Nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh lí của bốn giống ngô (Zea mays linnaeus) có năng suất khác nhau trồng tại Hiệp Hòa, Bắc Giang

thuviengiaoannet 16 views 58 slides Nov 05, 2024
Slide 1
Slide 1 of 58
Slide 1
1
Slide 2
2
Slide 3
3
Slide 4
4
Slide 5
5
Slide 6
6
Slide 7
7
Slide 8
8
Slide 9
9
Slide 10
10
Slide 11
11
Slide 12
12
Slide 13
13
Slide 14
14
Slide 15
15
Slide 16
16
Slide 17
17
Slide 18
18
Slide 19
19
Slide 20
20
Slide 21
21
Slide 22
22
Slide 23
23
Slide 24
24
Slide 25
25
Slide 26
26
Slide 27
27
Slide 28
28
Slide 29
29
Slide 30
30
Slide 31
31
Slide 32
32
Slide 33
33
Slide 34
34
Slide 35
35
Slide 36
36
Slide 37
37
Slide 38
38
Slide 39
39
Slide 40
40
Slide 41
41
Slide 42
42
Slide 43
43
Slide 44
44
Slide 45
45
Slide 46
46
Slide 47
47
Slide 48
48
Slide 49
49
Slide 50
50
Slide 51
51
Slide 52
52
Slide 53
53
Slide 54
54
Slide 55
55
Slide 56
56
Slide 57
57
Slide 58
58

About This Presentation

Năng suất cây trồng là kết quả tổng hợp giữa kiểu gen (giống) với các yếu tố môi trường được thể hiện ra bên ngoài bằng các chỉ tiêu hình thái, sinh lí và cuối cùng là các chỉ tiêu cấu thành năng suất. Hướng nghiên cứu này cũ...


Slide Content

1
MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn đề
Ngô là một trong những cây lương thực quan trọng nhất trong nền
kinh tế nông nghiệp toàn cầu.
Cây ngô có tên khoa học là Zea mays linnaeus thuộc chi Maydeae, họ
hoàng thảo Gramineae.
Sở dĩ cây ngô được toàn thế giới gieo trồng là do vai trò quan trọng
của nó trong nền kinh tế quốc dân và vai trò đối với con người. Ngô là
nguồn lương thực nuôi sống 1/3 dân số trên toàn thế giới, hầu hết các nước
đều trồng ngô và sử dụng ngô với các mức độ khác nhau. Tuy nhiên, sử
dụng nhiều nhất là các nước thuộc khu vực châu Á và châu Mỹ La Tinh.
Nói về vai trò của cây ngô chúng ta có thể kể ra như: ngô hạt dùng
làm thức ăn cho người và gia súc, râu và thân cây ngô dùng làm thuốc chữa
bệnh, ngô bao tử dùng làm rau cao cấp vì nó có hàm lượng dinh dưỡng cao.
Bên cạnh đó ngô còn là nguồn nguyên liệu cung cấp cho các nhà máy chế
biến thức ăn gia súc, nhà máy sản suất rượu, cồn, tinh bột, dầu, glucôza,
bánh kẹo và là hàng hoá xuất khẩu đem lại giá trị kinh tế cao [24].
Nhờ đặc tính sinh lý và vị trí của cây ngô mà ngày nay cây ngô đã
được trồng phổ biến ở tất cả các châu lục, thích nghi với các loại hình khí
hậu ôn đới, cận nhiệt đới, nhiệt đới thấp và nhiệt đới cao.
Trên thế giới ngô là một loại ngũ cốc quan trọng đứng thứ ba sau lúa
mì và lúa gạo. Diện tích trồng ngô năm 2007 đạt 157 triệu ha, sản lượng
766,2 triệu tấn [35].
Ở Việt Nam trong những năm gần đây cây ngô cũng đã được chú ý,
tuy nhiên sản xuất và trồng ngô ở nước ta vẫn còn nhiều vấn đề cần đặt ra: https://thuviengiaoan.net/

2
Năng suất thấp so với trung bình thế giới (khoảng 82%) và rất thấp
so với năng suất thí nghiệm.
Giá thành sản xuất còn cao, nhu cầu sử dụng ngô của nước ta ngày
càng tăng, việc sản xuất ngô trong nước vẫn chưa đáp ứng đủ nên hàng
năm nước ta vẫn phải nhập khẩu một lượng lớn ngô cho tiêu dùng [23].
Theo số liệu của Hiệp hội thức ăn chăn nuôi Việt Nam, ước tính
năm 2010 nước ta phải nhập 1,6 triệu tấn ngô, tăng 350 nghìn tấn so với
năm 2009 [43].
Sản phẩm từ ngô còn đơn điệu, công nghệ sau thu hoạch chưa được
chú ý đúng mức...
Năng suất cây trồng là kết quả tổng hợp giữa kiểu gen (giống) với
các yếu tố môi trường được thể hiện ra bên ngoài bằng các chỉ tiêu hình
thái, sinh lí và cuối cùng là các chỉ tiêu cấu thành năng suất. Hướng nghiên
cứu này cũng đã được một số tác giả Nguyễn Văn Mã và CS [17], Nguyễn
Văn Đính, Nguyễn Như Khanh [7], Điêu Thị Mai Hoa, Nguyễn Đạt Kiên
[9] tiến hành trên đối tượng là cây lạc, khoai tây, đậu xanh... các kết quả
nghiên cứu của các tác giả đã góp phần đánh giá được sự khác biệt về sinh
lí của các giống có năng suất cao, thấp hay giống có khả năng chống chịu
tốt làm phong phú thêm về hướng nghiên cứu này, đồng thời giúp cho các
nhà chọn giống, người sản xuất dựa vào các chỉ tiêu sinh lí để đánh giá
chọn lọc được các giống có năng suất cao. Tuy nhiên, đối với cây ngô còn
rất ít tài liệu nghiên cứu về vấn đề này. Xuất phát từ thực tế đó chúng tôi lựa
chọn đề tài “Nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh lí của bốn giống ngô (Zea
mays linnaeus) có năng suất khác nhau trồng tại Hiệp Hòa, Bắc Giang”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu sự khác biệt về một số chỉ tiêu sinh lí của bốn giống ngô https://thuviengiaoan.net/

3
(Zea mays linnaeus) có năng suất khác nhau, làm cơ sở cho các nhà chọn,
khảo nghiệm giống nhanh chóng chọn ra được các giống có triển vọng
năng suất cao để đưa vào sản xuất. Xác định được giống ngô có năng suất
cao trên địa bàn thực nghiệm để khuyến cáo cho người sản xuất.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Các chỉ tiêu nghiên cứu bao gồm:
3.1. Chỉ tiêu về sinh trưởng, phát triển
3.2. Chỉ tiêu về trao đổi nước
3.3. Chỉ tiêu về quang hợp
3.4. Các yếu tố cấu thành năng suất
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Thí nghiệm được tiến hành trên các giống ngô lai: LVN4, HN45,
C919, CP999 có năng suất khác nhau được trồng ở điều kiện khí hậu và đất
đai huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang.
Phạm vi nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu: từ tháng 11/2010 đến 11/2011
Thời gian gieo trồng: Vụ xuân (gieo 20/01/2011)
Số liệu: phân tích các chỉ tiêu sinh lí tại Bắc Giang và phòng thí
nghiệm khoa Sinh - KTNN, Trung tâm hỗ trợ NCKH&CGCN trường ĐHSP
Hà Nội 2
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thực nghiệm [4][15]
6. Giả thuyết khoa học
Ở ngô, các giống cây trồng có năng suất cao có thể biểu hiện qua các
chỉ tiêu sinh lí như sinh trưởng phát triển, trao đổi nước, quang hợp và các https://thuviengiaoan.net/

4
chỉ tiêu năng suất đặc trưng. Chính vì vậy, nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh
lí, năng suất của các giống ngô có năng suất khác nhau sẽ đóng góp các cơ
sở giúp cho công tác chọn tạo, khảo nghiệm giống nhanh chóng.
Ý nghĩa khoa học: Bổ sung các dẫn liệu về chỉ tiêu sinh lí giữa các
giống ngô có năng suất khác nhau.
Ý nghĩa thực tiễn: Xác định được giống có triển vọng cho năng suất
cao để đưa vào sản xuất từ tập hợp các dòng, giống ngô ban đầu.


















https://thuviengiaoan.net/

5
NỘI DUNG
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Giới thiệu chung về cây ngô
Cây ngô có tên khoa học là Zea mays linnaeus thuộc chi Maydeae,
họ hoàng thảo Gramineae. Ngô có bộ nhiễm sắc thể (2n = 20).
Cây ngô có nguồn gốc từ một loại cây hoang dại ở miền trung nước
Mêhicô, trên độ cao 1500m của vùng nước khô hạn, có lượng mưa trung bình
vào khoảng 350mm vào mùa hè [52]. Nguồn gốc này ảnh hưởng tới một số
đặc điểm sinh trưởng phát triển của cây ngô.
Cây ngô gắn bó chặt chẽ với cuộc sống của người dân Trung Mỹ. Ở đó
ngô được coi trọng, thậm chí còn được thần thánh hoá. Ngô là biểu tượng của
nền văn minh “May ca” [24].
So với nhiều loại cây trồng khác ngô là cây có tính lịch sử trồng trọt
tương đối trẻ. Mãi đến thế kỷ XV ngô mới được nhập vào châu Âu. Người
châu Âu biết đến ngô sau khi tìm ra châu Mỹ. Vào những năm đầu của thế kỷ
XVI, các tàu biển của các nước châu Âu theo đường thuỷ đã từng bước đưa
cây ngô ra khắp các lục địa trên thế giới. Sau khi xâm nhập vào châu Á ngô
đã phát triển và toả rộng với tốc độ rất nhanh. Đến nay ngô đã vươn lên đứng
hàng thứ 3 trong các cây lương thực, sau lúa mì và lúa nước. Cây ngô được
đưa vào nước ta khoảng thế kỷ XVII, thiên niên kỷ trước, cách đây khoảng
300 năm [24].
1.2. Đặc điểm sinh học của cây ngô [5]
1. 2.1. Hệ rễ
Rễ ngô thuộc loại rễ chùm, rễ ngô có 3 loại:
- Rễ mầm: Còn gọi là rễ tạm thời, sau khi gieo có đầy đủ các điều
kiện cần thiết hạt ngô sẽ nảy mầm. Cơ quan đầu tiên xuất hiện là rễ mầm sơ https://thuviengiaoan.net/

6
sinh (rễ chính, rễ phôi)
- Rễ đốt: Còn gọi là rễ phụ cố định, đó là các rễ mọc xung quanh các
đốt thân ở dưới đất. Khi cây được 3 - 4 lá, rễ đốt bắt đầu phát triển, sau đó
mọc rất nhanh và dần chiếm ưu thế trong việc thay thế bộ rễ mầm. Đây là loại
rễ chủ yếu cung cấp nước và chất khoáng trong suốt quá trình sinh sống của
cây ngô.
- Rễ chân kiềng: Đó là những rễ mọc xung quanh các đốt thân trên
mặt đất, loại rễ này to nhẵn ít rễ nhánh. Rễ chân kiềng thực chất là rễ đốt khác
là chúng mọc ở các đốt thân trên mặt đất. Vì vậy có một phần rễ nằm trong
không khí, ở phần rễ này không có rễ con và lông hút. Rễ chân kiềng nếu đâm
được vào đất thì cũng phát triển thành rễ nhánh, rễ con, lông hút như rễ đốt.
Vì thế rễ chân kiềng có nhiệm vụ chủ yếu là giữ cho cây đứng vững, bám chặt
vào đất. Khi có điều kiện và cắm được vào đất loại rễ này có thể hút nước và
dinh dưỡng cung cấp cho cây.
Trong quá trình sinh trưởng và phát triển của rễ ngô chịu ảnh hưởng
lớn của điều kiện môi trường như nhiệt độ, độ ẩm, độ tơi xốp của đất...
1.2.2. Thân
Thân cây ngô được chia thành nhiều lóng. Thân to, nhỏ, cao, thấp, số
lóng nhiều hay ít tuỳ thuộc vào đặc điểm của giống, vào điều kiện thời tiết khí
hậu và hệ thống các biện pháp kỹ thuật được áp dụng.
Trung bình cây ngô có thân cao từ 1,8 - 2,0m. Có giống ngô trong điều
kiện canh tác tốt có thể cao đến 7m. Nhưng cũng có trường hợp ngô chỉ cao
0,3 - 0,5m. Số lóng trên thân cây ngô thay đổi từ 8 - 20 lóng tuỳ thuộc vào đặc
điểm của giống.
Điều kiện thời tiết, khí hậu, đất đai và kỹ thuật canh tác ảnh hưởng rất rõ
rệt đến sinh trưởng phát triển của ngô.
Các thí nghiệm cho thấy chỉ thay đổi chế độ tưới hoặc chế độ phân bón https://thuviengiaoan.net/

