Tài nguyên nướcmặt ở Việt Nam. Quản lý tài nguyên nước mặt ở Việt Nam
tronganh9
2 views
38 slides
Sep 15, 2025
Slide 1 of 38
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
About This Presentation
Quản lý tài nguyên nước mặt
Size: 3.26 MB
Language: none
Added: Sep 15, 2025
Slides: 38 pages
Slide Content
TÀI NGUYÊN NƯỚC MẶT
VIỆT NAM HIỆN TRẠNG
VÀ THÁCH THỨC
I. Tổng quan về tài nguyên nước mặt
Việt Nam
Tài nguyên nước mặt của một vùng lãnh thổ
hay một quốc gia là tổng của lượng dòng
chảy sông ngòi từ ngoài vùng chảy vào và
lượng dòng chảy được sinh ra trong vùng
(dòng chảy nội địa).
Việt Nam là một nước nằm ở vùng hạ lưu
sông Mê Kông và sông Hồng. Khoảng 2/3 tài
nguyên nước của Việt Nam bắt nguồn từ các
lưu vực của các quốc gia thượng lưu.
•Lượng mưa : phong phú từ 1800 – 2000
mm/năm, cho một lượng nước khoảng
650 km
3
/năm nhưng lại phân bố rất
không đồng đều theo không gian và thời
gian. Lượng mưa tập trung chủ yếu
trong mùa chiếm 70-80% lượng mưa cả
năm.
•Sông ngòi : Việt Nam có hệ thống sông
ngòi dày đặc trong đó có 2360 con sông
có chiều dài lớn hơn 10km. Tổng lượng
dòng chảy sông ngòi trung bình hàng
năm của nước ta bằng khoảng 847 km
3
,
trong đó tổng lượng ngoài vùng chảy vào
là 507 km
3
chiếm 60% và dòng chảy nội
địa là 340 km
3
, chiếm 40%.
•Các hồ chứa : nước ta có khoảng 3600 hồ
chứa với kích thước khác nhau trong đó
có khoảng 460 hồ chứa vừa và lớn, chiếm
13% tổng số hồ chứa, số còn lại khoảng
3140 hồ chứa thuộc loại nhỏ. Ngoài ra
còn có nhiều hồ tự nhiên chứa một trữ
lượng nước lớn như hồ Ba Bể, hồ Tây, hồ
Xuân Hương,...
Tài nguyên nước việt nam tuy phong phú
nhưng phân bố không đồng đều theo không
gian và thời gian. Chính vì vậy đã gây nên
hiện tượng khô hạn thiếu nước vào mùa
khô và lũ lụt vào mùa mưa.
Hiện nay nguồn tài nguyên nước mặt Việt
Nam đang trước nhiều khó khăn và thách
thức như nguồn nước mặt ngày càng bị ô
nhiễm, thiếu nước dùng trong mùa khô, lũ
lụt, và nhiều vấn đề bất cập trong việc quản
lý và sử dụng hợp lý nguồn nước mặt.
II. Hiện trạng tài nguyên nước mặt ở Việt
Nam
1. Hiện trạng sử dụng nước
Ở Việt Nam nhu cầu nước tưới là lớn
nhất. Năm 2001, tổng lượng nước tiêu
dùng trong nông nghiệp gấp 3 lần so với
tổng lượng nước tiêu dùng cho các ngành
khác.
Khoảng 60% dân số Việt Nam được
cung cấp nước sạch dùng cho sinh hoạt
của các hộ gia đình. Ngoài ra các ngành
khác như thuỷ sản (bao gồm cả nuôi
trồng thuỷ sản), công nghiệp, thuỷ điện,
dịch vụ và giao thông vận tải cũng có nhu
cầu sử dụng tài nguyên nước.
Mức bảo đảm nước của Việt Nam hiện (10.900
m
3
/người) lớn hơn 2,7 lần so với Châu Á (3970
m
3
/người) và 1,4 lần so với thế giới (7650
m
3
/người), nhưng nguồn nước lại phân bố
không đều giữa các vùng.
Nếu xét chung cho cả nước thì Việt Nam
không thuộc loại thiếu nước, nhưng hiện đã có
một số vùng và lưu vực sông thuộc loại thiếu
và hiếm nước như vùng ven biển Ninh Thuận,
Bình Thuận và hạ lưu sông Đồng Nai.
Nước dùng cho tưới tiêu :Tổng nhu cầu nước
tưới trong năm 2000 là 76.6 tỷ m
3
, chiếm 84%
tổng nhu cầu nước. Dự tính đến năm 2010 thì
nhu cầu tưới sẽ tăng lên 88,8 tỷ m
3
.
Nước dùng cho sinh hoạt : chiếm một tỉ lệ nhỏ
2% so với tổng nhu cầu.
Nước dùng cho các mục đích khác như công
nghiệp (6,5%), dịch vụ (nhu cầu mỗi năm tăng
9%), giao thông thuỷ, nuôi trồng thuỷ sản...
2. Những khó khăn đối với nguồn tài
nguyên nước mặt Việt Nam
Khó khăn thứ nhất: 2/3 tổng lượng nước mặt phụ
thuộc vào nước ngoài.
