sinh_ke_ben_vung_cho_nguoi_dan_ven_bien_tinh_nghe_an_luan_an_tieng_viet__1503-012-022.pdf

xuanhaiktbt 1 views 11 slides May 23, 2025
Slide 1
Slide 1 of 11
Slide 1
1
Slide 2
2
Slide 3
3
Slide 4
4
Slide 5
5
Slide 6
6
Slide 7
7
Slide 8
8
Slide 9
9
Slide 10
10
Slide 11
11

About This Presentation

nghĩa quan trọng trong xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội cũng như bảo
vệ an ninh, chủ quyền của đất nước. Nhận thức được vấn đề này, Đảng và Nhà nước ta
đã có nhiều chủ trương, chính sách phát triển khai thác hải sản cũng ...


Slide Content

1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Việt Nam là quốc gia biển với diện tích vùng biển rộng trên 1 triệu km
2
, gấp
hơn 3 lần diện tích đất liền; bờ biển Việt Nam dài trên 3.260 km có tiềm năng, lợi thế
về biển, trong đó thủy hải sản là rất lớn. Vai trò hoạt động của cộng đồng người dân
ven biển có ý nghĩa quan trọng trong xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội cũng như bảo
vệ an ninh, chủ quyền của đất nước. Nhận thức được vấn đề này, Đảng và Nhà nước ta
đã có nhiều chủ trương, chính sách phát triển khai thác hải sản cũng như hỗ trợ sinh kế
cho người dân như Nghị quyết 03-NQ/TW, ngày 06/5/1993 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ phát triển kinh tế biển; Chỉ thị 20-CT/TW, ngày 22/9/1997 của Bộ Chính trị
về đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa;
Nghị quyết 09-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về Chiến lược
biển Việt Nam; Quyết định 393/TTg ngày 09/6/1997 của Thủ tướng Chính phủ về vay
vốn tín dụng để đóng mới, cải hoán tàu đánh bắt xa bờ; Quyết định số 289/QĐ-TTg
ngày 18/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ đồng bào dân
tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách, hộ nghèo, hộ cận nghèo và người dân; Chỉ thị số
689/CT-TTg ngày 18 tháng 5 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ về một số giải pháp
nhằm ngăn chặn, giảm thiểu tình trạng tàu cá, người dân Việt Nam bị nước ngoài bắt
giữ... Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã xác định kinh tế biển là một trong những
nhiệm vụ, giải pháp quan trọng để đến năm 2030, đưa Việt Nam trở thành nước
đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Nghị quyết số 36-
NQ/TW ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Chiến
lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm
2045 đã chỉ rõ hướng phát triển bền vững kinh tế biển cả về môi trường và sinh kế
của người dân. Mặc dù tình hình quốc tế, khu vực và kinh tế - xã hội trong nước có
nhiều biến động, phức tạp, khó khăn, sau gần 3 năm thực hiện Nghị quyết số 36-
NQ/TW, các bộ, ngành và địa phương đã nỗ lực tổ chức triển khai Chiến lược phát
triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và
đã đạt được một số kết quả bước đầu đáng ghi nhận. Nghị quyết của Ban Chấp
hành Trung ương đã được tổ chức quán triệt, tuyên truyền sâu rộng và từng bước
thể chế hóa. Các chủ trương lớn của Nghị quyết được đẩy mạnh triển khai và bước
đầu đạt kết quả tích cực, cụ thể trong phát triển các ngành kinh tế biển như du lịch
và dịch vụ biển, kinh tế hàng hải, khai thác dầu khí và các tài nguyên khoáng sản
biển khác, nuôi trồng và khai thác hải sản, năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế
biển mới. Nhiều địa phương có biển đã từng bước hình thành các khu kinh tế, khu
công nghiệp, khu đô thị sinh thái ven biển; phát triển các vùng biển dựa trên lợi
thế về điều kiện tự nhiên; bảo vệ môi trường, bảo tồn, phát triển bền vững đa dạng
sinh học biển; chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng và phòng,
chống thiên tai; bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hợp tác quốc tế về
biển và đại dương.

