi đầu tư
thâm canh cao thì các giống ROC, Việt đường, Quế đường có tỷ lệ sâu đục thân từ
13,21- 17,68%.
Theo đánh giá của Nguyễn Huy Ước (1994) [19] thiệt hại do sâu đục thân mía
gây ra tại miền Đông Nam Bộ lên đến 20% năng suất mía. So sánh tỷ lệ bị sâu đục
thân gây hại giữa mía tơ và mía gốc cho thấy trên mía gốc bị gây hại năng hơn trên
mía tơ. Tương tự như vậy, kết quả thí nghiệm tại nông trường Hà Trung Thanh Hóa
và Đồng Giao Ninh Bình cho thấy tỷ lệ bị sâu đục thân phá hại trên mía gốc là 14%
trong khi đó trên mía tơ là 8% (Lương Minh Khôi và Lê Thanh Hải, 1997) [7]
Theo Lê Song Dự và Nguyễn Thị Quý Mùi (1997) [5] sâu đục thân mình vàng
và sâu đục thân 4 vạch là những loài nguy hiểm nhất ở miền Bắc, có nơi các loài sâu
này làm thiệt hại năng suất từ 25 - 30%. Xét về các giống mía thì giống F134 bị sâu
đục thân phá hại năng hơn các giống việt đường, quế đường và các giống ROC
(Lương Minh Khôi và Lê Thanh hải, 1997) [7]
- Những nghiên cứu về đặc điểm sinh học, sinh thái và quy luật phát sinh phát triển của
sâu đục thân hại mía
Theo nghiên cứu của Lương Minh Khôi (1997) [9] cho thấy:
- Loài sâu đục thân mình vàng Eucosma schistaceana phát sinh nhiều vào 20/4 và 20/5
còn từ tháng 6 trở đi ít gặp. Vòng đời: Trứng từ 4-6 ngày, sâu non 20-22 ngày, nhộng từ
9-10 ngày, trưởng thàng từ 8-13 ngày. Bướm cái đẻ trung bình 173 quả trứng/con. Sâu
non bắt đầu gây hại chủ yếu từ khi mía mọc mầm và chiếm tỷ lệ 8,5% các loài sâu đục
thân.
- Loài sâu đục thân 4 vạch Proceras venosatus Walker phát sinh 6 đợt trong năm kéo dài
suốt quá trình sinh trưởng của cây mía. Vòng đời: Trứng từ 5-7 ngày, sâu non 20-26 ngày,
nhộng từ 7-12 ngày, trưởng thành từ 3-7 ngày. Bướm cái đẻ trung bình từ 8-11 ổ trứng,
mỗi ổ khoảng 200 quả trứng. Sâu non bắt đầu gây hại khi mía mọc mầm nhưng hại mạnh
nhất khi mía vươn lóng. Tỷ lệ hại chiếm 71,8% các loài sâu đục thân. https://tailieu.xyz/

11

- Sâu đục thân mình trắng Scirpophaga nivella Fabricius mỗi năm phát sinh 4-5
lứa. Vòng đời: Trứng từ 7-15 ngày, sâu non 31-61 ngày, nhộng từ 12-18 ngày, trưởng
thành từ 3-13 ngày. Sâu non phá hại mía cây, đặc biệt ở đốt ngọn, sâu non đục từ
ngọn mía xuống dưới, ăn điểm sinh trưởng, gây nên hiện tượng cây bị cụt ngọn. Sâu
hại khi cây mía được 220 ngày với tỷ lệ hại chiếm 61,0% các loài sâu đục thân.
- Sâu đục thân mình hồng Sesamia inferens Walker trong năm phát sinh 5-6 lứa.
Vòng đời trong điều kiện mùa hè: Trứng từ 5-6 ngày, sâu non 20-30 ngày, nhộng từ
8-10 ngày, trưởng thành từ 5-6 ngày. Mùa đông vòng đời dài hơn. Mỗi bướm cái đẻ
khoảng 300 trứng. Sâu non phá hại ở tất cả các thời kỳ sinh trưởng của cây mía. Ở
miền Nam sâu mình hồng nhiều nhất chiêm tỷ lệ 51,85% - 69,35% các loài sâu đục
thân mía.
- Sâu đục thân 5 vạch Chilo infuscatellus Snellen trong năm phát sinh 5-6 lứa. Vòng
đời trong điều kiện mùa hè: Trứng từ 3-5 ngày, sâu non 18-35 ngày, nhộng từ 7-8
ngày, trưởng thành từ 4-6 ngày. Mùa đông vòng đời dài hơn. Bướm cái đẻ thành ổ,
mỗi ổ có từ 250 - 300 trứng. Sâu non nở là phân tán, thường nhả tơ đu đưa nhờ gió,
di chuyển từ cây này sang cây khác để phá hại. Chúng phá hại mạnh trên mía trồng
vụ đông.
Theo Cục Bảo vệ Thực vật (1999) [4], loài sâu đục thân mình vàng thường
phát sinh 7 lứa trong năm, nhưng gây hại nặng nhất ở lứa 1 và lứa 2 (khoảng cuối
tháng 3, 4 và 5), gây mía mầm và mía bắt đầu vươn lóng, phát sinh gây hại nhiều
trên mía trồng đất ruộng và đất bãi. Sâu đục thân 4 vạch thường phát sinh 4-5 lứa
trong năm, sâu phá hại mía quanh năm từ khi mía mọc mầm cho đến khi thu hoạch.
Sâu đục thân mía 5 vạch thường phát sinh gây hại 5 đợt, nhưng có 2 đợt cao điểm,
cao điểm 1 từ cuối tháng 4 đến đầu tháng 5 và cao điểm 2 từ cuối tháng 5 đến đầu
tháng 6. Sâu thường phát sinh gây hại nhiều trên đất đồi khô hạn. Sâu đục thân mình
trắng thường phát sinh 4-5 lứa trong năm, nhưng tập trung hại nhiều nhất ở lứa 1
(tháng 5) và lứa 2 (tháng 6-7), lứa thứ 3 (tháng 8-9). Loài sâu đục thân mình hồng là
loài phát sinh gây hại sớm nhất trong ruộng mía và gây hại quanh năm, cả vụ mía Đông,
nhưng hàng năm phát sinh gây hại nhiều vào tháng 3-4, hại lúa mía đẻ nhánh. Ngoài cây
mía, sâu còn hại lúa, ngô và các cây trồng thuộc họ hoà thảo khác. https://tailieu.xyz/

12

Tóm lại: Những kết quả nghiên cứu trong nước về đặc điểm sinh học và quy
luật phát sinh phát triển của các loài sâu đục thân mía chủ yếu ở miền Bắc tập trung
vào các loài sâu đục thân phổ biến, dễ nuôi như sâu đục thân mình hồng và sâu đục
thân mình vàng. Trong khi các loài sâu đục thân khác như sâu đục thân mình tím và
sâu đục thân 4 vạch lại chưa được quan tâm nghiên cứu nhiều. Nguyên nhân có thể
là do các loài sâu này tương đối khó nuôi bằng thức ăn tự nhiên, trong khi thức ăn
nhân tạo lại chưa có.
Theo Lương Minh Khôi (1997b) [9], ở Việt Nam có 4 loài thiên địch chủ yếu
của nhóm sâu đục thân mía, chúng bao gồm: Ong mắt đỏ Trichogramma spp. Ký
sinh trứng sâu đục thân mía mình vàng, 4 vạch, 5 vạch và sâu đục thân mình trắng;
ong đen Telenomus sp. Ký sinh trứng các loài sâu đục thân mía mình vàng, 4 vạch,
5 vạch và mình trắng, nhưng ký sinh trứng sâu đục thân mình trắng nhiều hơn, ong
đen kiến trắng chân vàng Apanteles flavipes Cameron ký sinh pha sâu non các loại
sâu đục thân 5 vạch, 4 vạch và sâu đục thân mình hồng và bọ đuôi kìm ăn các loại
sâu non của sâu đục thân. Theo Phạm Bình Quyền và CTV (1995) [1] ở miền Bắc
chỉ có 2 loài thiên địch phổ biến của nhóm sâu đục thân mía là ong mắt đỏ
Trichogramma chilonis và ong đen Telenomus sp. ký sinh pha trứng các loài sâu đục
thân mình trắng và sâu đục thân 4 vạch.
- Những nghiên cứu về biện pháp phòng trừ sâu đục thân hại mía
* Biện pháp kỹ thuật canh tác:
Đây là biện pháp được nông dân trồng mía ở nhiều vùng áp dụng phổ biến từ
khá lâu. Theo các tác giả Hồ Khắc Tín và CTV (1982) [15], Lương Minh Khôi
(1997a [8] và 1997b [9]), Nguyễn Huy Ước (1994) [19], Phạm Văn Lầm (1999)
[11]... Các biện pháp này bao gồm:
+ Trước khi trồng mía, đất phải được cày bừa kỹ nhằm tiêu diệt mầm mống của sâu ẩn
náu trong đất, vùng đất thấp có thể cho nước ngập để diệt sâu.
+ Chọn hom, giống mía trồng: chọn các hom giống không có sâu hại và chọn
các giống mía có tính chống chịu sâu như các giống ROC, Việt đường CP34-79,
HN56-12, QĐ11 và F156. https://tailieu.xyz/