7
đã làm cho chiều cao của cây ngô chênh lệch nhau đến 40 - 50cm và hơn nữa.
Trên thân cây, chiều dài các lóng không đều nhau. Ở gần gốc lóng
thường ngắn hơn, càng lên cao lóng càng to và dài ra. Phát triển nhất là các
lóng mang bắp, các lóng gần ngọn lại ngắn và bé dần.
Ngô là cây thuộc họ hòa thảo nhưng có thân khá vững chắc. Đường kính
thay đổi trong phạm vi từ 2 - 4cm, tuỳ thuộc vào giống, điều kiện sinh thái và
quá trình chăm sóc. Thân chính của cây ngô có nguồn gốc từ chồi mầm, có lá
mầm bao phủ nằm trong phôi của hạt ngô. Từ thân chính phát sinh ra nhánh
hay thân phụ từ các đốt dưới mặt đất. Số nhánh thường biến động từ 1 - 10,
nhánh có hình dạng tương tự thân chính.
Số lóng và chiều dài lóng trên thân ngô là chỉ tiêu quan trọng trong việc
phân loại các giống ngô, thường các giống ngô ngắn ngày có số lóng ít hơn
các giống dài ngày.
Qua các thời kỳ phát triển của cây, thân ngô phát triển với tốc độ khác
nhau. Thời gian đầu thân phát triển chậm, về sau phát triển nhanh dần cho đến
thời kỳ 6 - 7 lá, tuỳ thuộc vào đặc điểm của giống. Sau đó chiều cao lớn chậm
trong 6 - 7 ngày. Tiếp theo thân, lá phát triển nhanh nhất là trong khoảng thời
gian 15 - 20 ngày trước khi trổ cờ cho đến khi phơi màu, thời gian này tốc độ
tăng trưởng của thân vượt hẳn tất cả các thời kỳ trước đó.
1.2.3. Lá
Lá phát sinh từ các mắt mọc đối xứng và xen kẽ trên thân. Người ta chia
lá ngô thành 4 loại:
- Lá mầm: Những lá ra đầu tiên được tạo thành khi cây còn nhỏ
- Lá thân: Những lá có mầm nách ở kẽ chân lá
- Lá ngọn: Những lá từ phía trên bắp cho đến ngọn cây
- Lá bi: Những lá bao bắp
Đặc điểm nổi bật của lá ngô là trên phiến lá có rất nhiều khí khổng. https://thuviengiaoan.net/

8
Trung bình 1 lá có đến 20 - 30 triệu khí khổng, trên 1mm
2
phiến lá có
đến 300 khí khổng. Tế bào đóng mở khí khổng rất nhạy nên rất mẫn cảm với
thay đổi của điều kiện khí hậu bên ngoài. Khi gặp hạn các khí khổng có thể
khép lại rất nhanh làm hạn chế một phần sự tiêu hao nước trong cây.
Trên mặt lá có nhiều lông tơ, lá cong hình lòng máng nên có thể dẫn
nước từ ngoài vào gốc, ngay cả khi trời mưa rất nhỏ, lá hứng được lượng
nước rất lớn.
Chiều dài của lá tăng dần từ gốc lên đến 2/3 thân cây, từ đó lên đến
ngọn chiều dài của lá lại giảm dần. Những lá ở giữa thân phát triển nhất,
chúng có tác dụng rất lớn trong việc nuôi bắp phát triển.
Diện tích lá tăng dần qua các thời kỳ sinh trưởng và đạt mức tối đa
vào khoảng từ khi trỗ cờ đến khi hạt ngậm sữa, sau đó giảm dần do các lá
ở dưới thân bị chết dần. Diện tích của lá của cây ngô có ý nghĩa lớn đối
với việc hình thành năng suất ngô. Số lá, độ lớn của lá là những yếu tố tạo
nên diện tích lá.
Các giống ngắn ngày, chín sớm thường có lá ít và lá nhỏ hơn so với
các giống dài ngày.
1.2.4. Hoa
Hoa ngô thuộc loại hoa đơn tính đồng chu. Chùm hoa được phát sinh
ở đầu ngọn thân thường gọi là bông cờ. Hoa cái hình thành ở bắp lá và
được gọi là bắp.
Hoa đực và bông cờ: Chùm hoa đực được gọi là bông cờ nằm ở đỉnh
cây. Bông cờ gồm một trụ chính, trụ phân thành nhiều nhánh, nhánh lại
phân thành nhiều nhánh nhỏ.
Hoa cái và bắp ngô: Hoa cái được hình thành từ chồi nách của các lá.
Hoa có cuống gồm nhiều đốt ngắn, mỗi đốt trên cắm một lá bi bao bọc
bắp ngô. Chính giữa là bầu hoa, trên bầu hoa có núm và vòi nhụy vươn https://thuviengiaoan.net/

9
dài thành râu ngô. Trên râu có nhiều lông tơ và chất tiết ra làm cho hạt
phấn dễ bám vào và nảy mầm.
1.2.5. Bắp
Bắp ngô gồm những bộ phận chính là:
- Cuống bắp: gồm những đốt rất ngắn, mỗi đốt lại có một lá bi bao bọc
xung quanh bắp ngô.
- Lõi bắp: Đó là trục của hoa tự cái, màu sắc của lõi khác nhau tuỳ theo
đặc điểm của giống.
- Hoa cái được đính thành từng dãy trên lõi, giữa bầu là hoa, trên bầu có
vòi hoa vươn dài ra (nhụy hoa cái) thành râu.
- Hạt ngô được đính xếp thành dãy trên lõi. Hạt ngô được tạo thành sau
khi bầu hoa cái được thụ tinh, số hàng trên một bắp, số hạt trên một hàng tuỳ
thuộc vào đặc điểm của giống, điều kiện ngoại cảnh và kỹ thuật canh tác.
1.3. Một số yếu tố ngoại cảnh ảnh hưởng tới sự sinh trưởng, phát triển và
năng suất của cây ngô [5]
1.3.1. Nhiệt độ
Ngô là cây ưa nóng, có yêu cầu về tổng lượng nhiệt cao hơn nhiều loài
cây khác. Cây ngô cần nhiệt lượng là 1700 - 3700
0
C, tuỳ thuộc vào đặc điểm
của giống, các giống chín muộn thường có yêu cầu về nhiệt lượng cao hơn
các giống chín sớm.
Nhu cầu về nhiệt độ của cây ngô còn được thể hiện ở các giới hạn nhiệt
độ mà ngô đòi hỏi như nhiệt độ tối thấp, tối cao và tối ưu.
Yêu cầu đối với nhiệt độ của các thời kỳ sinh trưởng của cây ngô rất khác
nhau, ngô có thể nảy mầm ở nhiệt độ 10 - 12
0
C. Nhưng ở nhiệt độ này cây
con phát triển rất chậm, khi nhiệt độ cao hơn 12
0
C cây con mới phát triển, nhiệt
độ càng cao cây phát triển càng nhanh. Cây ngô phát triển thích hợp
nhất ở nhiệt độ khoảng 25 - 30
0
C. https://thuviengiaoan.net/

10
1.3.2. Nước
Nhu cầu của ngô đối với nước rất lớn. Ở vùng khí hậu nóng, quá trình
bốc hơi thoát nước của cây thường cao. Các nhà khoa học đã tính ra là cây
ngô trong 1 ngày nóng có thể bốc thoát từ 2 - 4 lít nước. Tuy vậy, ngô là cây
trồng cạn có bộ rễ phát triển rất mạnh nên có khả năng hút nước từ đất rất
khoẻ. Khả năng sử dụng nước của ngô cũng tiết kiệm hơn nhiều loài cây khác,
cho nên lượng nước cần để tạo ra một đơn vị chất khô thấp.
Nhu cầu về nước và khả năng chịu hạn của cây ngô qua từng thời kỳ sinh
trưởng có khác nhau, ngô là cây cần nhiều nước nhưng cũng rất nhạy cảm với
độ ẩm trong đất. Trong các thời kỳ sinh trưởng thời kỳ cây con tuy có khả
năng chịu hạn cao nhưng rất mẫn cảm với độ ẩm trong đất, thời kỳ này nếu
cây bị ngập nước 1 - 2 ngày có thể bị chết. Nếu độ ẩm đất quá cao, nhất là khi
bị úng, rễ ngô không phát triển được cây bị vàng.
1.3.3. Ánh sáng
Ngô là cây ngày ngắn, rút ngắn thời gian chiếu sáng trong ngày vào
khoảng 8 - 12 giờ làm cho phát triển của cây ngô cũng ngắn lại. Nếu kéo dài
số giờ chiếu sáng trong ngày, ngô sinh trưởng kéo dài ra và quá trình phát
triển chậm lại.
Cường độ và chất lượng ánh sáng cũng có ý nghĩa quan trọng không kém
so với độ dài chiếu sáng. Năng lượng ánh sáng mặt trời được chuyển hoá và
cố định vào các chất hữu cơ do cây tạo ra nhờ vào quá trình quang hợp, về
phương diện này ngô là loài cây có quang hợp kiểu C4.
1.3.4. Đất, pH và các chất dinh dưỡng
Đất thích hợp nhất với cây ngô là đất có độ phì nhiêu cao, giữ nước và
thoát nước tốt, tầng canh tác sâu, có độ ẩm từ 70 - 80%, pH thích hợp cho cây
ngô là từ 6,5 - 7. Tuy nhiên, phạm vi chịu được độ pH của ngô là từ 5 - 8. https://thuviengiaoan.net/

11
Cây ngô hút các chất dinh dưỡng cần thiết để sinh trưởng và phát triển từ
đất thông qua các hợp chất vô cơ như các loài sinh vật tự dưỡng khác. Cây
không hút được các chất hữu cơ mà chỉ hút được các chất khoáng trong đất
chủ yếu nhờ vào hoạt động của bộ rễ.
Các chất dinh dưỡng rất cần thiết cho sự phát triển của cây ngô là: N,
P205, K20, Mg, S, chất khô... ngoài ra còn gồm các chất khoáng (đa lượng,
vi lượng)
1.4. Thời vụ gieo trồng [6][10]
Ngô là giống cây trồng có thể gieo vào mọi thời vụ trong năm. Tuy nhiên
để tạo mọi điều kiện tốt nhất về dinh dưỡng và các điều kiện ngoại cảnh thì
chúng ta nên gieo trồng đúng thời vụ và theo hướng dẫn, khuyến cáo của các
nhà sản xuất giống.
1.5. Giá trị kinh tế của cây ngô [12]
1.5.1. Giá trị về dinh dưỡng
Hạt ngô có giá trị dinh dưỡng cao, trong hạt ngô có chứa tương đối đầy
đủ các chất dinh dưỡng cần thiết cho con người và gia súc. Hạt ngô có hàm
lượng prôtêin và lipit cao hơn hạt gạo. Prôtêin chính của ngô là zein một loại
prolamin gần như không có ly sin và tryptophan, lipit trong hạt ngô toàn phần
từ 4 - 5%, phần lớn tập trung ở mầm. Gluxít trong ngô khoảng 69% chủ yếu
là tinh bột. Ở hạt ngô non có thêm một số đường đơn và đường kép. Trong
phôi có các chất khoáng, vitamin và khoảng 30 - 45% dầu. Vitamin của ngô
tập trung ở lớp ngoài hạt ngô và ở mầm, ngô có nhiều vitamin B1, vitamin
PP, ngô vàng có chứa nhiều caroten (tiền vitamin A). Thành phần hóa học của
hạt ngô và hạt gạo được so sánh qua bảng 1.1 https://thuviengiaoan.net/

12
Bảng 1.1. Thành phần hoá học của hạt ngô và gạo (Phân tích trên 100g)

Thành phần hóa học Gạo trắng Ngô vàng
Tinh bột (g) 65,00 68,20
Protein (g) 8,00 9,60
Lipid (g) 2,50 5,20
Vitamin A (mg) 0 0,03
Vitamin B1 (mg) 0,20 0,28
Vitamin B2 (mg) 0 0,08
Vitamin C (mg) 0 7,70
Nhiệt lượng (Kalo) 340 350


(Cao Đắc Điểm, 1998) [8]

1.5.2. Giá trị về kinh tế
Xuất phát từ giá trị về dinh dưỡng của hạt ngô mà cây ngô có giá trị
kinh tế rất cao trong mọi lĩnh vực của cuộc sống:
Ngô làm lương thực cho con người: 1/3 số dân trên thế giới dùng ngô
làm lương thực chủ yếu.
Ngô làm thức ăn cho gia súc: Hiện nay ngô là cây thức ăn quan trọng
nhất để phát triển chăn nuôi, trên 70% chất tinh trong thức ăn tổng hợp của
gia súc là ngô.
Ngô dùng trong công nghiệp và các lĩnh vực khác: ngô là loại lương
thực được sử dụng nhiều trong công nghiệp chế biến thực phẩm. Trong những
năm gần đây ngô bao tử còn dùng làm rau ăn cao cấp, râu ngô dùng làm thuốc
để chữa bệnh...
Ngô là cây trồng đem lại giá trị về kinh tế cao nhất là trong lĩnh vực
xuất khẩu các sản phẩm được chế biến từ ngô.
1.5.3. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới và khả năng phát triển,
mở rộng trồng ngô ở nước ta https://thuviengiaoan.net/

13
Trên thế giới
Trong những năm gần đây diện tích ngô trên toàn thế giới đã tăng lên
gấp 1,5 lần; năng suất tăng gấp 2,5 lần. Diện tích ngô hàng năm khoảng 139
triệu ha, năng suất bình quân khoảng 3,8 triệu tấn/ha, tổng sản lượng ngô trên
525 triệu tấn/ ha. Ngô là cây có địa bàn phân bố vào loại rộng nhất thế giới,
trải rộng hơn 90 vĩ tuyến: Từ 40
0
N lên gần đến 55
0
B, từ độ cao 1 - 2 m đến
400 m so với mực nước biển [5]. Do đó, ngô được trồng ở hầu hết các nơi trên
thế giới như Châu Mĩ, Châu Âu, Châu Úc, Châu Phi.
Theo dự báo của Viện nghiên cứu chương trình lương thực thế giới
(IPRI, 2003), vào năm 2020 tổng nhu cầu ngô thế giới là 852 triệu tấn. Đại
học Tổng hợp Iowa (2006) [44], trong những năm gần đây khi thế giới cảnh
báo nguồn dầu mỏ đang cạn kiệt, thì ngô đã và đang được chế biến ethanol,
thay thế một phần nhiên liệu xăng dầu chạy ô tô tại Mĩ, Braxin, Trung
Quốc... Riêng ở Mĩ, năm 2002 - 2003 đã dùng 25,2 triệu tấn ngô để chế biến
ethanol, năm 2005 - 2006 dùng 40,6 triệu tấn và dự kiến năm 2012 dùng
190,5 triệu tấn ngô (Oxfarm, 2004). Diện tích, năng suất, sản lượng ngô giữa
các châu lục trên thế giới có sự chênh lệch tương đối lớn được thể hiện qua
bảng sau:
Bảng 1.2. Diện tích, năng suất, sản lượng ngô một số khu vực trên thế giới