2
Nghệ An là tỉnh có diện tích lớn nhất cả nước với diện tích 16.498,5 km
2
với
hải phận rộng 4.230 hải lý vuông, từ độ sâu 40m trở vào nói chung đáy biển tương
đối bằng phẳng, từ độ sâu 40m trở ra có nhiều đá ngầm, cồn cát. Vùng biển Nghệ
An là nơi tập trung nhiều loài hải sản có giá trị kinh tế cao. Bờ biển Nghệ An có
chiều dài 82 km, có 6 cửa lạch thuận lợi cho việc vận tải biển, phát triển cảng biển
và nghề làm muối (1000 ha). Tuy vậy, sinh kế của người dân ven biển nơi đây vẫn
chưa phát triển một cách tương xứng với tiềm năng và nguồn lực hiện có. Chiến lược
sinh kế của hộ dân vẫn phụ thuộc nhiều vào đánh bắt thủy hải sản, tỷ trọng thu nhập
bình quân từ nghề đánh bắt hải sản so với tổng thu nhập của hộ vẫn còn ở mức cao
(gần 30%) [10]. Hoạt động và mô hình sinh kế vẫn còn đơn điệu. Kết quả sinh kế vẫn
còn hạn chế và thiếu sự cân đối giữa kinh tế, xã hội, và môi trường dẫn tới sự thiếu
bền vững trong phát triển sinh kế, đặc biệt là đối với nhóm hộ phụ thuộc cao vào
nghề biển. Khía cạnh xã hội và môi trường của người dân khá đảm bảo, tuy nhiên yếu
tố kinh tế lại còn nhiều yếu kém. Thu nhập của hộ dân khá thấp với bình quân là
khoảng 34 triệu đồng/hộ/năm và thiếu ổn định do phụ thuộc nhiều vào nguồn lợi từ
biển và các hoạt động nông nghiệp nhỏ lẻ [9].
Từ những thực tế trên cho thấy, việc thực hiện đề tài “Sinh kế bền vững cho
người dân ven biển tỉnh Nghệ An” là cần thiết, nhằm đóng góp một hướng đi mới có
tính đột phá trong phát triển kinh tế cho người dân ven biển tỉnh Nghệ An trong thời
gian tới. Đây là vấn đề rất cần thiết và có ý nghĩa khoa học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận án
+ Mục đích nghiên cứu: Hệ thống hóa và làm rõ các vấn đề về lý luận và
thực tiễn về sinh kế bền vững cho người dân ven biển. Từ đó, đề xuất các quan điểm
và giải pháp tạo sinh kế bền vững bền vững cho người dân ven biển tỉnh Nghệ An.
+ Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ một số vấn đề cơ sở lý luận về sinh kế bền vững cho người dân ven biển;
- Kinh nghiệm một số quốc gia và một số địa phương trong nước về tạo sinh
kế bền vững cho người dân ven biển, từ đó rút ra bài học đối với tạo sinh kế bền
vững cho người dân ven biển tỉnh Nghệ An.
- Đánh giá đúng thực trạng về sinh kế bền vững cho người dân ven biển tỉnh
Nghệ An trong thời gian qua, nhằm làm rõ các thành tựu, thách thức, hạn chế và
nguyên nhân các hạn chế tồn tại.
- Đề xuất quan điểm, giải pháp về tạo sinh kế bền vững cho người dân ven
biển tỉnh Nghệ An.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu: Sinh kế bền vững của người dân ven biển.
+ Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi về nội dung: Luận án chỉ tập trung nghiên cứu cơ chế chính sách của
nhà nước, của chính quyền địa phương (chủ thể ra quyết định quản lý và tổ chức thực
hiện các quyết định quản lý đến việc sử dụng các nguồn lực sinh kế và chiến lược sinh
kế của người dân ven biển (đối tượng quản lý).