13

+ Bón phân đầy đủ và cân đối cho mía mọc tốt. Chăm sóc làm cỏ kịp thời kể
cả trên các đường lô và bụi rậm xung quanh, nhằm loại trừ nơi ẩn náu của sâu. Nơi
có điều kiện lao động nên bóc là già, cắt chồi vô hiệu, loại bỏ mầm mống trứng ở
đó. Kết quả thí nghiệm của Viện Nghiên cứu Mía Đường (1996) [18] cho thấy ruộng
mía bóc lá kịp thời giảm tác hại của sâu đục thân từ 16,77 - 41,73% và tăng năng
suất mía lên 13,75% so với ruộng đối chứng.
+ Ruộng mía để gốc sau thu hoạch phải được cày lật đất kịp thời và cày sâu,
giết chết các loại sâu ẩn nấp trong gốc mía và dưới đất.
+ Bố trí thời vụ hợp lý: ở miền Bắc vụ xuân tốt nhất nên trồng mía trong tháng
2, vụ đông tốt nhất là tháng 10-11 vì lúc trồng mía sẽ dễ dàng hơn, mía phát triển
trùng với các tháng có đủ lượng mưa, nhiệt độ và ánh sáng, đồng thời tránh được
các cao điểm phát sinh của sâu (Lương Minh Khôi, 1997a) [8]
* Biện pháp hoá học:
Sâu đục thân tuy phá hại nhiều và phổ biến, nhưng người trồng mía nói chung
ít chú trọng công tác phòng trừ. Đặc biệt, trong những năm gần đây khi các vùng
nguyên liệu mía đưa nhiều giống mới có năng suất, phẩm chất đồng thời chế độ thâm
canh cao thì sự phá hại của sâu đục thân là rất nặng nề và nghiêm trọng. Hiện nay
tại các vùng nguyên liệu mía khu vực Thanh Hoá, người trồng mía đã tích cực phòng
trừ các loài sâu đục thân. Theo Cục Bảo vệ thực vật [4] các loại thuốc sử dụng chủ
yếu là Diazinon 10H (rắc vào gốc khi vun với lượng 10-20Kg/ha), padan 95SP
(phun với lượng 0,8 - 1,0 lit/ha), supracide 40EC (phun với lượng 0,8 - 1,0 lit/ha),
sumithion (phun với lượng 1,0 - 1,5 lit/ha). Theo Lương Minh Khôi (1997b) [9] có
thể dùng các loại thuốc diazinon 10G lượng 20kg/ha hoặc padan 4G lượng 20 -
30kg/ha rải vào luống khi trồng, cũng có thể rải vào gốc khi vun, hiệu quả phòng trừ
đạt tỷ lệ 64,1% so với đối chứng. Ngoài ra, có thể dùng padan 95SP phun khi mía
mọc mầm, đạt tỷ lệ trừ sâu 78,7%.
* Biện pháp sinh học:
Chủ yếu sử dụng ong kí sinh và bọ đuôi kìm. Nhìn chung biện pháp sinh học còn
chưa được chú trọng nhiều.
https://tailieu.xyz/

14
























PHẦN II. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Sâu đục thân hại mía.
- Bọ đuôi kìm (thiên địch của sâu đục thân mía)
- Khả năng sử dụng bọ đuôi kìm để trừ sâu đục thân hại mía tại vùng nguyên
liệu mía đường Lam Sơn Thanh Hoá
2.2. Nội dung nghiên cứu https://tailieu.xyz/

15

- Điều tra thành phần sâu hại trên một số giống mía tại vùng nguyên liệu mía
đường Lam Sơn Thanh Hoá
- Điều tra thành phần sâu đục thân, mức độ gây hại của chúng đối với một số
giống mía được trồng chủ yếu tại vùng nguyên liệu Mía đường Lam Sơn Thanh Hóa.
- Điều tra biến động mật độ bọ đuôi kìm qua các tháng trong thời gian thực
hiện đề tài.
- Nghiên cứu khả năng sử dụng bọ đuôi Kìm để phòng trừ sâu đục thân hại mía
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1 Thời gian địa điểm nghiên cứu
Thời gian: Từ tháng 1 đến tháng 5 năm 2015
Địa điểm: vùng nguyên liệu mía đường Lam Sơn Thanh Hoá.
2.3.2 Phương pháp điều tra
Phương pháp điều tra nghiên cứu biến động mật độ bọ đuôi kìm được tiến hành
điều tra định kỳ 1 tuần/lần, để xác định biến động mật độ bọ đuôi kìm tại vùng
nguyên liệu mía đường Lam Sơn Thanh Hoá.
Phương pháp điều tra: chúng tôi điều tra cố định 5 hộ trồng mía tại nông
trường Sao Vàng . Ở mỗi hộ trồng mía, chọn 1 điểm đại diện, mỗi điểm chọn một
hàng dài 5m (theo hàng mía) tại đó điều tra các giống MY55-14, ROC10, ROC22
và viên lâm 6, trên cả mía tơ và mía gốc. Tại điểm điều tra tiến hành quan sát toàn
bộ cây để phát hiện những dấu vết hoặc triệu chứng bị hại (héo ngọn, khô đọt, lá có
vết bị hại, thân có lỗ đục, cây sinh trưởng còi cọc, đổ gãy...). Dùng dao chẻ dọc những
cây bị hại hoặc nghi bị hại, thu thập tất cả các loài côn trùng bắt gặp, kể cả những cá thể
đục trong thân cây. Ghi chép các thông tin về loài sâu gây hại.
Mức độ phổ biến của sâu đục thân và bọ đuôi kìm được đánh giá như sau:
- : Rất ít (<10% tần suất bắt gặp)
+: ít (10- 20% tần suất bắt gặp)
++: Trung bình (21- 50% tần suất bắt gặp)
+++: Nhiều (>50% tần suất bắt gặp)
https://tailieu.xyz/

16

2.4. Phương pháp bố trí thí nghiệm trên diện tích hẹp thả bọ đuôi kìm, đánh
giá khả năng khống chế sâu đục thân hại mía của bọ đuôi kìm
Chọn ruộng ở cách xa ruộng trồng mía khác, có diện tích 1000m
2
, để thả bọ
đuôi kìm. Bọ đuôi kìm được mua từ Chi cục BVTV Nghệ An và chúng được thả
theo khuyến cáo của nhà sản xuất. Ruộng đối chứng không thả bọ đuôi kìm, không
dùng thuốc BVTV, có cùng giống mía, tuổi mía, cùng chế độ canh tác như ruộng thả
bọ đuôi kìm. Sau khi thả bọ đuôi kìm, chúng tôi điều tra liên tục 7 ngày/lần, để đánh
giá và so sánh sự phát sinh, phát triển và gây hại của sâu đục thân hại mía giữa hai
ruộng.
Thí nghiệm nghiên cứu khả năng sử dụng bọ đuôi kìm để trừ sâu đục thân hại
mía được tiến hành với 6 công thức sau:
- Công thức 1: Đối chứng không phun thuốc, không dùng bọ đuôi kìm.
- Công thức 2: Thả bọ đuôi kìm với mức 400 con/ha. Bọ đuôi kìm được thả vào lúc
mía mới mọc mầm.

