parkinson finaládfasfasdgasdgadgsdfgsdgadg

duy123loved 13 views 30 slides May 04, 2025
Slide 1
Slide 1 of 30
Slide 1
1
Slide 2
2
Slide 3
3
Slide 4
4
Slide 5
5
Slide 6
6
Slide 7
7
Slide 8
8
Slide 9
9
Slide 10
10
Slide 11
11
Slide 12
12
Slide 13
13
Slide 14
14
Slide 15
15
Slide 16
16
Slide 17
17
Slide 18
18
Slide 19
19
Slide 20
20
Slide 21
21
Slide 22
22
Slide 23
23
Slide 24
24
Slide 25
25
Slide 26
26
Slide 27
27
Slide 28
28
Slide 29
29
Slide 30
30

About This Presentation

sfasfasg


Slide Content

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA HÓA HỌC VÀ THỰC PHẨM
NGÀNH CÔNG NGH Ệ KỸ THUẬT HÓA HỌC
------






BÁO CÁO SEMINAR
MÔN: HOẠT TÍNH SINH HỌC
ĐỀ TÀI: PHƯƠNG PHÁP IN VIVO: THÍ NGHI ỆM TRÊN
CHUỘT NGHIÊN CỨU BỆNH PARKINSONIAN BẰNG VIỆC
XỬ DỤNG 6-HYDROXYDOPAMINE

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN LINH NHÂM
LỚP: 22128CLCD





TP.HCM, NGÀY 9 THÁNG 4 NĂM 2025

DANH SÁCH THÀNH VIÊN
HỌ VÀ TÊN MSSV GHI CHÚ
PHAN TRÍ DĨ 22128008

NGUYỄN KHẮC
DUY
22128009


NHẬN XÉT
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
ĐIỂM SỐ
.................................................................................................................................

Mục Lục

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI THỬ NGHIỆM ........................................................................... 1
II. TỔNG QUAN BỆNH PARKINSON ................................................................................ 5
1. Bệnh Parkinson là gì? .................................................................................................... 5
2. Phân loại bệnh Parkinson ............................................................................................... 6
2.1. Nguyên phát ........................................................................................................... 6
2.2. Thứ phát ................................................................................................................. 6
3. Nguyên nhân .................................................................................................................. 6
4. Triệu chứng: ................................................................................................................... 7
5. Các giai đoạn bệnh Parkinson ........................................................................................ 9
III. CƠ CHẾ CÁC CHẤT ĐỘC GÂY ĐỘC THẦN KINH .................................................. 11
IV. CÁC PHƯƠNG PHÁP TIÊU BIỂU TRONG NGÀNH VỀ THỬ NGHIỆM
PARKINSON TRÊN CHUỘT ................................................................................................. 14
V. XÂY DỰNG QUY TRÌNH THỬ NGHIỆM TẠI PHÒNG THÍ NGHIỆM TRƯỜNG ... 16
1. Sinh vật phẩm ............................................................................................................... 16
2. Hóa chất ........................................................................................................................ 16
3. Quy trình thử nghiệm ................................................................................................... 16
4. Theo dõi và thực hiện các bài tập vật lí ........................................................................ 17
VI. Kết luận: ....................................................................................................................... 22
VII. Tài liệu tham khảo ....................................................................................................... 23

1


I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI THỬ NGHIỆM
Các nhà khoa học và nghiên cứu chọn chuột vì nhiều lý do. Một là do sự tiện lợi:
Đây là loài gặm nhấm nhỏ, dễ nuôi, dễ chăm sóc và có khả năng thích nghi tốt
với môi trường sống mới. Chúng cũng sinh sản một cách nhanh chóng với thai
kỳ ngắn cùng kích thước lứa lớn và có tuổi thọ ngắn (khoảng từ 2 đến 3 năm), vì
vậy việc quan sát một vài thế hệ chuột có thể được thực hiện trong một khoảng
thời gian tương đối ngắn.

Hình 1: Các thử nghiệm trên chuột

Thứ hai, loài gặm nhấm này cũng thường ôn hòa và lành tính, giúp các nhà
nghiên cứu dễ dàng xử lý trong các thí nghiệm có liên quan. Thứ ba là chuột
cũng tương đối rẻ tiền và có thể mua được với số lượng lớn từ các nhà sản xuất
thương mại chuyên lai tạo ra chúng để phục vụ cho nghiên cứu. Và lý do quan
trọng nhất để chuột được lựa chọn trong các thử nghiệm y khoa chính là do
đặc điểm di truyền, sinh học và hành vi của chúng gần giống với con người
và nhiều triệu chứng của tình trạng bệnh ở con người có thể được sao chép ở
chuột. Giống như con người, chuột là động vật có vú và cơ thể chúng trải qua
nhiều quá trình tương tự, chẳng hạn như lão hóa và có phản ứng miễn dịch
tương tự đối với nhiễm trùng và bệnh tật. Hệ thống nội tiết tố của chúng cũng

2

rất giống chúng ta... Bên cạnh đó, hầu hết những con chuột được sử dụng trong
các thí nghiệm y dược đều được lai tạo để chỉ khác biệt về giới tính, chúng gần
như giống hệt nhau về mặt di truyền. Điều này giúp làm cho kết quả của các
thử nghiệm thống nhất hơn (theo Viện nghiên cứu quốc gia về gen người).
Như vậy, khác với các động vật bình thường, một yêu cầu tối thiểu đối với
động vật được sử dụng trong các thí nghiệm y dược là buộc chúng phải thuộc
cùng một loài thuần chủng để tăng độ tin cậy của kết quả thí nghiệm. Trên
thực tế, chúng ta dễ dàng đáp ứng yêu cầu này khi sử dụng chuột cho nghiên
cứu hơn là những loài động vật khác. Trong hai thập kỷ qua, những điểm tương
đồng trong đặc điểm di truyền giữa người và chuột đó đã trở nên mạnh mẽ hơn.
Các nhà khoa học hiện có thể nhân giống những con chuột CBĐG, được gọi là
"CBĐG" mang những gen gây bệnh tương tự như ở người. Tương tự như vậy,
các gen được chọn có thể bị loại bỏ hoặc bất hoạt tạo ra "chuột bị loại", có thể
được sử dụng để đánh giá các tác động của các hóa chất gây ung thư và đánh
giá sự an toàn của thuốc, theo FBR. Các dòng chuột khác được lai tạo nhằm
mục đích phù hợp cho các nghiên cứu cụ thể khác có thể kể đến như: chuột
CBA có tỷ lệ phát triển khối u ung thư vú thấp, trong khi chuột BALB/c bị
suy giảm miễn dịch vì không có tuyến ức; chuột mdx thiếu protein cơ bắp
dystrophin trưởng thành thích hợp chọn làm mô hình nghiên cứu bệnh loạn
dưỡng cơ Duchenne, trong khi chuột mắc bệnh tiểu đường không béo phì làm
mô hình tốt để nghiên cứu phương pháp điều trị mới cho tự miễn dịch. Ngoài
ra, tự bản thân loài chuột, trong quá trình sinh sản, tổ hợp gen tự nhiên đã phát
triển thành 1 dòng được gọi là chuột SCID (suy giảm miễn dịch kết hợp
nghiêm trọng), được sinh ra một cách tự nhiên mà không có hệ thống miễn
dịch và do đó có thể đóng vai trò là mô hình đặc biệt cho nghiên cứu mô ở
người bình thường và người mang bệnh ác tính. Một số ví dụ về các rối loạn
và bệnh ở người mà chuột được sử dụng làm mô hình bao gồm: Tăng huyết
áp, bệnh tiểu đường, đục thủy tinh thể, béo phì, động kinh, vấn đề về đường hô

