SKKN Đặc trưng truyện ngắn và định hướng đọc - hiểu văn bản truyện ngắn trong nhà trường THPT.pdf

lop9eduvn 23 views 43 slides Feb 13, 2025
Slide 1
Slide 1 of 43
Slide 1
1
Slide 2
2
Slide 3
3
Slide 4
4
Slide 5
5
Slide 6
6
Slide 7
7
Slide 8
8
Slide 9
9
Slide 10
10
Slide 11
11
Slide 12
12
Slide 13
13
Slide 14
14
Slide 15
15
Slide 16
16
Slide 17
17
Slide 18
18
Slide 19
19
Slide 20
20
Slide 21
21
Slide 22
22
Slide 23
23
Slide 24
24
Slide 25
25
Slide 26
26
Slide 27
27
Slide 28
28
Slide 29
29
Slide 30
30
Slide 31
31
Slide 32
32
Slide 33
33
Slide 34
34
Slide 35
35
Slide 36
36
Slide 37
37
Slide 38
38
Slide 39
39
Slide 40
40
Slide 41
41
Slide 42
42
Slide 43
43

About This Presentation

Nghiên cứu và thực hiện đề tài này trong quá trình giảng dạy ở
trường trung học phổ thông, người viết sẽ cung cấp cho học sinh một cái nhìn
bao quát và toàn diện về đặc trưng của thể loại truyện ngắn, nắm vững cách thức
đ�...


Slide Content

SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO VĨNH PHÚC
TRƯỜNG THPT NGÔ GIA TỰ
----------









BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN

ĐẶC TRƯNG TRUYỆN NGẮN VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐỌC -
HIỂU TRUYỆN NGẮN TRONG NHÀ TRƯỜNG THPT


Tác giả sáng kiến: NGUYỄN THÚY HẰNG
Mã môn: 51








Lập Thạch, năm 2019

Lop9.edu.vn

MỤC LỤC

Mục Nội dung Trang
I Giới thiệu đề tài 3
II Tên sáng kiến 5
III Tác giả sáng kiến 5
IV Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Nguyễn Thúy Hằng 5
V Lĩnh vực áp dụng sáng kiến 5
VI Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử:
20.10.2014
6
VII Mô tả bản chất của sáng kiến: 6
1 Khái lược về truyện ngắn 6
2 Những đặc trưng cơ bản của truyện ngắn 6
3 Định hướng cách đọc - hiểu truyện ngắn trong nhà trường THPT 13
4 Thực nghiệm 15
5 Kết quả nghiên cứu 40
6 Kết luận chung 41
VIII Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến 42
IX Đánh giá lợi ích thu được 42
X Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử
hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu
42











Lop9.edu.vn

BÁO CÁO
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN

I. Giới thiệu đề tài
1. Lý do chọn đề tài
- Có ý kiến cho rằng: Truyện ngắn là một thứ giọt nước mà không
có nó không thể có đại dương. Đây cũng là một thể loại đánh dấu trình độ nghệ
thuật của một nền văn học. Nhìn từ phương diện hình thức, truyện ngắn chỉ là
một tác phẩm tự sự cỡ nhỏ bên cạnh những trường ca, những bộ tiểu thuyết đồ
sộ. Nhưng ý nghĩa và giá trị của truyện ngắn lại không hề nhỏ và thua kém
những tiểu thuyết hay trường ca. Đây là thể loại văn học có nội khí "một lời mà
thiên cổ, một gợi mà trăm suy". Do đó, truyện ngắn là một trong những thể loại
văn học khó nhất, đòi hỏi một công phu lao động lớn của nhà văn nhưng cũng là
thể loại hấp dẫn và cuốn hút độc giả nhất trên thế giới.
- Trong chương trình Ngữ văn THPT, truyện ngắn (dân gian, trung
đại và hiện đại) chiếm một ưu thế khá nổi trội, khoảng 1/2 số lượng văn bản văn
học được học và đọc thêm. Thực tế này khẳng định vị trí quan trọng của thể loại
truyện ngắn trong nền văn học cũng như trong quá trình giảng dạy và tiếp nhận
văn học trong nhà trường phổ thông. Tuy nhiên, qua thực tế giảng dạy người
viết nhận thấy: khi tiếp cận tác phẩm truyện ngắn, học sinh mới chỉ tiếp nhận
đơn thuần giá trị nội dung và nghệ thuật của từng tác phẩm đơn lẻ mà chưa nắm
vững được những đặc trưng cơ bản của thể loại. Điều này dẫn đến tình trạng
lúng túng trong quá trình viết bài văn phân tích một trong những vấn đề được
đặt ra trong một tác phẩm truyện ngắn. Đặc biệt, đối với một đoạn truyện ngắn
không nằm trong chương trình được đưa vào các bài đọc - hiểu (trong các dạng
đề thi THPT Quốc gia) thì học sinh hầu như không đọc - hiểu được ý nghĩa
cũng như những đặc sắc nghệ thuật của văn bản.
- Xuất phát từ cơ sở lí luận về thể loại văn học truyện ngắn cũng
như thực tiễn kinh nghiệm giảng dạy văn bản truyện ngắn trong nhà trường phổ
thông nói trên, người viết lựa chọn đề tài: Đặc trưng truyện ngắn và định
hướng đọc - hiểu văn bản truyện ngắn trong nhà trường THPT như một Lop9.edu.vn

hướng khai thác và nghiên cứu trong quá trình giảng dạy.
2. Ý nghĩa và tác dụng của đề tài
Nghiên cứu và thực hiện đề tài này trong quá trình giảng dạy ở
trường trung học phổ thông, người viết sẽ cung cấp cho học sinh một cái nhìn
bao quát và toàn diện về đặc trưng của thể loại truyện ngắn, nắm vững cách thức
đọc - hiểu truyện ngắn. Trên cơ sở nắm vững lý thuyết chung đó, học sinh có thể
vận dụng để tìm hiểu và giải mã sâu sắc những vấn đề đặt ra trong một đoạn
truyện ngắn, một tác phẩm hoặc một nhóm tác phẩm truyện ngắn cụ thể trong
chương trình.
Ngoài ra, đề tài này cũng giúp HS rèn luyện và nâng cao kĩ năng
phân tích, cảm thụ truyện ngắn khi làm văn. Đối với học sinh các lớp học
chương trình nâng cao, đề tài này còn định hướng và kích thích hứng thú sáng
tác truyện ngắn của các em.
3. Đối tượng - Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Đặc trưng truyện ngắn và định hướng đọc -
hiểu văn bản truyện ngắn.
- Phạm vi nghiên cứu: Bám sát vào các tác phẩm truyện ngắn hiện
đại tiêu biểu trong nhà trường phổ thông (chẳng hạn như các tác phẩm của Nam
Cao, Nguyễn Tuân, Kim Lân, Tô Hoài, …).
4. Phương pháp tiến hành
- Nghiên cứu tài liệu
- Thực nghiệm (giảng dạy), đây là phương pháp chính
Do tính chất đa dạng và phạm vi sâu rộng của kiến thức trong chuyên
đề mà nó được sử dụng linh hoạt, uyển chuyển cho nhiều loại đối tượng học
sinh khác nhau từ học sinh đại trà đến học sinh khá giỏi, với thời gian học khác
nhau. Tùy từng đối tượng HS cụ thể mà giáo viên có phương pháp giảng dạy
phù hợp từ cơ bản đến nâng cao kiến thức. Trong quá trình dạy, giáo viên có thể
kết hợp các phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu. Lop9.edu.vn

- Phương pháp đọc - hiểu văn bản.
Nếu đối tượng là học sinh đại trà, cụ thể là học sinh lớp 11 ban A, chuyên
đề có thể được dạy trong 2 đến 3 tiết. Giáo viên sẽ cung cấp những kiến thức cơ
bản và ngắn gọn nhất về đặc trưng của truyện ngắn, định hướng cách đọc hiểu
và áp dụng vào bài đọc - hiểu một truyện ngắn cụ thể.
Với học sinh lớp học nâng cao, cụ thể là học sinh lớp 11 ban KHXH, nội
dung các kiến thức trên được tiến hành giảng dạy trong các tiết chuyên đề. Thời
gian tuỳ thuộc vào sự phân bố số tiết học của từng chuyên đề đã được quy định
cho các lớp, nhưng có thể gói gọn từ 4 đến 6 tiết. Ngoài những kiến thức cơ bản
đã nêu, trong quá trình dạy đặc trưng thể loại truyện ngắn giáo viên có thể định
hướng cho học sinh cái nhìn so sánh với đặc trưng của các thể loại văn học khác.
Bên cạnh việc hướng dẫn học sinh đọc - hiểu các văn bản cụ thể trong chương
trình, giáo viên còn đưa ra các bài tập nâng cao, để học sinh vận dụng lí thuyết
xử lí các đề bài liên quan đến thể loại truyện ngắn.
Nếu học sinh tham gia đội tuyển thi học sinh giỏi cấp tỉnh thì cần xác định
thời gian là cấp tốc, ngoài việc khái quát những kiến thức cơ bản, giáo viên định
hướng và kích thích học sinh tự tìm hiểu phong cách viết truyện ngắn của một số
nhà văn tiêu biểu trong chương trình với cái nhìn đối sánh. Đồng thời giáo viên
cũng nên đưa ra những bài tập chọn lọc vận dụng nhiều kiến thức tổng hợp và
các dạng đề thường gặp khi thi HSG. Thời gian học có thể từ 2 đến 4 tiết.
II. Tên sáng kiến:
Đặc trưng truyện ngắn và định hướng đọc - hiểu văn bản truyện ngắn
trong nhà trường THPT
III. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Nguyễn Thúy Hằng
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường THPT Ngô Gia Tự
- Số điện thoại: 0987.137.977
- E-mail: [email protected]
IV. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Nguyễn Thúy Hằng
V. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến Lop9.edu.vn

Đề tài này, tôi tập trung đi sâu vào nghiên cứu đặc trưng truyện ngắn và
định hướng đọc - hiểu văn bản truyện ngắn trong nhà trường THPT; vận dụng
phương pháp này vào dạy học các bài đọc văn về thể loại truyện ngắn trong
chương trình ngữ văn 11. Từ đó, giúp học sinh tìm ra được phương pháp học
chủ động sáng tạo, khoa học và đạt hiệu quả cao.
VI. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: 20.10.2014
VII. Mô tả bản chất của sáng kiến
1. Khái lược về truyện ngắn
- Khái niệm: truyện ngắn là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ với một dung lượng
hiện thực, số lượng nhân vật, sự kiện, thời gian, không gian…tương đối hạn chế.
- Thời gian xuất hiện: Truyện ngắn đích thực (phân biệt truyện ngắn
hiện đại với truyện ngắn thời trung đại, truyện kể dân gian) xuất hiện tương đối
muộn trong lịch sử văn học, khoảng thời cận hiện đại, gắn liền với sự ra đời và
phát triển của báo chí và chủ yếu phát triển trong 150 năm gần đây. Đây là thể
loại gần với tiểu thuyết hơn cả bởi là hình thức tự sự tái hiện cuộc sống đương
thời.
2. Những đặc trưng cơ bản của truyện ngắn
2.1. Truyện ngắn là một giới hạn về thế giới nghệ thuật (“ngắn”).
Một trong những đặc trưng nổi bật của truyện ngắn là: Truyện ngắn phải
ngắn. Chính việc truyện ngắn phải ngắn khiến nó tự phân biệt một cách dứt
khoát và rành rọt bên cạnh truyện vừa và tiểu thuyết. Đặc trưng này được biểu
hiện qua một số phương diện cụ thể như sau:
- Ngôn ngữ, dung lượng: ngôn ngữ ít, số trang ngắn và bị giới hạn
(thường dưới 10 trang), đặc biệt có những truyện rất ngắn (chỉ một vài câu).
- Về mặt đề tài, chủ đề: dung lượng hay phạm vi đời sống được phản ánh
là có hạn. Truyện ngắn không đặt ra nhiều vấn đề đời sống khác nhau trong tác
phẩm mà thường chỉ xoay quanh một vấn đề.
Chẳng hạn trong “Đời thừa” - Nam Cao: Đề tài và chủ đề dù có sự xung
đột giữa ước mơ cao đẹp, lí tưởng nhân đạo và hiện thực xã hội khắc nghiệt
nhưng bi kịch của Hộ là bi kịch cá nhân của người trí thức nghèo trong xã hội
cũ. Lop9.edu.vn