Khu vực
Diện tích
( Triệu ha )
Năng suất
( Tạ/ha )
Sản lượng
( Triệu tấn )
2005 2006 2007 2005 2006 2007 2005 2006 2007
Châu Âu 11,9 15,6 13,9 46,5 61,3 59,1 69,1 96,1 82,6
Châu Á 43,7 45,0 46,4 38,3 40,7 39,9 167,3 183,3 185,4
Bắc và
Trung Mỹ
39,9 40,9 41,3 72,6 81,6 75,7 289,6 333,7 312,0
Thế giới 144,3 146,9 147,0 44,5 49,9 41,7 642,5 724,2 692,0

(Nguồn: Số liệu thống kê của FAOSTAT, 2008) [35][37][39] https://thuviengiaoan.net/

14
Trong sản xuất ngô của thế giới, Mĩ là nước sản xuất gần 50% tổng sản
lượng, còn lại là do các nước khác sản xuất. Sản lượng ngô xuất khẩu trên thế
giới trung bình hàng năm khoảng trên 80 triệu tấn. Năm 2009, Mĩ xuất 53,5
triệu tấn trong tổng số 85 triệu tấn ngô xuất khẩu trên thế giới, còn lại là Nhật
Bản, Mêhicô, Hàn Quốc, Đài Loan và một số nước khác [46]
Sự tăng trưởng nhanh chóng về mặt năng suất là nguyên nhân làm tăng
tổng sản lượng ngô trên toàn thế giới.
Ở Việt Nam
Ở Việt Nam, cây ngô đã được trồng cách đây khoảng 300 năm và được
trồng trên những vùng sinh thái khác nhau của cả nước [24]. Ngô, cây lương
thực quan trọng thứ hai sau cây lúa là cây trồng chính để phát triển ngành
chăn nuôi. Năng suất ngô ở nước ta trước đây rất thấp so với năng suất ngô
thế giới do sử dụng giống ngô địa phương và áp dụng khoa học kỹ thuật vào
sản xuất còn hạn chế [19]. Phải tới năm 1991 cây ngô lai mới bắt đầu được
đưa vào sản xuất ở nước ta, tỷ lệ trồng giống ngô lai từ 0,1% năm 1990, năm
2006 đã tăng lên 80% và đưa Việt Nam trở thành nước sử dụng giống lai
nhiều và có năng suất cao của khu vực Đông Nam Á [29] [30][31].
Ở nước ta ngô được trồng ở hầu hết các địa phương có đất cao dễ thoát
hơi nước. Những vùng trồng ngô lớn là Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, miền núi
phía Bắc, Trung du đồng bằng Sông Hồng, Duyên hải Miền Trung [5][45].
Trong đó, khu vực miền núi phía Bắc trồng chủ yếu là các giống ngô địa
phương. Năng suất của các giống ngô địa phương thường thấp, tuy nhiên các
giống ngô địa phương vẫn tiếp tục được quan tâm nghiên cứu vì các ưu điểm
như khả năng chịu hạn, kháng sâu bệnh tốt và có thể gieo trồng trên nhiều loại
đất khác nhau. Đặc biệt, những năm gần đây do kỹ thuật canh tác, môi trường,
sự xuất hiện các giống ngô lai và nhiều nguyên nhân khác dẫn đến sự cạn kiệt https://thuviengiaoan.net/

15
về nguồn gen giống ngô địa phương [1]. Vì vậy việc sưu tập, nghiên cứu và
đánh giá nguồn gen các giống ngô địa phương là hết sức cần thiết.
Bảng 1.3. Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam, giai đoạn 2000 - 2009
Năm
Diện tích
(1000 ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(1000 tấn)
2000 730,2 2,75 2005,1
2001 729,5 2,96 2161,7
2002 816,4 3,07 2511,2
2003 912,7 3,44 3136,3
2004 990,4 3,48 3430,9
2005 995,0 3,60 3787,1
2006 1031 3,73 3854,5
2007 1150 3,85 4107,5
2008 1125 4,02 4531,2
2009 1170 4,30 5031,0

theo http//www.vaas.org.vn. [46]
1.6. Các kết quả nghiên cứu đặc điểm sinh lý của các giống cây trồng có
năng suất khác nhau
1.6.1. Các kết quả nghiên cứu đặc điểm sinh lý của các giống cây
trồng có năng suất khác nhau trên thế giới
Trên thế giới, hướng nghiên cứu đặc điểm sinh lý của các giống cây
trồng đã được các nhà khoa học đặc biệt quan tâm. Trong đó điển hình là các
công trình nghiên cứu về đặc điểm sinh lý của thực vật chống lại các điều
kiện bất lợi của môi trường như hạn hán, nhiệt độ tăng cao, khả năng quang
hợp, khả năng tích lũy sinh khối, các yếu tố cấu thành năng suất của các giống
có năng suất khác nhau. Sau đây là một số công trình tiêu biểu: https://thuviengiaoan.net/

16
Theo Khan và CS (1970) [50], nghiên cứu về cường độ quang hợp và
thoát hơi nước của 6 giống lúa thương phẩm vùng nam Pakistan cho thấy các
giống lúa khác nhau có cường độ quang hợp, thoát hơi nước khác nhau. Các
giống có khả năng cho năng suất cao có cường độ quang hợp và thoát hơi
nước cao hơn giống có năng suất thấp.
Nghiên cứu chỉ tiêu phát triển bộ lá của 2 giống cà phê khác nhau, trồng
ở Ấn Độ, tác giả Vasudeva và CS (1981) [51] cho rằng các giống có tán lá
phát triển nhanh thì khả năng sẽ cho năng suất cao hơn.
Theo Kuzushko (1984) [14] để đánh giá khả năng chịu hạn của các cây
lấy hạt có thể sử dụng sự biến đổi thông số chế độ nước như: khả năng giữ
nước, khả năng hút nước, độ thiếu hụt bão hòa hơi nước, cường độ thoát hơi
nước của lá.
Trên đối tượng cây lúa, Ishii và Cs (1977) [49] cho thấy năng suất thực
thu của lúa có liên quan đến số hạt trên bông, chiều dài bông, số hạt chắc,
trọng lượng 1000 hạt... Các giống có năng suất cao thường có số bông dài, số
hạt trên bông nhiều, tỷ lệ hạt chắc cao.
Cũng trên cây lúa, kết quả nghiên cứu của Akita (1987) [33] cũng đã
khẳng định các giống lúa có năng suất cao đều có đặc điểm sinh lý và các yếu
tố cấu thành năng suất đặc trưng về số lượng bông, số hạt trên bông cao hơn
giống có năng suất thấp.
1.6.2. Các kết quả nghiên cứu đặc điểm sinh lý của các giống cây
trồng có năng suất khác nhau ở Việt Nam
Theo kết quả nghiên cứu của Đỗ Thị Bích Nga, Trương Văn Hộ (1990)
[20] nghiên cứu trên đối tượng là cây khoai tây cho thấy: trong thời gian 8
năm từ 1982 - 1989 đã khảo sát 104 giống khoai tây, chọn được 77 giống có
triển vọng. Những giống có triển vọng cho năng suất cao thường có tán lá
phát triển, độ che phủ tốt. https://thuviengiaoan.net/

17
Ngô Đức Thiệu (1990) [21] nhận xét một số chỉ tiêu hình thành năng
suất khoai tây vùng đồng bằng sông Hồng cho rằng năng suất củ khoai tây có
quan hệ mật thiết đến diện tích lá. Vì vậy, cần giữ cho bộ lá lâu tàn nhất là khi
trồng được 60 ngày cho đến khi thu hoạch.
Tiến hành chọn tạo trên các giống khoai tây từ 1991-1995, Lê Thị Thuần
và cộng sự (1995) [22] cũng khẳng định: Giống KT2 có triển vọng năng suất
cao cũng có độ che phủ của tán lá tốt nhất trong 7 giống nghiên cứu.
Nguyễn Văn Đính, Nguyễn Như Khanh (2004) [7] đánh giá khả năng
thích ứng của một số giống khoai tây trồng trên nền đất Vĩnh Phúc cho thấy:
giống KT3, 171.1 có năng suất cao trên vùng sinh thái Vĩnh Phúc thì huỳnh
quang diệp lục, số củ trung bình/khóm, khối lượng củ trung bình/khóm đều
cao hơn hẳn các giống có năng suất thấp HH2, Thường Tín.
Qua các kết quả nghiên cứu trên, chúng ta dễ dàng nhận thấy những
giống cây trồng có năng suất khác nhau thì đều biểu hiện những dấu hiệu về
sinh trưởng, trao đổi nước, quang hợp và các yếu tố cấu thành năng suất hơn
hẳn những giống cho năng suất thấp. Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu trên
đối tượng cây ngô còn ít và chưa cụ thể. Chính vì vậy cần có các hướng
nghiên cứu hệ thống hơn để xác định được sự khác biệt giữa giống cho năng
suất cao và giống có năng suất thấp.
1.7. Các kết quả nghiên cứu trên đối tượng cây ngô
1.7.1. Các kết quả nghiên cứu về cây ngô trên thế giới
Với hơn 7000 năm tiến hoá và phát triển, bắt đầu từ miền trung Mêhicô,
ngô đã phát triển sang Châu Âu, châu Á, châu Phi và trở thành một trong
những cây lương thực quan trọng nhất của loài người. Ngô lai là một thành
tựu khoa học nông nghiệp cực kì quan trọng trong nền kinh tế thế giới, ngô lai
chính là “ cuộc cách mạng xanh ” của nửa đầu thế kỉ XX [24].
Charles Darwin (1871) người đầu tiên quan sát phát hiện ra hiện tượng
ưu thế lai ở ngô [28]. https://thuviengiaoan.net/

18
Năm 1877, W.J.Beal tiến hành việc lai có kiểm soát giữa các giống ngô
với mục đích tăng năng suất bởi ưu thế lai đã thấy được sự khác biệt về năng
suất của các giống ngô lai vượt năng suất của các giống bố mẹ chúng bình
quân là 25% [47].
G.H.Shull (1904) đã tạo được dòng thuần của ngô và những giống ngô
lai có năng suất cao [13].
Năm 1917, D.J.Jones đã đề xuất sử dụng phương pháp lai kép trong sản
xuất để giảm giá thành hạt giống (khi lai kép giá thành chỉ bằng 3 - 4 lần so
với hạt bình thường, còn lai đơn bằng 10 - 15 lần) từ đó lai kép được áp dụng
nhanh ở Mĩ, Canada và châu Âu [11].
Vào giai đoạn những năm 60 của thế kỷ XX, các nhà khoa học đã nghiên
cứu và phát triển được nhiều dòng thuần khoẻ và năng suất cao tạo cơ hội cho
việc sử dụng lai đơn vào sản xuất thay thế cho lai kép vì lai đơn đồng đều hơn
lai kép [11].
Các tiến bộ kĩ thuật về ngô lai đã phát triển mạnh ở Mĩ sau đó lan sang
các nước tiên tiến khác. Năm 1933 ngô lai ở vùng vành đai ngô ở Mĩ chỉ
chiếm 1% diện tích thì sau 10 năm con số đã là 75% và đến năm 1965 là
100%. Hiện nay các giống ngô lai phổ biến và thông dụng ở các nước ôn đới
là ngô lai đơn. Khả năng tổ hợp chung và riêng đã đóng vai trò đáng kể trong
thành tựu các giống ngô lai tốt nhất và chính điều đó đã làm tăng năng suất và
sản lượng ngô ở các nước: Pháp, Italia, Nam tư năng suất ở vùng này xấp xỉ 6
tấn/ha [46]
Theo kết quả nghiên cứu của Hallauer (1994) [36] các giống ngô lai mới
tạo ra hiện nay có khả năng chịu được mật độ cao gấp 2 - 3 lần so với các
giống lai tạo ra trước đó và có tiềm năng năng suất cao hơn hẳn.
Trong những năm gần đây các nhà khoa học trên thế giới tập trung chủ
yếu vào hướng nghiên cứu về tính đa dạng và di truyền của các giống ngô để https://thuviengiaoan.net/