3
Chủ thể quản lý sinh kế bền vững cho người dân ven biển trong luận án này chính là
chính quyền tỉnh Nghệ An thông qua việc ra quyết định quản lý và tổ chức thực hiện các
quyết định quản lý để tác động đến các hoạt động sinh kế của những người dân ven biển.
Phạm vi về không gian: Luận án nghiên cứu sinh kế bền vững cho người dân
ven biển tại tỉnh Nghệ An
Phạm vi thời gian: Thời gian nghiên cứu tập trung vào giai đoạn 2018 – 2021, và
luận giải đề xuất các giải pháp đến năm 2030, tầm nhìn 2045.
4. Phương pháp tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Tiếp cận nghiên cứu
4.1.1. Tiếp cận sinh kế bền vững
Tiếp cận khung sinh kế chủ yếu mà đề tài sử dụng là khung sinh kế bền vững
do Bộ Phát triển Quốc tế Anh xây dụng (Department for International Development -
DFID) xây dựng từ những năm 80 của thế kỷ XX nhằm tìm hiểu các loại hình sinh kế
[113]. Tiếp cận khung sinh kế bền vững thể hiện đầy đủ nhất và toàn diện nhất mối
quan hệ tương tác giữa 5 hợp phần chính bối cảnh tổn thương; các tài sản sinh kế;
những chính sách, thể chế và tiến trình; các chiến lược sinh kế và các hệ quả sinh kế.
Khung sinh kế đưa ra sự hình dung trực quan về cách thức những yếu tố này gắn kết
với nhau như thế nào giữa các khối các mục đích của nó là giúp người sử dụng nắm
được những khía cạnh khác nhau của các loại hình sinh kế, đặc biệt là những yếu tố
làm nảy sinh vấn đề hay những yếu tố tạo cơ hội [14].
Một số tổ chức khác cũng đã phát triển những khung sinh kế tương tự và có
sự bổ sung cho khung của DFID, đáng chú ý nhất là đều coi con người là trung tâm
của các các tài sản sinh kế.
Vì vậy trong nghiên cứu này chúng tôi kết hợp để sử dụng tiếp cận khung
sinh kế của DFID với sự bổ sung của các tiếp cận khác. Sự bổ sung rõ nhất là bổ
sung yếu tố con người vào trung tâm của ngũ giác vốn sinh kế.
4.1.2. Tiếp cận hợp tác công tư (Public - Private - Partnership Approach)
Tiếp cận hợp tác công tư là việc nghiên cứu phân tích, đánh giá mở rộng hình
thức tham gia của cộng đồng với chính quyền nhà nước, địa phương trong giải quyết
các vấn đề liên quan tới sinh kế từ đó thấy rõ tính đa dạng và sáng tạo trong các hoạt
động sinh kế do người dân tạo ra và các tác động đa dạng của chính quyền và các tổ
chức cộng đồng trong hỗ trợ các hộ nông dân.
Tiếp cận hợp tác công tư cũng cho thấy sự phân công trách nhiệm, vai trò của
hộ đến đâu, của cộng đồng đến đâu và chổ nào không thể giải quyết được phải nhờ đến
nhà nước. Từ đây cũng cho thấy quan điểm không dựa dẫm, ỷ lại vào nhà nước nhưng
nhà nước cũng phải tạo môi trường ổn định thì sinh kế của hộ mới ổn định.
4.1.3. Tiếp cận nghiên cứu vùng
Tiếp cận vùng cho phép nhìn nhận sinh kế của từng loại hộ và cả vùng. Các
vùng có sự độc lập tương đối về quản lý và giao thoa lẫn nhau nên.Vì vậy không thể
tuyệt đối hoá một cách cố định mà có sự thay đổi khi sự giao thoa giữa vùng ven
biển và vùng khác có sự dịch chuyển.Với cách nhìn nhận này thì việc xác định

