Tạp chí quốc tế về nghiên cứu và nghiên cứu đa ngành nâng cao www.multiresearchjournal.com
là mục tiêu lâu dài nhưng đã trở thành một thực tế bắt
buộc các doanh nghiệp phải tham gia để có thể phát
triển, không bị tụt hậu. Điều này có thể thấy qua việc ngày
càng có nhiều doanh nghiệp bắt tay vào chuyển đổi số và
ngày càng coi trọng giá trị của dữ liệu kinh doanh. Ở Châu
Á/Thái Bình Dương, người ta thấy rằng 44% trong số 615
doanh nghiệp được nghiên cứu cho biết họ đã đo lường
thành công của chuyển đổi kỹ thuật số bằng dữ liệu như
một tài sản vốn. Tại Việt Nam, Chính phủ đã xây dựng
“Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, tầm
nhìn đến năm 2030” xác định mục tiêu phát triển nền kinh
tế số, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, đặt
ra mục tiêu, mục tiêu. đề ra kế hoạch đến năm 2025 Việt
Nam là nền kinh tế số, chiếm 20% GDP; tỷ trọng kinh tế số
trong từng ngành, lĩnh vực đạt ít nhất 10%; năng suất lao
động hàng năm tăng ít nhất 7%; Việt Nam nằm trong
nhóm 50 nước dẫn đầu về công nghệ thông tin.
Theo kết quả khảo sát “Thực trạng chuyển đổi số tại
doanh nghiệp trong bối cảnh Covid-19” do Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam thực hiện năm
2020, khảo sát hơn 400 doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng
như doanh nghiệp quy mô lớn đã được tiến hành. Quy
mô lớn cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã
bắt đầu hiện thực hóa và ứng dụng công nghệ số
trong các khâu như quản lý nội bộ, mua hàng, logistic,
sản xuất, tiếp thị, bán hàng và thanh toán. Khi dịch
Covid-19 lan rộng dẫn đến việc hạn chế tiếp xúc và
thực hiện các biện pháp giãn cách xã hội, các doanh
nghiệp phải ứng dụng nhiều công nghệ số hơn trong
hoạt động, đặc biệt là trong quản lý nội bộ, thanh toán
điện tử, tiếp thị trực tuyến. Từ đó đến nay, tỷ lệ doanh
nghiệp ứng dụng công nghệ số gần bằng tỷ lệ doanh
nghiệp đã áp dụng công nghệ số từ lâu, cụ thể trong
quản lý nhân sự từ xa, hội nghị trực tuyến, học tập trực
tuyến. phê duyệt nội bộ.
Theo kết quả khảo sát thu được, trong lĩnh vực quản lý
nội bộ, điện toán đám mây là công cụ kỹ thuật được
nhiều doanh nghiệp Việt Nam sử dụng đầu tiên với tỷ
lệ 60,6%, tăng 19,5% so với giai đoạn trước. điểm trước
dịch bệnh Covid-19. Tiếp theo là hệ thống hội nghị trực
tuyến, hệ thống quản lý quy trình và quy trình làm việc
với khoảng 30% doanh nghiệp đã áp dụng các công cụ
này trong hoạt động trước Covid-19 và khoảng 19%
doanh nghiệp đã bắt đầu sử dụng các công cụ này kể
từ khi dịch bệnh xảy ra. Đồng thời, khảo sát trên cho
thấy phần lớn doanh nghiệp Việt Nam đặt kỳ vọng lớn
vào quá trình chuyển đổi số. Có tới 98% doanh nghiệp
kỳ vọng vào sự thay đổi rõ rệt trong hoạt động sản
xuất kinh doanh khi thực hiện chuyển đổi số, trong đó
lớn nhất là khả năng giúp giảm chi phí, chiếm hơn
71%, giúp doanh nghiệp giảm chi phí. gia công giấy
(61,4%) tăng thêm giá trị gia tăng cho sản phẩm, nâng
cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ (45,3%).
Về công nghệ. Trong ngành logistics, công nghệ đóng vai
trò số 1. Theo khảo sát năm 2018, mức độ ứng dụng khoa
học công nghệ trong logistics tại Việt Nam chưa cao, phần
lớn là các giải pháp đơn lẻ, phần mềm đạt tiêu chuẩn
quốc tế. chưa được áp dụng nhiều, khai báo hải quan
được áp dụng nhiều nhất chiếm 75 - 100%. Đặc biệt đối
với thị trường, đơn hàng có thể lên tới hàng triệu đơn
hàng mỗi ngày, nhiều chủng loại, phân tán với nhiều
địa điểm giao hàng khác nhau. yêu cầu giao hàng và độ
chính xác. Các doanh nghiệp logistics nhỏ xử lý đơn hàng,
phân loại hàng hóa thủ công nên chỉ cung cấp các dịch vụ
đơn giản, chậm chạp, lẻ tẻ trong phạm vi địa phương.
