NUOC DUC - CO TICH MUA DONG (doc thu - wtm).pdf

salesphanbook 198 views 33 slides Mar 19, 2025
Slide 1
Slide 1 of 33
Slide 1
1
Slide 2
2
Slide 3
3
Slide 4
4
Slide 5
5
Slide 6
6
Slide 7
7
Slide 8
8
Slide 9
9
Slide 10
10
Slide 11
11
Slide 12
12
Slide 13
13
Slide 14
14
Slide 15
15
Slide 16
16
Slide 17
17
Slide 18
18
Slide 19
19
Slide 20
20
Slide 21
21
Slide 22
22
Slide 23
23
Slide 24
24
Slide 25
25
Slide 26
26
Slide 27
27
Slide 28
28
Slide 29
29
Slide 30
30
Slide 31
31
Slide 32
32
Slide 33
33

About This Presentation

Book


Slide Content

Tác phẩm: NƯỚC ĐỨC – CỔ TÍCH MÙA ĐÔNG
Dịch giả: Phan Kim Hổ
Dịch từ nguyên bản tiếng Đức (có đối chiếu).
Bản quyền © thuộc về dịch giả Phan Kim Hổ.
Mọi sao chép trích dẫn phải có sự đồng ý của dịch giả.

Tặng vợ hiền Nguyễn Thị Thu Hương

6
Lời giới thiệu
THI TƯỞNG VÀ SUY TƯỞNG
“Đầy cống hiến, con người cư lưu trên mặt đất như một thi sĩ”. Câu thơ cao vời nhưng gãy gọn,
chắc nịch như một định lý của thi hào Đức Friedrich Hӧlderlin (1770-1843), dường như tóm gọn
tinh chất của thi ca, nói riêng của thi ca Đức. Thế nào là sống trên đời theo thể điệu của thi nhân?
Thật khó có câu trả lời rốt ráo! Chỉ biết rằng, trong tiếng Đức, thơ và thi sĩ (Poesie/Dichter), theo
nghĩa hẹp, có lẽ là phần tinh tuyền nhất của một vùng trời bao la, sân chơi tự do của trí tưởng
tượng và mọi quan năng khác của tâm thức, được gọi chung là thi tưởng (Dichtung). Nhưng nếu
thi tưởng nâng đôi cánh mộng, thì suy tưởng (Denken) lại lắng sâu vào những thao thức, băn
khoăn của trí tuệ con người. Bằng phương tiện riêng, thi tưởng và suy tưởng là hai chóp núi chon
von, nhưng sẻ chia cùng một nguồn đất mẹ, mà hoa trái rực rỡ nhất của nó chính là Ngôn ngữ.
Hai mặt âm dương, sấp ngửa cùng nói lên một điều: đi đến tột cùng, nhưng bất tận, bởi đều Mở
Ngỏ. “Quê hương của thi sĩ và triết gia” (“Land der Dichter und Denker”) muốn nói lên niềm tự
hào của một sự hội tụ có lẽ vào loại đậm đặc nhất.
Từng làm quen với triết học Đức, nay ta lại có dịp gặp gỡ một nền thơ vạn dặm. Dịch thơ là
việc vạn nan, hay đầy “khảm kha bất bình”, nói như Bùi Giáng! Là một nhà khoa học tự nhiên,
vốn quen với sự chính xác và tỉ mỉ, sống lâu năm và rất am tường Đức ngữ, dịch giả Phan Kim Hổ
dày công tinh tuyển, mang lại cho các độc giả yêu thơ một bản dịch khả tín. Qua con mắt xanh
và khiếu thẩm thơ đặc sắc của dịch giả, nếu bạn yêu thơ tìm được trong tập Thi tuyển đẹp đẽ này
những ý tình và từ ngữ lấp lánh sáng tạo trong ngôn ngữ của Nguyễn Du, đó không chỉ là niềm
vui hạnh ngộ của người đọc mà còn là vinh dự xứng đáng dành cho dịch giả.
Bùi Văn Nam Sơn

7
Lời nói đầu
Tiếng Đức là một ngôn ngữ khó học, khó phát âm đúng và rất khó có cơ hội tiếp cận trong
quá khứ cho người Việt. Mãi đến thập kỷ 1960, 1970, 1980 của thế kỷ 20, khi hoàn cảnh lịch sử
đưa đẩy những đợt người Việt du nhập cả hai phần lãnh thổ Đức còn bị chia cắt để học tập, hợp
tác lao động, sinh sống lập nghiệp thì tiếng Đức mới dần phổ biến. Và với sự giao lưu kinh tế và
văn hóa n gày càng phát triển giữa hai nước, nhu cầu học tiếng Đức, tìm hiểu văn hóa Đức đã trở
nên cấp bách cho một bộ phận không nhỏ người Việt.
Trước đó, tuy tiếng Đức hầu như còn rất xa lạ, văn chương và thi ca Đức cũng vẫn được biết
đến ít nhiều ở Việt Nam, thông qua tác phẩm của các nhà thơ, nhà văn, nhà soạn nhạc Đức nổi
tiếng thế giới được giới thiệu trên những phương tiện truyền thông hay qua ít ỏi sách vở mà
phần lớn đã được dịch gián tiếp qua tiếng Pháp, Anh, Nga… Chỉ riêng về thơ trong văn học Đức,
một di sản đồ sộ gồm hàng nghìn tác phẩm bất tử của các nhà thơ nam nữ sử dụng tiếng Đức từ
thời Trung cổ đã được truyền đời cho đến nay , trong đó tác phẩm vĩ đại nhất là vở kịch thơ Faust
của đại thi hào Goethe với 12.111 câu thơ. Rất nhiều bài thơ tiếng Đức đã được dịch ra các ngôn
ngữ khác trên thế giới.
Tại Đức, Áo và tại các quốc gia có tiếng Đức là một trong mấy ngôn ngữ chính thức (tiếng
mẹ đẻ) như Bỉ, Thụy Sĩ, Luxemburg, thơ của nhiều tác giả được đưa vào giảng dạy trong trường
học từ rất sớm cho đến khi hết bậc trung học phổ thông. Các tác phẩm thơ văn quan trọng vẫn
được tiếp tục học tập khi sinh viên theo đuổi chuyên ngành ngôn ngữ học, văn chương. Ở Việt
Nam cho đến nay, c hỉ có một số lượng khiêm tốn thơ của Goethe và các thi hào danh tiếng khác
như Schiller, Heine, Hölderlin, Hesse… được những thi sĩ hay người yêu thơ trong nước dịch ra
tiếng Việt, giới thiệu đến bạn đọc.
Cũng là một người yêu thơ, dù đã rời Việt Nam sang Đức du học từ năm 18 tuổi, coi nước
Đức là quê hương thứ hai đã hơn 50 năm và làm công tác khoa học trong một viện nghiên cứu
ở Đức, chúng tôi vẫn yêu da diết Truyện Kiều , Chinh phụ ngâm… thi thoảng vẫn “cảo thơm lần