4
phương pháp nghiên cứu cụ thể sẽ phải tham khảo nhiều hơn các ý kiến tư vấn của
chính quyền và người dân địa phương.
4.1.4. Tiếp cận nghiên cứu có tham gia
Tiếp cận có sự tham gia với đề tài nghiên cứu sinh kế người dân vùng ven biển
tỉnh Nghệ An nhằm thu hút sự tham gia của các hộ nông dân, các cán bộ địa phương,
các cán bộ khoa học thực tiễn trong việc đánh giá thực trạng sinh kế, diễn biến sinh kế,
quan hệ nhân quả, các bên liên quan cũn như đề xuất giải pháp toàn diện cho phát triển
sinh kế. Tiếp cận tham gia còn nhàm chỉ ra sinh kế hộ không thể tách rời sinh kế cộng
đồng, sinh kế không cố định mà có sự thay đổi theo mức độ thay đổi môi trường. Tiếp
cận tham gia cũng giúp chỉ ra các bên liên quan trong giải quyết sinh kế của hộ [16].
4.1.5. Tiếp cận hệ thống
Tiếp cận hệ thống được sử dụng để để phân tích, đánh giá các quan hệ tác động
lẫn nhau. Hệ thống là một tổng thể có trật tự của các yếu tố khác nhau có quan hệ và
tác động qua lại. Tiếp cận hệ thống được vận dụng vào trong nghiên cứu này nhằm chi
ra quan hệ ràng buộc, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các hoạt động sinh kế với các với các
nguồn vốn sinh kế, giữa hoạt động sinh kế và kết quả, tác động giữa các pháp sinh kế
và các giải pháp khác.... Tiếp cận này còn chỉ ra những điểm hạn chế nhất cản trở phát
triển sinh kế và xếp hạng thứ tự giải quyết từng vấn đề [20].
Trong luận án này, tiếp cận nghiên cứu của chuyên ngành quản lý kinh tế là
nghiên cứu cơ chế quản lý của Trung ương và địa phương (chính sách, biện pháp,
nguyên tắc quản lý, kết quả,..) được chủ thể quản lý xây dựng và thực hiện để tác động
vào đối tượng quản lý là những người dân ven biển nhằm thực hiện các mục tiêu quản
lý do chủ thể đề ra. Các mục tiêu quản lý bao gồm mục tiêu dài hạn (sinh kế bền vững)
và mục tiêu ngắn hạn (thu nhập của người dân, đời sống tinh thân của người dân, tăng
trưởng kinh tế của địa phương, các vấn đề về môi trường và xã hội).
4.2. Phương pháp nghiên cứu
4.2.1. Khung phân tích

5

Sơ đồ 1. Khung phân tích sinh kế bền vững của người dân ven biển

6






4.2.2. Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp thu thập thông tin
- Tài liệu thứ cấp
Các thông tin, số liệu nói chung về hoạt động sinh kế khai thác hải sản,
tình hình đời sống, việc làm của người dân, tình hình khai thác, số lượng, công
suất tàu thuyền, nguồn lợi hải sản; tình hình tổ chức triển khai và thực hiện các
chính sách người dân… được thu thập từ các công trình nghiên cứu đã công bố
như sách, tạp chí, các đề tài, đề án, kỷ yếu hội thảo của các bộ, ngành chức năng.
Thông tin về chủ trương, đường lối, chính sách về các vấn đề có liên quan đến
lĩnh vực khai thác hải sản, đời sống, việc làm, thu nhập của người dân được thu
thập, tổng hợp từ các văn bản nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Nhà nước, các ngành
chức năng Trung ương và của tỉnh Nghệ An. Các thông tin về đặc điểm tự nhiên,
khai thác hải sản, tình hình lao động, việc làm, thu nhập của người dân, vấn đề
cơ sở hạ tầng, đất đai, chính sách đầu tư cho vùng ven biển tỉnh Nghệ An được
tổng hợp từ các báo cáo của các tỉnh và các phòng, ban chuyên môn khác cấp
thành phố, cấp huyện và cấp xã.
- Tài liệu sơ cấp
Sử dụng công cụ PRA [20], các thông tin, số liệu về thực trạng các nguồn
lực sinh kế, môi trường dễ bị tổn thương, các chiến lược sinh kế của người dân,
đánh giá về các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước có liên quan được
thu thập qua khảo sát thực tế.
Ngoài ra, việc điều tra, phỏng vấn, lấy ý kiến về các vấn đề liên quan còn
được thực hiện đối với đại diện các cơ quan, đơn vị như Tổng cục Thủy sản (Vụ
Khai thác, Cục Kiểm ngư), Viện KT&QH thủy sản, Viện Nghiên cứu Hải sản
trực thuộc Bộ NN&PTNT; Sở NN&PTNT, Chi cục Khai thác và bảo vệ NLTS,
Phòng NN&PTNT, Phòng Kinh tế, Đảng ủy, UBND các xã, phường, tập đoàn,
chi hội nghề cá của tỉnh Nghệ An và một số chuyên gia về lĩnh vực thủy sản,
khai thác hải sản.
* Phương pháp xử lý số liệu
Mã hóa số liệu: các số liệu định tính thu thập được sẽ được chuyển đổi,
mã hóa thành các con số để tính toán.
Nhập liệu và hiệu chỉnh: các số liệu thu thập được, kể cả số liệu đã được
mã hóa sẽ được nhập và lưu phục vụ cho việc xử lý, tính toán tiếp theo. Trong
quá trình nhập số liệu, với những số liệu có sự sai sót trong quá trình thu thập sẽ
được kiểm tra và hiệu chỉnh lại.
Công cụ xử lý: Các số liệu sơ cấp và thứ cấp sẽ được tổng hợp và xử lý
chủ yếu bằng phần mềm excel trên máy tính.
* Phương pháp phân tích
Phương pháp thống kê mô tả: Từ những số liệu thu thập, tổng hợp được,
phương pháp thống kê mô tả được sử dụng để mô tả, phân tích số liệu, tài liệu,