19
tiếp tục nâng cao năng suất của giống cây này. Các nhà khoa học cũng dự
đoán thế kỉ XXI năng suất ngô có thể đạt 30 tấn/ha ở các thí nghiệm và sẽ đạt
20 tấn/ha trong sản xuất. Vì vậy, cây ngô sẽ là cây lương thực hứa hẹn nhiều
hi vọng của loài người ở thế kỉ XXI và các năm tiếp theo [48].
1.7.2. Các kết quả nghiên cứu về cây ngô ở Việt Nam
Cây ngô trong thời gian đầu đưa vào Việt Nam còn chưa được chú ý
đúng mức song thời gian gần đây Đảng và nhà nước ta đã đặc biệt quan
tâm nhất là trong lĩnh vực nâng cao năng suất và sản lượng của cây lương
thực này.
Các nghiên cứu khoa học về cây ngô ở Việt Nam chủ yếu tập trung vào
hướng sử dụng các biện pháp kĩ thuật để nâng cao năng suất của giống trên
những điều kiện sinh thái cụ thể, nghiên cứu để phát triển tạo ra các giống ngô
mới hay làm thay đổi các đặc điểm của giống còn rất hạn chế [34].
Nguyễn Văn Liêm và CS (2005) [40] nghiên cứu trên một số giống ngô
trồng ở Bắc Hà, Lào Cai cho rằng: thiệt hại do các loại mọt gây ra trên ngô ở
vùng Bắc Hà, Lào Cai sau 12 tháng bảo quản tới 38,95%
Khuất Hữu Trung, Bùi Mạnh Cường, Nguyễn Minh Công (2008) [3]
nghiên cứu sự đa dạng di truyền ở mức hình thái tập đoàn ngô thuần bằng
phương pháp nuôi cấy bao phấn đã chỉ ra rằng tính trạng hình thái số lượng và
tính trạng chất lượng của 77 dòng ngô nghiên cứu là rất khác nhau.
Đỗ Hữu Quyết (2009) [41] nghiên cứu phát triển công nghệ bón phân
nén cho ngô tại huyện Quảng uyên, Cao Bằng: đã lựa chọn được loại phân
viên nén và quy trình sử dụng phù hợp là 108N + 90K20 + 90P205/ha, bón vào
cùng lúc gieo hạt ngô.
Nguyễn Xuân Cự (2010) [42] nghiên cứu khả năng thuỷ phân bằng axit
loãng và bước đầu đánh giá hiệu quả sản xuất ethanol sinh học từ thân cây
ngô đã cho thấy thân cây ngô là nguyên liệu để sản xuất ethanol sinh học với
tỉ lệ 12kg nguyên liệu thô/1lít ethanol tinh khiết. https://thuviengiaoan.net/

20
Các nghiên cứu về cây ngô có lẽ đáng phải kể ra nhất là kết quả của Viện
nghiên cứu ngô [26][32][38] đã lai tạo ra được các giống ngô lai LVN cho
năng suất cao và thích hợp với điều kiện sinh thái và khí hậu Việt Nam.
Theo Dương Hoa Xô - Giám đốc Trung tâm Công nghệ sinh học Thành
phố Hồ Chí Minh [48] thì Việt Nam sẽ có cây ngô chuyển gen vào cuối năm
2012 và đây cũng là một bước đột phá mới trong việc nâng cao năng suất
cũng như trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học về cây ngô ở Việt Nam.



















https://thuviengiaoan.net/

21
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là bốn giống ngô lai cho năng suất khác nhau,
bao gồm: C919 do công ty cổ phần và bảo vệ Sài Gòn nhập khẩu, CP999 do
công ty TTHH hạt giống CP.VN nhập khẩu, HN45 do công ty cổ phần giống
cây trồng Trung ương sản xuất, LVN4 do Viện nghiên cứu ngô cung cấp.
- Đặc điểm của các giống thí nghiệm
TT Tên giống Đặc điểm của giống
1 C919


- Là giống ngô lai của Mĩ, giống được Bộ Nông nghiệp
và PTNT công nhận giống chính thức năm 2002.
- C919 có thời gian sinh trưởng trung bình, ở phía Bắc
từ 105 - 115 ngày, phía Nam từ 95 - 100 ngày.
- Chiều cao cây trung bình 195 - 200 cm, chiều cao
đóng bắp 90 - 95 cm, bộ lá gọn; Chiều dài bắp 16 - 18
cm, đường kính bắp 4,5 cm, có 14 - 16 hàng hạt, tỷ lệ
hạt/bắp > 78%, lá bi bao kín đầu bắp, hạt dạng bán răng
ngựa, màu vàng cam. Khối lượng 1000 hạt 290 - 300gr.
- Năng suất trung bình đạt 80 - 120 tạ/ha, tiềm năng
năng suất 130 - 140tạ/ha.
Chịu hạn, chịu úng, chống đổ tốt. Chống chịu bệnh rỉ
sắt, đốm nâu, đốm và đốm lá nhỏ.
- Thích nghi rộng, trồng được trên nhiều loại chân đất
khác nhau.
- Thời vụ trồng được trong mùa mưa và mùa khô (trồng
được cả 3 vụ/năm). Trồng được ở mật độ cao. https://thuviengiaoan.net/

22
2 CP999

- Là giống ngô lai có xuất xứ từ Thái Lan
- Giống ngắn ngày, có thể gieo trồng quanh năm
- Cây chịu hạn cao, trái to, màu đẹp
- Hạt đá, màu đẹp, áo bi kín
- Thời gian sinh trưởng: 100 - 110 ngày,
- Năng suất trung bình: 8 - 12 tấn/ha.
3 HN45

- Giống ngô lai đơn chín sớm HN45 do Công ty cổ
phần Giống cây trồng Trung ương chọn tạo. Là giống
ngô lai đơn chín sớm nhất ở Việt Nam hiện nay (so
với giống ngô của Việt Nam và các công ty giống
nước ngoài tại Việt Nam).
- Thời gian sinh trưởng từ 85 - 112 ngày tùy thời vụ
và vùng sinh thái khác nhau. Hạt ngô có chất lượng
tốt, màu da cam, dạng bán đá, lõi bắp nhỏ, chiều dài
bắp từ 18 - 20cm, số hàng hạt từ 12 - 16 hàng, tỷ lệ
hạt/bắp đạt 78 - 81%. Ngô HN45 chống chịu khá với
bệnh khô vằn, thối thân, đốm lá, gỉ sắt, sâu đục thân.
Bộ lá thoáng, xanh đậm, xanh bền tận gốc, khi thu
hoạch lá vẫn khá xanh có thể làm thức ăn cho gia
súc. Giống có đặc điểm tung phấn phun râu cùng một
lúc, đây là đặc điểm quý về tính chịu hạn. Chịu hạn
và chịu nước khá, dễ tính, phổ thích nghi khá rộng,
HN45 có độ đồng đều rất cao và hội tụ được rất
nhiều đặc điểm tốt.
- Giống có tiềm năng năng suất 10 tấn hạt/ha, có thể
trồng 3 vụ/năm, năng suất ổn định. https://thuviengiaoan.net/

23

4




LVN4



- Giống do Viện nghiên cứu ngô sản xuất
- Giống LVN4 thuộc nhóm chín trung bình ở phía bắc,
vụ Xuân 115 - 120 ngày, vụ Hè thu 90 - 95 ngày, vụ
Đông 105 - 115 ngày (dài hơn giống B9681 khoảng 3 -
4 ngày).
- Chiều cao cây 180 - 200 cm, cao đóng bắp 70 - 80 cm.
Bắp dài 17 - 21 cm, đường kính bắp 4.5 - 5.0 cm, có từ
12 - 14 hàng hạt. Khối lượng 1000 hạt 290 - 325 gram.
Hạt màu vàng, dạng bán răng ngựa.
- Giống LVN4 chịu hạn khá, chịu rét tốt và nhiễm sâu
bệnh nhẹ.
- Năng suất trung bình từ 50 - 55 tạ/ha, thâm canh tốt có
thể đạt 65 - 70 tạ.

2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm [27]
- Thí nghiệm được bố trí ngoài đồng ruộng theo khối ngẫu nhiên hoàn
chỉnh với 3 lần nhắc lại. Mỗi ô thí nghiệm có diện tích khoảng 30m
2
, ngô
được trồng và chăm sóc theo đúng quy trình kỹ thuật của Bộ Nông nghiệp và
PTNT Việt Nam [2][10][13].
- Thí nghiệm gồm 4 công thức, mỗi công thức tương ứng với một giống
ngô với 3 lần nhắc lại.
- Thí nghiệm được tiến hành trong vụ Xuân năm 2011.
2.2.2. Phương pháp xác định chỉ tiêu
2.2.2.1. Phân nhóm các giống ngô dựa trên năng suất thực thu
Sau khi thu hoạch ngô ở tất cả các giống thí nghiệm, chúng tôi tiến
hành xử lí thống kê kết quả để phân loại theo nhóm. https://thuviengiaoan.net/

24
2.2.2.2. Xác định một số chỉ tiêu sinh trưởng của các giống ngô
* Tỷ lệ nảy mầm
Tỷ lệ nảy mầm (%): là tỷ lệ mọc trung bình của các lần nhắc, được xác
định bằng phương pháp đếm trực tiếp trên các ô thí nghiệm.

* Chiều cao cây qua các giai đoạn sinh trưởng
Chiều cao cây được xác định bằng phương pháp đo trực tiếp từ cổ rễ
đến đỉnh sinh trưởng của cây. Mỗi ô thí nghiệm đo 30 cây ngẫu nhiên tại các
giai đoạn phát triển.
* Đường kính thân cây
Đường kính thân cây qua các giai đoạn phát triển được đo ở đốt thân
thứ nhất tính từ mặt đất lên sử dụng thước đo kĩ thuật. Mỗi ô thí nghiệm đo 30
cây ngẫu nhiên tại các giai đoạn phát triển.
2.2.2.3. Xác định một số chỉ tiêu trao đổi nước của các giống ngô
Khả năng giữ nước, khả năng hút nước, độ thiếu hụt bão hoà hơi nước
của lá được xác định theo phương pháp Kuzusho [14]
* Khả năng giữ nước: Các lá ở mỗi giống được lấy cùng một tầng,
mỗi công thức lấy 10 lá, lặp lại 3 lần. Sau khi lá được cắt khỏi cây cho vào túi
nilon để hạn chế mất nước, đưa lá về phòng thí nghiệm, cân được khối lượng
B - đó là khối lượng tươi ban đầu, để cho lá thoát hơi nước trong điều kiện
phòng thí nghiệm thời gian 3 giờ, đem các lá đó cân lại được khối lượng là b -
khối lượng tươi sau khi gây héo. Tiếp tục đưa các lá này vào tủ sấy ở nhiệt độ
105
0
C cho đến khi khối lượng không đổi, cân các lá đã sấy khô được khơi
lượng V. Tính khả năng giữ nước của lá theo công thức: https://thuviengiaoan.net/

25
a% = VB
bB

− . 100
Trong đó: a là khả năng giữ nước, tính bằng % lượng nước mất/lượng
nước tổng số
B: khối lượng lá tươi ban đầu (gam)
b: Khối lượng lá tươi sau khi đã gây héo 3 giờ (gam)
V: khối lượng khô của lá sau khi sấy (gam)
* Khả năng hút nước của lá: Lấy mẫu giống như thí nghiệm xác định
khả năng giữ nước, mang lá về phòng thí nghiệm ngâm cuống lá vào cốc
nước (dùng một cốc thuỷ tinh úp lên trên để hạn chế lượng nước bay hơi), kiểm
tra khối lượng lá cho đến khi không đổi, lau sạch các lá bằng giấy thấm, đem
cân được khối lượng bão hoà A1. Để các lá đó trong điều kiện phòng thí
nghiệm cho lá thoát hơi nước sau 3 giờ, tiếp tục nhúng cuống lá vào cốc nước
cho chúng hút nước đến khi khối lượng không đổi, đem các lá đó cân được
khối lượng bão hoà A2. Khả năng hút nước của lá được tính theo công thức:
K% = 1
21
A
AA− . 100
Trong đó: K là khả năng hút nước, tính bằng % lượng nước nước mà lá
không hút được sau khi để thoát hơi nước
A1: khối lượng tươi của lá sau khi hút no nước lần 1(gam)
A2: khối lượng tươi của lá sau khi gây héo lại được hút no nước lần 2
(gam)
* Độ thiếu hụt bão hoà nước: Tiến hành lấy mẫu lá giống như thí
nghiệm xác định khả năng giữ nước, đem các lá về phòng thí nghiệm cân
được khối lượng là V1, ngâm các cuống lá vào cốc nước để lá hút nước cho
đến khi khối lượng không đổi, đem cân được khối lượng là V2. Độ thiếu hụt
bão hoà hơi nước được tính theo công thức: https://thuviengiaoan.net/

26
V% = 2
12
V
VV− . 100
Trong đó: V là lượng thiếu hụt, tính bằng % lượng nước còn thiếu so
với khối lượng nước sau bão hoà
V1: khối lượng lá tươi ban đầu (gam)
V2: khối lượng lá tươi khi đã hút nước đến bão hoà (gam)
* Hàm lượng nước trong thân, lá: được xác định nhờ trọng lượng cắt
toàn bộ thân mang lá tại phần sát gốc, mỗi công thức cắt 03 thân chính. Đem
các thân đó về phòng thí nghiệm, cắt riêng thân phần thân và lá cân bằng cân
Satorius được khối lượng tươi tổng số B. đưa các phần thân, lá đó vào tủ sấy
ở nhiệt độ 105
0
C cho đến khi khối lượng không đổi, cân khối lượng của thân,
lá được khối lượng khô tổng số b. Hàm lượng nước trong thân, lá được tính
theo công thức:
A% = B
bB− . 100
Trong đó: A là hàm lượng nước trong thân, lá
B: khối lượng tươi tổng số (gam)
b: khối lượng khô tổng số (gam)
2.2.2.4. Xác định một số chỉ tiêu quang hợp
* Chỉ số diện tích lá
- Chỉ số Diện tích lá qua các giai đoạn sinh trưởng phát triển: Theo dõi
ở các thời kỳ khác nhau. Mỗi lần nhắc lấy 10 cây mẫu đại diện.
- Chỉ số diện tích lá LAI (Leaf Area Index) được tính theo công thức:
LAI = Diện tích lá (S)/cây x số cây/m
2
(m
2
lá/m
2
đất)
Trong đó diện tích lá S được đo bằng máy đo diện tích lá tự động
AAAM-7. https://thuviengiaoan.net/