- Công thức 3: Thả bọ đuôi kìm với mức 600 con/ha. Bọ đuôi kìm được thả vào lúc
mía mới mọc mầm.
- Công thức 4: Thả bọ đuôi kìm với mức 800 con/ha. Bọ đuôi kìm được thả vào lúc
mía mới mọc mầm.
2.5. Công thức tính toán.
- Xác định mức độ ảnh hưởng của thuốc hóa học:
+ Hiệu lực của thuốc hóa học ngoài đồng ruộng được tính theo công thức của
Henderson – Tilton:
1001(%) 








−=
TbCa
CbTa
E

Trong đó: E (%) Hiệu lực của thuốc
Ta : Số sâu sống ở công thức đối chứng sau khi phun thuốc
Cb : Số sâu sống ở công thức đối chứng trước khi phun thuốc
Ca : Số sâu sống ở công thức đối chứng sau khi phun thuốc https://tailieu.xyz/

17

Tb : Số sâu sống ở công thức đối chứng trước khi phun thuốc
- Tỷ lệ mầm (cây) bị hại (%) =
Tổng số mầm (cây) bị sâu đục
Tổng số mầm (cây) điều tra
x 100
- Tỷ lệ lóng bị hại (%) =
Tổng số lóng bị đục
Tổng số lóng điều tra
x 100




















PHẦN III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

Bảng 1: Diễn biến khí hậu thời tiết
tháng
Chỉ tiêu
1 2 3 4 https://tailieu.xyz/

18

Nhiệt độ ( t
0
) 17,3 19,7 20,0 24,5
Lượng mưa (mm) 28,5 31,2 71,8 24,3
Độ ẩm (%) 85 88 92 85

Nhiệt độ: Tháng 1 thấp dẫn tới thờ kỳ sinh trưởng phát triển của cây mía chậm
đấy là giai đoạn mía đang ở thời kỳ mầm và cây con. Nhiệt độ tháng 1 tới tháng 4
tăng dần phù hợp cho cây mía sinh trưởng phát triển tốt.
Lượng mưa: Từ tháng 1 đến tháng 4 biến đổi không đều, lượng mưa thấp nhất
vào tháng 4 là 24,3 mm và cao nhất vào tháng 3 là 71,8 mm.
Ẩm độ: từ tháng 1 đến tháng tư biến đổi không nhiều, ẩm độ cao nhất vào
tháng 3 là 92%.
Nhìn chung nhiệt độ và độ ẩm khá cao chính vì vậy đã tạo điều kiện thuận lợi
cho dịch hại phát sinh phát triển và gây hại mạnh.
3.1. Thành phần sâu hại mía tại vùng nguyên liệu mía đường Lam Sơn Thanh Hoá
Thực tiễn sản xuất trong những năm gần đây cho thấy, mía bị rất nhiều sâu
hại tấn công, đặc biệt khi nâng cao trình độ canh tác, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào thâm canh mía công nghệ cao (năng suất: 100 - 150 tấn/ha với 10 - 13 độ CCS),
thì tình hình sâu bệnh càng phức tạp. Mía là cây trồng thích hợp cho nhiều loại sâu
bệnh tồn tại và phát triển.
Cho đến nay, các nghiên cứu về sâu đục thân mía và sử dụng bọ đuôi kìm
trong phòng trừ sâu đục thân mía tại Bắc Trung Bộ hầu như chưa được quan tâm.
Có một số kết quả nghiên cứu đã công bố, nhưng vừa rất tản mạn về không gian và
thời gian, vừa quá lạc hậu với điều kiện sản xuất mới. Với những kết quả đã có không
thể xây dựng được quy trình hay mô hình phòng trừ sâu đục thân mía nào phù hợp
mang lại hiệu quả cao cho người trồng mía. Hiện nay, phần lớn người trồng mía tại
Thanh Hoá chưa chú trọng phòng trừ sâu đục thân, nếu có thì các biện pháp phòng
tránh chỉ mang tính tự phát, riêng rẽ nên hiệu quả không cao, mà còn ảnh hưởng đến
môi trường, không bảo vệ và sử dụng được thiên địch trong tự nhiên, để lại tồn dư
thuốc BVTV trong sản phẩm quá ngưỡng cho phép, ảnh hưởng đến sức khoẻ người
tiêu dùng. https://tailieu.xyz/

19

Tại vùng trồng nguyên liệu mía đường Lam Sơn Thanh Hóa chúng tôi đã thu
thập được 18 loài sâu thuộc 7 bộ và 13 họ côn trùng khác nhau, được trình bày ở
bảng sau:
Bảng 2: Thành phần sâu hại mía tại vùng Nguyên liệu mía đường Lam Sơn
Thanh Hóa
TT Tên việt nam Tên khoa học Bộ/họ
Mức độ phổ
biến
I Bộ cánh đều Homoptera
1
Rệp xơ trắng
Ceratovacuna lanigera
Zehntner
Eriosomatidae +++
2
Rầy xanh lá mạ
Empoasca flavescens
Fabr
Cicadellidae ++
3
Rệp sáp
Trionymus sacchari
Cockerell
Coccidae ++
II Bộ cánh vảy Lepidoptera
4 Sâu đục thân 4
vạch
Proceras venosatus
Walker
Pyralidae ++
5 Sâu đục thân
bướm trắng
Scirpophaga nivella F
Pyralidae ++
6 Sâu đục thân
mình vàng
Argyroploce
schistaceana Snellen
Eucosnidae +++
7 Sâu đục thân
mình hồng
Sesamia inferens
Walker
Noctuidae ++
III Bộ cánh bằng Isoptera
8 Mối Odontotermes sp Termitidae +++
IV Bộ cánh tơ Thysanoptera
9
Bọ trĩ
Stenochretothrips
biformis (Bagnall)
Thripidae ++ https://tailieu.xyz/

20

Qua bảng 2 ta thấy cây mía là cây trồng có tập đoàn sâu hại rất phong phú,
chúng gây hại trên tất cả các bộ phận của cây (gốc, thân, lá, ngọn) và trong cả quá
trình sinh trưởng, phát triển cho đến khi thu hoạch. Thành phần sâu hại mía mà chúng
tôi thu được bao gồm 7 bộ và 18 loài. Trong đó bộ cánh vảy nhiều nhất với 4 loài,
bộ cánh thẳng, bộ cánh cứng, bộ cánh nửa và bộ cánh đều 3 loài, bộ cánh bằng và
cánh tơ mỗi bộ có 1 loài. Trong số đó thì nhóm sâu hay bắt gặp nhất là rệp xơ trắng,
sâu đục thân, bọ hung đen đục gốc…
3.2. Thành phần loài sâu đục thân hại mía và tỷ lệ cây bị hại
V Bộ cánh thẳng Orthoptera
10
Châu chấu
Parapleurus alliaceus
Gemar
Acrididae ++
11 Cào cào xanh
lớn
Acrida sp
Acrididae ++
12
Dế mèn
Brachytrupes
portentosus Lich
Gryllidae ++
VI Bộ cánh nửa Hemiptera
13
Bọ xít dài
Leptocorisa acuta
Thunberg
Coreidae ++
14 Bọ xít xanh Nezara viridula Linn Pentatomidae +
15
Bọ xít gai
Cletus punctiger
Thunberg
Coreidae +
VII Bộ cánh cứng Coleoptera
16 Bọ hung đen
đục gốc
Alissonotum
impressicole Anow
Scarabaeidae ++
17 Bọ hung nâu
nhỏ
Onthophagus suginoi
Ochi
Scarabaeidae +++
18 Cánh cam đục
gốc
Anomala expensa
Bates
Scarabaeidae + https://tailieu.xyz/

21

Cũng trong thời gian này chúng tôi đi sâu nghiên cứu thành phần và tình hình
gây hại của sâu đục thân trên mía tơ giống MY55-14. Kết quả điều tra được trình
bày ở bảng 3.
Bảng 3: Thành phần sâu đục thân hại mía tại vùng nguyên liệu mía đường
Lam Sơn Thanh Hóa.