3

hấp, điếc, bệnh Parkinson, bệnh Alzheimer, ung thư, xơ nang, HIV và AIDS,
bệnh tim, loạn dưỡng cơ bắp, tổn thương tủy sống.
Chuột cũng được sử dụng trong các nghiên cứu về hành vi, cảm giác, lão hóa,
dinh dưỡng và di truyền, cũng như thử nghiệm thuốc có khả năng cai nghiện
ma túy. Các đột phá quan trọng trong khoa học y dược hiện đại như điều trị
bệnh bạch cầu cấp tính (một dạng ung thư máu ảnh hưởng đến người trẻ tuổi
và hiện là một trong những dạng bệnh khó điều trị nhất), giao thức chuyển gen
trong bệnh xơ nang hay những thành tựu khoa học từng đoạt giải Nobel như
phát hiện ra vitamin K, sự phát triển của vắc – xin bại liệt, phát minh ra công
nghệ kháng thể đơn dòng đang được sử dụng để điều trị ung thư và làm sáng
tỏ cách tất cả các tế bào thần kinh giao tiếp với nhau trong não đều đã được
nghiên cứu và thử nghiệm trên chuột. Để tận dụng triệt để những ưu điểm của
loài chuột trong nghiên cứu khoa học, con người cũng tìm thêm những phương
thức mới, ngoài các chiến lược nhân giống dựa trên các biến thể tự nhiên, để
phục vụ cho mục đích xác định của mình.

Hình 2: Sự tương đồng kiểu gen
Các nhà phát triển hiện nay có một số công cụ chỉnh sửa gen chuột vì có đến

4

khoảng 80% gen của chuột giống với gen của con người nên sửa đổi DNA
chuột là một phương pháp tiên tiến để tạo ra các mô hình động vật mắc bệnh
ở người. Các kỹ thuật như hệ thống Cre/lox và công cụ chỉnh sửa gen CRISPR
mới hơn cho phép các nhà nghiên cứu xóa, kích hoạt hoặc sửa chữa gen, từ đó
tái tạo bệnh ở người trên chuột hoặc kiểm tra những gì xảy ra khi các nhà khoa
học sửa lỗi đột biến. Riêng đối với các sản phẩm thuốc ung thư, các nghiên
cứu tiền lâm sàng trước đây chỉ giới hạn ở việc cấy ghép chuột hoặc ung thư
ở người vào chuột. Gần đây nhất, một số nhà điều tra đã khám phá các lựa chọn
thay thế cho các mô hình cấy ghép này, chẳng hạn như nghiên cứu trên động
vật phát triển tự nhiên các bệnh ung thư tương tự như ở người. Một ví dụ về
điều này được thấy trong các đánh giá song song đang tiến hành đối với bệnh
xương khớp ở người.
Phương pháp in vivo sử dụng động vật thí nghiệm gặp phải sự phản đối của
những cá nhân và tổ chức bảo vệ quyền động vật (animal rights). Mặc dù các
cơ quan khoa học đều có các biện pháp kiểm duyệt chặt chẽ những protocol thí
nghiệm nhưng các vấn đề thuộc đạo đức sinh học ngày càng được quan tâm và
gây nhiều tranh cãi. Đôi khi ta thấy những cuộc phản đối việc dùng động vật
trong nghiên cứu ở các nước phát triển. Hiện tại, khi chưa có phương pháp thay
thế, người ta cân nhắc nguyên tắc 3R (reduce, refinement, replacement) trong
các thí nghiệm dùng động vật. Trong đó:
Reduce (giảm): Hạn chế số lượng động vật được sử dụng trong mỗi thí nghiệm
mà vẫn thu được những thông tin cần thiết,
Refinement (đối xử tinh tế): Rèn luyện kỹ thuật tốt và ứng dụng kiến thức về
động vật học nói chung và loài vật được dùng trong từng thí nghiệm cụ thể để
tránh gây stress, tránh gây kích thích.
Replacement (thay thế): Dùng phương pháp khác (nếu có thể) để tránh dùng
động vật cho thí nghiệm.

5

II. TỔNG QUAN BỆNH PARKINSON
1. Bệnh Parkinson là gì?
Bệnh Parkinson là một bệnh lý thần kinh, biểu hiện bởi sự rối loạn thoái hoá của
hệ thần kinh trung ương làm cho tế bào trong não bị thoái hóa, không thể kiểm
soát được vận động của cơ bắp, khiến cho con người đi lại khó khăn, cử động chân
chạp, chân tay bị run cứng. Khi bệnh tiến triển có thể ảnh hưởng đến các tế bào
thần kinh, làm thiếu hụt dopamine - dopamine là một chất dẫn truyền trung gian
hóa học giữa các tế bào thần kinh. Những người mắc bệnh Parkinson không có
đủ chất hóa học dopamine trong não do một số tế bào thần kinh tạo ra dopamine
đã chết.
Bệnh còn gây ra các rối loạn vận động, khiến người bệnh gặp khó khăn trong cử
động, giữ thăng bằng và kiểm soát cơ. Thậm chí, người mắc bệnh Parkinson còn
có thể mất đi một số chức năng vật lý bình thường.
Hiện nay, vẫn chưa có một phương pháp để có thể chữa khỏi hoàn toàn bệnh nhân
bị mắc bệnh Parkinson mà chỉ có những biện pháp giúp cải thiện chất lượng cuộc
sống, trì hoãn tiến trình tiến triển của bệnh.

Hình 3. Các triệu chứng biểu hiên bênh Parkinson

6

2. Phân loại bệnh Parkinson
Bệnh Parkinson được chia làm 2 nhóm là nguyên phát (vô căn) và thứ phát:
2.1. Nguyên phát
Có hơn 80% các trường hợp mắc bệnh Parkinson thuộc nhóm vô căn hay nguyên
phát, tức không rõ nguyên nhân. Các dấu hiệu bệnh phổ biến bao gồm cứng đờ
người, cử động chậm chạp, run lẩy bẩy, …
2.2. Thứ phát
Bệnh Parkinson thứ phát được chia làm 2 nhóm nhỏ, bao gồm:
Bệnh Parkinson mạch máu (bệnh parkinson xơ cứng động mạch): theo Hội thần
kinh học Việt Nam, bệnh Parkinson mạch máu thường có các triệu chứng liên
quan đến trí nhớ, tâm trạng và giấc ngủ, … Bệnh gây ảnh hưởng đến những người
bị hạn chế cung cấp máu cho não. Một số trường hợp người bệnh bị đột quỵ nhẹ
do mắc bệnh Parkinson ở dạng này.
Bệnh Parkinson do thuốc: một số loại thuốc như thuốc an thần, thuốc chống động
kinh, thuốc chẹn calci và thuốc bổ não, …. được cho là yếu tố dẫn đến bệnh
Parkinson. Tuy nhiên, các trường hợp mắc bệnh Parkinson do thuốc thường chỉ
kết thúc trong vài ngày hoặc vài tuần sau khi kết thúc dùng thuốc. Một số ít trường
hợp sẽ kéo dài vài tháng.
3. Nguyên nhân
Nguyên nhân bệnh Parkinson là do các tế bào thần kinh hạch nền (nhóm các nhân
xám nằm sâu trong bán cầu đại não điều hòa vận động của con người) bị suy yếu
và/hoặc mất. Thông thường, các tế bào thần kinh này sẽ tạo ra một chất hóa học
được gọi là dopamine. Khi các tế bào thần kinh ở hạch nền chết hoặc bị suy yếu,
chúng sẽ sản xuất ít dopamine hơn, giảm kích thích lên vỏ não và khiến người
bệnh gặp khó khăn trong vận động.
Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện tại, vẫn chưa tìm ra được nguyên nhân chính