27
* Hàm lượng diệp lục tổng số
Xác định chỉ số hàm lượng diệp lục tổng số bằng cách đo trên máy
SPAD - 502, do Nhật Bản sản xuất. Đây là loại máy chuyên dụng cầm tay rất
thuận lợi cho nghiên cứu đồng ruộng. Máy gồm một bộ xử lí, buồng đo và
màn hình hiển thị kết quả. Buồng đo có diện tích 1cm
2
. Khi đo tiến hành bật
máy, ép buồng đo vào lá (tất cả các giống đều đo ở tầng lá thứ 4 từ ngọn trở
xuống), đèn bật ánh sáng đỏ, trong vòng 30 giây đến 1 phút, máy sẽ báo kết
quả trên màn hình.
* Huỳnh quang của diệp lục
Huỳnh quang diệp lục được đo bằng máy Chlorophyl fluorometer
OS.30 do hãng ADC cung cấp.
2.2.2.4. Xác định các yếu tố cấu thành năng suất
Các yếu tố cấu thành năng suất: số bắp/cây, đường kính bắp, chiều dài
bắp, số hàng hạt/bắp, số hạt/hàng. Mỗi công thức xác định ở 30 cây ngẫu
nhiên. Năng suất thực thu được tính từ năng suất thực thu trên các ô thí
nghiệm sau đó quy đổi ra kg/360m
2
.
2.2.3. Phương pháp xử lí số liệu thí nghiệm
2.2.3.1. Xử lí số liệu thí nghiệm
Số liệu thí nghiệm được xử lí nhờ phần mềm thống kê Excel 98 với các
thông số Chu Huy Mẫn và CS, (2001) [18] [25] n
x
X
i
=
; 2
1
)(


=

n
XX
i
 với n < 30 2
)(
n
XX
i −
=
với n 30; m = n
 https://thuviengiaoan.net/

28
2.2.3.2. Độ tin cậy của hai số trung bình được tính theo công thức
td = md
d , md = 2
2
2
1mm+ , d = 12XX− (trong đó 2X : trung bình thí
nghiệm, 1X : trung bình đối chứng, m1 sai số mẫu đối chứng, m2 sai số mẫu
thí nghiệm)
So sánh td với t lấy từ bảng phân phối Student Fisher với (n1 + n2 - 2)
bậc tự do
* Nếu td < t thì 2 số trung bình sai khác nhau không có ý nghĩa với
xác suất  95%
* Nếu td  t thì 2 số trung bình sai khác nhau có ý nghĩa với xác
suất  95%














https://thuviengiaoan.net/

29
Chương 3
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

3.1. Phân nhóm các giống ngô dựa vào chỉ tiêu năng suất
Năng suất cây trồng nói chung và của ngô nói riêng là kết quả tổng hợp
của nhiều yếu tố (giống, đất đai, khí hậu, quy trình chăm sóc...) thông qua
quá trình biến đổi sinh lý, sinh hoá trong cây dưới tác động của các yếu tố
ngoại cảnh.
Tích lũy chất khô là kết quả của quá trình sinh tổng hợp các chất hữu cơ,
năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất chính là kết quả của quá trình tích
lũy chất khô nhưng diễn ra ở bộ phận kinh tế [21].
Ở ngô, năng suất có quan hệ với số bắp/cây, đường kính bắp, chiều dài
bắp, số hàng hạt/bắp, số hạt/hàng, trọng lượng 1000 hạt. Đồng thời đây cũng
là những yếu tố có vai trò quan trọng trong việc quyết định tăng hay giảm
năng suất của từng giống ngô lai.
Qua kết quả nghiên cứu, năng suất thực thu của 4 giống ngô thí nghiệm
được trình bày ở bảng 3.1 và hình 3.1.

Bảng 3.1. Năng suất thực thu của bốn giống ngô nghiên cứu
Đơn vị: tạ/ ha

STT Giống Năng suất thực thu
1 CP999 42,1
2 LVN4 53,2
3 C919 50,7
4 HN45 55,7 https://thuviengiaoan.net/

30 0
10
20
30
40
50
60
Năng suất thực thu (tạ/ha)
CP999 LVN4 C919 HN45


Phân tích số liệu ở bảng 3.1 và hình 3.1 chúng ta thấy năng suất thực
thu của các giống ngô như sau: Năng suất cao nhất thuộc giống HN45
(55.7 tạ/ha), năng suất thấp thuộc giống CP999 (42.1 tạ/ha), hai giống còn
lại là C919 (50.7 tạ/ha), LVN4 (53.2 tạ/ha) có năng suất trung bình.
Sau khi phân nhóm 4 giống ngô nghiên cứu dựa vào năng suất, chúng tôi
chọn giống CP999 là giống có năng suất thấp nhất làm giống đối chứng để
tiếp tục so sánh các chỉ tiêu sinh lí tiếp theo.
3.2. Nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh lí của bốn giống ngô có năng suất
khác nhau
3.2.1. Chỉ tiêu về sinh trưởng, phát triển
3.2.1.1.Tỉ lệ nảy mầm của hạt
Tỉ lệ nảy mầm của hạt là yếu tố đầu tiên quyết định chất lượng của một
giống ngô, đồng thời qua đó cũng đánh giá một phần nào đó của quá trình
sinh trưởng, phát triển sau này. Tỉ lệ nảy mầm của bốn giống ngô được thể
hiện qua bảng 3.2 và hình 3.2.

Hình 3.1. Biểu đồ năng suất thực thu của bốn giống ngô https://thuviengiaoan.net/

31
Bảng 3.2. Tỉ lệ hạt nảy mầm của bốn giống ngô cho năng suất khác nhau
Đơn vị: %
TT Giống
Ngày gieo
Ngày mọc
Tỷ lệ hạt nảy mầm

1 CP999
20/2/2011
28/2/2011
71,66
2 LVN4
20/2/2011
28/2/2011
80,02
3 C919
20/2/2011
28/2/2011
68,33
4 HN45
20/2/2011
28/2/2011
83,33
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
Tỉ lệ nảy mầm (%)
CP999 LVN4 C919 HN45



Phân tích bảng 3.2 và hình 3.2 chúng tôi nhận thấy tỷ lệ nảy mầm của
các giống ngô là khác nhau: Giống có tỉ lệ nảy mầm cao nhất là HN45, tiếp
đến là LVN4, CP999 và cuối cùng là giống C919.
3.2.1.2. Chiều cao cây qua các giai đoạn sinh trưởng phát triển
Chiều cao cây là một chỉ tiêu quan trọng trong quá trình chọn, tạo giống
ngô nó liên quan mật thiết đến quá trình sinh trưởng, phát triển, khả năng
Hình 3.2. Biểu đồ tỉ lệ nảy mầm của hạt bốn giống ngô https://thuviengiaoan.net/

32
chống đổ của cây. Giống có chiều cao thấp có khả năng chống đổ tốt hơn và
được quan tâm nhiều hơn trong công tác chọn tạo giống mới. Chiều cao cây
phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như: giống, điều kiện khí hậu, kĩ thuật gieo
trồng, các biện pháp kĩ thuật chăm sóc... chiều cao cây được tính từ mặt đất
đến điểm phân nhánh cờ đầu tiên. Trong suốt quá trình sinh trưởng, phát triển
chiều cao cây tăng dần và tăng mạnh nhất từ giai đoạn 9 lá đến trỗ cờ và dừng
lại sau khi thụ tinh xong.
Chiều cao cây của bốn giống ngô nghiên cứu được thể hiện qua bảng 3.3
và hình 3.3.

Bảng 3.3. Chiều cao của cây của bốn giống ngô có năng suất khác
nhau qua các giai đoạn sinh trưởng phát triển
Đơn vị: cm
TT Giống
Chiều cao cây qua các giai đoạn sinh trưởng
20 ngày 40 ngày 60 ngày
1 CP999 65,32 154,30 205,84
2 LVN4 62,54 149,86 181,93
3 C919 68,64 159,65 212,16
4 HN45 59,26 142,43 177,50


Qua bảng 3.3 và hình 3.3 chúng tôi nhận thấy giống C919 có chiều cây
cao nhất ở tất cả các giai đoạn sinh trưởng, sau đó là giống CP999, LVN4 và
HN45 là thấp nhất. Đây cũng là một lợi thế của giống ngô HN45, trong quá
trình sinh trưởng và phát triển khả năng chống đổ sẽ tốt hơn những cây có
chiều cao lớn, tuy nhiên nếu chiều cao cây thấp quá cây sẽ không tận dụng
được ánh sáng để sinh trưởng phát triển. Qua đó cũng cho thấy năng suất
không có quan hệ mật thiết với chiều cao của cây, chiều cao cây ngô chủ yếu
phụ thuộc vào đặc điểm của giống, kỹ thuật chăm sóc. https://thuviengiaoan.net/

33 0
50
100
150
200
250
Chi
ề
u cao cây
(
cm
)
CP999 LVN4 C919 HN45


3.2.1.3. Đường kính thân cây qua các giai đoạn sinh trưởng
Đường kính thân cây được thể hiện qua các giai đoạn phát triển được thể
hiện qua bảng 3.4
Bảng 3.4. Đường kính thân cây của bốn giống ngô có năng suất khác nhau
qua các giai đoạn phát triển
Đơn vị: cm

TT Giống
Đường kính thân cây qua các giai đoạn sinh trưởng
20 ngày 40 ngày 60 ngày
1 CP999 0,87 1,82 2,67
2 LVN4 0,73 1,43 2,17
3 C919 0,95 1,98 2,89
4 HN45 0,62 1,38 2,06



Qua bảng 3.4 cho thấy giống ngô C919 có đường kính thân cây to hơn so
với các giống còn lại, CP999 và LVN4 có đường kính nhỏ hơn và thấp nhất là
giống HN45. Điều này cũng tỉ lệ thuận với chiều cao của cây, qua đây cũng
cho thấy chiều cao của cây, đường kính thân cây không có quan hệ mật thiết
với năng suất của cây ngô, nó quyết định khả năng chống đổ và phòng tránh

Hình 3.3. Biểu đồ chiều cao cây qua các giai đoạn
sinh trưởng, phát triển https://thuviengiaoan.net/

34
gió bão của các giống ngô. Đường kính thân cây chủ yếu phụ thuộc vào đặc
điểm của giống và các biện pháp kĩ thuật chăm sóc. 0
1
2
3
4
Đường kính thân cây (cm)
CP999 LVN4 C919 HN45

3.2.2. Chỉ tiêu về trao đổi nước
Đối với cây trồng nói chung và ngô nói riêng, nước là thành phần rất
quan trọng không thể thiếu vì nó ảnh hưởng đến nhiều quá trình sinh lí trong
cây. Trong tế bào nước vừa là dung môi vừa là nguyên liệu tham gia vào quá
trình trao đổi chất và năng lượng, ngoài ra nước còn duy trì trạng thái trương
cần thiết cho tế bào và cơ thể.
Trong cơ thể, nhờ dòng nước vận chuyển liên tục từ rễ lên thân và lá
đảm bảo cho thực vật có thể hút và vận chuyển các ion muối khoáng từ rễ đến
các phần trên mặt đất và vận chuyển chất đồng hoá từ cơ quan quang hợp là lá
về các cơ quan dự trữ. Trong quá trình quang hợp nước tham gia vào phản
ứng quang phân li, ngoài ra quá trình thoát hơi nước của lá còn tạo điều kiện
cho cây trao đổi khí và giảm nhiệt độ của lá khi trời nắng nóng. Vì vậy, giống
cây trồng nào có khả năng trao đổi nước tốt sẽ giúp cho các quá trình sinh lí
trong cơ thể diễn ra thuận lợi. Để đánh giá khả năng trao đổi nước của các


Hình 3.4. Biểu đồ đường kính thân qua các giai đoạn
sinh trưởng, phát triển https://thuviengiaoan.net/

35
giống ngô chúng tôi tiến hành nghiên cứu các chỉ tiêu: khả năng hút nước, khả
năng giữ nước, độ thiếu hụt bão hoà nước, hàm lượng nước trong thân và lá.
3.2.2.1. Khả năng giữ nước của lá bốn giống ngô có năng suất khác nhau
Khả năng giữ nước của lá là đại lượng biểu thị khả năng nguyên sinh
chất của tế bào chống lại sự mất nước. Khả năng giữ nước của lá 4 giống ngô
nghiên cứu được thể hiện trong bảng 3.5 và sơ đồ hình 3.5
Bảng 3.5. So sánh khả năng giữ nước của lá bốn số giống ngô có
năng suất khác nhau
Đơn vị: % lượng nước mất/lượng nước tổng số
T
T
Giống
Thời điểm
Gieo -
trổ cờ
(60 ngày)
So với
giống
CP999
(%)
Thời điểm
Trổ cờ -
phun râu
(65 ngày)

So với
giống
CP999
(%)
Thời điểm
Phun râu -
chín
(90 ngày)

So với
giống
CP999
(%)
1 CP999 62,42 100 64,53 100 60,82 100
2 LVN4 47,35 75.86
b
49,21 76.26
b
46,52 76.49
b
3 C919 61,24 98.11
a
63,12 97.81
a
59,34 97.57
a
4 HN45 42,03 67.33
c
43,22 66.98
c
40,03 65.82
c

(Ghi chú: các chữ cái bên cạnh số liệu chỉ sự sai khác giữa các giống so với
CP999 với xác suất trên 95%)
Phân tích bảng 3.5 và hình 3.5 chúng tôi thấy khả năng giữ nước của
mô lá các giống là khác nhau. Ở mọi thời điểm nghiên cứu thì khả năng giữ
nước của của giống CP999 là kém nhất, HN45 là cao nhất (% lượng nước
mất/lượng nước tổng số, nghĩa là lượng nước bị mất càng ít thì khả năng giữ
nước càng cao và ngược lại). Đối với giống HN45 ở thời điểm gieo - trổ cờ
lượng nước bị mất qua lá so với giống CP999 là 67,33%; giống LVN4 là
75,86% và với giống C919 là 98,11%. Khả năng giữ nước của HN45 vẫn
được duy trì đến khi hạt chín. Như vậy, ở ngô những giống có năng suất cao
hơn thì khả năng giữ nước cũng tốt hơn giống có năng suất thấp. https://thuviengiaoan.net/