Loài sâu đục thân



Họ
Tỷ lệ thành phần loài (%)
NT Sao
Vàng – Thọ
Xuân
NT Sông
Âm huyện
Ngọc Lặc
NT Thống
Nhất – Yên
Định
Sâu đục thân mình
vàng
Eucosmidae 31,7 26,8 22,5
Sâu đục thân 4 vạch Pyralidae 26,6 31,3 19,7
Sâu đục thân mình
hồng
Pyralidae 13,6 12,3 15,9
Sâu đục thân mình
trắng
Pyralidae 18,7 19,2 31,9
Sâu đục thân 5 vạch Pyralidae 9,4 10,4 10,1

Hiện tại ở vùng chuyên canh mía Thanh Hóa chúng tôi đã xác định có 5 loài
sâu đục thân hại mía, chúng đều thuộc bộ cánh vảy. Trong 5 loài này có 4 loài thuộc
họ Pyralidae,1 loài thuộc họ Eucosmidae.
Kết qủa nghiên cứu của chúng tôi cũng cho kết quả tương tự kết quả điều tra
của tác giả Lương Minh Khôi và Lê Thanh Hải (1997).
So với kết quả điều tra của tác giả Phạm Bình Quyền và CTV (1995) ở miền
bắc thì thành phần sâu đục thân hại mía có thêm 3 loài đó là sâu đục thân mình vàng
Eucosma schistaceana, sâu đục thân mình hồng Sesamia inferens Walker, sâu đục
thân 5 vạch Chilo infuscatellus.
Khi so sánh với kết quả điều tra của Trung tâm bảo vệ thực vật miền Trung
(1995) thì thành phần sâu đục thân ở Thanh Hóa có thêm 1 loài đó là sâu đục thân
mình hồng Sesamia inferens. https://tailieu.xyz/

22

Qua bảng 3 chúng ta nhận thấy được sự biến động về tỷ lệ thành phần loài của
các loài sâu đục thân hại mía ở các vùng chuyên canh mía. Qua đó ta cũng có thể
thấy được tình hình chung của tất cả các nông trường trồng mía.
Khi xét về tỷ lệ thành phần loài thì qua bảng 3 ta thấy loài sâu đục thân mình
vàng chiếm tỷ lệ thành phần loài cao nhất trong nhóm sâu đục thân ở các vùng
chuyên canh (22.5 – 31,7%), tiếp theo là loài sâu 4 vạch (19,7 – 31,3%), sâu mình
tím (18,7 – 31,9%), sâu mình hồng (12,3 – 15,9%) thấp nhất loài sâu đục thân 5 vạch
(9,4 – 10,4%).
Ở mỗi nông trường khác nhau thì tỷ lệ thành phần loài cũng khác nhau, mức
độ khác nhau lớn hay nhỏ phụ thuộc vào trình độ thâm canh, tập quán canh tác của
nông dân tại vùng chuyên canh mía, vào các biện pháp kỹ thuật canh tác ví dụ như
tủ lá, bóc lá, đốt lá, phụ thuộc vào điều kiện khí hậu, đất đai.
Qua bảng 3 ta thấy: trong tổng số 5 loài sâu đục thân được phát hiện thì tại
nông trường Sao Vàng – Thọ Xuân loài sâu đục thân mình vàng chiếm tỷ lệ thành
phần phần loài lớn nhất (31,7%) tiếp đến là sâu 4 vạch (26,6%), sâu mình tím
(18,7%), thấp nhất là sâu mình hồng và sâu 5 vạch (13,6% và 9,4%), trong khi đó
tại nông trường Sông Âm huyện Ngọc Lặc sâu đục thân 4 vạch chiếm tỷ lệ cao nhất
(31,3%), tiếp đến là loài mình vàng (26,8%), sâu mình tím (19,2%) thấp nhất là sâu
mình hồng và sâu 5 vạch ( 12,3% và 10,4%) còn tại nông trường Thống Nhất – Yên
Định sâu đục thân mình tím lại chiếm tỷ lệ cao nhất (31,9%) tiếp đến là sâu mình
vàng (22,5%), sâu 4 vạch (19,7%), thấp nhất vẫn là loài mình hồng và 5 vạch ( 15,9%
và 10,1%). Sỡ dĩ có sự khác biệt như thế là do tập quán canh tác của nông dân. Việc
đốt bỏ ngọn lá mía sau thu hoạch ảnh hưởng rõ rệt đến mật độ các loài sâu đục thân
hại mía. Đốt lá mía một mặt giết chết sâu hại trong tàn dư cây bị hại mặt khác nó
cũng giết chết nhiều loài thiên địch đồng thời cũng làm giảm nguồn thức ăn của
những cá thể còn sống xót, chính vì những lý do đó mà mật độ quần thể thiên địch
bị giảm mạnh, tạo điều kiện cho các loài sâu đục thân nhân nhanh số lượng gây hại
ở giai đoạn sau đặc biệt là loài sâu 5 vạch đục mầm. Bên cạnh đó việc đốt lá còn làm
cho tốc độ bốc hơi nước tăng lên trong các tháng mùa khô, ruộng mía bị khô hạn
nhanh hơn rất thuận lợi cho loài sâu 5 vạch đục mầm phát sinh gây hại nặng. Hầu https://tailieu.xyz/

23

hết ở tất cả các nông trường trên đều không đốt ngọn lá mía mà thay vào đó là việc
tủ lá mía, không đốt ngọn. Vì vậy mà tỷ lệ thành phần loài sâu đục mầm 5 vạch thấp
nhất so với các loài sâu khác, song việc tủ lá mía cũng là nguyên nhân làm cho tỷ lệ
thành phần loài sâu đục thân mình tím ở các nông trường cao. Sâu đục thân mình
tím có đặc tính là đẻ trứng trên các lá mía nửa khô hoặc đang khô, những ruộng mía
có tủ lá sẽ thu hút loài sâu này đến đẻ trứng, tích lũy số lượng và gây hại nặng. Vì
thế mà tỷ lệ sâu mình tím tại các nông trường cao hơn hẳn so với sâu đục mầm 5
vạch.
3.3. Tỷ lệ gây hại của sâu đục thân tại vùng nguyên liệu mía đường Lam Sơn
Thanh Hoá.
3.3.1. Tỷ lệ gây hại của sâu đục thân trên mía tơ tại vùng nguyên liệu mía
đường Lam Sơn Thanh Hoá.
Kết quả điều tra tỷ lệ gây hại của sâu đục thân trên mía tơ được trình bày ở
bảng sau:
Bảng 4: Tỷ lệ gây hại của sâu đục thân trên mía tơ tại vùng nguyên liệu mía
đường Lam Sơn Thanh Hoá.
Tháng
điều tra
Tỷ lệ gây hại của sâu đục thân (%)
MY55-14 ROC10 ROC22 Viên lâm 6
1 0 0 0 0
2 3.7 2.5 1.9 3.0
3 6.8 5.4 4.5 5.9
4 7.5 6.6 6.4 7.2
5 11.3 7.9 8.7 12.4
TB 5.9 4.5 4.3 5.7

Từ bảng số liệu trên ta có biểu đồ sau : https://tailieu.xyz/

24


Nhận xét:
Kết quả ở bảng 4 và biểu đồ 1 cho thấy tỷ lệ gây hại sâu đục thân là khác nhau
trên cả 4 giống mía điều tra ở vụ mía tơ. Cụ thể như sau: tỷ lệ gây hại cao nhất trên
giống mía MY55-14 và Viên Lâm 6 lần lượt là (5.9 và 5.7%), trong khi đó trên giống
mía ROC10 và ROC22 tỷ lệ hại thấp hơn (4.5 và 4.3%). Theo chúng tôi có thể do
giống mía ROC10 và ROC22 là 2 giống mía cứng cây nên không phải là thức ăn ưa
thích của sâu đục thân.