- Thời gian trong truyện ngắn: truyện ngắn không phản ánh một quá trình
mà chỉ tập trung phản ánh một thời điểm tiêu biểu, một lát cắt, một “moment”
của đời sống.
Ví dụ: “Chí Phèo” (Nam Cao) tập trung kể lại khoảng thời gian 6 ngày
cuối cùng của cuộc đời Chí Phèo. “Chữ người tử tù” (Nguyễn Tuân) xoay quanh
tình huống gặp gỡ của Huấn Cao và quản ngục ở nhà tù trong mấy ngày cuối đời
của Huấn Cao trước khi ra pháp trường để chịu án tử hình. “Rừng xà nu”
(Nguyễn Trung Thành) được kể trong một đêm khi Tnú được nghỉ phép về thăm
làng. Thậm chí tác phẩm “Sống chết mặc bay” (Phạm Duy Tốn) chỉ kể lại những
sự việc diễn ra trong 1 giờ.
- Không gian được miêu tả trong truyện ngắn là không gian hẹp với 1 địa
điểm cụ thể.
Ví dụ: Làng Vũ Đại trong "Chí Phèo", làng Xô Man trong "Rừng xà nu",
một phố huyện nghèo trong “Hai đứa trẻ”, một xóm ngụ cư trong "Vợ nhặt",
một nhà lao ở vùng tỉnh Sơn trong “Chữ người tử tù”, thậm chí chỉ trong căn
nhà của vợ chồng văn sĩ Hộ ở tác phẩm "Đời thừa".
- Sự kiện: Truyện ngắn thường ít sự kiện. Trong tác phẩm thường tập
trung kể về một sự kiện chính nên cốt truyện tương đối đơn giản.
Ví dụ: “Chí Phèo” (Nam Cao) xoay quanh sự kiện chính là cuộc gặp gỡ
giữa Chí Phèo và Thị Nở, Chí Phèo đã thức tỉnh lương tri tiềm ẩn trong con quỷ
dữ làng Vũ Đại, hắn khát khao lương thiện nhưng không được, cuối cùng Chí
tìm đến cái chết. “Hai đứa trẻ” tập trung khắc họa cảnh vật và một số hoạt động
sinh hoạt của phố huyện nghèo từ chiều tà đến đêm tối qua con mắt của nhân vật
Liên. “Chữ người tử tù” với sự kiện chính là xin chữ và cho chữ giữa Huấn Cao
và Quản ngục. "Vợ nhặt" xoay quanh tình huống nhặt được vợ của anh cu
Tràng.
- Nhân vật: số lượng nhân vật thường ít, tính cách không quá phức tạp.
Nếu trong tiểu thuyết, số lượng nhân vật có thể lên đến hàng trăm thì nhân vật
trong truyện ngắn rất ít. “Chữ người tử tù” xoay quanh 3 nhân vật: Huấn Cao,
quản ngục, thơ lại. “Hai đứa trẻ” tập trung khắc họa Liên và An. “Chí Phèo” tập Lop9.edu.vn

trung khắc họa 3 nhân vật: Chí Phèo, Thị Nở, Bá Kiến. "Vợ chồng A Phủ" tập
trung khắc họa nhân vật Mị và A Phủ.
2.2. Truyện ngắn vẫn khắc phục những giới hạn này để vươn tới sức khái
quát hiện thực, tạo ra sự hấp dẫn riêng
Truyện ngắn phải ngắn đòi hỏi phải cô đọng đến mức cao nhất. Ngắn ở
truyện ngắn đồng nghĩa với cô đọng, tinh chất - nhìn vào đó có thể thấy cuộc
sống hiện ra với đủ sắc màu của nó. Theo tôi hiểu, toàn bộ truyện ngắn là một
tấm thảm lớn lao về cả thời đại. Với những mảnh tưởng như rất nhỏ bé, nó góp
phần tạo nên cả tấm chân dung hoàn chỉnh. Sêkhôp - bậc thầy truyện ngắn cũng
quan niệm rằng: truyện ngắn là biết nói ngắn những truyện dài, lời chật mà ý
rộng. Cụ thể như sau:
- Đề tài nhỏ nhưng chủ đề lớn, có ý nghĩa hiện thực, nhân sinh và có tính
triết lí cao.
+ “Số phận con người” của Sôlôkhốp với chủ đề: con người đứng dậy sau
những mất mát, đớn đau bằng tình thương.
+ “Chí Phèo” của Nam Cao với chủ đề: tình người làm hồi sinh tính
người.
+ Trong “Tư cách mõ”, Nam Cao muốn nêu lên một triết lí: tính cách con
người nảy sinh do hoàn cảnh chứ không phải bản tính trời cho. Tính cách ấy có
thể bị biến đổi theo chiều hướng tốt lên hoặc xấu đi là do hoàn cảnh chi phối.
Đặc biệt, chính sự ghen ghét, đố kị của con người có thể đẩy người khác đến chỗ
biến dạng, đánh mất chính bản thân mình.
+ Ở tác phẩm “Một bữa no”, Nam Cao khái quát chủ đề: Miếng ăn không
phải là nghệ thuật ẩm thực nữa mà là miếng khổ, miếng nhục. Tên tác phẩm là "
Một bữa no" nhưng để nói về cái đói, về số phận rẻ rúng của con người trước cái
đói, miếng ăn. Trước cái đói, miếng ăn, con người trở nên thấp hèn với chính
mình, với những người xung quanh.
+ Với "Chữ người tử tù", Nguyễn Tuân muốn hướng tới chủ đề: Sự chiến
thắng của cái đẹp, cái thiện với cái xấu, cái ác.
- Không gian, thời gian dù bị hạn chế nhưng: Lop9.edu.vn

+ Không gian được lựa chọn ở những thời khắc và những điểm không
gian có ý nghĩa, có khả năng dồn nén sức nặng hiện thực và có khả năng nhận
thức đối với nhân vật.
Ví dụ: Truyện ngắn “Chí Phèo” chỉ chọn sáu ngày cuối cùng của cuộc
đời Chí Phèo khi Chí gặp Thị Nở và thức tỉnh bản tính lương thiện. Đó cũng là
tư tưởng chủ đạo mà Nam Cao gửi gắm trong tác phẩm. Chọn không gian là một
làng Vũ Đại - làng hội tụ tất cả những áp bức, bất công của bọn cường hào và
nỗi cực khổ của người nông dân - chính là bức tranh thu nhỏ của xã hội Việt
Nam đương thời.
Truyện ngắn “Sống chết mặc bay” chỉ chọn thời điểm một giờ
trước và khi đê vỡ - thời điểm nguy kịch, góp phần vạch trần bản chất bàng
quan, vô trách nhiệm, vô nhân đạo của những kẻ được coi là cha mẹ dân.
Truyện ngắn "Chữ người tử tù" chỉ tập trung khắc họa nhân vật
Huấn Cao trong mấy ngày cuối cùng của cuộc đời - khoảng thời gian vô cùng
ngặt nghèo và quý báu, trong nhà lao - nơi tồn tại cái xấu, cái ác, sự nhơ bẩn.
Từ đó góp phần làm nổi bật khí phách anh hùng, thiên lương trong sáng, chất
nghệ sĩ tài hoa, cao hơn là sự chiến thắng của cái đẹp đối với cái xấu xa, nhơ
bẩn.
+ Không gian, thời gian còn được mở rộng bằng sự hồi tưởng bằng việc
kể lại quá khứ, bằng giấc mơ và kỉ niệm. Do đó nhà văn vẫn khái quát được cả
cuộc đời và cả một thế hệ, nhân vật vẫn hiện lên trọn vẹn.
Ví dụ: Chí Phèo chỉ xuất hiện trong truyện với khoảng thời gian 6 ngày
nhưng truyện đã tái hiện được cả cuộc đời của nhân vật từ khi sinh ra đến khi
chết, nhân vật vẫn hiện lên trọng vẹn, sống động thông qua dòng thời gian hồi
tưởng về quá khứ.
Trong truyện ngắn "Rừng xà nu", thời gian trần thuật là một đêm
Tnú được nghỉ phép về thăm buôn làng nhưng truyện đã tái hiện được toàn bộ
cuộc đời Tnú từ khi sinh ra đến khi tiếp tục cầm súng tham gia chiến đấu sau
những mất mát lớn lao. Cùng với đó là cuộc đấu tranh và nổi dậy của dân làng
Xô Man từ những ngày đau thương đến chiến thắng thông qua lời kể lại của cụ Lop9.edu.vn

Mết - già làng.
+ Thời gian, không gian còn được mở rộng về hướng tương lai, hướng
“mở” khiến câu chuyện được tiếp diễn, dòng đời chảy trôi vô tận. Do đó, câu
chuyện không phải là một khoảnh khắc, không dừng lại ở một lát cắt của cuộc
đời mà là một dòng chảy trong đời sống.
Ví dụ: “Chí Phèo” với kết thúc mở, gợi suy nghĩ về một Chí Phèo con ra
đời nối nghiệp bố và cuộc sống khổ cực, bi thảm của người nông dân vẫn là một
vòng luẩn quẩn, bế tắc. Hiện tượng Chí Phèo dường như vẫn chưa kết thúc.
Trong “Số phận con người”, Sôlôkhốp không chỉ tái hiện cuộc đời
nhân vật trong quá khứ, hiện tại mà có cả niềm tin vào tương lai tươi sáng (qua
dòng trữ tình ngoại đề).
- Nhân vật trong truyện ngắn tuy ít nhưng:
+ Nhân vật được miêu tả ở những khía cạnh nổi bật nhất: ngoại hình, nội
tâm, hành động…
Ví dụ: nhân vật Chí Phèo được tập trung miêu tả ở các phương diện sau:
• Ngoại hình được miêu tả tỉ mỉ từ đầu tóc, quần áo, tay, ngực, mặt…khi
Chí mới đi ở tù về nhằm nhấn mạnh dấu hiệu báo trước về sự khác biệt đến dị
thường của con người này.
• Nội tâm: chỉ được miêu tả nội tâm ở đoạn đời sau khi gặp Thị Nở. Lần
đầu tiên sau bao năm tha hoá, biến chất thành “quỷ dữ”, Chí Phèo đã thoát khỏi
cơn say triền miên không ngày tháng để suy nghĩ về cuộc đời mình: đoạn đời đã
qua, những ước mơ trong quá khứ chưa bao giờ thực hiện được và tương lai mờ
mịt sắp tới. Từ đó Nam Cao muốn khẳng định: bản chất lương thiện luôn tồn tại
trong con người ở bất cứ hoàn cảnh nào.
• Hành động: Chí Phèo được miêu tả là kẻ lưu manh nên hành động của
Chí phù hợp với tính cách lưu manh: uống rượu, rạch mặt ăn vạ ở nhà Bá Kiến,
đòi nợ Đội Tảo, tỏ tình với Thị Nở, giết Bá Kiến…
+ Nhân vật còn được đặt trong tình huống để bộc lộ nhận thức và hành
động. Tình huống là kết quả của nhiều sự kiện. Nó buộc nhân vật phải hành
động, trong tình huống ấy nhân vật bộc lộ mình rõ nhất. Lop9.edu.vn