8
giở trước đèn”, ngâm nga lại nhiều đoạn, nhớ về quê mẹ rồi niềm xúc cảm trào dâng thoáng
chốc. Được người thân , bạn bè động viên, chúng tôi mạnh dạn sưu tập, dịch – dưới âm hưởng
của thơ ca Việt Nam – và giới thiệu đến bạn đọc trong nước qua tập sách này số lượng khiêm
tốn – 108 bài thơ – của nhiều thi sĩ được người Đức ưa thích nhất , được nhiều tác giả Đức đời sau
tuyển chọn và phát hành. Rất nhiều tác phẩm trong tuyển tập này được đưa vào giảng dạy cho
học sinh, sinh viên ở các cấp, được phổ nhạc thành những bài ca thiếu nhi, những bài tụng ca,
ngợi ca đất nước, con người, những bài thánh ca trong giáo đường.
Đây là các bài thơ thuộc nhiều thể loại khác nhau, được sáng tác chủ yếu từ thế kỷ 18 đến
giữa thế kỷ 20. Riêng trong khoảng thời gian gần 100 năm đầu trong giai đoạn này, thi ca Đức
chịu ảnh hưởng của hai thời kỳ văn học nổi trội: thời kỳ Bão tố và Thôi thúc (Sturm und Drang,
1765-1786) và thời kỳ Cổ điển Weimar (Weimarer Klassik, 1786-1832). Thời kỳ Bão tố và Thôi
thúc còn được gọi là thời kỳ của các thiên tài, của những sao Bắc đẩu trong văn chương, thi ca.
Phát sinh từ phong trào Khai sáng, đ ây là thời kỳ của trào lưu dùng thi ca để phản kháng giới
quý tộc, triều đình và giới tăng lữ, quân phiệt, chống lại những bất công, độc đoán và quan điểm
luân lý lỗi thời trong xã hội bấy giờ. Thời kỳ Cổ điển Weimar không còn chấp nhận hậu quả bạo
lực thái quá của cuộc cách mạng Pháp lúc đó và được hai nhà thơ Goethe và Schiller – cùng ở
Weimar – in đậm dấu ấn. Nội dung các tác phẩm có xu hướng nhân văn, độ lượng thay vì phản
kháng và đối đầu như trước.
Mỗi nhà thơ đều có một văn phong đặc trưng, chẳng hạn cách dùng từ bóng bẩy văn hoa
hay bình dân đại chúng, vận dụng linh hoạt các thể thơ trong sáng tác, nội dung hướng về thiên
nhiên, nội tâm hay lên án các vấn đề xã hội, tạo cho mình một dấu ấn riêng biệt trong văn học
hoặc theo một trào lưu nhất định. Để người yêu thơ có thể cảm nhận sâu sắc tổng thể mỗi bài
thơ, chúng tôi có thêm phần trình bày cơ bản các thể loại thơ, cấu trúc câu chữ và đặc biệt là
cách thức gieo vần trong thơ Đức. Trong các bài thơ được chuyển ngữ, chúng tôi cố gắng giữ
đúng cấu trúc nguyên bản như có thể với số câu, số âm tiết trong mỗi câu (khi cấu trúc bài thơ
được tác giả ấn định trước) và mô hình vần trong các bài thơ. Chỗ nào bị gò bó quá thì buộc phải
sắp xếp lại vị trí câu thơ, các chữ hay gieo vần theo một mô hình khác.
Các thời kỳ của văn học Đức cũng được đề cập tổng quát để người đọc có thể hiểu được ảnh
hưởng của các trào lưu trong bối cảnh lịch sử, xã hội đến sự cảm nhận, tâm tư, thi hứng của nhà
thơ khi tạo dựng nên tác phẩm của mình.

9
Về nội dung của mỗi tác phẩm, chúng tôi chủ trương dịch sát nghĩa, tránh suy diễn thái quá
theo ý mình. Mỗi ngôn ngữ có cách phát âm và cách nhấn mạnh câu chữ khác nhau, cho nên
sự truyền đạt luôn cả âm điệu trong bản gốc để người đọc cùng nhịp rung động là điều không
tưởng. Tuy vậy, chúng tôi cố gắng “chuyển âm” phần nào, chọn và sắp xếp từ ngữ, bằng trắc sao
cho bài dịch vẫn là thơ, có vần nhịp và giai điệu trầm bổng như thơ tiếng Việt, nhưng vẫn giữ
được trọn vẹn hồn của bài thơ mà tác giả đã gửi gắm vào.
Trong quá trình dịch thuật, có những câu thơ, đoạn thơ dịch chưa được tâm đắc và chắc
chắn là không tránh khỏi những sơ sót, cho nên chúng tôi rất mong nhận được những ý kiến
đóng góp quý báu của bạn đọc để có thể bổ sung và hoàn thiện khi quyển sách có cơ duyên được
tái bản (Liên lạc: [email protected]).
Thiết nghĩ, quyển sách dịch này cũng góp phần vào việc chuyển tải một mảnh ghép nhỏ của
văn học Đức tới độc giả Việt và tạo thêm cơ hội cho sự đồng cảm của người Việt yêu thơ với thi
ca Đức.
Aachen, tháng 12/2023
Phan Kim Hổ

10
1
Thể loại, cấu trúc và vần trong thơ Đức
Thơ có thể được xem là những tác phẩm nghệ thuật về ngôn ngữ của mỗi một dân tộc, phản
ánh nhiều sự kiện, tâm tư, cảm xúc của con người qua mỗi thời đại. Những vùng lãnh thổ ở Âu
châu có ngôn ngữ Đức là tiếng mẹ đẻ đã sản sinh ra nhiều nhà thơ lớn. Đặc biệt vào khoảng thời
gian từ thế kỷ 18 đến nay, những tác phẩm thơ bất tử gồm nhiều thể loại, đề tài… đã được dịch
ra rất nhiều thứ tiếng và có ảnh hưởng sâu xa đến nền văn học các nước khác trên thế giới.
Một bài thơ Đức bao gồm các câu thơ (Vers), có thể chỉ là vài câu hoặc vài chục, thậm chí
hàng trăm, hàng ngàn câu. Như vậy, số câu trong một bài thơ không giới hạn. Kỷ lục là tác phẩm
kịch thơ Faust của Goethe với 12.111 câu.
Các câu trong một bài thơ có thể liền lạc nhau suốt cả bài hoặc được chia ra làm nhiều
chương (Caput), nhất là trong những bài thơ dài. Mỗi chương – hay cả bài thơ ngắn – có nhiều
phân khúc (Strophe, Abschnitt), mỗi phân khúc có nhiều câu thơ, hai phân khúc kề cận được
tách ly nhau bằng một hàng bỏ trống.
1.1 Thể loại
Về nội dung, các bài thơ Đức được xếp theo nhiều thể loại. Ngoài những bài thơ phổ quát
(Gedicht, hay chữ xưa còn được dùng là Lied = bài ca), có những thể loại thơ đặc thù với tên gọi
riêng biệt được liệt kê như sau:
- Truyện thơ ngắn – ballad, ballat (Ballade): Nội dung truyện thơ ngắn là một câu chuyện về
một sự kiện bất thường, bao hàm cả ba đặc tính: tường thuật, thơ và kịch tính, có phần kết gây
ấn tượng sâu sắc. Về hình thức, bài thơ thường có cấu trúc từ ba đến sáu phân khúc. Ví dụ điển
hình là các bài Legende von der Entstehung des Buches Taoteking auf dem Weg des Laotse in die
Emigration (Truyền thuyết về sự hình thành Đạo Đức kinh trên đường Lão Tử đi ở ẩn) của Bertolt
Brecht ở trang 32, bài Der Knabe im Moor (Chú bé trong đầm lầy ) của bà Droste-Hülshoff ở trang
68 hay bài Erlkönig (Vua loài yêu tinh) của Goethe ở trang 150.

11
- Thơ xô-nê (Sonett): Một thể thơ xuất hiện trong thế kỷ 13 ở Ý rồi dần lan truyền khắp châu
Âu từ thế kỷ 16. Về niêm luật, thể thơ này có thể tạm so sánh với thơ Đường ở Việt Nam, Trung
Quốc, với yêu cầu chặt chẽ về số câu thơ, số âm tiết trong mỗi câu và quy tắc gieo vần. Để giữ
mạch thông tin về thơ xô-nê được liền lạc, chúng tôi xin giải thích rõ luôn ở đây.
Một bài thơ xô-nê nhất thiết phải có 14 câu, mỗi câu có 11 âm tiết, cách gieo vần ở cuối mỗi
câu được quy định rõ ràng (xem giải thích về số âm tiết và quy tắc gieo vần trong mục 3 ở dưới).
14 câu thơ của bài thơ được chia thành bốn phân khúc, hai phân khúc đầu có bốn câu mỗi phân
khúc (Quartett) và hai phân khúc sau có ba câu mỗi phân khúc (Terzett) (4, 4, 3, 3). Ví dụ tiêu
biểu cho thơ thể loại này là bài Nachtklage (Than vãn trong đêm) của Gustav Schwab ở trang
298, bài An meine Mutter (Mẹ ơi) của Heinrich Heine ở trang 196, gồm 2x14 = 28 câu. Một “chùm
thơ xô-nê” bao gồm nhiều bài xô-nê 14 câu riêng lẻ, được tác giả gắn kết với nhau thành chuỗi
bài thơ cùng một thể loại.
Theo thời gian, đã có các biến thể khác nhau: số âm tiết trong mỗi câu có thể tăng lên (12,
13… thay vì 11), vần gieo trong hai phân khúc sau có thể thay đổi. Bên Anh, nhà thơ William
Shakespeare và các nhà thơ khác sáng tác những bài xô-nê 14 câu cũng được chia thành bốn
phân khúc, nhưng số câu thơ trong hai phân khúc sau có thay đổi: 4, 4, 4, 2 thay vì 4, 4, 3, 3. Cách
gieo vần cũng biến đổi. Biến thể này được gọi là thể thơ xô-nê Anh (hoặc xô-nê Shakespeare).
- Thơ ngợi ca (Ode): Như tên gọi, thơ ngợi ca là thể loại thơ tôn vinh, ca tụng một sự kiện,
một đất nước, một nhân vật… Văn phong dùng trong thơ ngợi ca thường có tính trang trọng, sự
kính phục để ca ngợi phẩm cách và sự vĩ đại của sự kiện trong thơ. Thơ ngợi ca thường bao gồm
nhiều đoạn thơ và thường không có một mô hình vần (xem phía dưới) nhất định. Bài thơ ngợi
ca nổi tiếng nhất trong ngôn ngữ Đức là An die Freude (Gởi niềm hoan lạc) của nhà thơ Schiller ở
trang 264. Một đoạn của bài thơ này được Beethoven biên soạn thành Bản giao hưởng thứ chín.
- Thơ tụng ca (Hymne): Cũng là một thể thơ ca ngợi, nhưng đề tài lại giới hạn trong các vị
anh hùng, thiên thần và thiên nhiên. Bài tụng ca tiêu biểu là Prometheus của Goethe ở trang 142,
xiển dương vị thần Prometheus trong Thần thoại Hy Lạp.
- Thơ trào lộng (Epigramm): Thể thơ rất ngắn (thường chỉ khoảng 4 câu) có nguồn gốc là
thơ đề trên mộ bia, công trình kiến trúc và cả trên các quà tặng. Theo thời gian, nội dung thể thơ
biến đổi thành trào phúng hay giễu cợt, mỉa mai.