36
Đơn vị: % so với giống đối chứng CP999
0
20
40
60
80
100
120
Gieo - trổ cờ Trổ cờ - phun râu Phun râu - chín
Thời điểm nghiên cứu
CP999 LVN4 C919 HN45

3.2.2.2. Khả năng hút nước của lá bốn giống ngô có năng suất khác nhau
Khả năng hút nước của lá cây có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhất lại là
đối với ngô, loại cây trồng rất cần nước trong qúa trình sinh trưởng và phát
triển. Giống cây trồng nào có khả năng hút nước của lá tốt sẽ giúp cho cây
phát triển được trong những điều kiện thiếu nước và ngược lại. Kết quả
nghiên cứu khả năng hút nước của lá các giống ngô cho năng suất khác nhau
được thể hiện ở bảng 3.6 và hình 3.6






Hình 3.5. Biểu đồ so sánh khả năng giữ nước của lá bốn giống ngô
có năng suất khác nhau https://thuviengiaoan.net/

37
Bảng 3.6. So sánh khả năng hút nước của lá bốn giống ngô có năng suất
khác nhau
Đơn vị: % lượng nước mà lá không hút được sau khi để héo

T
T
Giống
Thời điểm
Gieo -
trổ cờ
(60 ngày)
So với
giống
CP999
(%)
Thời điểm
Trổ cờ -
phun râu
(65 ngày)

So với
giống
CP999
(%)
Thời điểm
Phun râu -
chín
(90 ngày)

So với
giống
CP999
(%)
1 CP999 16,35 100 14,03 100 17,26 100
2 LVN4 13,94 85.26
b
11,12 79.26
b
14,22 82.39
b
3 C919 14,89 91.07
a
13,01 92.73
a
15,35 88.93
a
4 HN45 11,23 68.69
c
7,46 53.17
c
12,42 72.02
c

(Ghi chú: các chữ cái bên cạnh số liệu chỉ sự sai khác giữa các giống so với CP999 với
xác suất trên 95%) 0
20
40
60
80
100
120
Gieo - trổ cờ Trổ cờ - phun râu Phun râu - chín
Thời điểm nghiên cứu
CP999 LVN4 C919 HN45




Hình 3.6. Biểu đồ so sánh khả năng hút nước của lá bốn giống ngô
có năng suất khác nhau


Đơn vị: % so với giống đối chứng CP999 https://thuviengiaoan.net/

38
Kết quả ở bảng 3.6 và hình 3.6 cho thấy ở các giống HN45, LVN4 và
C919 hàm lượng nước không hút được lần bão hoà đầu tiên đều thấp hơn
so với giống CP999. Điều đó chứng tỏ ở các giống này khả năng hút nước
của mô lá tốt hơn giống CP999. Khả năng hút nước được thể hiện rõ nhất ở
thời điểm trổ cờ - phun râu, đây là thời kì chuẩn bị hình thành bắp. Tại thời
điểm này, so với giống CP999 (100%) lượng nước không hút được của mô
lá của giống HN45 là 53,17%; giống LVN4 là 79,26% và của C919 là
92,73%. Khả năng hút nước của lá giống HN45 khác biệt so với các nhóm
năng suất trung bình và thấp ở tất cả các thời điểm nghiên cứu.
Qua nghiên cứu khả năng giữ nước và khả năng hút nước của lá các
giống ngô có năng suất khác nhau cho thấy các giống có năng suất cao và
trung bình (HN45, LVN4, C919) đều có khả năng hút nước và giữ nước tốt
hơn giống có năng suất thấp CP999 ở tất cả các thời điểm nghiên cứu. Kết
quả này cũng phù hợp với kết quả của một số nhà khoa học đi trước nghiên
cứu trên các đối tượng khác nhau [7][17].
3.2.2.2. Độ thiếu hụt bão hoà nước của lá bốn giống ngô có năng
suất khác nhau
Ở thực vật, vào ban đêm là thời gian để cây tăng cường khả năng hút
nước giúp mô lá bù lại lượng nước đã thoát ra bên ngoài nhất là những hôm
thời tiết nắng to hoặc gió nhiều. Các giống có khả năng giữ nước và khả
năng hút nước tốt thì độ thiếu hụt bão hoà hơi nước sẽ thấp do bộ rễ của
chúng có khả năng hút nước mạnh và ngược lại.
Độ thiếu hụt bão hoà hơi nước của các giống ngô được trình bày trong
bảng 3.7 và hình 3.7 https://thuviengiaoan.net/

39
Bảng 3.7. So sánh độ thiếu hụt bão hoà nước của lá bốn giống ngô có
năng suất khác nhau

Đơn vị: % lượng nước thiếu hụt/lượng nước bão hoà

T
T
Giống
Thời điểm
Gieo -
trổ cờ
(60 ngày)
So với
giống
CP999

(%)
Thời điểm
Trổ cờ -
phun râu
(65 ngày)
So với
giống
CP999
(%)
Thời điểm
Phun râu
- chín
(90 ngày)
So với
giống
CP999
(%)
1 CP999 31,15 100 33,16 100 32,20 100
2 LVN4 29,26 93.93
b
30,42 91.74
b
28,57 88.73
b
3 C919 30,14 96.76
a
32,07 96.71
a
31,03 96.37
a
4 HN45 21,27 68.28
c
24,12 72.74
c
13,07 40.59
c

(Ghi chú: các chữ cái bên cạnh số liệu chỉ sự sai khác giữa các giống so với CP999 với
xác suất trên 95%)

Đơn vị: % so với giống đối chứng CP999
0
20
40
60
80
100
120
Gieo - trổ cờ Trổ cờ - phun râu Phun râu - chín
Thời điểm nghiên cứu
CP999 LVN4 C919 HN45



Hình 3.7. Biểu đồ so sánh độ thiếu hụt bão hòa nước của lá bốn giống ngô
có năng suất khác nhau https://thuviengiaoan.net/

40
Qua phân tích kết quả ở bảng 3.7 và hình 3.7 chúng tôi nhận thấy các
giống ngô có năng suất khác nhau thì độ thiếu hụt bão hoà nước của mô lá
cũng khác nhau. Sự sai khác đó thể hiện rõ nhất ở giai đoạn phun râu đến
chín. Ở giai đoạn này so với giống CP999 (100%) thì ở giống có năng suất
cao HN45 là 40,59%, tiếp theo là các giống LVN4 (88,73%), C919 (96,73%).
Độ thiếu hụt bão hoà nước của mô lá các giống cao nhất ở giai đoạn trổ cờ
- phun râu vì đây là giai đoạn cây cần nhiều nước chuẩn bị cho việc hình
thành bắp.
Như vậy ở mọi thời điểm nghiên cứu về độ thiếu hụt bão hoà nước
của mô lá các giống ngô thì các giống năng suất cao lại có độ thiếu hụt
bão hoà nước thấp hơn các giống có năng suất thấp. Kết quả nghiên cứu
này cũng trùng lặp với kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học trên các
đối tượng là cây lạc, cây đậu tương, cây cà chua [7][17].
3.2.2.3. Hàm lượng nước trong thân và lá của bốn giống ngô có
năng suất khác nhau
Ngô là loại cây trồng cần nhiều nước trong quá trình sinh trưởng, hàm
lượng nước trong thân và lá có ý nghĩa rất lớn đối với từng giống ngô, giống
ngô nào có hàm lượng nước trong thân và lá cao thì chứng tỏ có bộ rễ phát
triển và chiếm ưu thế hơn trong các giai đoạn sinh trưởng, phát triển. Vì vậy,
trong quá trình gieo trồng, chăm sóc cần đảm bảo đủ nước cho ngô theo yêu
cầu của từng giai đoạn.
Hàm lượng nước trong thân và lá của 4 giống ngô nghiên cứu được trình
bày trong bảng 3.8 và biểu đồ hình 3.8, 3.9

https://thuviengiaoan.net/

41
Bảng 3. 8. So sánh hàm lượng nước trong thân và lá của bốn giống ngô
có năng suất khác nhau

Đơn vị: % nước / khối lượng tươi của thân, lá



quan
Giống
Thời điểm sinh trưởng
Thời điểm
Gieo -
trổ cờ
(60 ngày)
So với
giống
CP999
(%)
Thời điểm
Trổ cờ -
phun râu
(65 ngày)
So với
giống
CP999
(%)
Thời điểm
Phun râu
- chín
(90 ngày)
So với
giống
CP999
(%)
Thân
CP999 80,03 100 82,24 100 57,12 100
LVN4 89,05 111.27
b
90,17 109.64
b
64,95 113.71
b
C919 84,16 105.16
a
85,32 103.75
a
62,12 108.75
a
HN45 91,18 113.93
b
92,36 112.31
c
82,37 144.20
c

CP999 70,17 100 71,23 100 63,40 100
LVN4 79,16 112.81
b
80,52 113.04
b
68,20 107.57
b
C919 71,25 101.54
a
73,28 102.88
a
66,50 104.89
a
HN45 80,24 114.35
b
81,15 113.93
b
70,67 111.47
c

(Ghi chú: các chữ cái bên cạnh số liệu chỉ sự sai khác giữa các giống so với CP999 với
xác suất trên 95%)

Hàm lượng nước trong thân
Số liệu ở bảng 3.8 cho thấy tại thời điểm cây ngô trổ cờ - phun râu hàm
lượng nước trong thân là cao nhất, sau đó giảm dần ở thời kỳ chín. Cụ thể ở
thời kỳ phun râu - chín, hàm lượng nước trong thân của CP999 là 100%, các
giống còn lại: C919 (104,98%), LVN4 (107,57%), HN45 (111,47%). Qua đó
cũng cho thấy các giống có năng suất cao thì hàm lượng nước trong thân
cũng cao hơn giống có năng suất thấp. https://thuviengiaoan.net/

42
Đơn vị: % so với giống đối chứng CP999
90
95
100
105
110
115
120
Gieo - trổ cờ Trổ cờ - phun râu Phun râu - chín
Thời kì nghiên cứu
CP999 LVN4 C919 HN45

Hàm lượng nước trong lá
Phân tích các kết quả về hàm lượng nước trong lá của các giống ngô ở
bảng 3.8 chúng tôi nhận thấy: Hàm lượng nước trong lá ở thời kì cây ngô trổ
cờ - phun râu là cao nhất, ở các thời kì còn lại thì thấp hơn và cũng như hàm
lượng nước ở trong thân, giống có năng suất cao là HN45 có hàm lượng nước
trong lá cao hơn giống có năng suất trung bình là LVN4, C919 và cao hơn
hẳn giống có năng suất thấp CP999.
Như vậy, qua nghiên cứu về các chỉ tiêu trao đổi nước của bốn giống ngô
cho năng suất khác nhau, chúng tôi nhận thấy giống ngô có năng suất cao hơn
thì đều có những biểu hiện về các chỉ tiêu trao đổi nước tốt hơn hẳn so với
giống có năng suất trung bình và thấp. Đây cũng là những yếu tố thuận lợi để
cho cây thực hiện tốt các chức năng như: quang hợp, hô hấp, tổng hợp chất
hữu cơ...

Hình 3.8. Biểu đồ so sánh hàm lượng nước trong thân của bốn giống ngô
có năng suất khác nhau https://thuviengiaoan.net/

43
Đơn vị: % so với giống đối chứng CP999
90
95
100
105
110
115
120
Gieo - trổ cờ Trổ cờ - phun râu Phun râu - chín
Thời kì nghiên cứu
CP999 LVN4 C919 HN45


3.2.3. Chỉ tiêu về quang hợp
3.2.3.1. Chỉ số diện tích lá
Lá là cơ quan quang hợp chủ yếu của cây ngô, đồng thời còn làm nhiệm
vụ trao đổi khí, hô hấp, dự trữ dinh dưỡng cho cây. Vì vậy, số lượng lá trên
cây, thời gian tồn tại của lá và hiệu suất quang hợp của bộ lá có vai trò quan
trọng đối với năng suất ngô cũng như phẩm chất của hạt. Ngoài ra số lá trên
cây còn quyết định đến mật độ cây trồng của từng giống trên một đơn vị diện
tích. Đối với cây ngô, số lá trên cây ngoài phụ thuộc vào giống còn phụ thuộc
vào điều kiện ngoại cảnh và kĩ thuật canh tác. Số lá trên cây của ngô là một
đặc điểm khá ổn định có quan hệ chặt chẽ với thời gian sinh trưởng. Những
giống có thời gian sinh trưởng dài thường có số lá trên cây nhiều hơn những
giống có thời gian sinh trưởng ngắn.
Khả năng ra lá, tuổi thọ và kích thước của lá không những do đặc tính
của giống quyết định mà còn phụ thuộc vào điều kiện ngoại cảnh. Để nghiên
cứu đặc tính này người ta sử dụng chỉ tiêu chỉ số diện tích lá. Qua nhiều kết


Hình 3.9. Biểu đồ so sánh hàm lượng nước trong lá của bốn giống ngô
có năng suất khác nhau https://thuviengiaoan.net/