Ví dụ: “Vợ chồng APhủ” - Tô Hoài. Nhân vật Mị sau bao ngày thờ ơ,
lạnh lùng, vô cảm trước APhủ bị trói đứng. Nhưng một đêm chợt nhìn thấy dòng
nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của APhủ - giọt nước
mắt đau khổ và tuyệt vọng → Mị nhớ tới mình trong quá khứ (thương mình) →
thương APhủ → thấy sự tàn ác của cha con Thống lí → Thấy sự bất công trong
cái chết của APhủ → cuối cùng nỗi thương người chiến thắng nỗi sợ hãi nên Mị
đã quyết định cắt dây trói cho APhủ. APhủ đi rồi, còn lại 1 mình - nỗi sợ hãi bao
trùm, niềm khát khao sống bùng dậy mãnh liệt → Mị chạy theo APhủ.
Với "Chí Phèo", nhà văn Nam Cao đã thức tỉnh bản tính lương
thiện, khao khát ở nhân vật Chí Phèo và Chí hi vọng Thị Nở sẽ mở đường cho
hắn nhưng cuối cùng lại bị từ chối. Con đường hoàn lương đóng sầm trước mắt,
bản tính lương thiện trở về khiến hắn không thể tiếp tục lựa chọn con đường làm
quỷ dữ. Vì thế, Chí Phèo phải giết kẻ đã gây ra bi kịch này cho mình (giết Bá
Kiến) và tự sát để bảo toàn nhân cách.
- Đặc biệt: Sức hấp dẫn, sinh động của truyện ngắn còn được tạo ra từ
những chi tiết đắt. Truyện ngắn rất đề cao chi tiết. Đó là những chi tiết có sức cô
đọng, khái quát, gợi mở, tạo được không khí cho truyện, có những chi tiết thể
hiện con người, tạo vấn đề, thể hiện ý nghĩa, giá trị tư tưởng của tác phẩm…
+ Ví dụ trong “Chí Phèo” cần nói đến các chi tiết: mùi hương cháo hành,
cái lò gạch, cái mặt sẹo của Chí, giọt nước mắt của Chí…
+ Ví dụ trong “Rừng xà nu” - chi tiết đôi bàn tay của Tnú: hình ảnh biểu
trưng cho cuộc đời và phẩm chất, tính cách của nhân vật.
+ Ví dụ: “Vợ chồng APhủ” - chi tiết Mị ăn lá ngón tự vẫn, chi tiết dòng
nước mắt của APhủ…
- Kết cấu của truyện ngắn luôn tạo những bất ngờ và đột biến. Đây là một
yếu tố được đề cao trong truyện ngắn. Vì thế truyện ngắn thường tập trung tô
đậm cái mở đầu và cái kết thúc. Mở đầu thường tạo ấn tượng và sự hấp dẫn đặc
biệt. Kết thúc luôn tạo được những bất ngờ, thú vị, không theo phán đoán của
người đọc (tưởng thế này mà hoá ra thế khác) và thường để lại nhiều dư âm. Lop9.edu.vn

+ Ví dụ mở đầu tác phẩm "Chí Phèo" là sự xuất hiện trực tiếp, đầy ấn
tượng của nhân vật chính - Chí Phèo với những bước đi xiêu vẹo và tiếng chửi
đặc biệt của một kẻ nửa say nửa tỉnh. Kết thúc bất ngờ: tưởng Chí Phèo đến giết
bà cô Thị Nở nhưng hóa ra Chí lại xách dao đến nhà Bá Kiến và giết hắn.
+ Kết thúc tác phẩm “Lão Hạc” cũng là một kết thúc bất ngờ để lại nhiều
dư âm cho người đọc. Ông giáo và cả người đọc tưởng lão xin bả chó là hành
động tha hoá, làm liều khi đói quá, cuối cùng lão lại dùng bả chó tự vẫn, từ đó
bộc lộ đức hi sinh, phẩm chất trong sạch của lão.
- Truyện ngắn còn tạo được “màu sắc, hương vị, không khí, nắng mưa,
thời tiết riêng, hơi thở riêng, một không gian ba chiều, thậm chí bốn chiều”
(Nguyên Ngọc) để đưa người đọc vào ấn tượng và cảm giác sát thực đối với
hoàn cảnh của câu chuyện.
Ví dụ: Với tác phẩm “Dưới bóng hoàng lan”, Thạch Lam đã tạo được
không khí trữ tình nhẹ nhàng, man mác. Truyện “Hai đứa trẻ” vừa mang màu
sắc lãng mạn vừa mang màu sắc hiện thực: lãng mạn ở cảnh chiều tà đẹp mà
buồn, ở hình ảnh đoàn tàu rực rỡ ánh sáng và sôi động âm thanh chạy qua phố
huyện…, hiện thực ở cuộc sống nghèo nàn, tăm tối của người dân, không khí
buồn tẻ và đêm tối dày đặc ở phố huyện.
- Truyện ngắn cũng mang khả năng tổng hợp cao: ghép vào đó chất triết lí
của ngụ ngôn, chất trữ tình, chất thơ của thơ ca, chất kịch…
+ Ví dụ: Truyện ngắn mang tính chất trữ tình của Thạch Lam, Hồ Zếch,
Thanh Tịnh.
+ Truyện ngắn mang chất kịch của Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan.
+ Truyện ngắn mang chất tiểu thuyết, chất triết lí của Nam Cao.
* Tóm lại: Đặc trưng cơ bản của truyện ngắn là phải ngắn, nhưng lại có sức khái
quát, sự cô đọng, tinh chất. Chính vì thế, sự thách đố ở đây là ai viết được ngắn
gọn nhất! Lep Tonxtoi nói: Tôi không có thời gian để viết ngắn. Còn A.Tsekhop
nói: Để có một truyện ngắn tốt, trong truyện đó, không có cái gì được thừa,
cũng y như trên boong tàu quân sự, ở đó tất cả đâu vào đấy, không có gì được
thừa, truyện ngắn cũng vậy. Nghệ thuật viết truyện ngắn, nói cho đúng ra, không Lop9.edu.vn

phải ở chỗ viết như thế nào, mà là nghệ thuật vứt bỏ đi những gì dở kém như thế
nào… Tương tự như thế, có ý kiến cho rằng: Trong các thể loại văn chương,
truyện ngắn đóng vai trò hổ báo trong đại gia đình các loài vật. Ở loài thú dữ
này, không được có chút mỡ thừa dính vào mọi cơ bắp, nếu không chúng không
thể săn mồi được. Ngắn gọn là qui luật của việc cấu tạo truyện ngắn. Nhờ có khả
năng phản ánh hành động một cách ngắn gọn, truyện ngắn có khi còn có thể đạt
tới trình độ anh hùng ca và đó là cả một bí mật của nó (Hoan Bốtsơ).
3. Định hướng cách đọc - hiểu truyện ngắn trong nhà trường THPT
Như đã trình bày trong phần Đặt vấn đề, truyện ngắn (truyện ngắn hiện
đại) chiếm một tỉ lệ khá lớn trong chương trình Ngữ văn bậc THPT. Do đó, việc
định hướng cho học sinh cách đọc - hiểu một tác phẩm thuộc thể loại truyện
ngắn là một việc làm cần thiết trong quá trình giảng dạy. Qua việc nghiên cứu
tìm hiểu đặc trưng và phương pháp dạy học truyện ngắn, cùng với những kinh
nghiệm trong thực tiễn giảng dạy, người viết mạnh dạn chia sẻ một số kinh
nghiệm giảng dạy truyện ngắn sau đây:
3.1. Những hoạt động cần thiết trước tiết đọc - hiểu tác phẩm truyện ngắn.
Để phát huy tính tích cực của học sinh trong quá trình dạy học, giáo viên
nên giao những yêu cầu và bài tập cụ thể cho học sinh chuẩn bị thật kĩ ở nhà:
- Yêu cầu học sinh đọc kĩ tác phẩm ở nhà. Trong quá trình đọc văn bản
cần phải biết gạch chân vào những sự kiện, chi tiết quan trọng để tìm ra mạch
truyện. Trước ngổn ngang sự kiện, từ ngữ, giáo viên định hướng học sinh nhận
diện được những vấn đề sau đây:
+ Bối cảnh xảy ra câu chuyện: thời gian, địa điểm xảy ra câu chuyện,
hoàn cảnh, tình hình, điều kiện gắn liền với các sự việc, sự kiện...
+ Số lượng nhân vật trong tác phẩm là bao nhiêu, đâu là nhân vật chính,
nhân vật phụ, các nhân vật có quan hệ với nhau như thế nào?
+ Câu chuyện diễn ra theo tiến trình như thể nào: mở đầu, thắt nút, cao
trào, mở nút... Lop9.edu.vn

- Sau đó, học sinh tự tóm tắt tác phẩm một cách ngắn gọn để nắm vững
cốt truyện của truyện ngắn. Đây là một trong những thao tác quan trọng khi đọc
- hiểu truyện ngắn.
- Học sinh tự đọc và trả lời vào vở chuẩn bị các câu hỏi ở phần Hướng
dẫn đọc bài trong SGK.
3.2. Những hoạt động trong tiết dạy đọc - hiểu một tác phẩm truyện ngắn.
- Bước 1: Hướng dẫn học sinh đọc - hiểu tổng quát.
Bước này giúp HS thâu tóm được nội dung khái quát nhất của truyện ngắn
thông qua việc giáo viên tổ chức cho học sinh hoặc các nhóm học sinh trình bày
tóm tắt cốt truyện, nêu đề tài và chủ đề của truyện. Từ đó, học sinh có thể hiểu
được ý nghĩa chung của tác phẩm và tư tưởng, thái độ chung của tác giả. Đây là
bước cơ sở để học sinh sẽ dễ dàng đi đọc - hiểu chi tiết tác phẩm.
- Bước 2: Hướng dẫn học sinh đọc - hiểu chi tiết tác phẩm:
Một trong những yếu tố quan trọng trong truyện ngắn là nhân vật. Nhân
vật là linh hồn của truyện ngắn. Thông qua nhân vật, nhà văn gửi gắm tư tưởng,
tình cảm của mình về nhân sinh. Muốn đọc - hiểu chi tiết giá trị của truyện ngắn,
GV sẽ hướng dẫn học sinh phân tích nhân vật, đặc biệt là nhân vật chính theo
các yếu tố: ngoại hình, hành động, ý nghĩ, ngôn từ của nhân vật, các chặng
đường đời của nhân vật, mối quan hệ của nhân vật với hoàn cảnh và các nhân
vật khác. Các chi tiết này vừa cho ta biết về nhân vật một cách cụ thể, sống
động, vừa là căn cứ để suy nghĩ về nhân vật, tìm ra được những tư tưởng và
thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm.
Quá trình này giáo viên có thể tổ chức chia nhóm cho học sinh thảo luận
từng vấn đề, hoặc từng chặng đường đời của nhân vật chính, sau đó khái quát ý
nghĩa của từng vấn đề đó.
Kết quả của quá trình này là học sinh có thể nắm được toàn bộ nội dung
chi tiết, cụ thể của tác phẩm truyện ngắn
- Bước 3: Hướng dẫn đọc - hiểu cảm thụ.
Trên cơ sở học sinh đã nắm tương đối vững nội dung chi tiết của văn bản,
giáo viên có thể định hướng học sinh: Lop9.edu.vn

Phát hiện những chi tiết đặc sắc của văn bản và trình bày cảm nhận của
mình về những chi tiết ấy.
Phát hiện và cảm nhận những đặc sắc về mặt nghệ thuật của truyện: kết
cấu, tình huống truyện, ngôn ngữ (ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ của người kể
chuyện), giọng văn, nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật...
- Bước 4: Củng cố và thực hành.
GV yêu cầu HS khái quát những giá trị nội dung và nghệ thuật cơ bản của
truyện ngắn.
GV nêu câu hỏi nhằm củng cố bài học để học sinh trả lời hoặc thảo luận.
Có thể kết hợp giao những bài tập viết cho HS về nhà thực hành.
4. Thực nghiệm
4.1. Hướng dẫn HS đọc - hiểu truyện ngắn "Chữ người tử tù" - Nguyễn
Tuân.
Hoạt động dạy thực nghiệm bài học "Chữ người tử tù" được tiến hành
tại các lớp: 11A4, 11A5 - trường THPT Ngô Gia Tự. Tất nhiên, để phù hợp với
từng đối tượng học sinh của các lớp trên, hoạt động dạy học có thể linh hoạt
thay đổi ở một số đơn vị kiến thức hoặc hoạt động tổ chức giờ dạy.
A. Mục tiêu bài học
- Cảm nhận được vẻ đẹp hình tượng nhân vật Huấn Cao, qua đó hiểu được
quan điểm thẩm mĩ của Nguyễn Tuân.
- Hiểu và phân tích được nghệ thuật của thiên truyện: Tình huống truyện
độc đáo, không khí cổ xưa, thủ pháp đối lập, ngôn ngữ góc cạnh, giàu giá trị tạo
hình.
B. Phương pháp
- Kết hợp các thao tác phát vấn, gợi mở, hoạt động nhóm.
- Tích hợp với kiến thức về thư pháp, về tác giả Cao Bá Quát, lịch sử, với tranh
ảnh có liên quan.
C. Tiến trình giảng dạy
1. Chuẩn bị ở nhà
Lop9.edu.vn

Chuẩn bị của GV Chuẩn bị của HS
- Thiết kế bài giảng
- Đọc tài liệu về nghệ thuật thư pháp, về Cao Bá
Quát. Chuẩn bị tranh ảnh về Nguyễn Tuân, về
cảnh cho chữ.
- Chuẩn bị bài học
- Xem lại kiến thức về
Cao Bá Quát.