12
- Thơ bi ca (Elegie): Vì mang tính tiêu cực, các bài thơ bi ca được xem như đối nghịch với
thơ ngợi ca và tụng ca. Chúng phần lớn hàm chứa nội dung oán than, buồn bã như chết chóc,
phân ly, đau khổ và mất mát. Thơ bi ca có nguồn gốc từ Tiểu Á và Hy Lạp cổ, có cấu trúc đặc thù.
Chùm thơ Römische Elegien (Bi ca La Mã, gồm 24 bài, bài thứ 5 ở trang 152) của Goethe hay bài
Der Spaziergang (Cuộc dạo chơi, 200 câu thơ) của Schiller là hai tác phẩm thơ bi ca được biết đến
nhiều. Ngoài phần nội dung, thơ bi ca có thể được nhận biết qua cấu trúc đặc biệt, dựa vào cách
phát âm và nhấn mạnh/không nhấn mạnh các chữ trong câu.
Cách nhấn mạnh âm chính trong mỗi chữ hay trong mỗi câu thơ, tạo nên âm vực cao thấp
(tiếng Đức gọi là Metrum, Versmaß) cũng có ý nghĩa quan trọng khi thể hiện bài thơ. Tuy không
có nhiều âm sắc trầm bổng như trong tiếng Việt, cách nhấn mạnh/không nhấn mạnh đúng chỗ
trong chữ đa âm và trong câu thơ cũng giúp bài thơ có được sức truyền cảm, du dương, dễ đi vào
lòng người – theo cách Đức.
1.2 Cấu trúc
1.2.1 Số âm tiết trong câu thơ
Mỗi chữ tiếng Đức có 1, 2, 3 âm tiết hoặc nhiều hơn. Số chữ hay âm tiết trong mỗi câu thơ có
thể tùy chọn, không có quy luật nhất định, trừ thể thơ xô-nê. Nhưng nhiều tác giả đã chọn một
khuôn mẫu cụ thể cho một số tác phẩm của mình bằng cách chọn chữ với số âm tiết nhất định
cho mỗi câu thơ. Chẳng hạn bài thơ Mailied (Bài ca tháng Năm) của Goethe (ở trang 136) có 36
câu, trong đó tất cả các câu số lẻ chỉ có 5 âm tiết và tất cả câu số chẵn 4 âm tiết, rất khó cho một
ngôn ngữ đa âm như tiếng Đức. Một ví dụ khác là bài thơ Diotima của Hölderlin (trang 226) có
trên 100 câu, trong đó tất cả các câu số lẻ có 8 âm tiết, câu số chẵn 7 âm tiết.
Riêng thể thơ xô-nê nguyên thủy, như đã trình bày ở trên, có chính xác 11 âm tiết trong mỗi
câu thơ.
Ví dụ câu số lẻ 5 âm tiết, câu số chẵn 4 âm tiết
Es dringen Blüten
Aus jedem Zweig
Und tausend Stimmen
Aus dem Gesträuch.
Trích đoạn bài thơ
Mailied của Goethe
Nụ hoa chen nhau nở
Từ mỗi nhành cây
Nghìn âm vang hớn hở
Từ trong bụi này.
Phan Kim Hổ dịch
Từ bài thơ Bài ca tháng Năm

13
1.2.2 Thơ vắt dòng (Enjambement)
Ở thơ vắt dòng, một câu thơ chưa hết trọn ý đã bị ngắt giữa chừng, ý tưởng liền lạc tiếp nối
được thể hiện trong câu tiếp theo, tức là “vắt ” từ dòng trên xuống dòng dưới.
Ví dụ câu số lẻ 8 âm tiết, câu số chẵn 7 âm tiết
Lange tot und tiefverschlossen,
Grüßt mein Herz die schöne Welt;
Seine Zweige blühn und sprossen,
Neu von Lebenskraft geschwellt;
Trích đoạn bài thơ
Diotima của Hölderlin
Khép kín từ lâu, tợ ra thiên cổ,
Tim ta choàng tỉnh đón thế gian;
Trên cành, hoa lá bung chồi nở rộ,
Ngồn ngộn sức sống mới tuôn tràn;
Phan Kim Hổ dịch
Từ bài thơ Nàng Diotima
Weh mir, wo nehm ich, wenn
Es Winter ist, die Blumen, und wo
Den Sonnenschein,
Und Schatten der Erde?

Trích đoạn bài thơ Hälfte des Lebens
của Hölderlin
Khổ thân, ta lấy đâu ra, vào
Mùa đông, những bông hoa, và từ đâu
Ánh nắng chan hòa,
Và bóng mát thế gian?
Phan Kim Hổ dịch
Từ bài thơ Nửa cuộc đời
1.3 Quy tắc gieo v ần
Vần (Reim) là đặc điểm chính của một bài thơ. Cũng như trong thơ tiếng Việt, hai chữ Đức
vần với nhau khi có cùng âm điệu, ít nhất là ở âm cuối. Ví dụ: kl ar và wunderbar.
Thơ Đức có nhiều điểm khác biệt về cách gieo vần (chẳng hạn ở cuối câu, giữa câu) và cấu
trúc bài thơ (thí dụ số chữ trong mỗi câu thơ, các đoạn thơ trong một bài thơ) so với những thể
loại thơ tiếng Việt.
Trừ những bài thơ thuộc thể loại thơ mới, thơ tự do (không vần điệu, không giới hạn số chữ
trong câu), những bài thơ Đức từ xưa đến nay có cấu trúc và cách gieo vần khác nhau, nhưng
cũng tuân thủ theo những quy luật chặt chẽ. Cấu trúc thơ và cách gieo vần chịu ảnh hưởng của
chính mỗi ngôn ngữ, chẳng hạn như mỗi chữ Đức có thể là một âm tiết (Silbe) như gut, hai âm

14
tiết như besser, ba âm tiết như Qualität hoặc nhiều hơn nữa, thường là những chữ khác nhau,
được ghép lại thành một chữ mới.
Vần theo số âm tiết trong chữ (Kadenz):
Vì mỗi chữ Đức gồm 1, 2, 3 âm tiết hay hơn, ta có hình thức vần theo số lượng âm tiết trong chữ.
- Vần 1 âm tiết : ví dụ Haus, Maus/Wald, kalt.
- Vần 2 âm tiết: ví dụ Sonne, Wonne/Rose, Hose.
- Vần 3 âm tiết: ví dụ duftigen, luftigen/Treibenden, Bleibenden .
Vần không hoàn hảo (unreiner Reim):
Khi hai chữ gần như là vần nhau, nhưng khi phát âm có một ít khác biệt do có phụ âm
khác. Ví dụ:
- Lieben, siegen
- Sieben, Frieden
1.3.1 Cách gieo vần
Trong thơ Đức, vần thường được gieo ở chữ nằm cuối câu thơ. Các chữ vần nhau ở cuối câu
được sắp đặt theo một hệ thống bố trí rõ ràng, được gọi là mô hình vần (Reimschema). Trong
mô hình này, những chữ vần nhau ở cuối câu thơ được gọi chung theo một mẫu tự nhất định và
theo thứ tự (a, b, c, d…) từ trên xuống dưới. Ví dụ:
Abend wird es wieder: a
Über Wald und Feld b
Säuselt Frieden nieder a
Und es ruht die Welt b
Trích đoạn bài thơ
Abendlied của Hoffmann von Fallersleben
Trời lại dần chạng vạng tối:
Trên rừng và ruộng đồng
Yên bình thì thào muôn lối
Vạn vật an giấc nồng.
Phan Kim Hổ dịch
Từ bài thơ Bài ca hoàng hôn
Wieder và nieder vần với nhau, nên được biểu hiệ n bằng cùng mẫu tự a trong mô hình. Feld
và Welt vần với nhau và khác với a, được biểu hiện bằng mẫu tự b. Mô hình vần cho đoạn thơ
này là: abab.