7

xác khiến tế bào thần kinh chết đi và dẫn đến bệnh Parkinson. Vì vậy, có thể nói
nguyên nhân Parkinson vẫn chưa được xác định cụ thể.
Một số yếu tố được cho là có liên quan đến nguy cơ mắc bệnh Parkinson bao gồm:
• Tuổi tác: càng lớn tuổi thì lượng dopamine trong cơ thể càng suy giảm nhanh chóng
hơn.
• Môi trường: thường xuyên tiếp xúc với các chất hóa học độc hại như thuốc diệt
cỏ, thuốc trừ sâu, làm tăng nguy cơ mắc bệnh Parkinson.
• Chấn thương sọ não: người có tiền sử chấn thương sọ não dễ bị bệnh Parkinson
hơn so với người bình thường.
• Di truyền: một số trường hợp bị Parkinson được cho là có liên quan đến di truyền.
Nếu gia đình có người từng mắc bệnh Parkinson thì nguy cơ mắc bệnh cũng cao
hơn.
• Virus: viêm não, viêm phổi làm tăng nguy cơ mắc bệnh thần kinh như Parkinson
và Alzheimer.
4. Triệu chứng:
Giai đoạn đầu các triệu chứng lâm sàng thường kín đáo. Người bệnh mệt mỏi, có
cảm giác cứng lưng, cổ, vai, háng. Cột sống và các chi có xu hướng gấp, kém
mềm mại, các động tác bị chậm lại. Khi đi, cánh tay ít hoặc không đung đưa theo
nhịp bước. Dần dần, bước đi ngắn lại. Tần số chớp mắt cũng giảm đi. Khe mi có
vẻ rộng ra tạo cảm giác người bệnh luôn nhìn “chăm chú”. Nếu gõ vào gốc mũi,
người bệnh mất khả năng ức chế nháy mắt gây hiện tượng rung giật mi mắt.

8


Hình 4: Các dấu hiệu chẩn đoán bệnh Parkinson
Khi bệnh biểu hiện rõ, người bệnh có các triệu chứng sau:
• Run khi nghỉ: xuất hiện khi các cơn ở trạng thái nghỉ. Dấu hiệu này biến mất khi
vận động, khi ngủ. Run tăng lên khi xúc động, tập trung. Run của bệnh Parkinson
có đặc điểm đều đặn, bốn chu kỳ/giây. Run thường xuất hiện ở các ngón tay, gây
ra động tác như “đếm tiền”. Run có thể gặp ở chi dưới, miệng hoặc vùng đầu.
• Giảm động: là triệu chứng cơ bản và xuất hiện sớm ở bệnh nhân Parkinson. Bệnh
Parkinson khiến người bệnh gặp khó khăn trong vận động, không thể vận động
nhanh và các thao tác trở nên kém linh hoạt hơn. Dáng đi của người bệnh trở nên
bất thường, tốc độ di chuyển giảm xuống, khoảng cách giữa các bước đi ngắn
dần. Người bệnh có thể bị thay đổi giọng nói, khả năng chớp mắt hay nháy mắt
bị ức chế, gương mặt mất dần vẻ tự nhiên cũng như không có khả năng biểu đạt
cảm xúc, không kiểm soát được tình trạng chảy nước dãi, …
• Tăng trương lực cơ: ngoại tháp gây ra hiện tượng “cứng kiểu ống chì hay uốn
sáp”. Khi vận động thụ động, dấu hiệu cứng thường kèm dấu hiệu “bánh xe răng
cưa”: khi làm động tác duỗi cảm nhận hiện tượng duỗi xảy ra từng nấc chứ không
liên tục. Các cơ và xương của người bị bệnh Parkinson bắt đầu co cứng, khó
chuyển động theo như ý muốn. Các vị trí ở vai, lưng hoặc cổ, sẽ có triệu chứng

9

tê cứng.
• Người mắc bệnh Parkinson khó giữ thăng bằng do các nhóm cơ gấp bị tăng trương
lực làm cho cơ thể luôn trong tư thế gấp về phía trước. Người bệnh dễ bị ngã nếu
bị đẩy, tác động từ phía sau.
• Sa sút trí tuệ: Khoảng ⅓ người bệnh Parkinson có biểu hiện sa sút trí tuệ, khiến
người bệnh giảm khả năng ngôn ngữ, suy giảm nhận thức về không gian, thời
gian.
• Rối loạn giấc ngủ: Đây cũng là triệu chứng phổ biến ở người mắc bệnh Parkinson.
Nguyên nhân có thể do người bệnh bị trầm cảm, dẫn đến buồn ngủ và ngủ nhiều
vào ban ngày. Ngoài ra, mất ngủ cũng có thể là tiểu đêm thường xuyên khiến người
bệnh khó quay trở lại giấc ngủ hoặc người bệnh không thể quay trở lại giường
được.
Ngoài ra, còn có một số triệu chứng bệnh Parkinson khác như đau vai, gặp các
vấn đề về đường ruột (tiêu biểu là táo bón), giảm khả năng phân biệt mùi, tính
cách thay đổi bất thường, cảm giác mệt mỏi, thói quen sinh hoạt hằng ngày cũng
bị thay đổi, … Nhiều người bệnh còn gặp vấn đề suy giảm ham muốn tình dục,
huyết áp giảm đột ngột, suy giảm chức năng ngửi, …

5. Các giai đoạn bệnh Parkinson
Dựa trên thang điểm đánh giá hội chứng Parkinson theo Hoehn và Yahr, bệnh
Parkinson được chia làm 5 giai đoạn tiến triển chính:
Giai đoạn 1: Xuất hiện các triệu chứng một bên cơ thể
Ở giai đoạn đầu tiên, các triệu chứng bệnh Parkinson chưa biểu hiện rõ rệt, người
bệnh chỉ cảm nhận được những cơn tê và run nhẹ ở một bên cơ thể, thỉnh thoảng
bị co cứng cơ. Bệnh chưa ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống hằng ngày của người
bệnh nên nhiều người không biết mình đang mắc bệnh hoặc chủ quan, không đến
bệnh viện thăm khám, chẩn đoán.