2. Tiến trình lên lớp
* Ổn định tổ chức (1’)
* Kiểm tra bài cũ
Câu hỏi: Trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ", những kiếp người nơi phố
huyện được tác giả Thạch Lam miêu tả như thế nào, bằng những đặc sắc nghệ
thuật gì?
Diễn biến tâm trạng nhân vật Liên từ chiều đến tối đến đêm ra sao? Điều
đó chứng tỏ Liên là một cô bé như thế nào?
* Bài mới
HĐ của GV và HS Nội dung cần đạt
I. Tiểu dẫn
Bằng hiểu biết của
mình, em hãy giới
thiệu đôi nét khái
quát về tập truyện
ngắn “Vang bóng
một thời”?








1. Tập truyện ngắn “Vang bóng một thời”
- In lần đầu năm 1940, gồm 11 truyện ngắn.
- Nhân vật chính: Là những nho sĩ cuối mùa, tài hoa,
bất đắc chí, coi thường danh lợi, mâu thuẫn với xã hội
Tây - Tàu nhố nhăng, cố giữ “thiên lương” và “sự
trong sạch của tâm hồn”,
- Nội dung:
+ Viết về những con người, những thú vui tao nhã của
một thời chưa xa lắm nhưng chỉ còn vang bóng (Thời
nhà Nguyễn suy tàn, Pháp xâm lược) thể hiện ý thức giữ
gìn những vẻ đẹp văn hoá truyền thống của dân tộc.
+ Tỏ bày thái độ bất hoà sâu sắc của các nho sĩ cuối
mùa với xã hội đương thời, không chịu vứt bỏ lương
tâm, chạy theo danh lợi, cố giữ tâm hồn trong sạch. Lop9.edu.vn

Nêu xuất xứ và nhan
đề của truyện ngắn
"Chữ người tử tù"?
→ “Vang bóng một thời” là tác phẩm nổi tiếng nhất, kết
tinh tài năng của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng
Tám, một tác phẩm gần đạt tới sự toàn thiện, toàn mĩ
(Vũ Ngọc Phan).
2. Truyện ngắn “Chữ người tử tù”
- Được sáng tác trên cơ sở những câu chuyện mà
Nguyễn Tuân nghe được từ người cha là cụ tú Nguyễn
An Lan về nhà nho tài hoa – anh hùng Cao Bá Quát.
- Tác phẩm in trên tạp chí Tao đàn với tên “Dòng chữ
cuối cùng”, khi đưa vào tập “Vang bóng một thời” mới
đổi tên là “Chữ người tử tù”.
+ Dòng chữ cuối cùng: chỉ đề cập đến dòng chữ cuối
cùng – tác phẩm nghệ thuật cuối cùng HC để lại cho đời
+ Chữ người tử tù: Khái quát được cả quá trình xin chữ
và cho chữ của Huấn Cao và quản ngục.
II. Đọc hiểu văn bản
- GV đọc mẫu một
đoạn, sau đó gọi HS
đọc tiếp tác phẩm
- GV yêu cầu HS
tóm tắt tác phẩm.
Yêu cầu:
+ Đọc chậm, trang trọng, cổ kính, chú ý những câu thoại
ngắn của các nhân vật.
+ Tóm tắt ngắn gọn, rõ ràng và đầy đủ.
Căn cứ vào diễn biến
cốt truyện, tìm
những tình huống,
chi tiết, nhân vật có
vai trò vào việc thể
hiện chủ đề của tác
phẩm?
- Tình huống truyện độc đáo.
- Hình tượng nhân vật Huấn Cao - một sáng tạo nghệ
thuật tuyệt vời của Nguyễn Tuân.
- Hình tượng nhân vật Quản ngục.
- Cảnh cho chữ - một cảnh tượng xưa nay chưa từng có.
Tình huống truyện là
gì?
1. Tình huống truyện
* Khái niệm tình huống truyện: Là một sự kiện đặc Lop9.edu.vn

Trong “Chữ người tử
tù”, Nguyễn Tuân đã
xây dựng một tình
huống truyện như
thế nào?
Ý nghĩa của tình
huống truyện đó là
gì?













biệt của đời sống, trong đó nó chứa đựng những tương
quan bất thường giữa con người với con người, con
người với hoàn cảnh...Từ đó là nổi bật tính cách của
nhân vật cũng như tư tưởng mà nhà văn gửi gắm.
Tình huống truyện có vai trò là nòng cốt của một truyện
ngắn.
- Có 3 loại tình huống truyện: tình huống truyện
nghiêng về hành động, tình huống truyện nghiêng về
tâm trạng, tình huống truyện nghiêng về nhận thức.
* NT đã xây dựng một tình huống truyện độc đáo:
Cuộc gặp gỡ đầy éo le, kịch tính giữa Huấn Cao và quản
ngục.
- Không gian gặp gỡ: nhà tù - không gian dành cho cuộc
gặp gỡ bất đắc dĩ.
- Thời gian gặp gỡ: những ngày cuối cùng của cuộc đời
HC --> đầy tính éo le.
- Mối quan hệ giữa 2 nhân vật
+ Trên bình diện xã hội: tử tù >< quan coi ngục
→Họ là đối địch của nhau.
+ Trên bình diện nghệ thuật: Người cho chữ - kẻ xin
chữ, người nghệ sĩ - kẻ có tâm hồn nghệ sĩ →là tri âm, tri
kỉ của nhau.
--> Nguyễn Tuân đã đặt quản ngục trước sự lựa chọn có
tính xung đột: Hoặc làm tròn bổn phận của một viên
quan thì phải chà đạp lên tấc lòng tri kỉ, trở thành kẻ
tầm thường; hoặc trọn đạo tri kỉ thì phải vượt lên phép
nước, bỏ qua chức phận của một viên quan, bất chấp
phép tắc và phải chấp nhận những hậu quả có thể liên
quan đến tính mạng
* Ý nghĩa của tình huống truyện Lop9.edu.vn

Dựa vào những chuẩn
bị ở nhà, hãy cho biết
vẻ đẹp của nhân vật
Huấn Cao được thể
hiện trên những
phương diện nào?
- Làm sáng rõ vẻ đẹp anh hùng - nghệ sĩ của Huấn Cao
và tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” của quản ngục
- Làm sáng lên chủ đề của tác phẩm: Ca ngợi cái ĐẸP,
cái THIỆN. Cái đẹp, cái thiện chiến thắng cái xấu, cái
ác ngay trong lòng cái xấu, cái ác.
- Biến cuộc kì ngộ của hai nhân vật thành một cuộc
hạnh ngộ.
2. Hình tượng Huấn Cao
- Vẻ đẹp nhân vật Huấn Cao được thể hiện trên 3
phương diện: Tài hoa nghệ sĩ (thư pháp), khí phách anh
hùng và nhân cách trong sáng (thiên lương).
- GV tổ chức cho HS
làm việc nhóm. Mỗi
nhóm sẽ tìm hiểu về
một vẻ đẹp nổi bật
của nhân vật Huấn
Cao. Thời gian thảo
luận nhóm là 5 phút,
sau đó cử đại diện
nhóm trình bày
*Nhóm 1: tìm hiểu
vẻ đẹp tài hoa nghệ
sĩ của Huấn Cao:
Tập trung vào các
vấn đề sau đây:
Huấn Cao có tài
năng gì?
Em biết gì về chữ









a. Huấn Cao - một nghệ sĩ tài hoa
* Có tài viết chữ đẹp
- Giới thiệu về chữ Hán và nghệ thuật thư pháp.
* Thể hiện
- Được gián tiếp thể hiện qua lời nói, thái độ của quản
ngục và thơ lại
+ “Huấn Cao? Hay là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta
vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp đó ko?” Lop9.edu.vn

Hán và nghệ thuật
thư pháp?
Tài viết chữ đẹp của
Huấn cao được
Nguyễn Tuân thể
hiện như thế nào?
qua những cách thức
giới thiệu nào của
tác giả?












Thể hiện tài năng
của Huấn Cao, tác
giả nhằm mục đích
gì?


+ “Đối với những người như ngài,…cố gắng chu tất”
- Thể hiện gián tiếp qua ước nguyện cả đời của quản
ngục:
+ Chữ ông HC đẹp lắm, vuông lắm…Có được chữ ông
HC mà treo là có một vật báu trên đời”
+ Quản ngục băn khoăn, trăn trở về việc xin chữ, biệt
đãi HC, quản ngục nhẫn nhục, có khi đau khổ, nỗi hốt
hoảng, hi vọng và tuyệt vọng.
- Thể hiện trực tiếp qua cảnh cho chữ và lời nói của
Huấn Cao:“Chữ thì quý thực”
“Đây không phải là nơi để treo một bức lụa trắng với
những nét chữ vuông, tươi tắn nó nói lên nhữngcái
hoài bão tung hoành của một đời con người”.
→Huấn Cao được nói tới như một nghệ sĩ tài hoa. Chữ
ông Huấn Cao quý giá vì nó đẹp, nhưng quý hơn cả vì
nó kết tụ tinh hoa và tâm huyết của người cầm bút, thể
hiện nhân cách cao khiết, trở thành nỗi khát khao cháy
bỏng cả đời quản ngục. Nguyễn Tuân vừa sử dụng lờì
ngợi ca trực tiếp, vừa tinh tế, khéo léo sử dụng các thủ
pháp nghệ thuật khác (đòn bẩy) để gián tiếp ca ngợi cái
tài vừa quý vừa hiếm ấy của Huấn Cao.
* Ý nghĩa:
+ Thể hiện quan niệm tư tưởng và nghệ thuật của
Nguyễn Tuân: Kính trọng, ngưỡng mộ những bậc tài
hoa, trân trọng nghệ thuật thư pháp cổ truyền của cha
ông.
+ Thể hiện thái độ luyến tiếc đối với một nhã thú cổ
truyền đang bị lụi tàn.
* Nhóm 2: Tìm hiểu
về khí phách anh
b. Huấn Cao - một anh hùng khí phách
- Qua lời viên quản ngục Lop9.edu.vn

hùng của Huấn Cao.
Tập trung thảo luận
các câu hỏi sau đây:
Hành động dám
đứng lên khởi nghĩa
chống lại triều đình
của Huấn Cao cho
em hiểu gì về tính
cách của ông?
Khí phách đó được
thể hiện qua những
hành động, thái độ
nào của Huấn Cao và
các đồng chí của ông
khi bị đưa đến ngục
thất, đối diện với cai
ngục?
Thái độ của Huấn
Cao như thế nào khi
nghe tin viên thơ lại
báo ngày ông sẽ phải
về kinh chịu án tử
hình?
Ông đã sống như thế
nào trong những
giây phút cuối cùng
của cuộc đời mình?