3.3.2. Tỷ lệ gây hại của sâu đục thân trên mía gốc 1 tại vùng nguyên liệu
mía đường Lam Sơn Thanh Hoá. Biểu đồ 1: Tỷ lệ gây hại của sâu đục thân trên mía tơ
0
2
4
6
8
10
12
14
1 2 3 4 5Tháng điều tra
Tỷ lệ gây hại (%)
MY55-14
ROC 10
ROC 22
Viên Lâm 6 https://tailieu.xyz/

25

Kết quả điều tra tỷ lệ gây hại của sâu đục thân trên mía gốc 1 được trình bày
ở bảng sau:
Bảng 5: Tỷ lệ gây hại của sâu đục thân trên mía gốc 1 tại vùng nguyên liệu
mía đường Lam Sơn Thanh Hoá.
Tháng
điều tra
Tỷ lệ gây hại của sâu đục thân (%)
MY55-14 ROC10 ROC22 Viên lâm 6
1 1.4 1.1 0.9 0.7
2 4.1 2.7 2.4 3.9
3 7.6 6.6 5.6 7.8
4 8.2 7.4 7.7 8.5
5 13.3 8.9 9.2 14.4
TB 6.9 5.3 5.2 7.1
Từ bảng trên ta có biểu đồ sau:

Nhận xét :
Kết quả ở bảng 5 và biểu đồ 2 cho thấy:
- Tỷ lệ gây hại sâu đục thân là khác nhau trên cả 4 giống mía điều tra ở vụ
mía tơ. Cụ thể như sau: tỷ lệ gây hại cao nhất trên giống mía MY55-14 và Viên
Lâm 6 lần lượt là (6.9 và 7.1%), trong khi đó trên giống mía ROC10 và ROC22
tỷ lệ hại thấp hơn (5.3 và 5.2%). Theo chúng tôi có thể do giống mía ROC10 và Biểu đồ 2: Tỷ lệ gây hại của sâu đục thân trên mía gốc 1
0
2
4
6
8
10
12
14
16
1 2 3 4 5
Tháng điều tra
Tỷ lệ gây hại (%)
MY55-14
ROC 10
ROC 22
Viên lâm 6 https://tailieu.xyz/

26

ROC22 là 2 giống mía cứng cây nên không phải là thức ăn ưa thích của sâu đục
thân
3.3.3. Tỷ lệ gây hại của sâu đục thân trên mía gốc 2 tại vùng nguyên liệu
mía đường Lam Sơn Thanh Hoá.
Kết quả điều tra tỷ lệ gây hại của sâu đục thân trên mía gốc 2 được trình bày ở bảng
sau:
Bảng 6: Tỷ lệ gây hại của sâu đục thân trên mía gốc 2 tại vùng nguyên liệu
mía đường Lam Sơn Thanh Hoá.
Tháng
điều tra
Tỷ lệ gây hại của sâu đục thân (%)
MY55-14 ROC10 ROC22 Viên lâm 6
1 1.8 1.3 1.5 0.9
2 4.9 3.1 2.7 4.4
3 8.6 6.7 6.6 8.3
4 8.9 7.8 7.9 9.2
5 15.5 9.9 10.2 16.4
TB 7.94 5.76 5.78 7.84
Từ bảng kết quả trên ta có biểu đồ sau:

Nhận xét :
Kết quả ở bảng 6 và biểu đồ 3 cho thấy:
- Tỷ lệ gây hại sâu đục thân là khác nhau trên cả 4 giống mía điều tra ở vụ
mía tơ. Cụ thể như sau: tỷ lệ gây hại cao nhất trên giống mía MY55-14 và Viên
Lâm 6 lần lượt là (7.94 và 7.84%), trong khi đó trên giống mía ROC10 và ROC22 Biểu đồ 3: Tỷ lệ gây hại của sâu đục thân trên mía gốc 2
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
1 2 3 4 5Tháng điều tra
Tỷ lệ gây hại (%)
MY55-14
ROC 10
ROC 22
Viên lâm 6 https://tailieu.xyz/

27

tỷ lệ hại thấp hơn (5.76 và 5.78%). Theo chúng tôi có thể do giống mía ROC10
và ROC22 là 2 giống mía cứng cây nên không phải là thức ăn ưa thích của sâu
đục thân.
3.4. Tỷ lệ gây hại của sâu đục thân trên mía tơ trồng trên các chân đất khác
nhau tại vùng nguyên liệu mía đường Lam Sơn Thanh Hoá.
Kết quả điều tra tỷ lệ gây hại của sâu đục thân trên mía tơ ở các chân đất khác nhau.
(MY55-14) được trình bày ở bảng sau:
Bảng 7: Tỷ lệ gây hại của sâu đục thân trên mía tơ trồng trên các chân đất
khác nhau
Tháng
điều tra
Tỷ lệ gây hại của sâu đục thân trên giống mía tơ MY55-14 (%)
Đất đồi Đất ruộng Đất bãi
1 0 0 0
2 3.8 4.2 4.5
3 6.4 6.6 7.4
4 7.7 7.9 8.2
5 10.6 13.7 14.4
TB 5.7 6.48 6.9
Từ bảng số liệu trên ta có đồ thị sau

Qua bảng số 7 và đồ thi số 1 cho thấy: Đồ thị 1: Tỷ lệ gây hại của sâu đục thân trên giống mía tơ MY55-14 trồng trên các
chân đất khác nhau
0
2
4
6
8
10
12
14
16
1 2 3 4 5 Tháng điều tra
Tỷ lệ gây hại (%)
Đất đồi
Đất ruộng
Đất bãi https://tailieu.xyz/

28

- Tỷ lệ gây hại của sâu đục thân trên mía tơ giống MY55-14 ở các chân đất
khác nhau là khác nhau .Cụ thể như sau: tỷ lệ gây hại cao nhất là đất bãi (14.4%),
trong khi đó trên đất đồi là 10,6% và đất ruộng là 13,7%. Tỷ lệ hại trung bình trên
đất bãi cao nhất đạt 6,9%, thấp nhất là đất đồi với tỷ lệ là 5,7%. Và trung bình là đất
ruộng chiếm 6,48%.
3.5. Tỷ lệ gây hại của sâu đục thân hại mía ở chế độ có bóc lá và không bóc lá
Kết quả điều tra trên giống mía MY55-14 ở vụ tơ trong điều kiện có bóc lá và
không bóc lá. Số liệu được trình bày ở bảng sau:
Bảng 8: Tỷ lệ gây hại của sâu đục thân trên mía tơ ở chế độ có bóc lá và
không bóc lá.
Tháng
điều tra
Tỷ lệ gây hại của sâu đục thân trên giống tơ MY55-14 (%)
Có bóc lá Không bóc lá
1 0 0
2 3.2 2.6
3 6.1 5.4
4 7.0 6.1
5 8.6 7.2
TB 4.98 4.26
Từ bảng số liệu trên ta có đồ thị thể hiện tỷ lệ gây hại của sâu đục thân trên
giống mía tơ MY55-14 ở chế độ có bóc lá và không bóc lá:
Đồ thị 2: Tỷ lệ gây hại của sâu đục thân trên giống mía tơ MY55-14 ở chế độ có bóc
lá và không bóc lá
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
1 2 3 4 5
Tháng điều tra
Tỷ lệ gây hại (%)
Có bóc lá
Không bóc lá https://tailieu.xyz/