15
Và qua mô hình vần, ta có thể phân biệt được các phân khúc thơ (Strophe) trong một bài thơ.
Mỗi mô hình vần có tên gọi nhất định. Có 8 mô hình vần được trình bày sau đây, trong đó 4 mô
hình đầu rất phổ biến, và 4 mô hình sau ít được sử dụng hơn .
a) Vần cặp đôi (Paarreim)
Từng cặp hai câu thơ nối tiếp nhau vần với nhau, suốt cả bài thơ. Thể loại vần này có nhiều
trong các bài thơ, bài hát thiếu nhi hay các bài dân ca vui nhộn, phóng khoáng. Trong lúc đọc,
nhịp điệu khiến cho lời của bài thơ dễ nhớ và dễ thuộc lòng.
Mô hình vần: aa bb cc…
Ein dicker Sack – den Bauer Bolte, a
Der ihn zur Mühle tragen wollte, a
Um auszuruhn, mal hingestellt b
Dicht bei ein reifes Ährenfeld – b
Legt sich in würdevolle Falten c
Und fängt ’ne Rede an zu halten. c
Trích đoạn bài thơ
Ein dicker Sack của Wilhelm Busch
Anh nông dân Bolte – có một bao tải,
Muốn mang bao đến chiếc cối xay,
Anh đặt bao xuống, ngồi nghỉ một thoáng,
Gần cánh đồng bông lúa chín vàng –
Bao tự xếp nếp lớp vải tề chỉnh
Và bắt đầu lên giọng thuyết trình.
Phan Kim Hổ dịch
Từ bài thơ Chiếc bao tải lớn
b) Vần chéo (Kreuzreim)
Trong từng đoạn 4 câu thơ, câu 1 vần với câu 3 và câu 2 vần với câu 4. Đây là cách gieo vần
rất phổ biến, được các thi sĩ Đức mọi thời đại áp dụng thường xuyên khi sáng tác.
Mô hình vần: abab cdcd
Hat der alte Hexenmeister a
Sich doch einmal wegbegeben! b
Und nun sollen seine Geister a
Auch nach meinem Willen leben. b
Seine Wort‘ und Werke c
Merkt ich und den Brauch, d
Und mit Geistesstärke c
Tu ich Wunder auch. d
Trích đoạn bài thơ
Der Zauberlehrling của Goethe
Rồi thì ông thầy già phù thủy
Cũng một lần đi vắng khỏi nhà!
Và giờ đám ma xó của ông ấy
Cũng phải làm theo ý của ta.
Chữ nghĩa thầy, mọi cử chỉ
Cả tập tục ta đã thuộc bài,
Và với sức mạnh ma quỷ
Ta cũng phù phép như ai.
Phan Kim Hổ dịch
Từ bài thơ Phù thủy tập sự

16
c) Vần ôm (umarmender Reim)
Còn được gọi là vần bọc (umfassender Reim). Trong một đoạn 4 câu thơ, câu 2 vần với câu 3
(tạo thành vần cặp đôi), và câu 1 vần với câu 4, “ôm” hay “bọc” câu 2, câu 3 ở giữa.
Mô hình vần: abba, cddc, effe
Im tollen Wahn hatt ich dich einst verlassen, a
Ich wollte gehn die ganze Welt zu Ende, b
Und wollte sehn, ob ich die Liebe fände, b
Um liebevoll die Liebe zu umfassen. a
Trích đoạn bài thơ
An meine Mutter của Heinrich Heine
Con từng rời mẹ trong cơn hoang tưởng,
Muốn đi thăm trọn cả thế gian này,
Và muốn xem, liệu tình yêu tìm thấy,
Để tình yêu con ôm trọn thân thương.
Phan Kim Hổ dịch
Từ bài thơ Mẹ ơi
d) Vần lượn (Schweifreim)
Trong một đoạn 6 câu thơ, các cặp câu thơ vần nhau là 1-2, 3-6 và 4-5. Hay ta có thể nói rằng
vần lượn kết hợp hai cách gieo vần trình bày ở trên thành một: 2 câu đầu là vần cặp đôi aa, 4 câu
sau là vần ôm bccb.
Mô hình vần: aabccb
Der Mond ist aufgegangen, a
die goldnen Sternlein prangen a
am Himmel hell und klar; b
der Wald steht schwarz und schweiget, c
und aus den Wiesen steiget c
der weiße Nebel wunderbar. b
Trích đoạn bài thơ
Der Mond ist aufgegangen của Matthias Claudius
Vầng trăng nhô cao vành vạnh,
muôn vì sao bé hoàng kim lấp lánh
trên bầu trời sáng và trong;
vạt rừng đen sừng sững tĩnh lặng,
và vươn lên từ đồng cỏ vắng
một làn sương trắng đẹp bềnh bồng.
Phan Kim Hổ dịch
Từ bài thơ Trăng lên
e) Vần tích tụ (Haufenreim)
Hình thức gieo vần từ thể loại này – và hai hình thức tiếp theo sau, vần cài răng lược và vần
chuỗi – ít phổ biến trong những bài thơ Đức.
Trong dạng vần tích tụ, tất cả các chữ cuối trong bài thơ hay đoạn thơ đều có vần giống nhau.

17
Mô hình vần: aaaaa
Im Wald a
sind die Bäume alt, a
die Luft ist kalt, a
meine Stimme schallt, a
Oh wie schön ist es im Wald. a

Khuyết danh
Auf den hohen Klippen a
Sitzen sieben Robbensippen, a
Die sich in die Rippen tippen, a
Bis sie von den Klippen kippen. a
Khuyết danh
Trong rừng tòng,
cây già cỗi trải rộng,
không khí lạnh cóng,
tiếng tôi vang vọng,
Ồ trong rừng đẹp vô song.
Phan Kim Hổ dịch thoát
Bên trên ghềnh đá cao cao
Bảy bầy hải cẩu lao xao,
Vỗ vào sườn nhau huyên náo,
Đến khi lộn cổ té nhào .
Phan Kim Hổ dịch
e) Vần cài răng lược (verschränkter Reim)
Thể loại vần này không phổ biến trong thơ Đức. Trong một đoạn 6 câu thơ, các cặp câu thơ
vần nhau là 1 -4, 2-5 và 3-6, tức là abc abc. Đây là cách gieo vần bắt buộc cho hai phân khúc sau
(4, 4, 3, 3) khi sáng tác những bài thơ xô-nê dạng nguyên thủy.
Mô hình vần: abc abc
Wozu, o Mond, mit deinem
Strahlenschimmer a
Hat dich ein Gott in Lüsten
aufgehangen, b
Als daß die Lieb‘ in deinem Licht soll
wallen? c
Die Liebe wallt in deinem Lichte
nimmer, a
Der Docht in deiner Lamp‘ ist
ausgegangen, b
Und deine Scherben laß vom
Himmel fallen. c
Trích đoạn bài thơ
Amaryllis của Friedrich Rückert
Làm chi vậy, hỡi mặt trăng soi
rạng rỡ
Một vị thần treo mi lơ lửng lúc
hứng khởi,
Để tình yêu hớn hở dưới ánh trăng
hay sao?