+ Ông là một anh hùng sống có lí tưởng, dám đấu tranh
vì lợi ích của dân chúng, bất chấp tính mạng của cá
nhân mình.
“Trong đó, tôi nhận thấy tên đứng đầu bọn phản
nghịch là Huấn Cao”, “ngoài cái tài viết chữ tốt còn có
cái tài bẻ khoá và vượt ngục” (chú ý: Phản nghịch là
chữ dùng theo cái nhìn của tầng lớp phong kiến, đó là
hành động chống lại triều đình – một triều đình đã thối
nát.)
- Qua hành động, thái độ của Huấn Cao
+ Hành động rỗ gông:
. Chiếc gông dài 8 thước, nặng 7 – 8 tạ, xứng đáng với
tội án của 6 tử tù. → tượng trưng cho sự trừng phạt tàn
nhẫn, bạo lực, khắc nghiệt đối với tử tù.
. Thái độ rỗ gông: Lạnh lùng chúc mũi gông nặng, khom
mình thúc mạng đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh
thuỳnh một cái... trước mặt quản ngục, thơ lại và những
người lính áp giải.
→Hành động dứt khoát, mạnh mẽ, đầy thách thức. Khi bị
đưa đến ngục thất, Huấn Cao cũng như những người bạn
đồng chí của ông ko hề tỏ ra run sợ, thậm chí họ lạnh
lùng, bình thản đón nhận sự đọa đày của tù ngục, coi
thường cái chết và rất khinh bỉ những kẻ cam tâm phục vụ
chế độ thống trị bất công. Con người này tuy sự nghiệp
không thành nhưng rất hiên ngang.
+ Hành động thản nhiên nhận rượu thịt trước sự biệt đãi
của quản ngục, coi như đó là một việc vẫn thường làm
trong cái hứng lúc sinh bình.
--> Toát lên phong thái ung dung tự tại của một trang
anh hùng hảo hán. Lop9.edu.vn

+ Thậm chí Huấn Cao còn mắng viên quản ngục
“Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn một điều. Là
ngươi đừng đặt chân vào đây” --> Câu trả lời giống như
một mệnh lệnh xua đuổi, mắng mỏ với thái độ khinh
bạc đến điều.
- Qua suy nghĩ của Huấn Cao: “ta đến cái cảnh chết
chém còn không sợ nữa là mấy trò tiểu nhân thị oai
này”
- Trong cảnh cho chữ: trong những giây phút cuối cùng
của cuộc đời mình, ông vẫn sống rất quả cảm, không còn
là một tử tù, mà ông sống như một nghệ sĩ, thanh thản và
ung dung sáng tạo cái đẹp. Người nghệ sĩ ấy đang tự do
nhất trên đời, như không có cái chết kề bên, ông Huấn
đang đi vào cõi bất tử cùng với cái đẹp
→ Ngôn ngữ, hành vi, cử chỉ, thái độ…của Huấn Cao
đã làm sáng lên vẻ đẹp bức chân dung tinh thần của
một bậc hào kiệt văn võ song toàn, có nhân, trí, dũng.
Nhà tù phong kiến giam được thể xác nhưng không
giam được tinh thần của con người hiên ngang, bất
khuất này. Đó thực sự là con người “uy vũ bất năng
khuất”, “Chọc trời khuấy nước bằng đầu / Dọc ngang
nào biết trên đầu có ai”
* Nhóm 3: Tìm hiểu
vẻ đẹp thiên lương
của Huấn Cao. Tập
trung thảo luận các
vấn đề sau đây:
Thiên lương trong
sáng của Huấn Cao
được thể hiện qua
c. Huấn Cao - một thiên lương trong sáng
- Qua thái độ của ông đối với con chữ và việc cho
chữ
+ “Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ ông ít chịu cho
chữ”
--> Chỉ cho chữ người tri kỉ - Đây là hành động thể hiện
sự quý bạn, trọng mình và đặt cái đẹp đúng chỗ, đúng
lúc để nó phát huy hết giá trị thiêng liêng của nó. Lop9.edu.vn

những chi tiết nào?
Ca ngợi thiên lương
trong sáng của Huấn
Cao, Nguyễn Tuân
có dụng ý nghệ thuật
gì?
+ “Ta nhất sinh ko vì…một tấm lòng trong thiên hạ”
--> Huấn Cao là người trọng nghĩa khinh lợi.
- Qua thái độ của Huấn Cao với quản ngục
+ Khi chưa hiểu thì khinh bạc đến điều
+ Khi hiểu ra thì cảm động trước sở nguyện cao quí của
quản ngục, ăn năn về thái độ và hành động trước kia của
mình và sẵn sàng cho chữ. Con người tưởng như được
tạc bằng đá, được đúc bằng thép ấy lại rất tinh tế trong
đối xử với con người. Ông đã nhận ra quản ngục như
một đóa hoa sen trong bùn và coi như tri kỉ, đã đem tấm
lòng tri âm để đáp lại.
"Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn.....thiên hạ"
- Qua lời khuyên chân thành nhằm hướng quản ngục
trở về con đường lương thiện, thanh lọc tâm hồn cho
quản ngục
“Ở đây lẫn lộn…cả đời lương thiện đi”
→ Nguyễn Tuân thể hiện thái độ đề cao cái tâm của
người nghệ sĩ, nhấn mạnh đến khả năng “nhân đạo
hoá”, khả năng “thanh lọc” kì diệu của nghệ thuật.
Nhân vật Huấn Cao
với những phẩm chất
cao đẹp đó được
Nguyễn Tuân lấy
nguyên mẫu từ nhân
vật nào trong lịch
sử? Em biết gì về
nhân vật này?
* Tiểu kết:
- Nguyên mẫu: Nguyễn Tuân lấy nguyên mẫu từ nhân vật
Cao Bá Quát - một con người vừa có tài, vừa có tâm, vừa
có khí phách hiên ngang, “nhất sinh đê thủ bái mai hoa”
(cả đời chỉ biết cúi lạy trước hoa mai), làm quan đến chức
Giáo thụ, tương đương với chức Huấn đạo. (Huấn Cao:
người làm chức huấn đạo họ Cao).
Nhân vật Huấn Cao
được tác giả miêu tả
bằng bút pháp nghệ
- Nghệ thuật: Bút pháp lãng mạn: Sử dụng hiệu quả các
thủ pháp đối lập: đối lập giữa nhân cách cao đẹp với sự
nhơ bẩn của nhà tù, giữa thiên lương với sự độc ác, thô Lop9.edu.vn

thuật nào? bỉ, tàn nhẫn. Sự đối lập càng làm nổi bật phẩm chất cao
đẹp của Huấn Cao.
Theo em, xây dựng
hình tượng nhân vật
Huấn Cao, Nguyễn
Tuân nhằm bộc lộ
quan niệm gì?
=> Qua hình tượng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân
bộc lộ quan niệm về cái ĐẸP, cái TÀI: Cái TÀI phải đi
đôi với cái TÂM, cái ĐẸP và cái THIỆN không thể tách
rời nhau. Đó là một quan niệm nghệ thuật tiến bộ.
Bên cạnh nhân vật
Huấn Cao, nhân vật
viên quản ngục được
khắc họa ở những
phương diện nào?


Sở nguyện của ngục
quan là có được chữ
của Huấn Cao treo
trong nhà có ý nghĩa
gì?

Để có thể xin được
chữ của Huấn Cao,
quản ngục đã phải
làm những gì? Điều
đó chứng tỏ ông là
một con người như
thế nào?



3. Nhân vật viên quản ngục và thầy thơ lại
a. Viên quản ngục
- Ngoại hình: Đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu...
- Nghề nghiệp, chức vụ: quản ngục. Xét về vị thế xã
hội, Quản ngục là công cụ của triều đình phong kiến,
sống bằng cái nghề mà ở đó chỉ có sự lừa loc, tàn nhẫn,
sự bất công với những thủ đoạn hèn hạ.
- Vẻ đẹp:
+ Có tâm hồn nghệ sĩ: ham mê thư pháp, say mê chữ
đẹp, trọng chữ Huấn Cao và có sở nguyện xin chữ Huấn
Cao treo trong nhà. --> Quản ngục có tâm hồn nghệ sĩ.
Con người này đã chọn nhầm nghề, giữ tù cho nhà tù
phong kiến.
+ Là một người có khí phách. Vì say mê, kính trọng
tài hoa, nhân cách anh hùng của Huấn Cao, quản ngục
đã dám làm đảo lộn trật tự nhà tù, dám bất chấp luật
pháp, kỉ cương nhà tù, dám phạm thượng, đã bỏ qua
thói thường để biệt đãi một tử tù (sai quét dọn buồng
giam, đón tử tù với một thái độ khác thường, hàng ngày
đưa rượu thịt biệt đãi), tôn một tử tù thành thần tượng,
xin chữ tử tù để tôn thờ. Khi nhân được công văn “QN
tái nhợt người đi..” cho thấy ông thật sự biết trân trọng
và xót xa cho cái đẹp. Lop9.edu.vn

Trong buổi tối trước
khi đón Huấn Cao
vào nhà lao, quản
ngục đã suy nghĩ,
băn khoăn và day
dứt về điều gì?







Hành động vái lạy và
dòng nước mắt của
ngục quan phản ánh
nét đẹp gì trong tâm
hồn của quản ngục?


+ Là một người có thiên lương.
_ QN còn là người biết quý trọng thiên lương, khát
khao vươn tới cái đẹp. Trước khi là Quản ngục, ông ta
cũng là người đèn sách, “biết đọc vỡ nghĩa sách thánh
hiền”, là người lương thiện, tử tế, lại có chữ thánh hiền
bồi đắp cho “thiên lương” nảy nở tốt đẹp. Giờ đây phải
sống trong hoàn cảnh đen tối, quản nguch luôn cố gắng
vượt lên, vì vậy mà ông luôn day dứt vì đã chọn nhầm
nghề.
- Thái độ băn khoăn nghĩ ngợi, ngồi bóp thái dương,
ngồi tư lự trong đêm tối, tìm cách đối đãi với một người
có tài, có nhân cách. Thái độ đó chứng tỏ cái tâm, cái
thiên lương của nhân vật.
- Hai lần cúi đầu trước Huấn Cao.
. Lần 1: “Xin lĩnh ý”. Quản ngục thấy mình là một kẻ
tiểu lại giữ tù trước một người “chọc trời khuấy nước
bằng đầu”. Đây là cái cúi đầu trước một anh hùng. -->
Quản ngục là người biết mình, biết ta, trọng khí phách
của người tử tù.
. Lần 2: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”, tư thế khúm
núm, dòng nước mắt ứa ra, rỉ vào kẽ miệng. Đó là cái
cúi đầu của một con người đã được cảm hoá, giác ngộ,
thức tỉnh muộn mằn vì đã chọn nhầm nghề. Cái cúi đầu
không làm cho quản ngục trở lên thấp kém, hèn hạ, mà
khiến nhân vật càng trở lên cao cả, toả sáng hơn.. Đó là
cái cúi đầu nâng tầm con người. Cái cúi đầu, thái độ
khúm núm đó lại xếp quản ngục vào hàng tri kỉ với
Huấn Cao.
Tìm câu văn tác giả
khái quát vẻ đẹp của
=> “Tính cách dịu dàng.....xô bồ”. Quản ngục là cái
thuần khiết giữa một đống cặn bã mà ông Trời đã khéo Lop9.edu.vn

nhân vật quản ngục?
Đặt nhân vật quản
ngục vào hoàn cảnh
xã hội mà nhân vật
sống, tác giả muốn
nói điều gì?
Em hãy nhận xét về
vị trí của nhân vật
ngục quan trong tác
phẩm?
chơi ác sắp đặt. Nếu như bi kịch của Huấn Cao là bi
kịch của người anh hùng thất thế nhưng vẫn kiêu hùng,
lẫm liệt thì bi kịch của ngục quan là bi kịch lầm đường.
Kẻ lầm đường may thay, vẫn còn có lương tri, còn có
khát vọng giải thoát, biết hướng tới cái đẹp và biết thanh
lọc mình trong cái đẹp
- Nếu như Huấn Cao là biểu tượng về cái đẹp với sức
mạnh hướng thiện thì quản ngục được sáng tạo ra là để
hiện thực hóa sức mạnh ấy. Có viên quản ngục thì ý đồ
nghệ thuật của nhà văn mới thực hiện được
Bên cạnh quản ngục
là viên thơ lại. Nhân
vật này được xây
dựng không chi tiết
nhưng hiện lên là
một con người như
thế nào?
b. Thầy thơ lại
- Làm thơ lại, giúp việc giấy tờ cho quản ngục trong
nhà tù
- Là người biết trọng người tài: “Tôi thấy những
người có tài thế mà đi làm giặc thì buồn lắm. Dạ bẩm,
giả thử tôi là đao phủ, phải chém những người như vậy,
tôi nghĩ mà thấy tiêng tiếc”. Vì trọng người tài mà thơ
lại đã không tố giác hành động biệt đãi tử tù của quản
ngục mà còn ủng hộ, giúp đỡ quản ngục, nói với Huấn
Cao sở nguyện cao đẹp của quản ngục, giúp quản ngục
thực hiện sở nguyện ấy.
--> Thầy thơ lại cũng là một người biết trọng cái tài, cái
đẹp, chứng tỏ có nhân cách, là cầu nối quan trọng giữa
hai thế giới, hai tâm hồn, hai con người ở hai hoàn cảnh
trái ngược nhau. Cũng giống như quản ngục, con người
này đã chọn nhầm nghề.
Xây dựng nhân vật
quản ngục và thơ lại
ở thế đối lập với
Huấn Cao trên bình
=> Ý nghĩa
- Tôn vinh vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao. Hình
tượng quản ngục, thơ lại làm nền, góp phần tôn cao, làm
nổi bật sáng ngời hình tượng Huấn Cao. Hình tượng Lop9.edu.vn

diện xã hội nhưng lại
cùng trên chiến
tuyến với Huấn Cao
trên bình diện nghệ
thuật, Nguyễn Tuân
nhằm mục đích gì?
Huấn Cao thêm rực rõ, chói ngời lung linh như huyền
thoại.
- Tạo ra một sự đối lập trong con người. Trong con
người có sự đối lập của thiên lương và vô lương; thiên
thần và ác quỷ; sự kiêu bạc - sự thành tâm, chí tình; ánh
sáng – bóng tối => Thông qua đó, vẻ đẹp của nghĩa khí
và nhân cách được khẳng định, được bộc lộ rõ nét nhất,
giá trị của cái ĐẸP được đề cao, nâng cao giá trị.