Do 63 % tổng lượng dòng chảy nước mặt trên lãnh thổ
Việt Nam là từ các nước láng giềng: Trung Quốc, Thái
Lan, Myanma, Lào và Campuchia chảy vào. Việc sử
dụng nước của các nước này sẽ ành hưởng trực tiếp
đến chế độ thuỷ văn của các dòng sông xuyên biên giới
chảy vào nước ta. Dòng chảy nước sẽ có thể được điều
tiết theo hướng có khi không phù hợp với yêu cầu của
nước ta.
Khó khăn thứ hai: tài nguyên nước phân bố
rất không đều theo không gian và thời gian.
• Lượng mưa rất không đều theo không gian.
Bình quân toàn lãnh thổ lượng mưa năm là
1.944mm. Tuy nhiên, có những nơi lượng
mưa này đạt 8.000mm như ở Bạch Mã, trong
lúc chỉ có 700mm ở Phan Rang,400mm ở
Phan Rí.
•Hàng năm lượng nước trong khoảng ba
tháng mùa lũ chiếm 75 - 85% tổng lượng
nước trong năm. Trong mùa khô, kéo dài
từ 5 đến 6 tháng, lượng dòng chảy trên
rất nhiều con sông chỉ vào cỡ 15 - 20 %
tổng lượng dòng chảy năm.
Khó khăn thứ ba: có nhiều thiên tai nghiêm
trọng gắn liền với nước.
•Lũ lụt : Theo tài liệu ghi chép của các cơ
quan quản lý nước thì trong thế kỷ 19, chỉ
riêng ở đồng bằng sông Hồng đã có khoảng
30 năm lụt rất lớn, trong đó 26 năm đê tả
ngạn sông Hồng bị vỡ, 18 năm đê hữu ngạn
bị vỡ. Mỗi lần vỡ đê gây thiệt hại cho hàng
chục vạn ha mùa màng, cuốn trôi hàng ngàn
làng xóm với hàng ngàn sinh mệnh người và
rất nhiều gia súc, huỷ hoại nhiều công trình
công ích, gây bệnh tật trên nhiều vùng.
Hình ảnh về lũ lụt ở một số vùng
•Ở Huế năm 1999
•Ở Hội An năm 2001
•Lũ ở Đồng Tháp năm 2000
•Hạn hán : là thiên tai gây tác hại hết sức lớn,
trên diện rộng cho sản xuất nông, công
nghiệp và sinh hoạt của nhân dân vào mùa
khô trên khắp cả nước.
•Trong những năm gần đây, ở Tây Nguyên đã
liên tiếp có 6 năm bị hạn: 1994, 1995, 1996,
1997, 1998 và 2003. Đặc biệt năm 1998 diện
tích cây công nghiệp, cây ăn quả bị hạn là
111.000 ha, bị chết 19.300 ha, riêng cà phê bị
hạn là 74.400 ha, bị chết là 13.800 ha và hơn
770.000 người thiếu nước sinh hoạt.
Hình ảnh về khô hạn ở một số vùng
•Khô hạn ở Ninh Thuận
•Vùng đồng bằng sông Cữu Long 4/2005
•Khô hạn ở Tây Nguyên 2005
Khô hạn - thiếu nước trầm trọng vào mùa khô.
Nguyên nhân:
•Chế độ nước phân bố không đồng đều.
•Các công trình thuỷ lợi không đảm bảo
được chất lượng và qui mô nhỏ.
•Việc tiêu dùng nước không hợp lý.
• Các hoạt động khai thác nước quá mức,
chặt phá rừng bừa bãi, canh tác không
hợp lý.
Khó khăn thứ tư: chất lượng nước đang
giảm sút tại nhiều nơi.
•Mức độ ô nhiễm nước ở một số khu công
nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp tập
trung, làng nghề đã rất cao.
•ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và nhiều đô thị
lớn và vừa, các khu công nghiệp mới và cũ
nước thải sinh hoạt vẫn còn lẫn lộn với nước
thải công nghiệp không qua xử lý tập trung
mà trực tiếp thải ra các nguồn tiếp nhận là
các sông, hồ, kênh, mương lộ thiên đi qua
các khu dân cư và sản xuất.
•Ô nhiễm nước ở nông thôn và các khu vực
sản xuất nông nghiệp cũng rất nghiêm
trọng. Phần lớn chất thải của con người và
gia súc không được xử lý, bị rửa trôi theo
dòng chảy mặt, và thấm xuống đất, làm cho
nguồn nước mặt cũng như nước ngầm bị ô
nhiễm về mặt hữu cơ và vi sinh. Môi
trường nước nông thôn còn bị ô nhiễm do
sử dụng không hợp lý và đúng quy cách các
hoá chất nông nghiệp.
Nguyên nhân dẩn đến tình trạng ô nhiễm
nguồn nước mặt
Nhận thức của người dân về vấn đề môi
trường còn chưa cao.
Các quy định về quản lý và bảo vệ môi trường
nước còn thiếu (chẳng hạn như chưa có các
quy định và quy trình kỹ thuật phục vụ cho
công tác quản lý và bảo vệ nguồn nước).