Dưới ánh trăng tình yêu không bao giờ
hớn hở,
Tim bấc trong chiếc đèn của mi đã
tắt rồi,
Và để các mảnh trăng vỡ rơi rụng từ
trời cao.
Phan Kim Hổ dịch
Từ bài thơ Amaryllis

18
g) Vần chuỗi xích (Kettenreim)
Ba câu thơ hợp thành một đoạn thơ. Câu 1 và câu 3 vần nhau, trong khi câu 2 ở giữa vần với
câu 4 và câu 6 nằm cạnh bên dưới. Và cứ tiếp tục như thế.
Mô hình vần: aba bcb cdc
Im ernsten Beinhaus war’s, wo ich
beschaute a
Wie Schädel Schädeln angeordnet paßten; b
Die alte Zeit gedacht‘ ich,
die ergraute. a
Sie stehn in Reih‘ geklemmt‘ die sonst sich
haßten, b
Und derbe Knochen, die sich tödlich
schlugen, c
Sie liegen kreuzweis, zahm allhier zu
rasten. b
Entrenkte Schulterblätter! was sie trugen c
Fragt niemand mehr, und zierlich tät’ge
Glieder, d
Die Hand, der Fuß, zerstreut aus Lebensfugen. c
Trích đoạn bài thơ
Bei Betrachtung von Schillers Schädel của Goethe
Trong nhà hài cốt trang nghiêm tôi
chiêm ngưỡng
Bao hộp sọ được sắp xếp cho vừa vặn;
Tôi hồi tưởng đến thời đã nhuốm
hơi sương.
Sọ xếp sít theo hàng, từng ghét nhau
đã hẳn,
Và mớ xương thô, đã đánh nhau
tơi bời,
Nằm chồng chéo, cùng yên nghỉ chẳng
thù hằn.
Xương vai trật khớp! những gì họ mang với
Không ai hỏi nữa, và tứ chi linh hoạt
mảnh mai,
Bàn tay, chân, tứ tán khỏi khớp nối cuộc đời.
Phan Kim Hổ dịch
Từ bài thơ Khi ngắm sọ Schiller
h) Vần mồ côi (Waise)
Đúng ra đây không phải là một dạng vần. Trong một phân khúc thơ, các câu vần với nhau,
chỉ có một câu không vần với câu nào. Chữ cuối trong một câu thơ không vần được đánh dấu
chữ x.

19
Riêng trong thể thơ xô-nê gồm 14 câu thơ (4, 4, 3, 3) với niêm luật chặt chẽ, cách gieo vần
được quy định như sau: abba abba cbc cbc. Theo thời gian, cách gieo vần cho hai phân khúc
sau có thể thay đổi linh hoạt: ccc ddd hoặc ccd eed...
1.3.2 Hình thức vần khác
Những cách thức gieo vần này không phổ biến, nhưng cũng được trình bày ngắn ở đây.
Veilchen träumen schon, a
wollen balde kommen. b
Horch, ein leiser Harfenton! a
Frühling, ja du bist’s! x
Dich habe ich vernommen! b
Trích đoạn bài thơ
Frühling lässt sein blaues Band của Eduard Mörike
Hoa tím rồi mơ mộng,
muốn được sớm đến thôi.
Nghe kìa, tiếng đàn hạc xa vọng!
Xuân ơi, đúng là em đấy!
Ta đã cảm nhận em rồi!
Phan Kim Hổ dịch
Từ bài thơ Xuân lưu dấu dải băng xanh
Hình thức vần Ví dụ Vần tiếng Việt tương tự
Trong câu
(Binnenreim)
Dann und wann (Thỉnh thoảng)
Er rannte und es brannte
(Hắn chạy và lửa cháy)
Chuyện nhỏ như con thỏ
Nhiều chữ trong
câu có cùng mẫu tự
(Stabreim)
Milch macht müde Männer munter
(Sữa làm đàn ông mệt mỏi thành
sảng khoái)
In Licht und Luft zerrinnen
mir Lieb‘ und Leid
(Tình yêu và nỗi đau tôi tan biến
trong ánh sáng và khí trời!)
Thuyền tình trống toác trôi
thanh thản
Thủ tiết trai tân tới tứ tuần
(Phan Kim Hổ)
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cặp kê
(Truyện Kiều)

20
2
Các thời kỳ văn học Đức
Văn học ngôn ngữ Đức (ở Đức và những vùng lãnh thổ nói tiếng Đức như Áo, Thụy Sĩ...) được
xếp vào nhiều thời kỳ khác nhau, tùy thuộc vào những tư tưởng hay ý tưởng chủ đạo đã tạo được
dấu ấn trong khoảng thời gian đó. Ranh giới giữa những thời kỳ không được xác định chính xác
hay công nhận rộng rãi, có biên độ xê dịch đến vài mươi năm. Đại thể lịch sử văn học Đức được
xếp vào năm khoảng thời gian chính, trong mỗi khoảng thời gian có nhiều thời kỳ khác nhau. Số
thời kỳ trong mỗi khoảng thời gian có thể giao thoa và còn được bổ sung, tùy vào đánh giá của
người nghiên cứu văn học. Trong mỗi thời kỳ còn có các tác giả không theo trào lưu chung, mà
có trọng tâm riêng của mình (ví dụ Hölderlin vào thế kỷ 19).
Để người đọc có cái nhìn tổng quan, chúng tôi xin trình bày tóm tắt các thời kỳ văn học Đức
sau đây.
2.1 Khoảng thời gian 900-1720
- Thời kỳ Trung cổ đến trước cận đại (900-1450): Thời kỳ này đã sớm xuất hiện những bài ca,
truyện, sách vở còn lưu truyền đến nay.
- Thời kỳ Ba-rốc (Barock, 1600-1720): Văn học Đức chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc chiến
tranh 30 năm (1618-1648) gây chết chóc, tàn phá và bệnh dịch hạch hoành hành. Đây là một
thời kỳ phong phú về văn học, nhiều tác phẩm có nội dung phản ánh sự đau thương mất mát
trong mọi tầng lớp xã hội.
2.2 Khoảng thời gian 1720-1832
Trong khoảng thời gian này, văn chương và nghệ thuật Đức nở rộ.
- Thời kỳ Khai sáng (Epoche der Aufklärung, khoảng 1720-1800): Từ thế kỷ 18, các nhà Khai
sáng ở châu Âu là những học giả như John Locke, Immanuel Kant, Gotthold Ephraim Lessing,
Jean-Jacques Rousseau, Georg Wilhelm Friedrich Hegel… chủ trương quảng bá các tư tưởng

21
tiến bộ, xem khoa học, sức mạnh của lý trí, tính phê phán là chìa khóa để đưa xã hội và con
người phát triển, xem các giáo điều, mê tín của thần quyền và những bất công truyền đời từ giai
cấp phong kiến thời đó là những rào cản cần đánh đổ. Các quan hệ xã hội, quyền con người phải
được xây dựng mới trên cơ sở bình đẳng, dựa theo luật pháp. Bối cảnh của thời kỳ này là cuộc
cách mạng tư sản Pháp, bùng nổ vào năm 1789, khống chế được quyền lực to lớn của giáo hội
Kitô giáo và giới cầm quyền phong kiến. Kant định nghĩa khai sáng là “lối thoát của con người
khỏi sự ấu trĩ do chính mình gây ra”.
- Thời kỳ Đa cảm (Empfindsamkeit, khoảng 1740-1780): Đa cảm được định nghĩa là một
dạng cảm giác và cảm xúc mới, đối nghịch với định hướng cơ bản của Khai sáng, được xem là
hợp lý một chiều. Qua các tác phẩm, văn hóa hướng về nội tâm được tạo dựng.
- Thời kỳ Bão tố và Thôi thúc (Sturm und Drang, khoảng 1765-1786): Thời kỳ này mang tên
vở kịch tiêu biểu Bão tố và Thôi thúc (1776) của Friedrich Maximilian Klinger. Đặc điểm của thời
kỳ này là niềm tin vào lý trí con người của trào lưu Khai sáng, đoạn tuyệt với những lý tưởng cổ
xưa, guồng máy áp bức trong xã hội phân chia giai cấp nặng nề. Những cảm nhận bản thân, tình
yêu, tính tự nhiên và sự tự do về nghệ thuật được tôn vinh.
- Thời kỳ Cổ điển Weimar (Weimarer Klassik, 1786-1832): Đây là thời kỳ mà hai nhà thơ
Goethe và Schiller rời bỏ trào lưu Bão tố và Thôi thúc để phát huy một tri thức mới về nghệ thuật,
trở lại các lý tưởng về thẩm mỹ của thời xa xưa. Tính nhân văn của con người được hoàn thiện
qua các hình thức nghệ thuật.
2.3 Khoảng thời gian 1800-1900
- Thời kỳ Lãng mạn (Romantik, 1795-1840): Nội dung các tác phẩm trong thời kỳ này là
những điều hay đẹp, tính thẩm mỹ tuyệt vời. Các tác giả trong giới văn học tinh hoa chủ ý dùng
thi ca làm phương tiện để biến chuyển tâm hồn và thiên nhiên thành một thể thống nhất. Các
vấn đề trong xã hội và cuộc sống ít được đề cập, trong khi những rung cảm nội tâm, thôi thúc tự
do cá nhân và cuộc sống trong thiên nhiên, thoát ra ngoài những quan điểm gò bó được đề cao.
- Thời kỳ Biedermeier (Biedermeier, 1815-1848): Đây là xu hướng văn học, âm nhạc, nghệ
thuật của một số các tác giả tại Đức sau dấu mốc lịch sử 1815 (năm tổ chức Đại hội Vienna, Áo,
quy tụ tất cả đại sứ các nước châu Âu để giải quyết hậu quả chiến tranh và bàn về trật tự mới cho
châu lục) muốn thoát ra ngoài tư tưởng chủ đạo chung là khôi phục bảo thủ sau Đại hội. Nội
dung tác phẩm của nhóm tác giả này cho thấy chủ trương rút lui về đời sống riêng tư.