7






đánh giá xu hướng, những vấn đề có tính quy luật trong hoạt động sinh kế của
người dân [36], cụ thể là đối với các nguồn lực sinh kế, môi trường dễ bị tổn
thương, các chiến lược sinh kế, kết quả sinh kế của người dân cũng như các yếu
tố ảnh hưởng đến hoạt động sinh kế của người dân.
Phương pháp so sánh: Phương pháp này được sử dụng nhằm so sánh,
đánh giá các chỉ tiêu theo thời gian và không gian. Cụ thể, so sánh sự khác nhau
về các nguồn lực sinh kế, tác động của các yếu tố ảnh hưởng, kết quả sinh kế đạt
được của người dân thuộc các địa bàn nghiên cứu với nhau; so sánh sự tăng giảm
các nguồn lực sinh kế hàng năm; so sánh kết quả sinh kế của các chiến lược sinh
kế, các phương án đầu tư... làm căn cứ để đưa ra các giải pháp cải thiện sinh kế
cho người dân bảo đảm tính thực tiễn, khả thi.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Là một nghiên cứu mang tính hệ thống liên quan đến phát triển sinh kế
bền vững cho người dân ven biển ở Nghệ An, luận án đã có những đóng góp mới
về mặt lý luận và thực tiễn như sau:
- Luận án đã hệ thống hóa được và làm rõ hơn các vấn đề lý luận về khái
niệm sinh kế, sinh kế cho người dân ven biển, sinh kế bền vững cho người dân
ven biển; các nguồn lực phát triển sinh kế của người dân ven biển.
- Luận án đã phân tích làm rõ những nguồn lực và tiêu chí đánh giá nguồn
lực đó đối với việc tạo bền vững của người dân ven biển. Từ đó, cho thấy mỗi
nguồn lực sinh kế chịu tác động bởi những nhân tố nào đến sinh kế bền vững cho
người dân ven biển tỉnh Nghệ An.
Đồng thời, luận án đã phân tích ảnh hưởng của chiến lược sinh kế bền vững
của người dân ven biển đến sự thay đổi các nguồn lực sinh kế của họ. Từ đó có
thể nhận thấy ảnh hưởng của các nguồn lực tới sinh kế người dân đặc biệt là
người dân ven biển là một khoảng trống cả về lý luận và thực tiễn.
- Nghiên cứu này được tiến hành ở tỉnh Nghệ An - nơi chưa có nghiên cứu
sâu về vấn đề này cho người dân ven biển. Đây là một nghiên cứu không những
đóng góp ý nghĩa cho nghiên cứu khoa học mà còn mang ý nghĩa thực tiễn lớn
trong vấn đề tạo sinh kế bền vững của người dân ven biển tỉnh Nghệ An, là
“khoảng trống” mà luận án lấp đầy.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
+ Ý nghĩa lý luận của luận án:
- Lý luận về phát triển sinh kế bền vững cho người dân ven biển thực hiện
trong luận án đã góp phần khẳng định việc thúc đẩy phát triển sinh kế bền vững
cho người dân ven biển là yếu tố quan trọng nhất để đảm bảo sinh kế ven biển
phát triển bền vững (lợi ích giao thoa giữa kinh tế, xã hội và môi trường lớn
nhất), là cơ sở gợi mở cần thiết cho các nghiên cứu tiếp theo.
- Kết quả nghiên cứu khẳng định rằng, muốn phát triển sinh kế bền vững
cho người dân ven biển thì cần phải chú ý đến các nguồn lực sinh kế của họ.