Chuyển đổi số ngành logistics cũng đòi hỏi trang thiết bị phải
được trang bị phần mềm quản lý đơn hàng (OMS - Order
management system), hệ thống quản lý kho (WMS), hệ thống
quản lý vận tải (TMS), hoạch định nguồn lực để kết nối hạ
tầng thông tin, cung cấp dịch vụ thực tế dữ liệu thời gian, tra
cứu thông tin đơn hàng mọi lúc, mọi nơi. Chi phí đầu tư hạ
tầng đồng bộ như vậy lên tới hàng chục, thậm chí hàng trăm
tỷ đồng, đây là gánh nặng quá lớn đối với các doanh nghiệp
logistics vừa và nhỏ. Thống kê của Sao Bắc Đẩu cho thấy,
hiện nay 75% cảng chưa thể áp dụng phần mềm hiện đại,
chủ yếu sử dụng lao động kết hợp một số phần mềm đơn
giản. Điều này dẫn tới việc không thể tối ưu hóa thông lượng
hàng hóa, gây ra tình trạng chậm trễ, ùn tắc. Chỉ những
doanh nghiệp lớn như Công ty Tân Cảng, Gemadept, Vinafco,
U&I, TBS, Transimex, Sotrans... mới có đủ nguồn lực để phát
triển các ứng dụng OMS, WMS, TMS... nhằm đạt được sự
đồng bộ dữ liệu giữa các phòng ban. giao hàng, quản lý tồn
kho, kế toán tài chính.
Về chi phí. Nguồn tài chính để đầu tư chuyển đổi số để
phát triển hạ tầng cũng là rào cản lớn đối với các doanh
nghiệp Logistics. Với 90% doanh nghiệp có vốn dưới 10 tỷ
đồng, 5% doanh nghiệp có vốn từ 10 - 20 tỷ đồng, khả
năng áp dụng các giải pháp công nghệ đắt tiền là rất khó
khăn. Trong khi quá trình chuyển đổi số đòi hỏi chi phí từ
hàng trăm triệu đến hàng chục tỷ đồng. Một hệ thống
phân loại hàng hóa tự động có thể xử lý hàng triệu đơn
đặt hàng với nhiều danh mục trị giá hàng triệu đô la. Giải
pháp phần mềm cũng rất đắt tiền, ví dụ một phần mềm
giao hàng thông thường có giá khoảng 100 triệu đến 200
triệu đồng, thanh toán đầy đủ một lần và sau đó sẽ có phí
bảo trì hàng năm khoảng 10% - 20%. CargoWise One
(CW1) là nền tảng công nghệ nổi tiếng quốc tế, bao gồm
nhiều module như hải quan, TMS, WMS, tích hợp giao
nhận vận tải. Giúp thống nhất mọi hoạt động kinh doanh,
từ CRM (quản lý quan hệ khách hàng, tiếp thị, bán hàng)
đến vận hành (đặt chỗ, giám sát lô hàng, bảng kê khai).
Với doanh nghiệp từ 25 đến 50 người, tổng chi phí sử
dụng ước khoảng 50 triệu đến 150 triệu đồng/tháng,
người dùng một năm phải trả từ 1 tỷ đến 1,5 tỷ đồng.
Mức chi phí này là thách thức không hề nhỏ đối với hầu
hết doanh nghiệp logistics Việt Nam hiện nay. Do đó, hiện
tại họ chỉ có thể áp dụng các phần mềm riêng lẻ như khai
báo hải quan điện tử, công nghệ định vị địa lý, ô tô, email
và internet cơ bản.
Về rào cản nhận thức và nhân lực: việc ứng dụng công
nghệ internet vào mọi hoạt động kinh doanh cần đòi hỏi
trình độ rất cao cả về kỹ thuật và nhân lực. Số liệu khảo
sát nhanh hiện nay cho thấy chỉ có 6,7% doanh nghiệp hài
lòng với chuyên môn của nhân viên logistics. Nhiều doanh
nghiệp logistics vẫn chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của
chuyển đổi số trong cuộc cách mạng 4.0. Những rào cản
mà họ đang gặp phải như thiếu kỹ năng và nguồn nhân
lực số, thiếu nền tảng công nghệ hiện đại, thiếu năng lực
tài chính và hơn hết là thiếu tư duy số là những trở ngại
không hề nhỏ về mặt nhận thức trong quá trình tiến bộ.
bộ chuyển đổi số. Trên thực tế, nhiều lãnh đạo doanh
nghiệp vẫn còn có thái độ e ngại về an toàn, bảo mật
thông tin của doanh nghiệp.
342