29

Nhận xét: Vào kỳ theo dõi tháng 1 chưa thấy xuất hiện của sâu đục thân, tuy
nhiên vào kỳ theo dõi của tháng 2 tỷ lệ hại của sâu đục thân ở mía không bóc lá
chiếm tới 3,2%, mía bóc lá là 2,6%. Tỷ lệ hại của sâu đục thân tiếp tục tăng cao tới
kỳ theo dõi tháng 5 trên mía không bóc lá tỷ lệ hại của sâu đục thân chiếm tới 8,6%
trong khi mía bóc lá chỉ chiếm 7,2%. Nh́ìn chung tỷ lệ hại trung b́ình của sâu đục
thân trên mía không bóc lá cao hơn hẳn so với mía bóc lá. trên mía không bóc lá tỷ
lệ này là 4,98%, trên mía bóc lá là 4,26%.
3.6. Mật độ bọ đuôi kìm tại vùng nguyên liệu mía đường Lam Sơn Thanh Hoá
trong thời gian thực hiện đề tài.
3.6.1. Mật độ bọ đuôi kìm trên mía tơ tại vùng nguyên liệu mía đường Lam
Sơn Thanh Hoá.
Kết quả điều tra định kỳ trên ruộng mía tơ tại vùng nguyên liệu mía đường
Lam Sơn cho thấy BĐK xuất hiện ngay từ đầu vụ và tồn tại trong suốt vụ mía. Kết
quả điều tra được trình bày ở bảng sau:
Bảng 9: Diễn biến mật độ BĐK trên mía tơ tại vùng nguyên liệu mía đường
Lam Sơn Thanh Hoá.
Tháng
điều tra
Mật độ BĐK (con/m
2
)
MY55-14 ROC10 ROC22 Viên lâm 6
1 0.5 0.9 0 0
2 1.0 1.2 0.3 0.4
3 0.7 0.4 0.9 1.0
4 1.2 1.0 1.5 1.4
5 1.5 0.4 1.2 2.5
TB 0.98 0.78 0.78 1.06





https://tailieu.xyz/

30

Từ bảng 9 chúng tôi có đồ thị diễn biến mật độ BĐK như sau:

Từ bảng 9 và đồ thị 3 chúng tôi có nhận xét:
Trong các lần điều tra tại vùng nguyên liệu mía đường Lam Sơn Thanh Hoá
trên cả 4 giống mía chúng tôi đều thấy xuất hiện bọ đuôi kìm ngay từ đầu vụ. Mật
độ BĐK ở đầu vụ mía xuất hiện thấp trên cả 4 giống điều tra, mật độ tăng mạnh khi
mía vào đẻ nhánh. Trên giống MY55-14 mật độ BĐK cao nhất vào tháng 5
(1.5con/m
2
), thấp nhất vào tháng 1 (0.5con/m
2
). Điều này theo chúng tôi vào tháng
1 nhiệt độ thấp, nguồn thức ăn là sâu đục thân khan hiếm. Mặt khác BĐK là côn
trùng ăn thịt nên chúng không sinh trưởng, phát triển mạnh trong điều kiện nhiệt độ
thấp, đến khi nhiệt độ tăng cao, nguồn thức ăn dư thừa thì mật độ BĐK cũng tăng
cao. Điều này cũng tương tự trên các giống ROC10, ROC22 và Viên lâm 6.
Mật độ BĐK trung bình cao nhất trên giống Viên Lâm 6 và MY55-14 ở mức (1.06
và 0.98con/m
2
) còn các giống ROC10, ROC22 mật độ chỉ đạt 0.78 con/m
2
điều này
theo chúng tôi trên giống MY55-14 và viên lâm 6 là giống có đặc tính mềm nên
thích hợp cho sâu đục thân gây hại nên mật độ BĐK cao.
3.6.2. Mật độ bọ đuôi kìm trên mía gốc 1 tại vùng nguyên liệu mía đường
Lam Sơn Thanh Hoá.
Kết quả điều tra mật độ bọ đuôi kìm trên mía gốc 1 được trình bày ở bảng sau: Đồ thị 3: Diễn biến mật độ BĐK trên mía tơ
0
0.5
1
1.5
2
2.5
3
1 2 3 4 5Tháng điều tra
Mật độ BĐK
(con/m2)
MY55-14
ROC 10
ROC 22
Viên lâm 6 https://tailieu.xyz/

31

Bảng 10: Diễn biến mật độ BĐK trên mía gốc 1 tại vùng nguyên liệu mía
đường Lam Sơn Thanh Hoá.
Tháng
điều tra
Mật độ BĐK (con/m
2
)
MY55-14 ROC10 ROC22 Viên lâm 6
1 0.7 0.9 0.6 0.5
2 1.2 1.4 0.5 0.5
3 0.9 0.7 1.1 1.2
4 1.3 1.4 1.6 1.5
5 1.6 0.6 1.5 1.9
TB 1.14 1.0 1.06 1.12
Từ số liệu trên ta có đồ thị sau:

Từ bảng 10 và đồ thị 4 chúng tôi có nhận xét sau:
Trong các lần điều tra tại vùng nguyên liệu mía đường Lam Sơn Thanh Hoá
trên cả 4 giống mía chúng tôi đều thấy xuất hiện bọ đuôi kìm ngay từ đầu vụ. Mật
độ BĐK ở đầu vụ mía xuất hiện thấp trên cả 4 giống điều tra, mật độ tăng mạnh khi
mía vào đẻ nhánh. Trên giống MY55-14 mật độ BĐK cao nhất vào tháng 5 (1.6
con/m
2
), thấp nhất vào tháng 1 (0.7con/m
2
). Điều này theo chúng tôi vào tháng 1
nhiệt độ thấp, nguồn thức ăn là sâu đục thân khan hiếm. Mặt khác BĐK là côn trùng
ăn thịt nên chúng không sinh trưởng, phát triển mạnh trong điều kiện nhiệt độ thấp, Đồ thị 4: Diễn biến mật độ BĐK trên mía gốc 1
0
0.2
0.4
0.6
0.8
1
1.2
1.4
1.6
1.8
2
1 2 3 4 5Tháng điều tra
Mật độ BĐK
(con/m2)
MY55-14
ROC 10
ROC 22
Viên lâm 6 https://tailieu.xyz/

32

đến khi nhiệt độ tăng cao, nguồn thức ăn dư thừa thì mật độ BĐK cũng tăng cao.
Điều này cũng tương tự trên các giống ROC10, ROC22 và Viên lâm 6.
Mật độ BĐK trung bình cao nhất trên giống Viên Lâm 6 và MY55-14 ở mức
(1.12 và 1.14con/m
2
) còn các giống ROC10, ROC22 mật độ chỉ đạt 1.0 và
1.06con/m
2
điều này theo chúng tôi trên giống MY55-14 và viên lâm 6 là giống có
đặc tính mềm nên thích hợp cho sâu đục thân gây hại nên mật độ BĐK cao.
3.6.3. Mật độ bọ đuôi kìm trên mía gốc 2 tại vùng nguyên liệu mía đường
Lam Sơn Thanh Hoá.
Kết quả điều tra mật độ bọ đuôi kìm trên mía gốc 2 được trình bày ở bảng sau:
Bảng 11: Diễn biến mật độ BĐK trên mía gốc 2 tại vùng nguyên liệu mía
đường Lam Sơn Thanh Hoá.
Tháng
điều tra
Mật độ BĐK (con/m
2
)
MY55-14 ROC10 ROC22 Viên lâm 6
1 0.8 1.0 0.8 0.9
2 1.3 1.5 0.9 0.3
3 1.0 0.8 1.2 1.3
4 1.5 1.3 1.0 1.5
5 2.8 0.9 1.6 1.7
TB 1.48 1.1 1.1 1.14
Từ bảng số liệu trên ta có đồ thị sau
Đồ thị 5: Diễn biến mật độ BĐK trên mía gốc 2
0
0.5
1
1.5
2
2.5
3
1 2 3 4 5Tháng điều tra
Mật độ BĐK
(con/m2)
MY55-14
ROC 10
ROC 22
Viên lâm 6 https://tailieu.xyz/