22
- Thời kỳ “Trước tháng 3” (Vormärz, khoảng 1830-1848): Tên của thời kỳ này được gọi theo
hoạt động của phong trào chính trị đối lập trước cuộc cách mạng Đức vào cuối tháng 3 năm 1848.
Các chủ đề sáng tác là tự do, hiến pháp và thống nhất nước Đức (điển hình là nhà thơ Hoffmann
von Fallersleben), cũng như cuộc sống lầm than của nông dân, công nhân và binh lính.
- Thời kỳ Chủ nghĩa hiện thực (Realismus, 1848-1900): Đây là xu hướng sáng tác mô tả cuộc sống
và những vấn đề chân thực của con người trong xã hội; những điều giả tạo, hư cấu không có chỗ
đứng. Chủ nghĩa hiện thực thành cao trào trong thế kỷ 19 ở các nước Pháp, Ý, Anh, Nga rồi phổ biến
khắp châu Âu, nhưng nhiều tác phẩm mang tính hiện thực đã hiện hữu từ rất lâu trước đó.
- Thời kỳ Chủ nghĩa tự nhiên (Naturalismus, 1880-1900): Theo chủ nghĩa tự nhiên, nghệ
thuật, thi văn có định hướng đến thiên nhiên và phản ánh được cuộc sống thực hằng ngày mà
không tô vẽ thêm. Qua đó, những điều ngoài khuôn khổ, cái ác và các vấn nạn trong xã hội là
các chủ đề cho sáng tác.
2.4 Khoảng thời gian 1900-1945
Khoảng thời gian này có tên gọi là Thời kỳ Hiện đại (Moderne). Những biến động lớn trong
chính trị, xã hội, sự phát triển vượt bậc khoa học kỹ thuật và hai trận thế chiến tàn khốc đã dẫn
đến sự đoạn tuyệt với những giá trị truyền thống trong văn học, hướng đến một hình tượng mới
mẻ hơn của con người như là một cá thể riêng biệt. Các tác giả tự cho mình là cá nhân tự do và
độc lập, sáng tác hoàn toàn theo ý tưởng và nhận thức của mình. Thời kỳ Hiện đại còn có những
trào lưu văn học cùng tồn tại song song sau đây:
- Thời kỳ Chủ nghĩa ấn tượng (Impressionismus, 1890-1920): Ngược với chủ nghĩa tự nhiên,
nội dung của thời kỳ này là thể hiện cảm xúc và các ấn tượng một cách chi tiết. Dựa trên quan
điểm cá nhân, các tác giả viết về cái đẹp và tính phù du của một giai đoạn. Các tác phẩm do đó
được xem là mơ mộng và nhiều cảm xúc.
- Thời kỳ Chủ nghĩa biểu hiện (Expressionismus, 1905-1925): Người theo chủ nghĩa biểu hiện
chống lại những chuẩn mực lỗi thời của Đế chế Đức, phát triển các hình thức mới để thể hiện cảm
xúc và nhận thức bằng các tác phẩm của mình. Các chủ đề chính là cuộc sống trong thành phố và
tác động của nó đến mỗi cá nhân , sự tàn phá của Thế chiến I, văn hóa suy đồi trong xã hội.
- Thời kỳ Khách quan mới (Neue Sachlichkeit, 1918-1933): Phong trào này hình thành trong
những năm 1920 như là một phản ứng với những cảm xúc và sự kinh hoàng sau Thế chiến I. Các
tác phẩm diễn tả một cách khô khan, gần như không liên quan đến các nhân vật, các vấn đề

23
về xã hội, kinh tế trong thị thành. Hình ảnh về phụ nữ bình quyền, vai trò của các phương tiện
truyền thông mới như phim và phát thanh cũng là chủ đề các sáng tác.
- Thời kỳ Văn học lưu vong (Exilliteratur, 1933-1945): Sau khi Hitler và đảng Quốc xã nắm
quyền ở Đức vào năm 1933, nhiều nhà văn, nhà thơ chống lại chủ nghĩa phát xít và buộc phải
rời nước Đức, ra sinh sống và sáng tác ở nước ngoài. Từ đó, trào lưu văn chương lưu vong hình
thành. Điển hình là các tác phẩm nổi tiếng của Thomas Mann, Kurt Tucholsky, Bertolt Brecht…
với nội dung phản kháng và cảnh báo về sự nguy hại của chủ nghĩa quốc xã. Những tác giả phản
kháng chế độ quốc xã, nhưng chấp nhận ở lại Đức được gọi là thành phần di cư nội địa (innere
Emigration). Nhà thơ, nhà báo, nhà văn Erich Kästner là một ví dụ điển hình cho trường hợp này.
2.5 Khoảng thời gian 1945 đến nay
- Thời kỳ Văn học hậu chiến (Nachkriegsliteratur, 1945-1967): Nội dung các tác phẩm có
trọng tâm là cảm nhận sau cuộc thế chiến, thể hiện tình cảnh đất nước bị tàn phá và những
hậu quả để lại cho con người, cho cuộc sống. Văn học hoang tàn (Trümmerliteratur, 1945-1950)
thường được xem là thời kỳ Văn học hậu chiến, nhưng thật ra đó chỉ là một trào lưu của thời
kỳ này. Các tác giả – trong đó có nhiều cựu binh trẻ – bắt đầu cầm bút sáng tác khi chiến tranh
chấm dứt vào năm 1945. Văn thơ của họ phản ánh xác thực những suy tư về nỗi đau thương mất
mát trong chiến tranh cũng như cảnh hoang tàn thời hậu chiến. Tiêu biểu cho trào lưu này là
Bertold Brecht, Heinrich Böll, Erich Kästner, Günter Eich…
Khi nước Đức bị chia thành hai vùng lãnh thổ (CHLB Đức và CHDC Đức) từ năm 1949 đến
năm 1990, văn học Đức cũng trải qua hai dòng tư tưởng để thích ứng với những điều kiện về
chính trị và xã hội ở mỗi nơi.
Trong bối cảnh những biến động chính trị lớn ở CHLB Đức như luật về tình trạng khẩn
trương được ban hành, chiến tranh Việt Nam leo thang, chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang
hạt nhân, quá khứ phát xít của CHLB Đức không được giải quyết v.v., một số nhà văn, nhà thơ
trong những năm 1968 (1968er, 1965-1972) như Peter Weiss, Erich Fried chủ trương phải có sự
thay đổi mạnh mẽ trong xã hội, do đó nội dung các tác phẩm mang thông điệp chính trị rõ ràng.
- Thời kỳ Chủ quan mới (Neue Subjektivität, 1970-1990): Chủ trương thoát khỏi nội dung
chính trị của thời những năm 1968, chủ đề cá nhân với những vấn đề riêng trong cuộc sống trở
thành trọng tâm trong văn học.
- Thời kỳ Đương đại (Gegenwart, 1990 đến nay).