10

Giai đoạn 2: xuất hiện các triệu chứng hai bên cơ thể, còn phản xạ tư thế
Giai đoạn tiến triển tiếp theo của bệnh Parkinson thì người bệnh có thể cảm nhận
các dấu hiệu rõ rệt hơn. Cụ thể, cơ ngày càng co cứng khiến người bệnh khó cử
động, dáng đi thay đổi. Tay, chân và các cơ quan khác ở cả hai bên cơ thể bắt đầu
run, lắc nhiều hơn. Gương mặt người mắc bệnh Parkinson ở giai đoạn 2 ít có biểu
cảm do cơ căng cứng, không thể hiện cảm xúc trên mặt.
Tùy thuộc vào từng người bệnh mà thời gian tiến triển bệnh từ giai đoạn 1 đến
giai đoạn 2 kéo dài từ vài tháng đến vài năm.
Giai đoạn 3: : giảm phản xạ vận động, khó giữ thăng bằng
Trong giai đoạn 3 của bệnh Parkinson thì người bệnh bắt đầu gặp nhiều khó khăn
trong sinh hoạt hằng ngày. Cụ thể, người bệnh khó giữ được thăng bằng, dễ té ngã
khi đang thực hiện các công việc, sinh hoạt hằng ngày. Ở giai đoạn này, triệu
chứng run lắc ngày càng nghiêm trọng hơn.
Tuy nhiên, nếu được phát hiện và điều trị kịp thời thì các triệu chứng bệnh
Parkinson giai đoạn 3 vẫn được cải thiện và giảm thiểu đáng kể.
Giai đoạn 4: hạn chế vận động, chỉ di chuyển được một đoạn ngắn
Bước vào giai đoạn 4 của bệnh Parkinson, người bệnh không còn khả năng thực
hiện các vận động sinh hoạt hằng ngày do cơ căng cứng. Các vận động được
thực hiện vô cùng chậm chạp, người bệnh cũng chỉ đứng được trong một thời gian
ngắn. Ngoài ra, ở giai đoạn này, người bệnh gặp nhiều khó khăn khi di chuyển, chỉ
đi được một đoạn ngắn và cần nhiều hỗ trợ, chăm sóc từ những người thân xung
quanh.
Giai đoạn 5: không thể tự đi lại
Giai đoạn 5 được xem là giai đoạn nghiêm trọng nhất của bệnh. Bệnh nhân có
những biểu hiện như tay chân run nhiều, cơ bắp căng cứng, không thể tự đi lại.
Hầu hết các trường hợp người bệnh Parkinson ở giai đoạn 5 đều nằm liệt giường
hoặc cần đến xe lăn, phụ thuộc hoàn toàn vào người thân. Lúc này, các loại thuốc

11

điều trị cũng ít còn tác dụng.

III. CƠ CHẾ CÁC CHẤT ĐỘC GÂY ĐỘC THẦN KINH
Tác động của các chất độc thần kinh lên hệ thần kinh dopamine và bệnh Parkinson
Dopamine, một chất dẫn truyền thần kinh quan trọng, đóng vai trò chủ chốt trong
việc kiểm soát vận động. Tuy nhiên, một số chất có cấu trúc tương đồng với
dopamine, như 6 – OHDA và MPTP, lại có khả năng gây tổn hại chọn lọc cho
các tế bào thần kinh dopaminergic, dẫn đến các triệu chứng giống bệnh Parkinson
(PD).
Nghiên cứu dịch tễ học đã chỉ ra mối liên hệ rõ ràng giữa việc tiếp xúc lâu dài với
hóa chất nông nghiệp, đặc biệt là diquat (thuốc diệt cỏ) và rotenone (thuốc trừ
sâu), với nguy cơ mắc PD cao hơn. Những phát hiện này đã mở ra hướng nghiên
cứu mới, sử dụng các độc tố thần kinh như công cụ để tạo ra mô hình PD trên
động vật. Nhờ vậy, các nhà khoa học có thể nghiên cứu sâu hơn về cơ chế gây
bệnh và phát triển các phương pháp điều trị mới cho PD.
Việc nghiên cứu tác động của các chất độc thần kinh lên hệ thần kinh dopamine
mang lại nhiều lợi ích:
• Hiểu rõ hơn về nguyên nhân gây bệnh Parkinson: Các mô hình động vật sử dụng
độc tố thần kinh giúp mô phỏng các triệu chứng và tổn thương não bộ của bệnh
nhân PD, từ đó cung cấp manh mối quan trọng về nguyên nhân gây bệnh.
• Phát triển các phương pháp điều trị mới: Các nhà khoa học có thể thử nghiệm các
loại thuốc và liệu pháp tiềm năng trên mô hình động vật PD, đánh giá hiệu quả
và độ an toàn trước khi áp dụng cho con người.
• Tiến bộ trong chẩn đoán: Hiểu rõ hơn về cơ chế gây bệnh PD có thể dẫn đến phát
triển các phương pháp chẩn đoán sớm và chính xác hơn.
Tuy nhiên, nghiên cứu sử dụng mô hình động vật cũng có những thách thức và

12

hạn chế nhất định:
Sự khác biệt giữa các loài: Khả năng phản ứng với các chất độc thần kinh và biểu
hiện triệu chứng PD có thể khác nhau giữa các loài động vật, dẫn đến kết quả
nghiên cứu không hoàn toàn áp dụng được cho con người.
Tính phức tạp của bệnh PD: Bệnh Parkinson là một bệnh lý phức tạp với nhiều
yếu tố ảnh hưởng, việc mô phỏng hoàn toàn bằng mô hình động vật là điều khó
khăn.
Vấn đề đạo đức: Việc sử dụng động vật trong nghiên cứu khoa học luôn đi kèm
với những tranh luận về đạo đức, đòi hỏi các quy trình nghiên cứu nghiêm ngặt và
nhân đạo.
Bất chấp những thách thức, nghiên cứu về tác động của các chất độc thần kinh lên
hệ thần kinh dopamine vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc tìm kiếm giải pháp
cho bệnh Parkinson. Với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật, hy vọng
rằng trong tương lai, chúng ta sẽ có thể hiểu rõ hơn về căn bệnh này và phát triển
ra những phương pháp điều trị hiệu quả hơn, giúp cải thiện chất lượng cuộc sống
cho người bệnh.
6 – Hydroxydopamine (6 – OHDA)
6 – Hydroxydopamine (6 – OHDA) – một chất tương tự dopamine (Hình 1 (a) và
(b)), là một hợp chất hóa học đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu bệnh
Parkinson (PD). Được sử dụng để tạo ra mô hình động vật cho PD bằng cách tiêm
trực tiếp vào não do không thể vượt qua hàng rào máu não – một lớp màng bảo
vệ não khỏi các độc tố trong máu, gây thoái hóa chọn lọc các tế bào thần kinh
dopaminergic (DA).
Mô hình 6 – OHDA giúp mô phỏng các triệu chứng chính của PD, cho phép các
nhà khoa học đánh giá hiệu quả của các loại thuốc và liệu pháp tiềm năng. Tuy
nhiên, mô hình này có những hạn chế và việc sử dụng động vật trong nghiên cứu

13

khoa học cần được thực hiện một cách có đạo đức và nhân đạo.
Cơ chế hoạt động

Vận chuyển vào tế bào DA: 6 – OHDA có cấu trúc tương tự dopamine, do đó nó
được vận chuyển vào tế bào DA bởi protein vận chuyển dopamine (DAT).
Gây rối loạn chức năng ty thể: Sau khi vào trong tế bào, 6 –OHDA tích tụ trong
ty thể và ức chế hoạt động của phức hợp I trong chuỗi vận chuyển điện tử ty thể
(Hình 2).
Tăng sản xuất gốc tự do: Khi vào bên trong tế bào, 6 – OHDA trải qua quá trình tự
oxy hóa hoặc phân hủy chuyển hóa, tạo ra các gốc tự do như hydrogen peroxide,
superoxide và hydroxyl. Những gốc tự do này gây ra peroxy hóa lipid, oxy hóa
protein và oxy hóa DNA, góp phần vào stress oxy hóa và tổn thương tế bào. Điều
này dẫn đến stress oxy hóa và rối loạn chức năng ty thể.
Mất cân bằng neurotransmitter: 6 – OHDA có thể ảnh hưởng đến sự cân bằng giữa
các chất dẫn truyền thần kinh nhờ sự gia tăng lượng glutamate và acid gamma –
aminobutyric (GABA) và giảm glutamine trong vùng striatum. Điều này có thể
dẫn đến các bất thường lâu dài trong hoạt động của glutamate và GABA giữa tế
bào thần kinh đệm hình sao và các tế bào thần kinh, góp phần vào các triệu chứng
PD.
Việc tiêm 6 – OHDA vào não động vật dẫn đến thoái hóa tế bào thần kinh DA,
gây ra các triệu chứng giống PD như: Run rẩy, Giảm vận động, Cứng cơ, Rối loạn
tư thế, Mất cân bằng.
Lợi ích của mô hình 6 – OHDA
Cung cấp công cụ hữu ích để nghiên cứu cơ chế gây bệnh PD và phát
triển các phương pháp điều trị mới.
Mô phỏng các triệu chứng chính của PD, cho phép đánh giá hiệu quả của các loại