44
quả nghiên cứu đã cho thấy cơ sở để nâng cao năng suất cây trồng bằng con
đường quang hợp là nâng cao hệ số diện tích lá. Chỉ số diện diện tích lá tốt là
một trong những yếu tố quan trọng để giúp cây ngô đạt năng suất cao.
Bảng 3.9. So sánh chỉ số diện tích lá qua các thời kỳ sinh trưởng - phát
triển của bốn giống ngô có năng suất khác nhau

Đơn vị: m
2
lá/m
2
đất
T
T
Giống
Thời điểm
Gieo -
trổ cờ
(60 ngày)
So với
giống
CP999
( % )
Thời điểm
Trổ cờ -
phun râu
(60 ngày)

So với
giống
CP999
( % )
Thời điểm
Phun râu-
chín
(90 ngày)

So với
giống
CP999
( % )
1 CP999 3,42 100 3,87 100 3,05 100
2 LVN4 4,06 118.71
b
4,24 109.56
a
3,67 120.33
a
3 C919 3,84 112.28
a
4,12 106.46
a
3,56 116.72
a
4 HN45 4,29 125.44
c
4,49 116.02
b
3,89 127.54
b

(Ghi chú: các chữ cái bên cạnh số liệu chỉ sự sai khác giữa các giống so với CP999 với
xác suất trên 95%)

Qua phân tích bảng 3.9 và hình 3.10 biểu đồ so sánh chỉ số diện tích
lá của các giống ngô chúng tôi nhận thấy chỉ số diện tích lá ở các giống
ngô qua các giai đoạn sinh trưởng, phát triển là khác nhau. Ở thời điểm
gieo - trổ cờ giống có chỉ số diện tích lá cao nhất là HN45, tiếp theo là
LVN4, C919 và giống có chỉ số diện tích lá thấp nhất là CP999. Ở giai
đoạn trổ cờ - phun râu chỉ số diện tích lá của các giống đều tăng, sau đó
giai đoạn phun râu - chín thì lại giảm do lá bắt đầu khô ở những tầng đầu
tiên, tuy nhiên ở cả ở hai thời kì này các giống có năng suất cao và trung
bình đều có chỉ số diện tích lá cao hơn so với giống có năng suất thấp. https://thuviengiaoan.net/

45
Đơn vị: % so với giống đối chứng CP999 0
20
40
60
80
100
120
140
Gieo - trổ cờ Trổ cờ - phun râu Phun râu - chín
Thời kì nghiên cứu
CP999 LVN4 C919 HN45

3.2.3.2. Hàm lượng diệp lục tổng số trong lá của bốn giống ngô có
năng suất khác nhau
Hàm lượng diệp lục tổng số trong lá của bốn giống ngô nghiên cứu
được trình bày trong bảng 3.10 và hình 3.11
Bảng 3.10. So sánh chỉ tiêu hàm lượng diệp lục tổng số trong lá của
bốn giống ngô có năng suất khác nhau
Đơn vị: CCI ( đơn vị qui ước của máy)
TT Giống
Thời điểm
Gieo -
trổ cờ
(60 ngày)
So với
giống
CP999

(%)
Thời điểm
Trổ cờ -
phun râu
(65 ngày)

So với
giống
CP999
(%)
Thời điểm
Phun râu -
chín
(90 ngày)

So với
giống
CP999
(%)
1 CP999 30,5 100 81,2 100 32,8 100
2 LVN4 42,8 122.29
a
91,6 112.81
a
46,9 142.99
b
3 C919 37,2 121.97
a
88,7 109.24
a
39,2 119.51
a
4 HN45 49,4 161.97
b
93,5 115,15
b
48,3 147.26
b
(Ghi chú: các chữ cái bên cạnh số liệu chỉ sự sai khác giữa các giống so với CP999 với
xác suất trên 95%)


Hình 3.10. Biểu đồ so sánh chỉ số diện tích lá của bốn giống ngô
có năng suất khác nhau https://thuviengiaoan.net/

46
Đơn vị: % so với giống đối chứng CP999 0
20
40
60
80
100
120
140
160
180
Gieo - trổ cờ Trổ cờ - phun râu Phun râu - chín
Thời kì nghiên cứu
CP999 LVN4 C919 HN45


Phân tích kết quả bảng 3.10 chúng tôi nhận thấy hàm lượng diệp lục
tổng số ở giai đoạn trổ cờ - phun râu là cao nhất, sau đó lại giảm ở thời kỳ
phun râu - chín, cụ thể:
Ở giai đoạn gieo - trổ cờ thì hàm lượng diệp lục tổng số của các giống
như sau: HN45 (49,4), LVN4 (42,8), C919 (37,2), CP999 (30,5). Như vậy,
những giống có năng suất cao HN45 và trung bình LVN4 và C919 đều có chỉ
số hàm lượng diệp lục tổng số cao hơn so với giống có năng suất thấp CP999.
Ở giai đoạn trổ cờ - phun râu mạnh hàm lượng diệp lục tổng số của tất cả
các giống đều tăng nhanh và đạt cực đại: cao nhất là HN45 (93,5), LVN4
(91,6), C919 ( 88,7) và thấp nhất là CP999 (81,2).
Ở giai đoạn phun râu - chín thì hàm lượng diệp lục tổng số của bốn
giống ngô đều giảm, song của HN45 vẫn là cao nhất (48,3), tiếp theo là LVN4

Hình 3.11. Biểu đồ so sánh hàm lượng diệp lục trong lá của bốn giống
ngô có năng suất khác nhau https://thuviengiaoan.net/

47
(46,9), C919 (39,2) và CP999 thấp nhất (32,8). Như vậy, ở mọi thời điểm
nghiên cứu, giống HN45 có năng suất cao đều có hàm lượng diệp lục tổng số
trong lá cao hơn giống có năng suất trung bình và năng suất thấp. Sự khác biệt
về hàm lượng diệp lục ở tất cả các giai đoạn đều có ý nghĩa. Hàm lượng diệp
lục trong lá cao và ổn định là một trong những yếu tố quan trọng giúp cho cây
quang hợp tốt, tích luỹ được nhiều sinh khối hơn, là cơ sở để hình thành năng
suất kinh tế của giống sau này.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với kết quả nghiên
cứu của Nguyễn Văn Mã và CS (2004) [16], (2005) [17] trên đối tượng cây
lạc, Điêu Thị Mai Hoa, Nguyễn đạt Kiên (2006) [9] trên đối tượng cây đậu
xanh, Nguyễn Văn Đính, Nguyễn Như Khanh (2004) [7] trên đối tượng cây
khoai tây.
3.2.3.3. Huỳnh quang diệp lục trong lá của bốn giống ngô có năng
suất khác nhau
Kết quả đo huỳnh quang diệp lục của các giống trong quá trình nghiên
cứu được thể hiện qua bảng 3.11 và biểu đồ hình 3.12
Bảng 3.11. Huỳnh quang diệp lục trong lá của các giống ngô nghiên cứu

Giống
Giai đoạn sinh trưởng
Gieo - trổ cờ
(60 ngày)

Trổ cờ - phun râu
(65 ngày)
Phun râu - chín
(90 ngày)
F0 Fm Fvm F0 Fm Fvm F0 Fm Fvm
CP999 212 869

0,76
238 905

0,74
185 859

0,78
LVN4 248 907

0,73
249 1167

0,79
184 920

0,80
C919 228 1041

0,78
239 1161

0,79
246 886

0,72
HN45 217 1052

0,79 244 1279

0,80 188 1165

0,84 https://thuviengiaoan.net/

48
Phân tích bảng 3.11 cho thấy ở giai đoạn gieo - trổ cờ giá trị huỳnh
quang diệp lục khi bắt đầu chiếu sáng (F0) của các giống dao động từ 212
(giống CP999) đến 248 (giống LVN4). Giá trị huỳnh quang tối đa thu
được với cùng một cường độ ánh sáng (Fm) có sự khác biệt rõ rệt ở các
giống, cao nhất là giống HN45 (1052), C919 (1041), LVN4 (907) và
giống CP999 có giá trị huỳnh quang tối đa thu được nhỏ nhất (869).
Huỳnh quang hữu hiệu (Fvm) của 4 giống cũng có sự phân hóa rõ rệt
giữa các nhóm có năng suất khác nhau.
0.66
0.68
0.7
0.72
0.74
0.76
0.78
0.8
0.82
0.84
0.86
Gieo - trổ cờ T rổ cờ - phun râu Phun râu - chín
Thời kì nghiên cứu
CP999 LVN4 C919 HN45

Phân tích ở các giai đoạn còn lại, chúng tôi dễ dàng nhận thấy huỳnh
quang diệp lục của các giống là khác nhau, các giống có năng suất cao có
huỳnh quang diệp lục cao hơn giống có năng suất thấp, các kết quả thu được
Đơn vị: % so với giống đối chứng CP999


Hình 3.12. Biểu đồ so sánh huỳnh quang hữu hiệu của bốn giống ngô
có năng suất khác nhau https://thuviengiaoan.net/

49
trong quá trình nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với kết quả nghiên cứu của
Nguyễn Văn Đính, Nguyễn Như Khanh (2004) [9] trên đối tượng cây khoai
tây, Nguyễn văn Mã, Cao Bá Cường, Nguyễn Thị Thanh Hải (2005) [17] trên
đối tượng cây lạc.
3.2.4. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất thực thu bốn giống
ngô có năng suất khác nhau
Năng suất thực thu các giống ngô là kết quả tổng hợp của toàn bộ các
quá trình sinh lí diễn ra trong cây và các biện pháp kĩ thuật canh tác, chăm
sóc... Kết quả nghiên cứu về các yếu tố cấu thành năng suất của bốn giống
ngô có năng suất khác nhau trồng tại vùng đất Hiệp Hòa, Bắc Giang được thể
hiện ở bảng 3.12
Bảng 3.12. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất thực thu của
bốn giống ngô có năng suất khác nhau
Chỉ
tiêu

Giống

Số bắp
/cây
Đường
kính bắp
(cm)
Chiều dài
bắp
(cm)

Số hàng
hạt/bắp

Số hạt
/hàng
P1000
hạt
(g)
Năng suất
(Tạ/ha)

CP999 1.10
a
4.23
a
21.33
a
14.33
a
33.34
a
300
a
42.1
a
LVN4 1.13
a
4.65
b
20.16
b
13.66
a
33.85
a
375
b
53.2
b
C919 1.16
a
4.48
b
20.06
b
14.00
a
37.62
b
315
a
50.7
b
HN45 1.23
b
4.25
a
21.22
a
13.01
b
34.66
a
396
c
55.7
c

(Ghi chú: các chữ cái bên cạnh số liệu chỉ sự sai khác giữa các giống so với CP999 với
xác suất trên 95%)

3.2.4.1. Số bắp hữu hiệu trên cây
Số bắp trên cây là một trong những yếu tố cấu thành năng suất quan
trọng. Tuy nhiên, nếu cây càng nhiều bắp thì chỉ có bắp ở trên là thuận lợi cho
quá trình thụ phấn, những bắp ở dưới khả năng thụ phấn kém hơn. Đối với https://thuviengiaoan.net/

50
cây ngô lấy hạt thì số bắp trên cây yêu cầu từ 1 - 2 bắp (thường là 1 bắp) để
cây tập trung nuôi dưỡng bắp. Ngược lại, nếu số bắp trên cây nhiều quá trình
thụ phấn thụ tinh không đầy đủ, bắp phát triển kém, cây tiêu tốn dinh dưỡng
nhiều để nuôi nhiều bắp nên năng suất không cao.
Qua phân tích bảng 3.12 cho thấy giữa các giống ngô có năng suất khác
nhau thì số bắp hữu hiệu trên cây cũng khác nhau, số bắp/cây ở giống HN45
là cao nhất (1,23) tiếp đến là C919 (1,16), LVN4 (1,13) và cuối cùng là
CP999 (1,10).
3.2.4.2. Đường kính bắp
Qua các số liệu bảng 3.12 chúng tôi nhận thấy rằng giống có đường kính
bắp lớn nhất là LVN4, tiếp theo là C919, HN45 và cuối cùng là CP999.
Đường kính bắp ít liên quan tới năng suất của các giống ngô, nó phụ thuộc
vào đặc tính của giống, đường kính bắp càng lớn thì số hàng trên hạt càng
nhiều, sức chứa hạt càng cao. Tuy nhiên thực tế cho thấy giống có đường kính
bắp, chiều dài bắp cao thì có năng suất cao mà còn phụ thuộc vào số hạt/hàng,
số hàng/bắp...

3.2.4.3. Chiều dài bắp
Chiều dài bắp biểu thị khả năng chứa hạt của bắp, chiều dài bắp phụ
thuộc nhiều vào đặc tính của giống, ngoài ra các yếu tố môi trường bên ngoài
cũng rất quan trọng. Nếu chăm sóc tốt, đảm bảo quy trình kĩ thuật thì chiều
dài bắp sẽ tăng. Qua khảo sát kết quả thực tế thì giống CP999 có chiều dài
bắp là cao nhất (21,33cm), tiếp theo là HN45 (21,22cm), LVN4(20,16cm)
và thấp nhất là giống C919 có chiều dài là 20,06cm. Nhìn chung sự sai
khác về chiều dài bắp của các giống là không đáng kể.
3.2.4.4. Số hàng hạt trên bắp
Số hàng hạt/bắp là một yếu tố di truyền do giống quy định và được
quyết định trong quá trình hình thành hoa cái (bắp ngô). https://thuviengiaoan.net/

51
Các giống ngô thí nghiệm có sự chênh lệch nhau không đáng kể về
số hàng hạt trên bắp, giống ngô có số hàng hạt /bắp cao nhất là CP999, tiếp
theo là hai giống C919 và LVN4, HN45 có số hàng hạt trên bắp thấp nhất.
Qua đó cho thấy số hàng hạt trên bắp không có quan hệ mật thiết với năng
suất của các giống ngô.