24
3
Các nhà thơ ngôn ngữ Đức
có tác phẩm được chọn
(Xếp theo thứ tự ABC)
Tác giả Số bài thơ
được dịch
Tên Họ
1 Bertolt Brecht 5
2 Wilhelm Busch 4
3 Matthias Claudius 4
4 Annette von Droste-Hülshoff 6
5 Joseph von Eichendorff 7
6 Hoffmann von Fallersleben 9
7 Theodor Fontane 5
8 Erich Fried 7
9 Johann Wolfgang von Goethe 14
10 Heinrich Heine 12
11 Hermann Hesse 8
12 Friedrich Hölderlin 3
13 Erich Kästner 6
14 Hermann Löns 4
15 Rainer Maria Rilke 6
16 Friedrich Schiller 4
17 Gustav Schwab 4
Tổng cộng 108

26 PHAN KIM HỔ
Bertolt Brecht
Tiểu sử tóm lược
Tên đầy đủ Eugen Berthold Friedrich Brecht
(Nguồn ảnh: Wikipedia)
Ngày sinh
Ngày mất
10/02/1898, Ausburg
14/08/1956, Đông Berlin
Đào tạo Đại học Munich, ngành y , khoa học tự
nhiên và nghệ thuật sân khấu
Trào lưu Khách quan mới, Văn học lưu vong, Văn
học hoang tàn
Nghề nghiệp Nhà thơ, nhà soạn kịch, đạo diễn sân khấu
Tác phẩm - 51 vở kịch
- Khoảng 2.300 bài thơ
- 548 tiểu thuyết và truyện ngắn
- 1.000 tiểu luận
Các tác phẩm
nổi tiếng nhất
Kịch:
- Die Dreigroschenoper (Ca kịch ba xu , 1928)
- Mutter Courage und ihre Kinder (Người mẹ dũng cảm và các con , 1941)
- Der gute Mensch von Sezuan (Người tốt ở Tứ Xuyên, 1943)
- Das Leben des Galilei (Đời sống của Galilei , 1943)
Thơ:
- Legende von der Entstehung des Buches Taoteking auf dem Weg des Laotse
in die Emigration (Truyền thuyết về sự hình thành Đạo Đức kinh trên đường
Lão Tử đi ở ẩn, 1938)
- An die Nachgeborenen (Gởi người sinh sau, 1934-1938)
- Die Bitten der Kinder (Lời thỉnh cầu của trẻ em , 1951)
Chân dung Bertolt Brecht

NƯỚC ĐỨC - CỔ TÍCH MÙA ĐÔNG 27
Bertolt Brecht là nhà hoạt động sân khấu, nhà thơ, nhà lý luận có ảnh
hưởng lớn trong văn học Đức vào thế kỷ 20. Năm 1917, ông ghi danh vào Đại
học Munich, ngành triết và sau đó là y khoa, khi Thế chiến I vẫn còn kéo dài.
Năm 1918, ông bị gọi nhập ngũ làm chuyên viên y tế. Sau chiến tranh, ông vẫn
tiếp tục học y khoa, nhưng lại theo các khóa học về khoa học sân khấu nhiều
hơn, dần chuyển sang viết kịch. Năm 24 tuổi, ông viết vở kịch Tiếng trống đêm ,
đạt thành công lớn, được giải thưởng và vào làm nhà soạn kịch của sân khấu
Munich. Sau đó, ông đổi đến Nhà hát Đức ở Berlin, tiếp tục sáng tác và trình
diễn. Ông đã đồng sáng lập thể loại sân khấu sử thi (episches Theater). Khác
với thể loại sân khấu cổ điển, khán giả xem kịch không để cảm xúc lôi cuốn
theo câu chuyện, mà giữ khoảng cách và phê phán các diễn tiến. Lúc này ông
đã nổi tiếng khắp châu Âu. Năm 1933, Hitler lên cầm quyền. Ông bị truy bức
vì tư tưởng Marxist của mình và các tác phẩm chống phát xít Hitler nên phải
lưu vong qua Tiệp, Áo, Thụy Sĩ, Pháp, Đan Mạch, Thụy Điển, Phần Lan, Liên
Xô, Mỹ trong suốt 15 năm. Sau thời kỳ lưu vong, ông trở về sinh sống ở CHDC
Đức. Từ năm 1949, ông làm Giám đốc Nghệ thuật Nhà hát Berliner Ensemble
tại Đông Berlin.
Ông mất sớm ở Đông Berlin vì bệnh tim kinh niên đã mắc phải từ thời còn
trai trẻ.
Bertolt Brecht
Tiểu sử tóm lược
Tên đầy đủ Eugen Berthold Friedrich Brecht
(Nguồn ảnh: Wikipedia)
Ngày sinh
Ngày mất
10/02/1898, Ausburg
14/08/1956, Đông Berlin
Đào tạo Đại học Munich, ngành y , khoa học tự
nhiên và nghệ thuật sân khấu
Trào lưu Khách quan mới, Văn học lưu vong, Văn
học hoang tàn
Nghề nghiệp Nhà thơ, nhà soạn kịch, đạo diễn sân khấu
Tác phẩm - 51 vở kịch
- Khoảng 2.300 bài thơ
- 548 tiểu thuyết và truyện ngắn
- 1.000 tiểu luận
Các tác phẩm
nổi tiếng nhất
Kịch:
- Die Dreigroschenoper (Ca kịch ba xu , 1928)
- Mutter Courage und ihre Kinder (Người mẹ dũng cảm và các con , 1941)
- Der gute Mensch von Sezuan (Người tốt ở Tứ Xuyên, 1943)
- Das Leben des Galilei (Đời sống của Galilei , 1943)
Thơ:
- Legende von der Entstehung des Buches Taoteking auf dem Weg des Laotse
in die Emigration (Truyền thuyết về sự hình thành Đạo Đức kinh trên đường
Lão Tử đi ở ẩn, 1938)
- An die Nachgeborenen (Gởi người sinh sau, 1934-1938)
- Die Bitten der Kinder (Lời thỉnh cầu của trẻ em , 1951)

28
Erinnerung an die Marie A.
(1920)
Bertolt Brecht
1
An jenem Tag im blauen Mond September
Still unter einem jungen Pflaumenbaum
Da hielt ich sie, die stille bleiche Liebe
In meinem Arm wie einen holden Traum.
Und über uns im schönen Sommerhimmel
War eine Wolke, die ich lange sah
Sie war sehr weiß und ungeheur oben
Und als ich aufsah, war sie nimmer da.
2
Seit jenem Tag sind viele, viele Monde
Geschwommen still hinunter und vorbei.
Die Pflaumenbäume sind wohl abgehauen
Und fragst du mich, was mit der Liebe sei?
So sag ich dir: ich kann mich nicht erinnern
Und doch, gewiß, ich weiß schon, was dumeinst.
Doch ihr Gesicht, das weiß ich wirklich nimmer
Ich weiß nur mehr: ich küßte es dereinst.
3
Und auch den Kuß, ich hätt ihn längst vergessen Wenn nicht die
Wolke dagewesen wär
Die weiß ich noch und werd ich immer wissen
Sie war sehr weiß und kam von oben her.
Die Pflaumebäume blühn vielleicht noch immer
Und jene Frau hat jetzt vielleicht das siebte Kind
Doch jene Wolke blühte nur Minuten
Und als ich aufsah, schwand sie schon im Wind.
Mô hình vần: Trong mỗi đoạn 8 câu thơ chỉ có 2 cặp vần: câu 2 và câu 4, câu 6 và câu 8.

29
Hồi tưởng về nàng Marie A.
(1920)
Bertolt Brecht
1
Ngày ấy dưới trăng thanh tháng Chín
Dưới cây mận non tĩnh lặng cô liêu
Tôi ôm chặt nàng, tình nhạt phai thầm kín
Trong vòng tay như giấc mơ yêu kiều.
Và trên chúng tôi trong bầu trời hè xinh đẹp
Là một vầng mây, tôi ngắm lượn lờ
Tận trên cao mây rất trắng và trùng điệp
Và khi tôi nhìn lên, mây nào có bao giờ.
2
Nhiều, nhiều mặt trăng từ ngày đó
Đã lặng lẽ trôi xuống rồi qua mau.
Những cây mận hẳn đã bị đốn bỏ
Và bạn hỏi tôi, còn tình yêu thế nào?
Tôi bảo bạn thế này: tôi không thể nhớ
Mà có chứ, tất nhiên, tôi biết bạn nghĩ gì.
Nhưng mặt nàng, thật tình không bao giờ biết nữa
Chỉ còn biết: tôi đã hôn nó một ngày.
3
Và cả nụ hôn, tôi hầu như quên mất
Giá như lúc đó không có vầng mây
Tôi vẫn biết điều này và tôi sẽ luôn biết
Mây rất trắng và từ trên cao xuống đây.
Hoa mận có thể vẫn rộ nở tiếp tục
Và cô nàng giờ hẳn có bảy đứa con
Nhưng vầng mây ấy chỉ nở hoa phút chốc
Và khi tôi nhìn lên, gió thổi mây không còn.
Phan Kim Hổ dịch 09/12/2021
Mô hình vần: Trong mỗi đoạn 8 câu thơ chỉ có 2 cặp vần: câu 2 và câu 4, câu 6 và câu 8.