33

Từ bảng 11 và đồ thị 5 chúng tôi có nhận xét sau:
Trong các lần điều tra, tại vùng nguyên liệu mía đường Lam Sơn Thanh Hoá
trên cả 4 giống mía chúng tôi đều thấy xuất hiện bọ đuôi kìm ngay từ đầu vụ. Mật
độ BĐK ở đầu vụ mía xuất hiện thấp trên cả 4 giống điều tra, mật độ tăng mạnh khi
mía vào đẻ nhánh. Trên giống MY55-14 mật độ BĐK cao nhất vào tháng 5 (2.8
con/m
2
), thấp nhất vào tháng 1 (0.8con/m
2
). Điều này theo chúng tôi vào tháng 1
nhiệt độ thấp, nguồn thức ăn là sâu đục thân khan hiếm. Mặt khác BĐK là côn trùng
ăn thịt nên chúng không sinh trưởng, phát triển mạnh trong điều kiện nhiệt độ thấp,
đến khi nhiệt độ tăng cao, nguồn thức ăn dư thừa thì mật độ BĐK cũng tăng cao.
Điều này cũng tương tự trên các giống ROC10, ROC22 và Viên lâm 6.
Mật độ BĐK trung běnh cao nhất tręn giống MY55-14 và ROC22 ở mức (1.48 và
1.14con/m
2
) còn các giống ROC10 và MY55-14 mật độ chỉ đạt (1.1con/m
2)
điều này
theo chúng tôi trên giống MY55-14 và viên lâm 6.
3.7. Khả năng khống chế sâu đục thân của bọ đuôi kìm.
Để đánh giá khả năng khống chế sâu đục thân của bọ đuôi kìm chúng tôi tiến
hành bố trí thí nghiệm thả bọ đuôi kìm trên 4 giống mía khác nhau. Kết quả thu được
trình bày ở bảng:
Chúng tôi bố trí thí nghiệm thả BĐK trên ruộng mía tơ giống MY55-14 để đánh giá
khả năng khống chế BĐK đối với sâu đục thân hại mía. Kết quả được trình bày ở
bảng sau:
Bảng 12: Khả năng khống chế sâu đục thân của BĐK
CT
Mật độ
sâu trước
thí
nghiệm
(con/m
2
)
Tỷ lệ cây
bị hại (%)
Dự kiến
năng
suất lý
thuyết
(Tấn/ha)
Dự kiến
hàm
lượng
đường
(%)
Dự kiến
năng suất
đường
(tấn/ha)
Năng suất
đường tăng
so với đối
chứng (%)
1 3.5 30.5 58.2 9.8 5.7 0.0
2 4.1 21.5 56.8 10.6 6.0 5.3
3 3.2 19.3 57.9 11.4 6.6 13.6
4 4.9 13.9 59.3 11.8 7.0 18.5
https://tailieu.xyz/

34

Nhận xét:
Khả năng khống chế sâu đục thân của BĐK được đánh giá thông qua tỷ lệ cây bị hại
và năng suất đường thu được. Bảng trên cho thấy
Trong các công thức thí nghiệm thì công thức thả 800 con BĐK/ha có tỷ lệ hại thấp
nhất (13,9%) trong khi đó công thức đối chứng tỷ lệ hại cao nhất (30,5%). Năng suất
đường giữa các công thức khác nhau thì khác nhau. Cụ thể năng suất đường cao nhất
ở công thức thả 800 con BĐK/ha (7.0tấn/ha) cao hơn 18,5%% so với đối chứng điều
này chứng tỏ BĐK có khả năng khống chế sâu đục thân hại mía.
:

https://tailieu.xyz/

35

PHẦN IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. KẾT LUẬN
- Thành phần sâu hại mía vùng nguyên liệu mía đường Lam Sơn Thanh Hoá trong
thời gian thực hiên đề tài chúng tôi thu được 18 loại sâu hại thuộc 7 bộ. 13 họ côn
trùng khác nhau. Bộ cánh vảy có 4 loài chiếm tỷ lệ 22.22%. bộ cánh đều. Bộ cánh
thẳng. bộ cánh cứng. bộ cánh nửa mỗi bộ có 3 loài chiếm 16.67%. thấp nhất là bộ
cánh bằng và bộ cánh tơ mỗi bộ có 1 loài chiểm 5.55%.
- Điều tra tại vùng nguyên liệu mía đường Lam Sơn Thanh Hoá trên cả 4 giống mía
chúng tôi đều thấy xuất hiện bọ đuôi kìm ngay từ đầu vụ. Mật độ BĐK ở đầu vụ mía
xuất hiện thấp trên cả 4 giống điều tra, mật độ tăng mạnh khi mía vươn lóng. Mật độ
BĐK trung bình cao nhất trên giống MY55-14 (1.48con/m
2
) các giống ROC10,
ROC22 và Viên lâm 6 mật độ chỉ đạt từ 1.1 đến 1.12 con/m
2
.
- Tỷ lệ gây hại của sâu đục thân ở giai đoạn đầu của mía trên tất cả các giống điều
tra đều thấp và tăng dần vào các giai đoạn sau của mía. Tỷ lệ gây hại cao nhất trên
giống mía MY55-14 (7.94%) các giống ROC 10, ROC 22 và Viên lâm 6 tỷ lệ chỉ
đạt 4.5 đến 7.84%
- Khả năng khống chế sâu đục thân hại mía của BĐK là rất tốt. Khi thả 800 con/ha
thì tỷ lệ hại của sâu đục thân là thấp nhất, năng suất đường tăng 18.5% so với không
thả bộ đuôi kìm.
4.2. ĐỀ NGHỊ
- Bọ đuôi kìm là côn trùng có ích trong phòng trừ sâu đục thân hại mía. nên hạn chế
sử dụng thuốc hoá học BVTV để giảm ô nhiễm môi trường, đồng thời bảo vệ được
côn trùng có ích.
- Trong điều kiện cho phép có thể sử dụng bọ đuôi kím thay thế các loại thuốc hoá
học BVTV độc hại đang sử dụng trong sản xuất nông nghiệp hiện nay.
- Đề nghị tiếp tục nghiên cứu khả năng sử dụng bộ đuôi kìm phòng trừ các loại sâu
hại khác.


https://tailieu.xyz/

36

TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tài liệu tiếng việt
1. Bộ nông nghiệp & PTNT (2010) Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về phương pháp
điều tra phát hiện dịch hại cây trồng. NXBNN Hà Nội.
2. Bộ nông nghiệp & PTNT (2000). Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện chương trình
mía đường. Hội nghị tổng kết 5 năm thực hiện chương trình mía đường từ 2 -
3/8/2000. tại Hà Nội.
3. CIRAD (2000)
4. Cục Bảo vệ Thực vật (1999). Báo cáo tham luận tại hội nghị mía đường toàn quốc.
Hà Nội
5. Lê Song Dự và Nguyễn Thị Quý Mùi (1997). Cây mía. NXB Nông nghiệp Thành
phố Hồ Chí Minh.
6. Vũ Hữu Hạnh. Lưu Thị Duyên và Dương Công Thống (1995) “Một số kết quả
nghiên cứu sâu đục thân hại mía ở miền Đông Nam bộ”. Tạp chí Nông nghiệp và
công nghiệp thực phẩm. số 11/1995 (401). tr.411-412.
7. Lương Minh Khôi và Lê Thanh Hải (1997). Kết quả nghiên cứu điều tra sâu hại trên các
giống mía có năng suất và hàm lượng đường cao ROC1. ROC9. RCO10 và ROC16 năm
1995 - 1996. tạp chí Bảo vệ thực vật. số 2/1997.
8. Lương Minh Khôi (1997a). Sâu hại mía và biện pháp phòng trừ. Báo cáo tại hội nghị khoa
học hàng năm của Viện Bảo vệ thực vật. Hà Nội.
9. Lương Minh Khôi (1997b). Phòng trừ sâu bệnh hại mía. NXB NN. Hà Nội.
10. Lương Minh Khôi (1963). “Sâu đục thân mía và phương pháp phòng trừ”. Tạp
chí KHKT Nông nghiệp. số 10/1963.
11. Phạm Văn Lầm (1999). Biện pháp canh tác phòng chống sâu bệnh và cỏ dại
trong nông nghiệp. NXB NN. Hà Nội.
12. Nông trường Thống Nhất Thanh Hoá (6/2008). Báo cáo tổng kết về tình hình
nghiên cứu sâu đục thân hại mía trong 3 năm 2005. 2006. 2007 tại Nông trường
Thống Nhất Thanh Hoá.
13. Nguyễn Đức Quang (1997). “Nhận xét bước đầu về sâu đục thân mía vùng miền
đông nam bộ”. Tạp chí bảo vệ thực vvật. số 2/1997. tr. 11-15 https://tailieu.xyz/