8






- Kết quả nghiên cứu khẳng định rằng, muốn thu hút và thúc đẩy phát triển
sinh kế bền vững cho người dân ven biển thì cần phải chú ý đến cả 3 khía cạnh
kinh tế, xã hội và môi trường trong quá trình thực hiện. Vì vậy, tính đồng bộ
trong thực hiện các giải pháp cần phải được đặc biệt quan tâm.
+ Ý nghĩa thực tiễn của luận án:
- Luận án đã đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển sinh kế bền
vững cho người dân ven biển ở tỉnh Nghệ An; các giải pháp này nếu được áp
dụng sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động phát triển sinh kế bền vững cho
người dân ven biển của Nghệ An trong thời gian tới.
- Kết quả nghiên cứu của luận án là tài liệu tham khảo bổ ích cho các đối
tượng có nhu cầu tìm hiểu về vấn đề phát triển sinh kế bền vững cho người dân
ven biển ở Nghệ An; các địa phương khác trong cả nước cũng có thể tìm thấy
những thông tin bổ ích trong luận án này.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài lời nói đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận án được kết
cấu thành 4 chương như sau:
Chương 1. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến sinh kế và sinh
kế bền vững cho người dân ven biển và phương pháp nghiên cứu
Chương 2. Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về sinh kế bền vững cho người
dân ven biển
Chương 3. Thực trạng sinh kế bền vững cho người dân ven biển tỉnh Nghệ An
Chương 4. Quan điểm, định hướng và giải pháp tạo sinh kế bền vững cho người
dân ven biển tỉnh Nghệ An

9






CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN C ỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
SINH KẾ VÀ SINH KẾ BỀN VỮNG CHO NGƯỜI DÂN VEN BIỂN VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan
1.1.1. Các nghiên cứu về phát triển, phát triển bền vững
Trong nhiều năm qua, khái niệm phát triển đã được nhiều tổ chức, nhà
nghiên cứu đưa ra. Trong Từ điển Oxford [86], phát triển được khái niệm là: “Sự gia
tăng dần của một sự vật theo hướng tiến bộ hơn, mạnh hơn...”. Theo Từ điển Tiếng
Việt (2000), thì phát triển là: “Phạm trù triết học chỉ ra tính chất của những biến đổi
đang diễn ra trong thế giới”. Có thể thấy rằng, con người và mọi sự vật hiện tượng
đều thay đổi theo thời gian, nhưng sự phát triển hàm ý sự thay đổi theo hướng tích
cực như sự tăng lên về lượng, hướng tốt hơn một cách tương đối [52].
Trong Từ điển Oxford, khái niệm bền vững được định nghĩa là “khả năng duy
trì”. Một định nghĩa khác, “bền vững không phải là một vấn đề kỹ thuật cần giải quyết
mà là một tầm nhìn vào tương lai, đảm bảo cho chúng ta một lộ trình và giúp tập
trung chú ý vào một tập hợp các giá trị và những nguyên tắc mang tính luân lý và đạo
đức để hướng dẫn hành động chúng ta. Những khái niệm này cho thấy, bền vững
hướng tới sự duy trì trong tương lai. Trong tiếng Việt, từ bền vững có thể được hiểu
theo câu trúc từ, nó bao hàm từ “bền” và từ “vững”. “Bền” có nghĩa là sự lâu bền theo
thời gian; “vững” là sự vững chãi, ổn định. Theo đó, bền vững cần được đảm bảo ở cả
hai khía cạnh là sự lâu bền và ổn định.
Theo Uỷ ban Brundtland phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng được
nhu cầu của thực tiễn mà không làm ảnh hưởng tới khả năng của những thế hệ
tương lai [86]. Trong hơn bốn thập kỷ qua, nhiều nghiên cứu, tài liệu và các thỏa
ước quốc tế đã đề cập tới vấn đề phát triển bền vững. Mặc dù còn nhiều quan điểm
khác nhau nhưng ý nghĩa của nó về cơ bản đã đạt được sự đồng thuận cao và luôn
được quan tâm, phát triển và hoàn thiện. Ủy ban Thế giới về môi trường và phát
triển [240] đã đưa ra khái niệm phát triển bền vững là "sự phát triển có thể đáp ứng
được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp
ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai". Hội đồng thuộc Viện Hàn lâm Quốc gia Hoa
Kỳ [153] đã mô tả phát triển bền vững, dựa trên sự khác biệt vốn có giữa yếu tố duy
trì ổn định (sustain) và sự phát triển (develop) theo thời gian. Theo quan điểm này,
phát triển bền vững cần xem xét cả hai yếu tố về sự lâu bền và tính ổn định. Hai yếu
tố này có mối quan hệ chặt chẽ, chúng cần được xem xét đồng thời nhằm bổ sung
thêm cơ sở khoa học cho nhau. Trong Luật Tài nguyên môi trường biển và hải đảo
(2015) của Việt Nam, quan điểm phát triển bền vững được thể hiện trên cơ sở kết
hợp hài hòa, chặt chẽ của cả ba lĩnh vực kinh tế, xã hội, và môi trường. Cụ thể như
sau: “Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại mà