Huấn Cao cho chữ
quản ngục xuất phát
từ động cơ nào?








Cảnh cho chữ diễn ra
trong hoàn cảnh thời
gian, không gian như
thế nào? Thời gian
và không gian cho
chữ ở đây có gì đặc
biệt?


4. Cảnh cho chữ - "một cảnh tượng xưa nay chưa
từng có"
* Động cơ cho chữ
- Huấn Cao thuận cho chữ quản ngục không phải là
thanh toán những nợ nần, ơn nghĩa bấy lâu với quản
ngục, cũng không phải để lại những di huấn cuối cùng
cho người ở lại trước khi từ giã cõi đời, cũng không
phải là phô diễn tài hoa lần cuối.
- Huấn Cao cho chữ quản ngục vì cảm động trước một
tấm lòng cao quý - tấm lòng "biệt nhỡn liên tài" của
quản ngục. Tức là khi cái tâm bị đánh động, ông đã
mang cái tài ra để thực hành. Từ đó, cái tâm và cái tài
đã chuyển hóa thành cái đẹp.
* Thời gian cho chữ chưa từng có
- Thời gian khách quan: Thông thường người ta cho chữ
vào ban ngày, lúc trời sáng sủa (thường là buổi sáng).
Huấn Cao cho chữ vào lúc đêm khuya "lúc trại giam
tỉnh Sơn chỉ còn tiếng mõ trên vọng canh" --> gợi ra
một không khí tịch mịch, vừa bí mật vừa thiêng liêng.
- Thời gian chủ quan: Người ta thường cho chữ vào
những lúc rảnh rỗi, tâm thế thư thái, nhàn nhã nhất.
Huấn Cao cho chữ vào đêm cuối cùng của cuộc đời Lop9.edu.vn

Tìm các chi tiết khắc
họa hành động, tư
thế của những người
trong cảnh cho chữ?
Hành động, tư thế có
gì khác thường với
địa vị xã hội của họ?









mình, khi sự sống của con người đang được đếm từng
giờ, từng khắc. --> Đây là khoảng thời gian vô cùng
ngặt nghèo, căng thẳng nhưng cũng lại là những giây
phút quý báu nhất còn lại để Huấn Cao có thể dồn hết
tâm lực của mình cho chữ người tri kỉ.
* Không gian cho chữ chưa từng có
- Cho chữ vốn là một cử chỉ văn hóa nên thường diễn ra
ở một nơi văn hóa như thư phòng, tiền sảnh trang nhã,
lịch sự, đẹp đẽ.
- Ở đây, không gian cho chữ lại là nhà tù - "một buồng
tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi
phân chuột, phân gián" --> không gian bẩn thỉu, xấu xa,
nơi chứa đựng những cặn bã của xã hội.
* Con người với sự đảo lộn vị thế chưa từng có
- Về hành động, tư thế
+ Người cho chữ: Là một tử tù, chỉ ngày mai phải giải
lên kinh lĩnh án chém, cổ đeo gông, chân vướng xiềng,
dậm tô từng nét chữ trên phiến lụa trắng tinh trên mảnh
ván. Huấn Cao hiện lên uy nghi, đường hoàng, lộng lẫy,
ban phát cái đẹp
+ Người xin chữ: Quản ngục khúm núm cất những đồng
tiền kẽm; thầy thơ lại run run bưng chậu mực.
--> Có một sự hoán vị đổi ngôi chưa từng có: kẻ có
quyền hành thì không có quyền uy, quyền uy thuộc về
kẻ đã bị tước đi mọi thứ quyền, kể cả quyền sống tối
thiểu. Song sự thay đổi bề ngoài đó nhằm diễn tả một
trật tự mới bên trong được thiết lập bởi cái đẹp. Cái đẹp
tỏa ra từ khí phách, tài hoa, thiên lương của Huấn Cao
đã phế bỏ trật tự xã hội mà phận vị sắp đặt cho họ. Giờ
đây chỉ còn những tấm lòng bạn bè cao đẹp, những tấm Lop9.edu.vn

Cuối cảnh cho chữ,
Huấn Cao khuyên
quản ngục điều gì?
Lời khuyên đó có ý
nghĩa như thế nào?











Ngục quan đã đón
nhận lời khuyên của
Huấn Cao như thế
nào? Nhận xét về
thái độ của nhân vật?
Em có nhận xét gì về
sự vận động của các
yếu tố: bóng tối, ánh
sáng, cái hôi hám và
mùi thơm trong cảnh
cho chữ?
lòng tri kỉ bao bọc xung quanh cái đẹp.
- Về lời nói, thái độ
+ Kẻ tử tù đĩnh đạc đưa ra những lời khuyên như những
lời di huấn thiêng liêng, muốn khai tâm, cảm hóa, thức
tỉnh, soi sáng cho quản ngục trở về với con đường lương
thiện: “nên thay đổi chốn ở đi”, “nên tìm về quê mà ở đã,
hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã rồi hãy nghĩ đến chuyện
chơi chữ”. Vì “Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững,
và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”.
--> Ý nghĩa: Lời khuyên thể hiện quan niệm thẩm mỹ:
Cái ĐẸP không thể chung sống với cái XẤU, cái ÁC. Cái
ĐẸP phải gắn liền với cái THIỆN, cái cao cả, với thiên
lương.
Người nghệ sĩ chân chính cần phải có cái TÂM, có THIÊN
LƯƠNG. Nhờ đó, họ mới trở nên bất tử, để lại tiếng thơm
muôn đời.
--> Rõ ràng kẻ bị giáo dục lại đi giáo dục quản ngục - kẻ
có chức năng giáo dục tội phạm. Tử tù vụt trở thành
người hướng đạo, chỉ giáo cho ngục quan.
+ Quản ngục: nhận bức châm và lời khuyên với cái cúi
lạy, dòng nước mắt xúc động và những lời lĩnh hội thật
chân thành. --> như vậy, người có chức năng giáo dục
phạm nhân lại đang kính cẩn đón nhận từng lời giáo dục
của một tử tù.
--> Một lần nữa, cái đẹp khẳng đinh được quyền uy tối
cao của nó. Nó không chỉ xích gần khoảng cách của
những kẻ cách biệt về vị thế xã hội mà còn có sức mạnh
cảm hóa, cứu rỗi những con người lầm lạc.
* Sự vận động của các yếu tố trong cảnh cho chữ
- Sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng: Cảnh cho chữ mở Lop9.edu.vn

ra là một buồng tối chật hẹp ẩm ướt, rồi dần dần sáng
rực bởi ánh sáng của bó đuốc tẩm dầu và ánh sáng của
cái đẹp.
- Sự vận động từ cái hôi hám, bẩn thỉu của cảnh nhà
giam đến cái thanh khiết, cao cả của nền lụa trắng, nét
chữ đẹp, vuông vắn dần hiện lên và mùi thơm của thoi
mực hay cũng chính là hương vị của tình người, của
thiên lương.
--> Cảnh cho chữ là một cảnh hay nhất trong tác phẩm,
để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người, có ý nghĩa
sâu xa.
Em có nhận xét gì về
nghệ thuật dựng
cảnh của tác giả?
--> Nghệ thuật dựng cảnh
Tác giả đã dựng cảnh bằng kiến thức hội hoạ và điện
ảnh, quay cận cảnh từng chi tiết, gợi lên một không khí
hài hoà, thiêng liêng, cổ kính, tạo phông nền cho cảnh
cho chữ, xây dựng tư thế, hình ảnh những con người
trong cảnh cho chữ với những nét độc đáo.
Theo em, cảnh cho
chữ được dựng lên
trong tác phẩm có
những ý nghĩa nào?
=> Ý nghĩa của cảnh cho chữ
- Kết tinh vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao, quản ngục.
- Thông điệp quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân:
Cái đẹp không thể chung sống với cái ác, cái xấu mà
phải gắn liền với cái thiện, cái cao cả. Cái đẹp, cái thiên
lương là bất tử.
- Thể hiện niềm tin của tác giả, niềm tin vững chắc vào
con người: Huấn Cao chết đi nhưng tài năng, nhân cách sẽ
còn mãi, sẽ có người bảo vệ, giữ vững. Quản ngục đã
được cảm hoá, chắc hẳn sẽ rời bỏ chỗ ở, về quê, gìn giữ
tâm hồn thanh sạch.
Tóm lại: Cảnh cho chữ mang sức nặng toàn bài, vừa
kết kinh và làm sáng ngời phẩm chất của nhân vật, Lop9.edu.vn

vừa thể hiện quan niệm, tư tưởng của tác giả.
III. Tổng kết
Em hãy khái quát
những đặc sắc nghệ
thuật của tác phẩm?
1. Nghệ thuật
- Nghệ thuật tạo dựng tình huống độc đáo
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật mang dấu ấn của chủ
nghĩa lãng mạn: cường điệu; tương phản, nghệ thuật vẽ
mây nẩy trăng...
- Cách tạo không khí cổ xưa (Cảnh đề lao, quan coi
ngục, tử tù đều mang dáng dấp cảnh vật và con người
thời xưa. Giọng điệu nhân vật, cách xưng hô hay lời dẫn
chuện cũng rất cổ kính với nhiều từ Hán Việt.
- Ngôn ngữ trau chuốt, gọt giũa kĩ càng, có phần trang
trọng, cầu kì nhưng sự cầu kì ấy trong trường hợp này
lại thích hợp với không khí cổ xưa của câu chuyện.
Lại Nguyên Ân nhận xét “Nguyễn Tuân - đó là hiện
tượng văn hoá phong cách, một hiện tượng văn hoá
nhân cách. Con người ông, phong cách ông cũng đẹp
một cách độc đáo như câu văn của ông, loại câu văn có
một không hai trong nghệ thuật ngôn từ Tiếng Việt”.
=> “Chữ người tử tù” mang đặc trưng phong cách Nguyễn
Tuân
Khái quát giá trị nội
dung của tác phẩm?
2. Nội dung
- Ngợi ca hình tượng nhân vật Huấn Cao - một con
người tài hoa, uyên bác, có khí phách hiên ngang và có
thiên lương trong sáng.
- Qua đó, thể hiện quan niệm thẩm mĩ của tác giả: Cái
đẹp là bất tử, cái đẹp không thể chung sống với cái cái
ác, cái xấu, đề cao cái tài, cái tâm, cái thiên lương trong
sáng.
* Củng cố Lop9.edu.vn

- Hãy phân tích tính chất kịch tính của tình huống
truyện.
- Phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao.
* Dặn dò
- Nắm chắc gía trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác
phẩm, qua đó thấy được phong cách nghệ thuật của
Nguyễn Tuân.
- Chuẩn bị bài mới cho tiết học sau

4.2. Hướng dẫn HS thực hành các dạng bài tập về truyện ngắn
Các bài tập sau chủ yếu là các bài tập nâng cao cho học sinh lớp học nâng
cao môn Ngữ văn và cho đội tuyển HSG.
* Đề số 1:
Nhận xét về vai trò của chi tiết nghệ thuật trong truyện, có ý kiến cho
rằng: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến trên?
Hãy chọn hai chi tiết đặc sắc trong hai tác phẩm “Chữ người tử tù” của
Nguyễn Tuân và “Chí Phèo” của Nam Cao để làm sáng tỏ nhận định trên.
a. Giải thích
- “Chi tiết” là gì? Ở đây không phải muốn nói đến những chi tiết thông
thường cấu thành cốt truyện mà muốn nói đến những chi tiết nghệ thuật - là các
tiểu tiết của tác phẩm mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng (Từ điển thuật
ngữ văn học).
- Vì sao “chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”? (Vai trò của chi tiết đối với
tác phẩm văn học và thể hiện tài năng của nhà văn).
+ Chi tiết nghệ thuật tuy nhỏ nhưng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong
tác phẩm. Chi tiết có khả năng thể hiện, giải thích, làm minh xác cấu tứ nghệ
thuật của nhà văn, trở thành tiêu điểm, điểm hội tụ của tư tưởng tác giả trong tác
phẩm.
+ Chi tiết nghệ thuật gắn với quan niệm nghệ thuật về thế giới và con
người, với truyền thống văn hóa nghệ thuật nhất định. Lop9.edu.vn