14

thuốc và liệu pháp tiềm năng.
Góp phần vào nhiều tiến bộ trong hiểu biết về PD và dẫn đến phát triển các
phương pháp điều trị hiệu quả hơn cho bệnh nhân.
Hạn chế
Không hoàn toàn mô phỏng tất cả các khía cạnh của PD ở người.
Sử dụng động vật trong nghiên cứu khoa học luôn đi kèm với những tranh luận về
đạo đức.

Hình 5: Cấu trúc của Dopamine và các độc tố thần kinh chính
được sử dụng để gây ra các triệu chứng của bệnh Parkinson trên
mô hình động vật

IV. CÁC PHƯƠNG PHÁP TIÊU BIỂU TRONG NGÀNH VỀ THỬ NGHIỆM

15

PARKINSON TRÊN CHUỘT
1 2 3
A Guide to the Generation of a 6-
Hydroxydopamine Mouse Model
of Parkinson’s Disease for the
Study of Non-Motor Symptoms
Anti-apoptotic and Anti-
inflammatory effect of
Piperine on 6-OHDA
induced Parkinson's Rat
model
Protocol for the MPTP
mouse model of
Parkinson’s disease
Tên bài báo
6-OHDA 6-OHDA trong 0,1%
ascorbic-saline
MPTP (1 – methyl – 4 –
phenyl –1,2,3,6 –
tetrahydropyridine)
Chất sử dụng
- Chuột được gây mê bằng 4%
isoflurane và đặt trong khung định
hình được trang bị miếng đệm sưởi
ấm (37° C) để duy trì nhiệt
độ bình thường.
- Tất cả động vật được tiêm dưới da
buprenorphine 0,1 mg/kg khi bắt
đầu phẫu thuật và bôi thuốc mỡ
nhãn khoa (Oftagel) lên mắt để
ngăn ngừa khô giác mạc.
- Tiêm vào mỗi thể vân 1 μL 6-
OHDA hydrochloride ở nồng độ
bazơ tự do là 4 µg/µL hòa tan trong
NaCl vô trùng 0,9% với 0,02
mg/mL axit ascorbic: trước sau
(AP) +0,6; trung thất (ML) ±2,2 và
lưng bụng (DV) .
- Chuột đối chứng nhận được một
tổn thương giả, bao gồm tiêm hai
bên 1 µL chất lỏng (0,02 mg/mL
axit ascorbic
trong nước muối vô
trùng 0,9%)
- Để ngăn ngừa mất nước, tất cả
động vật được tiêm dưới da 10
mL/kg dung dịch glucose vô trùng
5% khi kết thúc phẫu thuật.
- Chia ngẫu nhiên 4 nhóm
(n=6): hoạt động giả dược
điều trị bằng chất dẫn, hoạt
động giả dược điều trị bằng
Piperine 10mg/kg trọng
lượng cơ thể, tổn thương
được trị bằng 6- OHDA, tổn
thương được trị bằng
piperine trong tween-80
NaCl 0,9% (1:25). 4 nhóm
đều được ăn với thức ăn có
chứa piperine
10mg/kg trong
15 ngày.
- Xét các bài tập vật lí từ
ngày 16. Sau 15 day 4 nhóm
được gây mê bằng Chloral
hydrate trong màng
bụng. Sau đó xử lí mỗi
nhóm với thuốc tương ứng.
- Chuột đực trưởng
thành C57bl / 6 nặng
khoảng 25 – 30 g.
- Tiêm IV tiêm cấp tính
(liều cao trong thời gian
ngắn) hoặc bán cấp
(liều thấp hơn trong
thời gian dài hơn)
- Theo dõi 4 ngày
Thao
tác thí
nghiệm
(bỏ qua
giai
đoạn
thích
nghi
chuột)
- Sau 7 ngày thực hiện các bài tập
vật lí. Thấy sự suy giảm khả năng
vận động mạnh ở chuột. Sau 14
ngày chuột mất dần khả năng di
chuyển
- Kết quả cho thấy nhóm
chuột bị tổn thương do 6-
OHDA có triệu chứng của
Parkinson. Nhóm chuột có
tổn thương của bệnh
parkinson có sự can thiệp
piperine có sự suy giảm
- Biểu hiện dựng lông ở
liều thứ 3
- Liều cao (acute):
Chuột sẽ bất động sau 3
mũi tiêm và mất 80 –
90% dopamine trong
não sau 7 ngày.
Liều thấp (sub – acute):
Chuột có vẻ bình thường
nhưng mất 50% dopamine
trong não sau 21 ngày.
Kết quả

16


V. XÂY DỰNG QUY TRÌNH THỬ NGHIỆM TẠI PHÒNG THÍ
NGHIỆM TRƯỜNG
1. Sinh vật phẩm
Nuôi dưỡng và chăm sóc: Động vật nuôi giữ trong điều kiện môi trường thí
nghiệm, yên tĩnh, thoáng khí, nhiệt độ từ 20 – 30°C, độ ẩm 60 – 75%. Chia làm
2 nhóm (n=3)
Bài thí nghiệm người ta có sử dụng chuột nhắt cái giống BALB/c thuần chủng từ
cùng một đàn tùy loại 2D hoặc 2K từ 5 đến 6 tuần tuổi, cân nặng tối thiểu 16 g
được lựa chọn, vận chuyển và chăm sóc trong điều kiện cách ly. Quy trình thích
nghi môi trường thí nghiệm 1 tuần.
Ngoài ra, có các thí nghiệm sử dụng các giống chuột khác như chuột Wistar, chuột
Sprague-Dawley,…
2. Hóa chất
Isoflurane 4%
Buprenorphin
e Oftagel
Hóa chất gây tổn thương chính: 6-OHDA hydrochloride ở nồng độ bazơ tự do là
4 µg/µL hòa tan trong NaCl vô trùng 0,9% với 0,02 mg/mL axit ascorbic
Hóa chất tổn tương giả: 0,02 mg/mL axit ascorbic trong nước muối vô trùng
0,9%
Glucose vô trùng 5%
Apomorphin
3. Quy trình thử nghiệm
Bước 1: Chuột được gây mê bằng 4% isoflurane (có các thí nghiệm sử dụng