Sự gia tăng dân số, mặt trái của quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, cơ sở hạ tầng yếu
kém, lạc hậu.
Đội ngũ cán bộ quản lý môi trường nước
còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng.
Đáng chú ý là sự bất cập trong hoạt động
quản lý, bảo vệ môi trường.
Ngân sách đầu tư cho bảo vệ môi trường
nước còn rất thấp (một số nước ASEAN đã
đầu tư ngân sách cho bảo vệ môi trường là
1% GDP, còn ở Việt Nam mới chỉ đạt
0,1%).
Hình ảnh về ô nhiễm nước
•Ô nhiễm nước do nước thải sinh hoạt
•Ô nhiễm nước kênh rạch ở Thành phố Hồ Chí
Minh
•Cá chết do ô nhiễm nước ở Thanh Trì – Hà
Nội
Khó khăn thứ năm: yêu cầu về nước đang
tăng nhanh.
•So sánh với năm 2000 tổng lượng nước sử
dụng trong năm 2010 sẽ tăng 14 %; năm 2020
là 25 % và năm 2030 là 38 %.
•Tỷ lệ dân số được sử dụng nước sạch hiện nay
là 80 %, dự kiến đạt 95 % năm 2010, nhu cầu
nước cho sinh hoạt phải tăng theo. Dự báo
đến năm 2030 lượng nước sử dụng sẽ có thể
lên tới gần 90 tỷ m
3
/năm, tức bằng khoảng 11
% tổng tài nguyên nước.
III.Những thách thức đối với nguồn tài
nguyên nước mặt Việt Nam
1. Tình trạng thiếu nước sử dụng cho sinh hoạt
và sản xuất
• Ở nước ta, nguồn nước phân bố không đều
giữa các vùng. Do đó, mức bảo đảm nước
hiện nay của một số hệ thống sông khá nhỏ:
5000 m
3
/người đối với các hệ thống sông
Hồng, Thái Bình, Mã và chỉ đạt 2980
m
3
/người ở hệ thống sông Đồng Nai.
•Nguồn nước sông tự nhiên trong mùa cạn
lại khá nhỏ chỉ chiếm khoảng 10 - 40% tổng
lượng nước toàn năm, thậm chí bị cạn kiệt
và ô nhiễm, nên mức bảo đảm nước trong
mùa cạn nhỏ hơn nhiều so với mức bảo đảm
nước trung bình toàn năm.
2. Nhu cầu dùng nước tăng lên mạnh mẽ
•Do sự phát triển kinh tế xã hội và sự gia tăng
dân số, nhu cầu dùng nước cho sinh hoạt,
sản xuất công nông nghiệp sẽ tăng lên mạnh
mẽ trong tất cả các vùng.
•Theo kết quả đánh giá năm 1999, tổng lượng
nước cần dùng của cả nước chiếm khoảng
8,8% tổng lượng dòng chảy năm, tăng lên tới
12,5% vào năm 2000 và 16,5% vào khoảng
năm 2010.
•Tổng lượng nước dùng để tưới cho cây
trồng khá lớn, từ 41 km
3
(chiếm 89,8%)
năm 1985, tăng lên 46,9 km
3
(năm 1990)
và 60 km
3
năm 2000 (chiếm 85%). Lượng
nước cần dùng trong mùa cạn rất lớn,
nhất là lượng nước dùng cho nông
nghiệp.
3. Cạn kiệt và ô nhiễm nguồn nước
•Sự gia tăng dân số những hoạt động tự
phát, không có quy hoạch của con người
như chặt phá rừng bừa bãi, canh tác nông
lâm nghiệp không hợp lý và thải chất thải
bừa bãi vào các thuỷ vực... đã và sẽ gây nên
những hậu quả rất nghiêm trọng, làm cho
nguồn nước bị cạn kiệt, bị ô nhiễm, hạn hán
có khả năng càng khốc liệt. Nguy cơ thiếu
nước sạch càng trầm trọng, nhất là vào mùa
cạn ở các vùng mưa ít.
4. Bị tác động của biến đồi khí hậu toàn cầu
Sự biến đổi của khí hậu toàn cầu đã, đang và
sẽ tác động mạnh mẽ đến tài nguyên nước.
Theo đánh giá bước đầu, vào khoảng năm
2070, nếu nhiệt độ không khí tăng thêm 2,5
0
C
và lượng mưa giảm 10% thì dòng chảy năm
có thể giảm 17 - 53% và nếu nhiệt độ không
khí tăng 4,5
0
C thì giảm 26 - 90% Mức độ
biến đổi mạnh nhất xảy ra ở Nam Trung Bộ
và Đông Nam Bộ.
Những thách thức trong công tác quản lý
•Tăng cường khung thể chế và chính sách
cho các hoạt động quản lý tài nguyên
nước.
•Mở rộng và đa dạng hoá đầu tư cho cơ sở
hạ tầng.
•Tăng cường công tác tuân thủ và cưỡng
chế
•Thu hút sự tham gia của người dân ngày
càng nhiều hơn.