-> Do đó, “chi tiết nhỏ” có khả năng tạo nên “nhà văn lớn”.
b. Phân tích và chứng minh
* Khái quát
- Tác giả, tác phẩm: tác giả Nam Cao và tác phẩm “Chí Phèo”, tác giả
Nguyễn Tuân và tác phẩm “Chữ người tử tù”.
- Chọn chi tiết đặc sắc trong mỗi tác phẩm: có thể chọn các chi tiết trong
“Chí Phèo”: chi tiết tiếng chửi của Chí Phèo ở đầu truyện, chi tiết Chí Phèo tỉnh
rượu sau cuộc gặp gỡ với thị Nở ở bờ sông, chi tiết bát cháo hành của thị Nở, chi
tiết Chí Phèo ôm mặt khóc rưng rức khi bị thị Nở từ chối… Với “Chữ người tử
tù” có thể chọn chi tiết cảnh cho chữ cuối tác phẩm…
- Đánh giá được vị trí quan trọng của các chi tiết trong tác phẩm và trong
việc thể hiện tài năng của nhà văn.
* Cảm nhận, phân tích cụ thể các chi tiết
- HS chọn và phân tích hai trong số những chi tiết đặc sắc thuộc hai tác
phẩm “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân và “Chí Phèo” của Nam Cao. Trong
tác phẩm "Chữ người tử tù" có thể chọn các chi tiết: hành động rỗ gông của
Huấn Cao, lời khuyên của Huấn Cao, dòng nước mắt và cái cúi đầu của quản
ngục....Trong "Chí Phèo" có thể chọn chi tiết: bát cháo hành của thị Nở, dòng
nước mắt của Chí Phèo, hành động giết Bá Kiến và tự sát của Chí Phèo, hình
ảnh cái lò gạch cũ...
- Bám sát vai trò và ý nghĩa của chi tiết đối với tác phẩm văn học và nhà
văn, đồng thời làm rõ ý nghĩa, vai trò của chi tiết với tác phẩm cụ thể.
- Trong quá trình phân tích cần đối sánh để làm nổi bật ý nghĩa của từng
chi tiết đã chọn.
c. Bình luận, đánh giá
- Hai chi tiết đều là những chi tiết nghệ thuật đặc sắc, góp phần không nhỏ
tạo nên thành công cho tác phẩm và nhà văn, thể hiện khả năng khái quát hiện
thực và sáng tạo nghệ thuật của hai nhà văn.
- Quá trình lao động nghệ thuật của nhà văn là quá trình lao động công
phu, chắt lọc từng chi tiết nhỏ trong đời sống để tạo nên những chi tiết nghệ Lop9.edu.vn

thuật sáng giá. Bởi vậy, nhận định trên hoàn toàn đúng đắn.

* Đề 2: Bàn về cách viết truyện ngắn, nhà văn Sêkhốp có phát biểu:
“Theo tôi, viết truyện ngắn, cốt nhất phải tô đậm cái mở đầu và cái kết
luận.”
( Theo “Sêkhốp bàn về văn học” )
Anh (chị) hãy giải thích ý kiến trên, phân tích cách mở đầu, kết thúc
truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao và “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân
để thấy ý nghĩa của nó trong việc nâng cao giá trị tác phẩm.
a. Giải thích.
- “Cốt nhất phải tô đậm cái mở đầu và cái kết luận”: Nhà văn phải dụng
công để tạo nên một cách mở đầu và kết thúc tác phẩm thật độc đáo, ấn tượng,
gây chú ý cho người đọc.
- Phải tô đậm cái mở đầu và kết luận vì: Đối với tác phẩm văn học nói
chung và nhất là truyện ngắn, mở đầu và kết thúc bao giờ cũng có vai trò rất
quan trọng trong việc nâng cao giá trị tác phẩm. Mở đầu tạo ấn tượng và sự chú
ý, hấp dẫn người đọc. Kết luận tạo dư ba.
- Một số nhận định về vai trò của mở đầu và kết luận: "Cực kì quan trọng
là làm sao bắt đầu cho tốt " (Polevoi). Mác nói đại ý: Điều quan trọng với một
tác phẩm là cách kết thúc. Chu Lai nhận xét: "Vào đầu nhanh, dẫn giải mạnh,
kết thúc khéo - ba yếu tố đó kết hợp với ý tứ dồi dào, ý tưởng sâu sa sẽ tạo nên
cái hay của truyện". - "Chức năng mã hóa trong văn bản kể chuyện vẫn thuộc về
nhân tố mở đầu, còn chức năng huyền thoại hóa của cốt truyện thuộc về nhân tố
kết thúc."
b. Phân tích ý nghĩa của mở đầu và kết luận truyện ngắn “Chí Phèo” của
Nam Cao và “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân.
b.1) Mở đầu của truyện ngắn “Chí Phèo” và "Chữ người tử tù"
b.1.1) Mở đầu của "Chí Phèo"
* Cách mở đầu: Lop9.edu.vn

- Truyện được mở đầu bằng đoạn văn miêu tả, nhận xét tiếng chửi của
nhân vật chính - một kẻ đang say rượu. Đây là cách giới thiệu trực tiếp nhân vật
và cách mở đầu không theo trình tự thời gian mà đi thẳng vào giữa truyện.
* Ý nghĩa:
- Đoạn mở đầu có ý nghĩa lớn trong việc tạo tính hấp dẫn, gợi hứng thú,
lôi cuốn người đọc vào diễn biến tiếp theo của câu chuyện.
+ Cách vào truyện bằng hình ảnh rất sống động của một kẻ say đang vừa
đi vừa chửi.
+ Cách chửi của nhân vật khá độc đáo: Thoạt đầu vu vơ, sau đó thu hẹp
dần và cuối cùng bất ngờ chửi “đứa chết mẹ nào đẻ ra hắn...”
+ Cách sử dụng ngôn ngữ vô cùng linh hoạt (đan xen nhiều điểm nhìn,
ngôn ngữ, giọng điệu) làm đoạn văn có ấn tượng riêng khó quên.
- Ngay từ đoạn mở đầu, số phận, tích cách nhân vật đã được khái quát,
khắc sâu giá trị tư tưởng tác phẩm.
+ Khái quát một tính cách hết sức đặc biệt: tính cách một kẻ khùng, thằng
say đang ở trong trạng thái lưỡng phân: nửa say - nửa tỉnh.
+ Khái quát một số phận vô cùng bi đát: số phận của con người đang bị
đồng loại chối từ.
=> Một thân phận đáng sợ - đáng thương.
b.1.2) Mở đầu của "Chữ người tử tù"
* Cách mở đầu:
- Truyện mở đầu bằng cuộc trò chuyện giữa quản ngục và thơ lại: quản
ngục “nghe đồn” Huấn Cao có tài viết chữ đẹp và có tài bẻ khoá vượt ngục; thơ
lại cho rằng phải chém những người như thế thấy mà tiêng tiếc.
* Ý nghĩa:
- Tạo ấn tượng ban đầu về nhân vật chính, phụ.
+ Huấn Cao: Con người của tài hoa, khí phách, bản lĩnh ngang tàng.
+ Quản ngục, thơ lại: biết quý cái Đẹp cái Tài, biết trọng nhân cách bản
lĩnh. Lop9.edu.vn

- Cách vào truyện theo trật tự thời gian, nghệ thuật giới thiệu nhân vật
uyên thâm, cổ điển (gián tiếp, theo lối “vẽ mây nẩy trăng”) tạo ấn tượng sâu đậm
trong lòng người đọc về Huấn Cao - con người của huyền thoại, của danh tiếng
lẫy lừng trong thiên hạ, đến phe đối lập cũng phải nể vì, trọng thị.
* Lưu ý: Khái quát gọn phần diễn biến truyện để thấy tính thống nhất
trong tính cách, phẩm chất nhân vật, tạo nên tính chỉnh thể của văn bản.
b.2) Kết thúc của truyện ngắn "Chí Phèo" và“ Chữ người tử tù”
b.2.1) Kết thúc của "Chí Phèo"
* Cách kết thúc:
- Cái chết thảm khốc của nhân vật Chí Phèo
- Nhà văn đã lặp lại hình ảnh “cái lò gạch bỏ hoang” ở phần đầu tác phẩm
- nơi Chí Phèo bị bỏ rơi - để kết thúc truyện.
* Ý nghĩa:
- Với việc để Chí Phèo tự vẫn vì không thể trở về với cuộc đời lương
thiện như thế, tác giả khắc sâu bi kịch số phận nhân vật và tố cáo sâu sắc xã hội.
- Hình ảnh “cái lò gạch bỏ hoang” được lặp lại tạo thành một kết cầu vòng
tròn, một kết thúc để ngỏ, có giá trị biểu hiện sâu sắc, buộc người đọc phải suy
ngẫm liên tưởng thêm những tầng nghĩa mới có thể có mà tác giả gửi gắm (phản
ánh, tố cáo hiện thực; dự báo, thức tỉnh,…)
b.2.2) Kết thúc của "Chữ người tử tù"
* Cách kết thúc: Truyện kết thúc bằng “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
- Khung cảnh cho chữ chưa từng có: Trong đêm cuối cùng của người tử
tù, nơi ngục thất lại diễn ra cảnh cho chữ.
- Người cho chữ - xin chữ chưa từng có: Người cho chữ, ban phát cái
Đẹp, khuyên răn điều Thiện là tử tù; người xin chữ, thoả được sở nguyện về cái
Đẹp và tìm ra con đường chính đạo của cuộc đời lại là viên quan coi ngục.
* Ý nghĩa:
- Tạo kết cấu đầu cuối tương ứng: Mở đầu bằng lời đồn - kết thúc bằng
hành động chứng thực. Mở đầu bằng huyền thoại - kết thúc bằng cảnh “xưa nay
chưa từng có”. Lop9.edu.vn

- Tô đậm chân dung nhân vật:
+ Huấn Cao “ngôi sao hôm chính vị” toả sáng ánh sáng của Tài - Chí -
Tâm.
+ Quản ngục, đốm sáng đặc biệt, con người của nhân cách và sở nguyện
cao đẹp, bậc “liên tài tri kỷ” xưa nay hiếm đối với người nghệ sĩ.
+ Đây là cuộc gặp gỡ kì diệu giữa những “tấm lòng trong thiên hạ”: một
Huấn Cao nghĩa khí tài hoa và một quản ngục, thơ lại thành tâm trọng nghĩa,
trọng tài.
- Thể hiện nổi bật cảm hứng lãng mạn và bút pháp lý tưởng hoá của
Nguyễn Tuân: hướng tới cái Đẹp và sự phi thường.
- Bộc lộ tập trung chủ đề tác phẩm:
+ Ca ngợi một thú chơi tao nhã của một thời vang bóng.
+ Ca ngợi một bậc anh hùng hiên ngang bất tử.
+ Tôn vinh sự chiến thắng của cái Đẹp, cái Thiện với sức mạnh cảm hoá
lớn lao, vĩ đại.
+ Thể hiện quan niệm của Nguyễn Tuân về con người và nghệ thuật chân
chính.
c. Bình luận.
- Lời bàn xác đáng, đúng đắn về một phương diện quan trọng trong nghệ
thuật viết truyện ngắn, được đúc kết nên từ trải nghiệm một đời văn của Sêkhốp
- bậc thầy truyện ngắn trong nền văn học Nga và văn học thế giới.
- Đây là công phu sáng tạo in đậm dấu ấn tài năng và phong cách tác giả:
Mở đầu - kết thúc “Chữ người tử tù” khẳng định Nguyễn Tuân, nhà văn lãng
mạn, nhà văn của cái Đẹp hoàn mĩ phi thường, nhà văn của lối viết vừa cổ kính
trang trọng, vừa mới mẻ hiện đại. Mở đầu và kết thúc truyện ngắn “Chí Phèo”
chứng tỏ Nam Cao là cây bút hiện thực nghiêm ngặt, tỉnh táo, nhà văn của chủ
nghĩa nhân đạo lớn không chỉ với tình thương mà còn ở lòng tin vào con người.
- Yêu cầu đặt ra cho công phu sáng tạo mở đầu và kết luận không chỉ
đúng với truyện ngắn mà còn với tất cả các thể loại văn học khác (ký, kịch, thơ, Lop9.edu.vn