30 PHAN KIM HỔ
Gegen Verführung
(1922)
Bertolt Brecht
1
Laßt euch nicht verführen!
Es gibt keine Wiederkehr.
Der Tag steht in den Türen;
Ihr könnt schon Nachtwind spüren:
Es kommt kein Morgen mehr.
2
Laßt euch nicht betrügen!
Das Leben wenig ist.
Schlürft es in vollen Zügen!
Es wird euch nicht genügen
Wenn ihr es lassen müßt!
Cưỡng lại cám dỗ
(1922)
Bertolt Brecht
1
Đừng để mình bị cám dỗ!
Sẽ không còn lối để quay đầu .
Bên cửa ngày dợm bước rời chỗ;
Bạn dần cảm nhận gió đêm vô:
Ngày mai chẳng đến nữa đâu.
2
Đừng để mình bị lừa đảo!
Đời người chẳng được lâu dài.
Hãy hớp cuộc sống vào thật bạo!
Bạn chẳng còn hưởng được là bao
Khi phải buông xuôi đời này!

NƯỚC ĐỨC - CỔ TÍCH MÙA ĐÔNG 31
Mô hình vần: abaab trong mỗi phân khúc 5 câu thơ.
3
Laßt euch nicht vertrösten!
Ihr habt nicht zu viel Zeit!
Laßt Moder den Erlösten!
Das Leben ist am größten:
Es steht nicht mehr bereit.
4
Laßt euch nicht verführen
Zu Fron und Ausgezehr!
Was kann euch Angst noch rühren?
Ihr sterbt mit allen Tieren
Und es kommt nichts nachher.
3
Đừng để mình được an ủi!
Bạn không còn nhiều thời gian!
Để mục rữa cho người khuất núi!
Vĩ đại nhất là cuộc đời:
Đời không còn luôn sẵn sàng.
4
Đừng để mình bị cám dỗ
Phải lao dịch và kiệt sức người!
Còn gì khơi trong bạn nỗi sợ?
Bạn cũng sẽ chết cùng muông thú
Và chẳng còn gì sau cuộc đời.
Phan Kim Hổ dịch
11/12/2021

32 PHAN KIM HỔ
Legende von der Entstehung
des Buches Taoteking auf dem
Weg des Laotse in die Emigration
(1938)
Bertolt Brecht
Als er 70 war und war gebrechlich
drängte es den Lehrer doch nach Ruh
denn die Güte war im Lande wieder einmal schwächlich
und die Bosheit nahm an Kräften wieder einmal zu.
Und er gürtete den Schuh.
Und er packte ein, was er so brauchte:
Wenig. Doch es wurde dies und das.
So die Pfeife, die er immer abends rauchte
und das Büchlein, das er immer las.
Weißbrot nach dem Augenmaß.
Freute sich des Tals noch einmal und vergaß es
als er ins Gebirge den Weg einschlug.
Und sein Ochse freute sich des frischen Grases
kauend, während er den Alten trug.
Denn dem ging es schnell genug.
Doch am vierten Tag im Felsgesteine
hat ein Zöllner ihnen den Weg verwehrt:
„Kostbarkeiten zu verzollen?“ – „Keine.“
Und der Knabe, der den Ochsen führte, sprach: „Er hat gelehrt.“
Und so war auch das erklärt.

331. Trong truyền thuyết Trung Hoa, Lão Tử cưỡi trâu xanh thay vì cưỡi bò như trong bài thơ của Brecht.
Truyền thuyết về sự
hình thành Đạo Đức kinh
trên đường Lão Tử đi ở ẩn
(1938)
Bertolt Brecht
Khi tuổi đã 70 và dần yếu sức
nhà hiền triết cũng muốn ngơi tay
vì trong nước đã suy đồi đạo đức
và cái ác hoành hành ngày ngày.
Và ông thắt dây giày.
Và ông gói ghém những gì cần tới:
Ít thôi. Mà thành đủ thứ nọ thứ này.
Như tẩu thuốc ông luôn hút vào buổi tối
và quyển sách nhỏ ông đọc hằng ngày.
Bánh mì trắng mắt ước chừng vừa phải.
Khi rẽ vào đường leo lên núi
ông vui ngắm thung lũng thoảng qua.
Và con bò
1
vẫn ung dung cắm cúi
vừa gặm cỏ non vừa chở cụ già.
Vì theo ý ông, bò cứ nhẩn nha.
Nhưng qua ngày thứ tư trong núi đá
viên quan trấn ải chặn đường họ:
“Có gì đắt tiền cần khai thuế?” – “Không gì cả.”
Và chú bé dắt bò nói, “Ông ấy dạy học trò.”
Và sự việc giải thích như thế là rõ.

34 PHAN KIM HỔ
Doch der Mann in einer heitren Regung
fragte noch: „Hat er was rausgekriegt?“
Sprach der Knabe: „Dass das weiche Wasser in Bewegung
mit der Zeit den mächtigen Stein besiegt.
Du verstehst, das Harte unterliegt.“
Dass er nicht das letzte Tageslicht verlöre
trieb der Knabe nun den Ochsen an
und die drei verschwanden schon um eine schwarze Föhre
da kam plötzlich Fahrt in unsern Mann
und er schrie: „He, du! Halt an!
Was ist das mit dem Wasser, Alter?“
Hielt der Alte: „Interessiert es dich?“
Sprach der Mann: „Ich bin nur Zollverwalter
doch wer wen besiegt, das interessiert auch mich.
Wenn du‘s weißt, dann sprich!
Schreib‘s mir auf! Diktier es diesem Kinde!
Sowas nimmt man doch nicht mit sich fort.
Da gibt‘s doch Papier bei uns und Tinte
und ein Nachtmahl gibt es auch: ich wohne dort.
Nun, ist das ein Wort?“
Über seine Schulter sah der Alte
auf den Mann: Flickjoppe. Keine Schuh.
Und die Stirne eine einzige Falte.
Ach, kein Sieger trat da auf ihn zu.
Und er murmelte: „Auch du?“

NƯỚC ĐỨC - CỔ TÍCH MÙA ĐÔNG 35
Chợt người đàn ông vui mừng luống cuống
hỏi tiếp: “Ông có khám phá điều gì chăng?”
Chú bé nói: “Nước dù mềm khi chảy xuống
chiến thắng viên đá cứng với thời gian.
Bác hiểu chứ, cứng rắn thua khi thi gan.”
Để tận dụng ánh sáng ban ngày cuối buổi
chú bé thúc con bò đi không ngừng
và cả ba khuất bóng sau cây thông đen đủi
rồi gã đàn ông chợt cao hứng
và anh ta la to, “Ê, nhóc! Hãy dừng!
Lão già, còn nước thì ra sao vậy?”
Ông lão dừng chân: “Thế anh quan tâm ư?”
Gã đàn ông nói: “Tôi chỉ là viên quan trấn ải
nhưng ai thắng ai tôi cũng quan tâm chứ.
Ông mà biết thì nói ngay bây giờ!
Viết ra cho tôi! Hãy đọc cho thằng bé ghi lại!
Thứ mà chẳng ai có sẵn trong tay.
Nơi kia chúng tôi có mực và giấy
và cũng có một bữa ăn đêm: tôi ngụ ở đấy.
Nào, đó có là lời gợi ý hay?”

Ông lão nhìn qua vai
hướng về gã đàn ông: Không giày. Áo vá.
Và trên trán chỉ một nếp nhăn dài.
Hừ, người chiến thắng chẳng giống anh ta.
Và cụ lẩm bẩm: “Anh cũng vậy à?”
Tags