3.2.4.4. Số hạt trên hàng
Số hạt trên hàng chủ yếu phụ thuộc vào đặc điểm của giống và điều
kiện thời tiết, khí hậu và kĩ thuật chăm sóc. Số hạt trên hàng nhiều hay ít
phụ thuộc vào quá trình thụ phấn và thụ tinh. Nếu quá trình thụ phấn và thụ
tinh diễn ra thuận lợi thì bắp của ngô được đóng đầy hạt, ngược lại nếu quá
trình thụ phấn, thụ tinh gặp những điều kiện bất lợi thì bắp ngô đóng thiếu
hạt ở mút bắp nên số hạt/hàng sẽ giảm. Qua thực tế theo dõi chúng tôi nhận
thấy các giống đều có số hạt/hàng nhiều, hạt đóng tương đối đầy bắp.
Giống có số hạt/hàng nhiều nhất là C919, tiếp theo là HN45, CP999 và
cuối cùng là LVN4.

3.2.4.5. Trọng lượng 1000 hạt
Trọng lượng 1000 hạt là một trong những yếu tố có ảnh hưởng lớn
đến năng suất ngô, trọng lượng 1000 hạt chủ yếu phụ thuộc vào đặc điểm
di truyền của giống, ngoài ra còn phụ thuộc vào thời kì chín sữa, chín sáp,
độ ẩm, chế độ dinh dưỡng, chăm sóc...
Qua phân tích bảng 3.11 chúng tôi nhận thấy, trọng lượng 1000 hạt của
các giống ngô có sự sai khác rõ rệt giữa giống có năng suất cao, trung bình
so với giống có năng suất thấp. Giống có trọng lượng 1000 hạt cao nhất là
HN45(396g), LVN4 (385g), C919 (315g) và thấp nhất là CP999 (300g).
3.2.4.5. Năng suất thực thu
Năng suất thực thu là cái đích mà các nhà chọn, tạo giống hướng tới.
Một giống mới có được đem vào sản xuất đại trà và được người nông dân chấp https://thuviengiaoan.net/

52
nhận hay không phụ thuộc rất nhiều vào năng suất thực thu của giống đó.
Trong các giống thí nghiệm thì giống có năng suất cao là HN45, năng
suất trung bình là LVN4 và C919, giống có năng suất thấp nhất là CP999.
Qua phân tích các yếu tố cấu thành năng suất của các giống ngô chúng
ta có thể nhận thấy các chỉ số về số bắp/cây, đường kính bắp, chiều dài bắp,
số hàng/bắp, số hạt/hàng phụ thuộc chủ yếu vào đặc điểm của giống, khí hậu,
kĩ thuật canh tác...Các chỉ số này không có quan hệ mật thiết tới năng suất mà
chủ yếu là trọng lượng 1000 hạt sẽ ảnh hưởng lớn tới năng suất thực thu của
các giống ngô.
Nghiên cứu chỉ tiêu sinh lí của các giống ngô có năng suất cao HN45
và trung bình (LVN4, C919) cho thấy các giống này đều có các đặc điểm như:
Khả năng hút nước, giữ nước, hàm lượng nước trong thân - lá, chỉ số diện tích
lá, hàm lượng diệp lục của lá cao, trọng lượng 1000 hạt cao hơn hẳn so với
giống có năng suất thấp CP999. Kết quả này cũng phù hợp với các nghiên cứu
của một số tác giả trên các đối tượng cây khoai tây, đậu xanh và cây lạc
[7][9][16].










https://thuviengiaoan.net/

53
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

1. Kết luận
Qua kết quả nghiên cứu, dựa vào năng suất thực thu có thể chia bốn
giống ngô nghiên cứu thành ba nhóm. Nhóm có năng suất cao gồm HN45,
nhóm có năng suất trung bình gồm 2 giống LVN4, C919 và nhóm có năng
suất thấp gồm CP999.
Các giống ngô có năng suất cao HN45 và trung bình như LVN4, C919
đều có các chỉ tiêu về trao đổi nước: khả năng giữ nước, khả năng hút nước,
hàm lượng nước trong thân - lá, chỉ số diện tích lá, hàm lượng diệp lục tổng
số và huỳnh quang diệp lục cao hơn so với giống có năng suất thấp CP999 ở
tất cả các thời điểm nghiên cứu.
Giống có năng suất cao HN45 có các chỉ tiêu về trao đổi nước, quang
hợp, trọng lượng 1000 hạt cao hơn rõ rệt so với giống có năng suất thấp
CP999.
2. Đề nghị
Có thể dựa vào chỉ tiêu sinh lý (sinh trưởng phát triển, trao đổi nước,
quang hợp, các yếu tố cấu thành năng suất) của các giống ngô để bước đầu
khảo sát trong công tác chọn tạo, đánh giá các giống ngô có triển vọng cho
năng suất cao.
Ở vụ xuân, với điều kiện đất đai và khí hậu của vùng sinh thái Hiệp Hòa,
Bắc Giang trong quá trình gieo trồng ngô người sản xuất có thể chọn giống
HN45 để góp phần tăng năng suất và sản lượng cây trồng.



https://thuviengiaoan.net/

54
TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu tiếng Việt
[1]. Lê Trần Bình và CS (1997), Công nghệ sinh học trong cải tiến giống cây
trồng, NXB Nông nghiệp.
[2]. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2005), 575 giống cây trồng
nông nghiệp mới, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
[3]. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2008), Tạp chí Khoa học và
Công nghệ, số 11.
[4]. Phạm Thị Trân Châu, Nguyễn Thị Hiền, Phùng Gia Tường (1998), Thực
hành hóa sinh, NXB Giáo dục.
[5]. Đường Hồng Dật (2004), Cây ngô và kỹ thuật thâm canh tăng năng suất,
NXB Lao động - Xã hội.
[6]. Trương Văn Đích, (2005), Kĩ thuật trồng giống ngô năng suất cao, NXB
Nông nghiệp Hà Nội, tr. 26.
[7]. Nguyễn Văn Đính, Nguyễn Như Khanh (2004), “Khảo sát khả năng sinh
trưởng, huỳnh quang và năng suất một số giống khoai tây trồng trên nền
đất Vĩnh Phúc”, những vấn đề nghiên cứu cơ bản trong khoa học sự sống,
NXB Khoa học và kĩ thuật, Hà Nội.
[8]. Cao Đắc Điểm (1998). Cây ngô, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
[9]. Điêu Thị Mai Hoa, Nguyễn Đạt Kiên (2005), “Khả năng quang hợp của
các giống đậu xanh trong điều kiện gây hạn”, những vấn đề nghiên cứu
cơ bản trong khoa học sự sống, NXB Khoa học và kĩ thuật, Hà Nội.
[10]. Phan Xuân Hào (2007), Vấn đề mật độ và khoảng cách trồng ngô. Tạp
chí nông nghiệp và phát nông thôn số 16 - tháng 9/2007.
[11]. Nguyễn Xuân Hiển và CS (1972), Một số kết quả nghiên cứu về cây
ngô, NXB khoa học kỹ thuật Hà Nội. https://thuviengiaoan.net/

55
[12]. Vũ Đình Hòa, Bùi Thế Hùng (1995), Ngô nguồn dinh dưỡng của loài
người, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
[13]. Nguyễn Thế Hùng (2002), Ngô lai và kỹ thuật thâm canh ngô lai, NXB
Nông nghiệp, Hà Nội.
[14]. Kuzushko.N.N (1984), Xác định tính chịu hạn của cây lấy hạt theo sự biến
đổi thông số chế độ nước. NXB Leningrat.
[15]. Vũ Văn Liết (2006), Thực hành thí nghiệm nghiên cứu nông nghiệp và
phân tích thống kê kết quả nghiên cứu, Tài liệu dịch, 112 tr.
[16]. Nguyễn Văn Mã và CS (2004), “Ảnh hưởng của thiếu nước đến khả năng
quang hợp của cây lạc”, những vấn đề nghiên cứu cơ bản trong khoa học sự
sống, NXB Khoa học và kĩ thuật, Hà Nội.
[17]. Nguyễn Văn Mã, Cao Bá Cường, Nguyễn Thị Thanh Hải (2005), “Một số
chỉ tiêu sinh lí của của giống lạc chịu hạn”, những vấn đề nghiên cứu cơ bản
trong khoa học sự sống, NXB Khoa học và kĩ thuật, Hà Nội.
[18]. Chu Huy Mẫn, Đào Hữu Hồ (2001), Thống kê sinh học, NXB Khoa học &
Kĩ thuật Hà Nội.
[19]. Trần Văn Minh (2004), Cây ngô nghiên cứu và sản xuất, NXB Nông
nghiệp, Hà Nội.
[20]. Đỗ Thị Bích Nga, Trương Văn Hộ (1990), Kết quả nghiên cứu vật liệu
chọn tạo giống khoai tây (1982 - 1989), NXB Nông nghiệp Hà Nội.
[21]. Ngô Đức Thiệu (1990), Nhận xét một số chỉ tiêu hình thành năng suất
khoai tây vùng đồng bằng sông Hồng, tr 93 -98, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
[22]. Lê Thị Thuần, Trương Văn Hộ, Đỗ Thị Bích Nga (1995), “Kết quả chọn
giống khoai tây năm 1991- 1995”, Trung tâm nghiên cứu khoai tây - rau,
Viện khoa học kĩ thuật Việt Nam.
[23]. Ngô Hữu Tình (2003), Cây ngô, NXB Nghệ An. https://thuviengiaoan.net/

56
[24]. Ngô Hữu Tình, Trần Hồng Uy, Võ Đình Long, Bùi Mạnh Cường, Lê
Quý Kha, Nguyễn Thế Hùng (1997), Cây ngô, nguồn gốc đa dạng di
truyền và phát triển. NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
[25]. Nguyễn Hải Tuất, Ngô Kim Khôi (1996), Xử lý thống kê kết quả nghiên
cứu thực nghiệm trong nông lâm ngư nghiệp trên máy vi tính, NXB Nông
Nghiệp, Hà Nội.
[26]. Phạm Hà Thái (2006), “Những đột phá trong công tác nghiên cứu và
chuyển giao khoa học công nghệ của Viện nghiên cứu ngô”, Tạp chí
Nông nghiệp và phát triển nông thôn kì I/2006.
[27]. Phạm Chí Thành (1998), Phương pháp thí nghiệm đồng ruộng, trường
Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội.
[28]. Taktjan (1977), Những nguyên lý tiến hóa của thực vật hạt kín. NXB
Khoa học kĩ thuật, Nguyễn Tiến Lộc dịch, 15-17.
[29]. Trần Hồng Uy (2001), Báo cáo kết quả ngô lai Việt Nam, Báo cáo của
Viện nghiên cứu ngô tại hội nghị tổng kết 5 năm phát triển ngô lai (1996 -
2000), lần 2.
[30]. Trần Hồng Uy, Lê Quý Kha, Surindervasal, Châu Ngọc Lý, Bùi Mạnh
Cường (2001), “Kết quả chọn tạo và thử nghiệm một số giống ngô lai
chất lượng đạm cao, HQ2000”, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn, số 1/2001.
[31]. Viện nghiên cứu ngô (1996), Kết quả nghiên cứu chọn lọc và lai tạo giống
ngô giai đoạn 1991-1995, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
[32]. Viện nghiên cứu ngô (2005), Một số kết quả nổi bật trong nghiên cứu khoa
học công nghệ Viện nghiên cứu ngô giai đoạn 2001 - 2005 và định hướng giai
đoạn 2006 - 2010. https://thuviengiaoan.net/

57
II. Tài liệu nước ngoài
[33]. Akita S.(1987), Physiological aspects for improving yiel potential in
tropical rice cultivation, Internat. Rice Res. Conf. Manila.
[34]. CIMMYT (2002), Impacts of International maize breeding research in
developing countries, CIMMYT, 1996 - 1998.
[35]. FAOSTAT (2008). http://faostat.fao.org/faostat/motes/citation.
[36]. Hallauer, A.R, Ed (1994) specciaclty corn CRC press, Boca raton, FL, 410.
[37]. http://www.nue.okstate.edu & FAOSTAT, 2004 - 2007
[38]. http://www.pgrvietnam.org.vn
[39]. http://www.nue.okstate.edu
[40]. http://ngo.vass.org.vn/saubenhhaingo.php
[41]. http://khcncaobang.gov.vn
[42]. http://edu.go.vn
[43]. http://vietfeed.wordpress.com
[44]. http://www.uni.edu
[45]. http://www.rauhoaquavietnam.vn
[46]. http://www.vaas.org.vn.
[47]. http://www. khuyennongvn.gov.vn
[48]. http://nongnghiep.vn
[49]. Ishii R.,Matsuzaki A., Li W. J., Kariya K..,Machida H., Nakamato T.,
Kumuza A. and Tsunoda K. (1986), “Comparative studies on varietal
differences of rice yield.(1). Yearly changes of the varietal difference on
grain yields”, Japan. Jour. Crop Sci, 55 (Suppl.2.), pp.65 - 66.
[50]. Khan M.A. and S. Tsumoda (1970), “Differences in leaf photosynthesis
and leaf transpiration rates among six commecial wheat varieties of West
Pakistan”, Japan.J.Breed, 20, pp.344 - 350. https://thuviengiaoan.net/

58
[51]. Vasudeva N. and Ratageri M.C (1981), “Studies on leaf to crop ratio in
two commercial species of coffee grown in India”, Jour. Coffee reseach,
11, pp.129 - 136.
[52]. Wilkes G.(1988), teosinte and other wild rela tives of maize. Proceeding
of the Global Maize Germplasm workshop. pp 70 - 80.


https://thuviengiaoan.net/