tiểu thuyết), đòi hỏi trách nhiệm của người nghệ sĩ trong quá trình lao động nghệ
thuật.
* Đề số 3:
Nhà văn I.X Tuocghenhev khẳng định: “Cái quan trọng trong tài năng
văn học là tiếng nói của mình, là cái giọng riêng biệt của chính mình không thể
tìm thấy trong cổ họng của bất kì một người nào khác.”
Anh/ chị hiểu quan niệm trên như thế nào?
Phân tích truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam để làm sáng tỏ quan
niệm đó.
a. Giải thích quan niệm của I.X Tuocghenhev
- Ý tưởng của I.X Tuocghenhev khá rõ. Nhà văn khẳng định yếu tố quan
trọng làm nên tài năng của một nhà văn là cách viết, cách thể hiện riêng đầy cá
tính sáng tạo (mà I.X Tuocghenhev đã diễn đạt đầy ấn tượng là tiếng nói của
mình, là cái giọng riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong cổ họng
của bất kì một người nào khác).
--> Ở quan niệm của mình, I.X Tuocghenhev đã đề cao phong cách nghệ thuật
của người viết văn (tính độc đáo trong sáng tạo nghệ thuật của nhà văn gắn liền
với một quan niệm nhất định về con người và cuộc đời, kéo dài thành vệt đậm
đầy cảm hứng trong chuỗi sáng tác của họ).
b. Chứng minh cái giọng riêng biệt (phong cách) của Thạch Lam qua truyện
ngắn “Hai đứa trẻ”.
- Thể hiện ở việc chọn loại truyện “không có chuyện” (không giàu sự
tình, không thiên về cốt truyện, hành động mà chỉ đi sâu vào tâm trạng, không
khí). Cốt truyện “Hai đứa trẻ” (như rất nhiều truyện ngắn khác của Thạch Lam)
nhẹ nhàng, gần như không có cốt truyện nhưng khó quên. Dưới ngòi bút của
Thạch Lam, con người, nhịp điệu cuộc sống hiện ra đều đều không thay đổi,
không có gì khiến bạn đọc phải hồi hộp chờ đợi. Tất cả thoang thoảng, man mác
và vẩn vơ theo tâm trạng nhân vật Liên. Chính điều đó lại làm nên nét riêng của
tác phẩm. Lop9.edu.vn

- Thể hiện ở tài miêu tả những nét tinh tế, nhẹ nhàng của cảm xúc, tâm
trạng, tình cảm: tâm trạng của nhân vật Liên trước cảnh chiều về, đêm xuống,
canh khuya (lúc chuyến tàu đêm băng qua phố huyện nghèo). Liên vừa nhận ra
nét nên thơ, thân thuộc lẫn nét lặng lẽ, man mác buồn của cảnh chiều và đêm;
mong ngóng chuyến tàu đổ xuống bao khát khao về ảnh hình một chút thế giới
trong mơ tưởng...(học sinh biết so sánh Thạch Lam với Nam Cao và Nguyễn
Tuân, hai tác giả cùng thời với Thạch Lam cũng rất thành công trong việc miêu
tả tâm lí nhân vật, từ đó làm nổi bật lên nét riêng của Thạch Lam ở phương diện
này).
- Thể hiện ở những câu văn và những miêu tả giàu chất thơ: Thạch Lam
là con người vừa hiện thực vừa lãng mạn. Chất thi vị của đời sống có mặt trong
“Hai đứa trẻ” qua các trang viết về chiều tà, đêm tối.
- Thể hiện ở những nhân vật không có sự phức tạp của nội tâm, cũng
dường như không có tính cách gì sắc nét không phân tuyến chính diện phản diện
như các tác phẩm của những nhà văn cùng thời, mà là những con người đang
lặng lẽ đắm chìm trong tăm tối, buồn bã với những tâm trạng không rõ ràng,
những ranh giới tình cảm mong manh. Liên trong “Hai đứa trẻ” là một nhân vật
như vậy.
c. Đánh giá
- Quan niệm của I.X Tuocghenhev là một quan niệm hoàn toàn đúng đắn
về mặt lý thuyết và thực hành sáng tạo văn học. Quan niệm trên phù hợp với
quy luật muôn đời của hoạt động nghệ thuật mà Nam Cao tâm đắc: người nghệ
sĩ phải “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”.
- Với cái giọng riêng của mình, Thạch Lam đã tạo nên một phong cách
truyện ngắn riêng biệt, độc đáo.
* Một số đề bài tham khảo:
Đề 4: "Nhà văn sáng tạo nhân vật để gửi gắm tư tưởng, tình cảm và quan niệm
của mình về cuộc đời"
Với các nhân vật quản ngục và Bá Kiến, anh/chị hãy làm sáng tỏ nhận
định trên. Lop9.edu.vn

Đề 5: Có ý kiến cho rằng: tình huống truyện trong truyện ngắn giống như một
thứ nước rửa ảnh để làm nổi hình, nổi sắc nhân vật.
Anh/ chị suy nghĩ như thế nào về ý kiến trên? Qua một số tác phẩm tiêu
biểu, hãy làm sáng tỏ điều đó.
Đề 6: Khi bàn về văn học, L.Tôn-xtôi cho rằng: Tôi không thể nào phân biệt
được thơ và truyện ngắn.
Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? Bằng những hiểu biết về văn học
1930-1945, hãy làm sáng tỏ?
.........* * * * *.........
5. Kết quả nghiên cứu
Qua quá trình nghiên cứu và vận dụng đề tài Đặc trưng truyện ngắn và
định hướng đọc - hiểu văn bản truyện ngắn trong nhà trường THPT đối với
học sinh đại trà, học sinh lớp nâng cao văn (11A4, 11A5, 12A4, 12A5), học sinh
thuộc đội tuyển ... tôi nhận thấy một số kết quả thu được như sau:
- Đối với học sinh đại trà: các em đã nắm vững được những kiến thức cơ
bản nhất về đặc trưng của thể loại truyện ngắn và biết vận dụng vào việc đọc -
hiểu các tác phẩm truyện ngắn trong chương trình.
- Đối với học sinh lớp nâng cao văn: Đa số học sinh nắm vững kiến thức
lí luận về đặc trưng thể loại truyện ngắn, trên cơ sở đó so sánh với đặc trưng các
thể loại khác như tiểu thuyết, thơ, kịch. Ngoài ra, các em biết vận dụng kiến
thức khá nhuần nhuyễn để đọc - hiểu kĩ và sâu các truyện ngắn trong chương
trình, vận dụng kiến thức vào làm bài khá tốt.
- Đối với đội tuyển học sinh giỏi, ngoài việc nắm chắc và vận dụng nhuần
nhuyễn những đặc trưng của thể loại truyện ngắn vào việc tìm hiểu các tác phẩm
truyện ngắn, biết so sánh đặc trưng thể loại truyện ngắn với các thể loại văn học
khác (tiểu thuyết, thơ, kịch, kí,..), các em còn biết vận dụng kiến thức vào xử lí
tốt các dạng đề HSG tỉnh. Ngoài ra, các em còn nắm vững được phong cách viết
truyện ngắn của các tác giả tiêu biểu trong chương trình và có tư duy so sánh,
đối chiếu khá sắc nét.
Đa số HS đều hiểu bài và vận dụng kiến thức khá nhuần nhuyễn vào bài Lop9.edu.vn

học trên lớp cũng như những bài viết cụ thể. Hiệu quả của các tiết đọc - hiểu về
truyện ngắn được nâng cao và kết quả những bài làm văn về các vấn đề xoay
quanh một tác phẩm truyện ngắn cũng có sự tiến bộ rõ rệt.
6. Kết luận chung
6.1. Kết luận chung
Có người ví: truyện ngắn giống như tranh khắc gỗ, lao động nghệ thuật ở
đây đòi hỏi phải chặt chẽ, cô đọng, các phương tiện phải được tính toán một
cách kĩ lưỡng, nét vẽ phải chính xác. Đây là một công việc vô cùng tinh tế của
các nhà văn. Do đó, để tiếp nhận một truyện ngắn cũng đòi hỏi sự công phu, kĩ
lưỡng và một sự cảm thụ vô cùng tinh tế của người đọc. Nếu như không nắm
vững những kiến thức cơ bản về đặc trưng thể loại truyện ngắn thì việc đọc -
hiểu và lĩnh hội một tư tưởng lớn, một thông điệp sâu và một tài năng nghệ thuật
viết truyện đặc sắc chứa đựng trong một truyện "ngắn" quả là điều không dễ
dàng.
Đây là đề tài nghiên cứu để phục vụ trong thực tiễn giảng dạy, hướng tới
đối tượng là học sinh học Ngữ văn nói chung, HS thuộc đội tuyển HSG Ngữ văn
nói riêng nên sẽ góp phần củng cố và nâng cao, không chỉ kiến thức mà còn là kĩ
năng khái quát - tổng hợp, kĩ năng giải mã tác phẩm văn học trên cơ sở đặc
trưng thể loại. Từ đó, HS không chỉ được rèn luyện kĩ năng cảm thụ tác phẩm
văn học mà còn được trang bị những kiến thức lí luận một cách chắc chắn và sâu
sắc.
6.2. Để phục vụ thiết thực cho quá trình dạy - học qua đề tài này, tôi xin đưa
ra một vài đề xuất và kiến nghị như sau:
- Thư viện nhà trường nên cung cấp thêm các tài liệu tham khảo về lí
luận văn học, đặc trưng thể loại văn học nhằm cung cấp những kiến thức nền
tảng cho học sinh trong quá trình đọc - hiểu các văn bản văn học.
- Truyện ngắn như đã nói là một thể loại chiếm ưu thế trong nhà trường
phổ thông, cũng là một thể loại có nhiều tiềm năng trong lĩnh vực sáng tác và
phê bình. Hi vọng, sáng kiến kinh nghiệm này sẽ góp phần gợi mở một số Lop9.edu.vn

hướng nghiên cứu khác cho các đồng nghiệp về thể loại truyện ngắn và phương
pháp dạy học hiệu quả thể loại này (chẳng hạn như vấn đề thi pháp truyện ngắn:
thời gian, không gian, nhân vật, giọng điệu, ngôn ngữ...)
VIII. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
- Giáo viên: Nhiệt tình, có trách nhiệm cao, đầu tư chuyên môn, chuẩn bị
kĩ những câu hỏi thảo luận và dự kiến các phương án trả lời.
- Học sinh: Chuẩn bị bài, soạn bài, sách giáo khoa và các đồ dùng học tập
khác.
- Thiết bị dạy học: Máy tính, máy chiếu, giấy A0, A3, A4, bút dạ, sách
giáo khoa…
IX. Đánh giá lợi ích thu được
Qua quá trình thực nghiệm đề tài nghiên cứu Đặc trưng truyện ngắn và
định hướng đọc - hiểu văn bản truyện ngắn trong nhà trường THPT, tôi nhận
thấy đề tài đã có tính khả thi và ứng dụng vào thực tiễn. Phương pháp dạy học
truyện ngắn theo đặc trưng thể loại cùng với những phương pháp dạy học tích
cực khác sẽ mở ra nhiều triển vọng cho quá trình đổi mới dạy học tác phẩm văn
chương ở nhà trường phổ thông khiến cho những giờ dạy văn trở nên thú vị, hấp
dẫn và đạt kết quả như mong muốn
X. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp
dụng sáng kiến lần đầu

Số
TT
Tên tổ
chức/cá nhân
Địa chỉ Phạm vi/Lĩnh vực
áp dụng sáng kiến
1 Lớp 11A1,
11A4, 11A5
Trường THPT Trường
THPT Ngô Gia Tự năm học
2016-2017
Các bài đọc văn về thể loại
truyện ngắn trong chương
trình Ngữ văn 11
2 Lớp 12A1,
12A4, 12A5
Trường THPT Trường
THPT Ngô Gia Tự năm học
2017-2018
Các bài đọc văn về thể loại
truyện ngắn trong chương
trình Ngữ văn 12
3 Học sinh Trường THPT Ngô Gia Tự Các giờ học khác của môn
Ngữ văn
Lop9.edu.vn

Lập Thạch, ngày.....tháng......năm 2019
Phó Hiệu trưởng





Lập Thạch, ngày 20 tháng 12 năm 2019
Tác giả sáng kiến




Nguyễn Thúy Hằng
Lop9.edu.vn