37

14. Trần Văn Sỏi (1995) Kỹ thuật trồng mía ở vùng đồi núi - NXB Nông nghiệp Hà
Nội
15. Hồ Khắc Tín và CTV (1982). Giáo trình côn trùng nông nghiệp tập II. NXB NN.
Hà Nội.
16. Trung tâm nghiên cứu Mía Lam Sơn (5/2004). Báo cáo tổng kết tình hình sản
xuất mía đường tại Lam Sơn Thanh Hoá.
17. Trung tâm Nghiên cứu Mía Lam Sơn (6/2001). Báo cáo tổng kết nghiên cứu về sâu bệnh
hại mía tại vùng nguyên liệu mía đường Lam Sơn Thanh Hoá
18. Viện nghiên cứu Mía đường Bến Cát (1996). Kết quả nghiên cứu khoa học 1990
– 1995. Bình Dương.
19. Nguyễn Huy Ước (1994). Kỹ thuật trồng mía. NXB NN. Hà Nội.
B. Tài liệu tiếng nước ngoài
20. Avasthy. P. N. and N. K. Tiwari (1986). “The shoot borer Chilo infuscatellus
Snellen”. Sugarcane entomology in India (David. H.. S. Easwaramoorthy and R.
jayanthi. eds.). Sugarcane Breeding Institute. Coimbatore.pp. 69-92.
21. Bae.S. H.. J. O. Lee and B. H. Lee (1969). “ Stadies on ecology and control of
the purplish stem borer (Sesamia inferens Walker) in Korea”. Korean Journal of
plant protection 7.pp. 27-32.
22. Banerjee. S. N. and L. M. Pramanik (1967). “The lepidopterous stalkborer of
rice and their life cycles in the tropics”. Major Insect Pests of The Rice Plant. Johns
Hopkins Press. Baltimore. Marylan. USA. pp. 103-124.
23. Barber. T. C (1911). "Damage to sugarcane in Lousiana by the sugarcane borer
(Diatraea saccharalis Fab)". Ent. Circ. U. S. Dep. Agric. 139. p.12.
24. Betbeder-Matibet. M. (1990). Insect Pest of food crops in Africa and the Indian
Ocean region. CIRAD. Montpellier. Frace. 122pp.
25. Box. H. E. (1929). "The effect on the individual composition of canes in a plot
of sugarcane of infestation with the borer diatraea saccharalis. [In Spanish]". Revta
ind. Agric. Tucuman 19. pp. 291-315
26. Box. H. E. (1953). “ List of sugarcane insects. Commomw. Inst. Ent.. London.
101pp. https://tailieu.xyz/

38

27. Butani. D. K. (1977). " Chilo infuscatellus Snell". Diseases. pests and weeds in
tropical crops (Kranz. J.. H. Schmutterer and W. Koch. eds.). Paul Parey. Berlin.
Germany. pp. 446-448
28. CABI (2000).
29. Cheng. W. Y. (1994) “Sugarcane stem borers of Taiwwan”. Proc. Int. Soc. Sug.
Can technol. 21. pp. 97 – 104.
30. David. H. (1977).“Pest of sugarcane and their control”.Pestol.1. pp. 15-io0
31. David. H.. S. Easwaramoorthy. V. Nandagopan. M. Shanmugasundaram. G.
Santhalakshmi. M. Arputhamani and N. K. Kurup (1980). "Laboratory studies on
Sturmiopsia inferens Tns. a parasite of sugarcane choot borer. Chilo infuscatellus Snell.".
Entomon. 5. pp. 191-200.
32. d
/
Emmerez de charmoy. D. (1917). "Moth borers affecting sugarcane in Mauritius".
Bull. Dep. Agric. Maurit.. Sci. Ser. 5. 27 pp.
33. Ellis. T. O.. P. E. Rohrig and G. Arcenaux (1960). " Stalk borer damage as affecting
available sucrose in mill cane". Ibid. 10. pp. 924-938.
34. Gupta. B. D. (1957). “ A note on the scientific and common names of sugarcane
pests in India” Indian J. Sug. Res. Dev. 2. pp. 9-14.
35. Gupta. B. D. and P. N. Avasthy (1960). " Biology and control of the stemborer
Chilo tumidicostalis Hmpsn.". Proc. Int. Soc. Sug. Cane technol.. 10. pp. 886-901.
36. ISSCT (International Society of Sugarcane Technologists). 1999. Proceeding
XXIII Congress. 22 – 26 February. New Delhi. India
37. Harris. K. M. (1990). " Bioecology of Chilo species". Insect Science and its
Application. 11(4-5). pp. 467-477.
38. Isaac. P. V. (1937). “ Information on pests of sugarcane in India from published
report and statements received from provinces and Govt.”. India publications. 186
pp
39. Kumar. K.. S. C. Gupta. U. K. Mishra. G. P. Dwivedi and N. N. Sharma (1987).
" Sugarcane pests in Bihar: retrospect and prospect - a review". Agricultural
Reviews. 8(2). pp. 59-66. https://tailieu.xyz/

39

40. Lim. G.T.. Y. C. Pan (1980) “ Entonofauna of sugarcane in Malaysia”. Proc.
Int. Soc. Sug. Cane Technol. 17. pp. 1658-1679.
41. Solomon.S.. H. N. Shahi. A. T. Gupta. G.P. Rao and B. L. Srisvastava (2000).
Cane sugar: Production management. International book distributing Co.. p.146.
42. Suhartawan and B. Wiroatmodjo (1996) “Penggerek batang rasasa pada tanaman
tebu di Sumatera dan upaya pengendaliannya”
43. Waterhouse. D. F. (1993) The major arthropod pests and weeds of agriculture in
Southeast Asia. Canberra. Australia: ACIAR.





















https://tailieu.xyz/

40

MỘT SỐ HÌNH ẢNH BỌ ĐUÔI KÌM




Ảnh 1: BĐK đen Euborellia annulipes


Ảnh 2: BĐK nâu Euborellia sp.






Ảnh 3: Trứng BĐK đen Euborellia annulipes
mới đẻ.


Ảnh 4: Trứng BĐK đen Euborellia annulipes
sau đẻ 2 ngày.

https://tailieu.xyz/

41





Ảnh 5: BĐK bảo vệ trứng

Ảnh 6: BĐK non mới nở







Ảnh 7: Sâu non BĐK mới lột xác


Ảnh 8: BĐK đang hóa thành trùng



https://tailieu.xyz/

42


Ảnh 9: Cánh da xếp như quạt giấy


Ảnh 10: Đầu và râu đầu BĐK đen





Ảnh 11: Đuôi kìm của thành trùng cái

Ảnh 12: Đuôi kìm của thành trùng đực

https://tailieu.xyz/