17

hỗn hợp ketamine/xylaxine) và đặt trong khung định hình (hoặc tấm lưới)
được trang bị miếng đệm sưởi ấm (37°C) để duy trì nhiệt độ bình thường.
Bước 2: Tất cả động vật được tiêm dưới da buprenorphine 0,1 mg/kg khi bắt
đầu phẫu thuật và bôi thuốc mỡ nhãn khoa (Oftagel) lên mắt để ngăn
ngừa khô giác mạc.
Bước 3: Chuột nhóm 1 tiêm vào mỗi thể vân 1 μL 6 – OHDA hydrochloride
ở nồng độ bazơ tự do là 4 µg/µL hòa tan trong NaCl vô trùng 0,9% với 0,02
mg/mL axit ascorbic: trước sau (AP) +0,6; trung thất (ML) ±2,2
và lưng bụng (DV) .
Bước 4: Chuột đối chứng nhận được một tổn thương giả (nhóm 2), bao gồm
tiêm hai bên
1 µL chất lỏng (0,02 mg/mL axit ascorbic trong nước muối vô trùng
0,9%)
Bước 5: Để ngăn ngừa mất nước, tất cả động vật được tiêm dưới da 10 mL/kg
dung dịch glucose vô trùng 5% khi kết thúc phẫu thuật.
Bước 6: Thời gian phục hồi gây mê mất khoảng 4 – 5 giờ. Chuột được giữ trong
phòng thông gió tốt ở 25 ± 2°C trong các lồng riêng lẻ cho đến khi chúng đạt
được ý thức đầy đủ và sau đó được nhốt cùng nhau trong một nhóm bốn con
vật mỗi lồng. Thực phẩm và nước được giữ bên trong lồng trong tuần đầu tiên
để động vật có thể dễ dàng tiếp cận nó mà không có bất kỳ chấn thương thể
chất nào do phẫu thuật trên cao.
4. Theo dõi và thực hiện các bài tập vật lí
Sau khi tiêm, để ổn định vết thương trong 14 ngày
Thử nghiệm 3 bài tập vật lí và phản xạ đối chứng giữa hai nhóm gồm:
Hành vi vòng tròn do Apomorphine gây ra: Sau 23 ngày tổn thương, chuột được
thử nghiệm về hành vi quay do thuốc gây ra. Sự quay ngang của động vật được

18

ghi lại sau khi cho 0,5 mg/kg apomorphin (tính theo axit ascorbic-muối) dưới
da và điểm quay của chúng được thu thập trong khoảng thời gian 30 phút.

Hình 6: Thử nghiệm Apomorphine
Các con vật được thử nghiệm trong 5 phút trong khoảng thời gian 30 phút (6
phiên) để quay apomorphin. Các kết quả được thể hiện bằng phép quay/phút. 24.
Mê cung chùm tia hẹp (NBM): Sau 27 ngày bị tổn thương, tất cả các con vật được
kiểm tra sự cân bằng và phối hợp vận động trên một mê cung chùm tia hẹp. Mê
cung này bao gồm một hộp bắt đầu và mục tiêu và đường băng được làm bằng
một dầm hẹp bằng gỗ mịn có chiều dài 180 cm với chiều rộng đường băng là 2
cm.

Hình 7: Thử nghiệm NBM
Dầm được nâng lên khỏi mặt đất 1 mét với các giá đỡ bổ sung. Kích thước bên
trong của hộp bắt đầu và mục tiêu là chiều rộng 13 cm và tường cao 40 cm và
các bức tường bên trong được sơn màu đen. Các con vật được huấn luyện trên
NBM trong 10 lần thử mỗi ngày với khoảng thời gian 1 phút. Chuột được phép

19

khám phá NBM trong 10 thử nghiệm với khoảng thời gian 1 phút vào 1 ngày
trước ngày thử nghiệm và trong quá trình khám phá này, các động vật được
thúc đẩy và được thưởng bằng các viên thức ăn trong hộp đích. Thời gian hành
trình giữa hộp khởi động và hộp mục tiêu được đo.
Rota rod (phối hợp cơ bắp): Đối với khả năng phối hợp vận động, 28 ngày sau
khi bị tổn thương, chuột được đánh giá trên thiết bị rotarod. Bộ phận chân vịt bao
gồm một thanh quay, đường kính 75 mm, trên đó chuột được phép giữ lại. Sau hai
lần tập luyện hàng ngày trong 2 ngày liên tiếp (tốc độ 8 vòng/phút vào ngày đầu
tiên và 10 vòng/phút vào ngày thứ hai), tốc độ quay của thử nghiệm được tăng lên
15 vòng/phút vào ngày thứ ba trong phiên thử nghiệm. Thời gian để mỗi con
chuột ở lại trên thanh quay được ghi lại. Thời gian tối đa là 180 giây cho mỗi thử
nghiệm. Thiết bị tự động ghi lại thời gian trong 0,1 giây và dừng đếm khi chuột
rơi của trục quay. Tốc độ được đặt ở 15 vòng/phút và thời gian giới hạn là 180
giây. Các con vật được huấn luyện trên cây gậy, để chúng có thể ở trên đó ít
nhất là trong thời gian giới hạn. Dữ liệu được trình bày dưới dạng thời gian lưu
trên thanh quay trong ba thử nghiệm.


Hình 8: Thử nghiệm Rota Rod

20

5. Đo nồng độ các hợp chất trong não chuột sau thí nghiệm:
Dopamine
Trong nghiên cứu về bệnh Parkinson, việc xác định chính xác nồng độ dopamine
trong não đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá mức độ tổn thương và hiệu
quả điều trị. Dopamine là chất dẫn truyền thần kinh chủ chốt liên quan đến sự
điều hòa vận động, và sự suy giảm dopamine được xem là đặc trưng chính của
bệnh Parkinson. Phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao kết hợp phát hiện điện
hóa (HPLC-ECD) được đánh giá là kỹ thuật nhạy và chính xác, phù hợp để định
lượng dopamine trong mẫu mô não với độ nhạy cao và độ chọn lọc tốt. Do đó,
HPLC-ECD được ứng dụng rộng rãi trong các thí nghiệm nghiên cứu mô hình
Parkinson ở chuột nhằm theo dõi sự thay đổi nồng độ dopamine sau khi tác nhân
gây bệnh được áp dụng.
Sau một khoảng thời gian nhất định (ví dụ từ vài ngày đến vài tuần), não của
những con chuột được xử lý sẽ được lấy ra để phân tích nồng độ dopamine và các
chất chuyển hóa của nó như DOPAC và HVA. Kỹ thuật phân tích thường dùng
là: HPLC-ECD (High Performance Liquid Chromatography with
Electrochemical Detection): phương pháp phổ biến để phát hiện và định lượng
dopamine chính xác. ELISA hoặc các phương pháp sinh hóa khác cũng có thể
được dùng nhưng ít phổ biến hơn.
HPLC (High Performance Liquid Chromatography) kết hợp với ECD
(Electrochemical Detection) là kỹ thuật phổ biến và nhạy để định lượng dopamine
và các chất chuyển hóa của nó (ví dụ DOPAC, HVA) trong mẫu mô não. Phương
pháp này rất phù hợp để nghiên cứu bệnh Parkinson trên chuột vì dopamine là
chất dẫn truyền thần kinh chính bị suy giảm trong bệnh.
2. Quy trình mẫu và chuẩn bị
a. Chuẩn bị mẫu:

21

Sau khi kết thúc thời gian điều trị, chuột được mổ lấy não nhanh chóng. Vùng
não được quan tâm (thường là striatum hoặc substantia nigra) được bóc tách, cân
và lưu giữ lạnh (tầng -80°C). Mẫu mô được đồng nhất hóa trong dung dịch đệm
thích hợp (ví dụ bộ đệm phosphat) chứa chất ức chế men phân hủy catecholamine.
b. Xử lý mẫu:
Mẫu đồng nhất hóa có thể được ly tâm để thu lấy dung dịch chứa dopamine. Dung
dịch thu được được lọc qua màng lọc 0.22 μm để loại bỏ tạp chất. Mẫu chuẩn
dopamine và các chất chuyển hoá cũng được chuẩn bị để khảo sát mức độ chính
xác.
3. Nguyên lý HPLC-ECD
Dopamine và các chất chuyển hóa được tách dựa trên tính chất hóa lý khi đi qua
cột sắc ký (thường dùng cột C18 hoặc cột đặc hiệu cho catecholamine). Điện áp
được đặt tại detector điện hóa tạo điều kiện oxy hóa hoặc khử dopamine, tạo ra
tín hiệu dòng điện tỷ lệ thuận với nồng độ. Tín hiệu điện hóa được ghi lại và
chuyển đổi thành nồng độ dựa trên đường chuẩn. 4. Điều kiện chạy phổ biến Cột
sắc ký: Reverse phase C18, kích thước hạt 3-5 μm Pha động: Thường là dung
dịch đệm phosphat ở pH ~3.0-3.5, có thể thêm methanol hoặc acetonitrile 10-
20% để tăng hiệu quả tách. Tốc độ dòng: ~0.7-1.0 mL/phút Điện áp ECD: +0.6
đến +0.8 V so với điện cực tham chiếu Nhiệt độ cột: 25-30°C
Cytokine
Não bộ được lấy ra ngay lập tức và phần thể vân (striatum) được tách riêng, sau
đó được đồng nhất hóa trong dung dịch đệm PBS có chứa 0,05% Tween 20, 0,1
mM phenylmethylsulfonyl fluoride, 0,1 mM benzethonium chloride, 10 mM
EDTA và 20 IU aprotinin A. Hỗn hợp đồng nhất sau đó được ly tâm ở tốc độ
3000×g trong 15 phút và phần dịch nổi được bảo quản ở −80 °C cho đến khi thực
hiện các xét nghiệm xác định nồng độ của các cytokine: interferon-gamma (IFN-
γ) (mã sản phẩm: MIF00), yếu tố hoại tử khối u alpha (TNF-α) (mã sản phẩm:

22

MTA00B), interleukin 1-beta (IL-1β) (mã sản phẩm: DY401-05), interleukin 2
(IL-2) (mã sản phẩm: DY402-05), interleukin 6 (IL-6) (mã sản phẩm: M6000B)
và interleukin-10 (IL-10) (mã sản phẩm: M1000B).
Nồng độ của từng cytokine được đánh giá bằng bộ kit ELISA theo hướng dẫn của
nhà sản xuất (R&D Systems, Minneapolis, MN, USA), và kết quả được biểu thị
bằng đơn vị pg/mg protein trong mỗi mẫu.
VI. Kết luận:
Tóm lại, việc sử dụng phương pháp in vivo trên chuột kết hợp với tác nhân 6-
hydroxydopamine (6-OHDA) đã chứng minh là một mô hình động vật có giá trị
trong việc nghiên cứu bệnh Parkinsonian. Bằng cách gây tổn thương chọn lọc các
tế bào thần kinh dopaminergic ở vùng chất đen của não chuột, 6-OHDA đã tạo ra
các triệu chứng vận động và thần kinh tương tự như ở bệnh nhân Parkinson. Mô
hình này cho phép các nhà nghiên cứu quan sát và phân tích sự tiến triển của
bệnh, cũng như đánh giá hiệu quả của các phương pháp điều trị tiềm năng.
Các thí nghiệm in vivo sử dụng mô hình chuột 6-OHDA đã đóng góp đáng kể vào
sự hiểu biết về cơ chế bệnh sinh của Parkinson, bao gồm vai trò của sự suy giảm
dopamine, stress oxy hóa và viêm thần kinh. Hơn nữa, mô hình này đã tạo điều
kiện thuận lợi cho việc thử nghiệm các loại thuốc mới, liệu pháp gen và các can
thiệp khác nhằm mục đích bảo vệ thần kinh, phục hồi chức năng vận động và làm
chậm quá trình thoái hóa thần kinh.
Mặc dù có những hạn chế nhất định, chẳng hạn như không hoàn toàn tái tạo được
sự phức tạp của bệnh Parkinson ở người, mô hình chuột 6-OHDA vẫn là một công
cụ thiết yếu trong nghiên cứu tiền lâm sàng. Các kết quả thu được từ các thí
nghiệm in vivo này cung cấp nền tảng quan trọng cho việc phát triển các phương
pháp điều trị hiệu quả hơn cho bệnh nhân Parkinson. Trong tương lai, việc tiếp
tục tối ưu hóa mô hình này và kết hợp nó với các kỹ thuật nghiên cứu tiên tiến

23

khác sẽ càng làm sâu sắc thêm sự hiểu biết của chúng ta về bệnh Parkinson và
mở ra những hướng đi mới trong việc điều trị căn bệnh này.
VII. Tài liệu tham khảo
1. U. Ungerstedt, T. Ljungberg, and G. Steg, “Behavioral, physiological,
and neurochemical changes after 6-hydroxydopamine-induced
degeneration of the nigro- striatal dopamine neurons,” Adv Neurol, vol. 5,
pp. 421–426, Jan. 1974.
2. Y. Glinka, K. F. Tipton, and M. B. H. Youdim, “Nature of Inhibition of
Mitochondrial Respiratory Complex I by 6‐Hydroxydopamine,” Journal
of Neurochemistry, vol. 66, no. 5, pp. 2004–2010, May 1996, doi:
10.1046/j.1471- 4159.1996.66052004.x.
3. Y. Y. Glinka and M. B. H. Youdim, “Inhibition of mitochondrial
complexes I and IV by 6-hydroxydopamine,” European Journal of
Pharmacology: Environmental Toxicology and Pharmacology, vol. 292,
no. 3–4, pp. 329–332, Mar. 1995, doi: 10.1016/0926-6917(95)90040-3
4. S. K. Prajapati, D. Garabadu, and S. Krishnamurthy, “Coenzyme Q10
Prevents Mitochondrial Dysfunction and Facilitates Pharmacological
Activity of Atorvastatin in 6-OHDA Induced Dopaminergic Toxicity in
Rats,” Neurotox Res, vol. 31, no. 4,
pp. 478–492, May 2017, doi: 10.1007/s12640-016-9693-6.
5. S. Lei and R. Powers, “NMR Metabolomics Analysis of Parkinson's
Disease,”
CMB, vol. 1, no. 3, pp. 191–209, Sep. 2013, doi:
10.2174/2213235X113019990004.
6. O. M. Adeyemo, M. B. H. Youdim, S. P. Markey, C. J. Markey, and H.
B. Pollard, “L-deprenyl confers specific protection against MPTP-
induced Parkinson’s disease- like movement disorder in the goldfish,”