10






không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ
sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo
vệ môi trường” [27].
Trong nghiên cứu của Fotovvat, S., Safari, k., Zayyari, K & boostani, S.
(2014), cho thấy rằng, một cuộc điều tra thực nghiệm để nghiên cứu mối quan hệ
giữa các thành phần vốn xã hội, niềm tin xã hội, sự gắn kết xã hội, sự tham gia
xã hội và an sinh xã hội, và sự phát triển bền vững ở thành phố Salmas,
Iran. Nghiên cứu thiết kế một bảng câu hỏi theo thang đo Likert, phân phối nó
trong số 384 người được chọn ngẫu nhiên sống ở thành phố này. Cronbach alpha
đã được tính là 0,92, cao hơn mức tối thiểu chấp nhận được. Sử dụng kỹ thuật
hồi quy, nghiên cứu đã xác định mối quan hệ tích cực và có ý nghĩa giữa ba
thành phần vốn xã hội và phát triển bền vững bao gồm sự gắn kết xã hội, tham
gia xã hội và an sinh xã hội. Tuy nhiên, nghiên cứu không xác nhận mối quan hệ
giữa niềm tin xã hội và phát triển bền vững [137].
Nghiên cứu của Gallopin, Gilberto C., 2003, cũng chỉ rõ, các khái niệm về
tính bền vững và phát triển bền vững được phân tích từ góc độ hệ thống
[129]. Trong các điều khoản chung nhất, tính bền vững của bất kỳ hệ thống nào có
thể được biểu diễn bằng hàm định giá không giảm của các đầu ra quan tâm của hệ
thống được xem xét. Các quan điểm khác nhau về hệ thống tham chiếu được thảo
luận, từ các vị trí nhân học cực đoan đến các vị trí sinh học hoặc sinh thái cực đoan,
và liên quan đến các tiêu chí (dựa trên khả năng thay thế giả định giữa vốn tự nhiên
và vốn sản xuất); của tính bền vững rất mạnh, mạnh, yếu và rất yếu. Một tập hợp
các yếu tố quyết định cơ bản của tính bền vững được đề xuất và thảo luận, bao gồm
sự sẵn có của các nguồn lực, khả năng thích ứng/tính linh hoạt, cân bằng nội môi,
khả năng đáp ứng, tự lực và trao quyền. Khái niệm phát triển bền vững được thảo
luận và các quan điểm lý thuyết thay thế đã được sử dụng trong các tài liệu được
trình bày. Mối quan hệ giữa tính bền vững, phát triển, không phát triển và phát
triển; và tăng trưởng kinh tế vật chất và phi vật chất được ánh xạ như biểu đồ
Venn; quỹ đạo thay thế hướng tới sự phát triển bền vững cho các nước giàu và
nghèo được xác định. Năm mô hình/chiến lược thay thế cho phát triển bền vững
được tóm tắt, cho thấy sự phức tạp của quá trình lựa chọn hành động đúng để tiến
tới phát triển bền vững. quỹ đạo thay thế hướng tới sự phát triển bền vững cho các
nước giàu và nghèo được xác định. Năm mô hình/chiến lược thay thế cho phát triển
bền vững được tóm tắt, cho thấy sự phức tạp của quá trình lựa chọn hành động đúng
để tiến tới phát triển bền vững. quỹ đạo thay thế hướng tới sự phát triển bền vững
cho các nước giàu và nghèo được xác định. Năm mô hình/chiến lược thay thế cho
phát triển bền vững được tóm tắt, cho thấy sự phức tạp của quá trình lựa chọn hành
động đúng để tiến tới phát triển bền vững [129].
Tương tự như vậy, trong nghiên cứu của Donald Charles Hector & Carleton
Bruin Christensen & Jim Petrie (2014), cho rằng, các thuật ngữ “bền vững” và “phát