24

European Journal of Pharmacology, vol. 240, no. 2, pp. 185–193, Aug.
1993, doi: 10.1016/0014-2999(93)90897-Q.
7. R. R. Ramsay, M. J. Krueger, S. K. Youngster, M. R. Gluck, J. E. Casida,
and T. P. Singer, “Interaction of 1‐Methyl‐4‐Phenylpyridinium Ion (MPP
+
) and Its Analogs with the Rotenone/Piericidin Binding Site of NADH
Dehydrogenase,” Journal of Neurochemistry, vol. 56, no. 4, pp. 1184–
1190, Apr. 1991, doi: 10.1111/j.1471- 4159.1991.tb11409.x.
8. “The Clinical Syndrome of Striatal Dopamine Deficiency:
Parkinsonism Induced by 1-Methyl-4-Phenyl-1,2,3,6-Tetrahydropyridine
(MPTP): New England Journal of Medicine: Vol 312, No 22.” Accessed:
Apr. 17, 2024. [Online]. Available:
https://www.nejm.org/doi/abs/10.1056/NEJM198505303122203
9. M. H. Yan, X. Wang, and X. Zhu, “Mitochondrial defects and oxidative
stress in Alzheimer disease and Parkinson disease,” Free Radical Biology
and Medicine, vol. 62, pp. 90 –101, Sep. 2013, doi:
10.1016/j.freeradbiomed.2012.11.014.
10. Y. Lu et al., “Metabolic Disturbances in the Striatum and Substantia
Nigra in the Onset and Progression of MPTP-Induced Parkinsonism
Model,” Front. Neurosci., vol. 12, p. 90, Feb. 2018, doi:
10.3389/fnins.2018.00090.
11. K. Chiba, A. Trevor, and N. Castagnoli, “Metabolism of the
neurotoxic tertiary amine, MPTP, by brain monoamine oxidase,”
Biochemical and Biophysical Research Communications, vol. 120, no. 2,
pp. 574–578, Apr. 1984, doi: 10.1016/0006- 291X(84)91293-2.
12. “Sci-Hub | 1-Methyl-4-Phenyl-1,2,3,6-Tetrahydropyridine
Metabolism and l- Methyl-4-Phenylpyridinium Uptake in Dissociated
Cell Cultures from the Embryonic Mesencephalon. Journal of
Neurochemistry, 50(6), 1900 –1907 | 10.1111/j.1471 -

25

4159.1988.tb02495.x.” Accessed: Apr. 17, 2024. [Online]. Available:
https://sci- hub.se/https://doi.org/10.1111/j.1471-4159.1988.tb02495.x
13. R. S. Burns, C. C. Chiueh, S. P. Markey, M. H. Ebert, D. M.
Jacobowitz, and I. J. Kopin, “A primate model of parkinsonism: selective
destruction of dopaminergic neurons in the pars compacta of the
substantia nigra by N-methyl-4-phenyl-1,2,3,6- tetrahydropyridine.,”
Proc. Natl. Acad. Sci. U.S.A., vol. 80, no. 14, pp. 4546–4550, Jul. 1983,
doi: 10.1073/pnas.80.14.4546.
14. X.-S. Zeng, J.-J. Jia, Y. Kwon, S.-D. Wang, and J. Bai, “The role of
thioredoxin- 1 in suppression of endoplasmic reticulum stress in
Parkinson disease,” Free Radical Biology and Medicine, vol. 67, pp. 10–
18, Feb. 2014, doi: 10.1016/j.freeradbiomed.2013.10.013.
15. K. Shimizu et al., “Carrier-mediated processes in blood–brain barrier
penetration and neural uptake of paraquat,” Brain Research, vol. 906, no.
1, pp. 135–142, Jul. 2001, doi: 10.1016/S0006-8993(01)02577-X.
16. “Effects of L-dopa and other amino acids against paraquat-induced
nigrostriatal degeneration | Request PDF.” Accessed: Apr. 17, 2024.
[Online]. Available:
https://www.researchgate.net/publication/10851611_Effects_of_L-
dopa_and_other_amino_acids_against_paraquat-
induced_nigrostriatal_degeneration
17. M. Niso-Santano et al., “Activation of apoptosis signal-regulating
kinase 1 is a key factor in paraquat-induced cell death: Modulation by the
Nrf2/Trx axis,” Free Radical Biology and Medicine, vol. 48, no. 10, pp.
1370–1381, May 2010, doi: 10.1016/j.freeradbiomed.2010.02.024.
18. Q. Fei, A. L. McCormack, D. A. Di Monte, and D. W. Ethell,
“Paraquat Neurotoxicity Is Mediated by a Bak-dependent Mechanism,”
Journal of Biological Chemistry, vol. 283, no. 6, pp. 3357–3364, Feb.

26

2008, doi: 10.1074/jbc.M708451200.
19. K. Muthukumaran et al., “Orally delivered water soluble Coenzyme
Q10 (Ubisol- Q10) blocks on-going neurodegeneration in rats exposed to
paraquat: potential for therapeutic application in Parkinson’s disease,”
BMC Neurosci, vol. 15, no. 1, p. 21, Dec. 2014, doi: 10.1186/1471-2202-
15-21.
20. “Sci-Hub | Gene–environment interactions in Parkinson’s disease:
Specific evidence in humans and mammalian models. Neurobiology of
Disease, 57, 38–46 | 10.1016/j.nbd.2012.06.025.” Accessed: Apr. 17,
2024. [Online]. Available: https://sci-
hub.se/https://doi.org/10.1016/j.nbd.2012.06.025
21. EFSA WG EPI1 Members et al., “An adverse outcome pathway for
parkinsonian motor deficits associated with mitochondrial complex I
inhibition,” Arch Toxicol, vol. 92, no. 1, pp. 41–82, Jan. 2018, doi:
10.1007/s00204-017-2133-4.
22. “Inhibition of Neuronal Cell Mitochondrial Complex I with Rotenone
Increases Lipid β-Oxidation, Supporting Acetyl-Coenzyme A Levels* -
Journal of Biological Chemistry.” Accessed: Apr. 17, 2024. [Online].
Available: https://www.jbc.org/article/S0021-9258(20)37151-9/fulltext
23. G. U. Höglinger et al., “Chronic systemic complex I inhibition
induces a hypokinetic multisystem degeneration in rats,” Journal of
Neurochemistry, vol. 84, no. 3, pp. 491–502, Feb. 2003, doi:
10.1046/j.1471-4159.2003.01533.x.
24. T. R. Sampson et al., “Gut Microbiota Regulate Motor Deficits and
Neuroinflammation in a Model of Parkinson’s Disease,” Cell, vol. 167,
no. 6, pp. 1469-1480.e12, Dec. 2016, doi: 10.1016/j.cell.2016.11.018.
25. V. Jackson-Lewis and S. Przedborski, “Protocol for the MPTP mouse
model of Parkinson’s disease,” Nat Protoc, vol. 2, no. 1, pp. 141–151,

27

Jan. 2007, doi: 10.1038/nprot.2006.342.
26P. Shrivastava et al., “Anti-apoptotic and Anti-inflammatory effect of
Piperine on 6-OHDA induced Parkinson’s Rat model,” The Journal of
Nutritional Biochemistry, vol. 24, no. 4, pp. 680–687, Apr. 2013, doi:
10.1016/j.jnutbio.2012.03.018.
27. D. Matheoud et al., “Parkinson’s Disease-Related Proteins PINK1
and Parkin Repress Mitochondrial Antigen Presentation,” Cell, vol. 166,
no. 2, pp. 314–327, Jul. 2016, doi: 10.1016/j.cell.2016.05.039.
28. J. Ren, Y. Zhao, and X. Sun, “Toxic influence of chronic oral
administration of paraquat on nigrostriatal dopaminergic neurons in
C57BL/6 mice,” Chin Med J (Engl), vol. 122, no. 19, pp. 2366–2371, Oct.
2009.
Tags