11






triển bền vững” đã được thiết lập bằng tiếng địa phương phổ biến trong 25 năm hoặc
lâu hơn kể từ khi công bố báo cáo của Ủy ban Brundtland. Thông thường, "tính bền
vững" được cho là đại diện cho một số mục tiêu dài hạn và "phát triển bền vững" là một
phương tiện hoặc quá trình để đạt được nó. Hai vị trí triết học cơ bản và mâu thuẫn
trong các điều khoản này được xác định. Cụ thể, khái niệm thường thấy rằng phát triển
bền vững có thể là một con đường dẫn đến tính bền vững bị thách thức, và quan điểm
nhanh chóng rằng cả hai thuật ngữ cuối cùng phục vụ phát triển toàn diện đều bị nghi
ngờ. Hơn nữa, người ta lập luận rằng việc duy trì sự phân biệt không rõ ràng và sai lệch
giữa hai vị trí sẽ hạn chế sự phát triển của chính sách hiệu quả [119].
Trong nghiên cứu của Emilia Mioara Campeseu & Carmen Valentina
Radulescu (2014), cũng chỉ cho thấy, phát triển bền vững và kinh tế bền vững chủ
yếu là các khái niệm được sử dụng. Hiểu rõ ý nghĩa của chúng cho phép sử dụng
chúng trong một bối cảnh thích hợp và do đó, ranh giới của chúng về phương pháp
tiếp cận lý thuyết và thực tiễn vào dịp nào nó có thể được đưa ra phụ thuộc lẫn
nhau. Mục đích của bài viết là phân tích sự phụ thuộc lẫn nhau giữa phát triển bền
vững và kinh tế bền vững [131].
Theo Panta Nancy Diana cho biết, chúng ta sống trong một thế giới đặc trưng
bởi tốc độ chủ yếu nhờ vào công nghệ. Mọi thứ xảy ra với tốc độ nhanh hơn, từ cách
sản xuất và tiêu thụ diễn ra cho đến cách môi trường xuống cấp. Do đó, sự phát triển
bền vững đã xuất hiện để đáp ứng với những hậu quả này. Tuy nhiên, xem xét rằng
chúng ta đang thảo luận về chủ đề phát triển bền vững trong hơn ba thập kỷ nay, có lẽ
đã đến lúc đưa nó về phía trước theo một cách khác và cố gắng hiểu rõ hơn về nó qua
các quan điểm đối lập. Do đó, bài viết hiện tại tìm hiểu các quan điểm khác nhau về
chủ đề thảo luận và phân tích sự phát triển bền vững liên quan đến các thuật ngữ
tương tự khác, cố gắng cung cấp một ý nghĩa rõ ràng của khái niệm này. Hơn nữa, nó
dường như cung cấp một giải thích riêng về phát triển bền vững và dự định sẽ đưa ra
một số trong những phổ biến nhất và tranh chấp mô hình xung quanh nó [193].
Nghiên cứu của Dana S. Pop & Cosmina I. Craciunescu, đã cho thấy mối
quan hệ giữa các nền kinh tế mới nổi và khái niệm phát triển bền vững . ... Những
nền kinh tế này đang phải đối mặt với những vấn đề đáng kể vì họ phải cạnh tranh
với các nền kinh tế phát triển , vì vậy họ cần một sự phát triển bền vững để làm điều
đó. Phát triển bền vững đề cập đến việc đáp ứng nhu cầu của thế hệ hiện tại mà
không gây nguy hiểm cho các thế hệ tương lai, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc
tạo ra chất lượng cuộc sống tốt hơn cho mọi người, bây giờ và cho các thế hệ mai
sau. Theo chúng tôi, các nền kinh tế mới nổi cần một sự phát triển bền vững để có
nền kinh tế cạnh tranh và đạt được thành công đáng kể trong tương lai [118].
Nghiên cứu của Marcel Meler & Dragan Maga khẳng định để làm nổi bật
mối tương quan lẫn nhau giữa bền vững thị trường và bền vững phát
triển. Phát triển bền vững được xem là một khái niệm ba chiều được thiết lập bao
gồm sự bền vững và thịnh vượng kinh tế , công bằng xã hội và chất lượng môi