TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - mon hoc

k50davlexuantu 20 views 37 slides Jan 10, 2025
Slide 1
Slide 1 of 37
Slide 1
1
Slide 2
2
Slide 3
3
Slide 4
4
Slide 5
5
Slide 6
6
Slide 7
7
Slide 8
8
Slide 9
9
Slide 10
10
Slide 11
11
Slide 12
12
Slide 13
13
Slide 14
14
Slide 15
15
Slide 16
16
Slide 17
17
Slide 18
18
Slide 19
19
Slide 20
20
Slide 21
21
Slide 22
22
Slide 23
23
Slide 24
24
Slide 25
25
Slide 26
26
Slide 27
27
Slide 28
28
Slide 29
29
Slide 30
30
Slide 31
31
Slide 32
32
Slide 33
33
Slide 34
34
Slide 35
35
Slide 36
36
Slide 37
37

About This Presentation

TTVTTTC


Slide Content

TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
1. Sự tất yếu khách quan ra đời của Thị trường Tài chính
Thị trường Tài chính là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế thị trường, sự xuất hiện
và tồn tại của thị trường này xuất phát từ yêu cầu khách quan của việc giải quyết
mâu thuẫn giữa nhu cầu và khả năng cung ứng vốn lớn trong nền kinh tế phát triển.
Trong nền kinh tế luôn tồn tại hai trạng thái trái ngược nhau giữa một bên là nhu
cầu và một bên là khả năng về vốn. Mâu thuẫn này ban đầu được giải quyết thông
qua hoạt động của ngân hàng với vai trò trung gian trong quan hệ vay mượn giữa
người có vốn và người cần vốn. Khi kinh tế hàng hóa phát triển cao, nhiều hình
thức huy động vốn mới linh hoạt hơn nảy sinh và phát triển, góp phần tốt hơn vào
việc giải quyết cân đối giữa cung và cầu về các nguồn lực Tài chính trong xã hội,
làm xuất hiện các công cụ huy động vốn như trái phiếu, cố phiếu của các doanh
nghiệp, trái phiếu của chính phủ...
Đó là những loại giấy tờ có giá trị, gọi chung là các loại chứng khoán. Và từ đó
xuất hiện nhu cầu mua bán, chuyển nhượng giữa các chủ sở hữu khác nhau các loại
chứng khoán. Điều này làm xuất hiện một loại thị trường để cân đối cung cầu về
vốn trong nền kinh tế, đó là thị trường Tài chính.
Do đó, Cơ sở khách quan cho sự ra đời của thị trường Tài chính là sự giải quyết
mâu thuẫn giữa cung và cầu về vốn trong nền kinh tế thông qua các công cụ Tài
chính đặc biệt là các loại chứng khoán, làm nảy sinh nhu cầu mua bán, chuyến
nhượng chứng khoán giữa các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế.
Chính sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa và tiền tệ mà đỉnh cao của nó là kinh
tế thị trường làm nảy sinh một loại thị trường mới là thị trường Tài chính.

2. Khái niệm, hàng hóa, ảnh hưởng và các yếu tố của thị trường Tài chính
Khái niệm thị trường Tài chính.
Thị trường Tài chính là thị trường trong đó các loại vốn ngắn hạn, trung hạn, dài
hạn được chuyển từ nơi “thừa” sang nơi “thiếu” để đáp ứng nhu cầu phát triển nền
kinh tế xã hội, là nơi gặp gỡ giữa những bền có nguồn vốn dư thừa với những bên
có nhu cầu sử dụng chúng.
Hàng hóa của thị trường Tài chính:
Thị trường tài chính là nơi mua bán các loại hàng hóa “tài chính”. Hàng hóa “tài
chính” phần lớn là tài sản vô hình, giá trị của hàng hóa này không liên quan gì đến
hình thức vật chất của nó, mà dựa vào trái quyền họp pháp trên một lợi ích trong
tương lai. Hàng hóa của thị trường tài chính phần lớn là những loại hình thay thế
tiền mặt. Người ta thường dùng tiền mặt đế mua, cho vay các loại hàng hóa này vì
nó tạo ra lợi nhuận mà tiền mặt không làm được. Khi thị trường Tài chính phát
triển, người ta có thể dễ dàng đổi các loại hàng hóa này thành tiền. Nói cách khác:
Hàng hóa của thị trường Tài chính là các loại tài sản Tài chính, vốn Tài chính và
các sản phẩm Tài chính, hay các công cụ biểu thị vốn phái sinh theo từng phương
thức giao dịch trèn thị trường này.
Một hệ thống thị trường Tài chính hiệu quả nhằm giải quyết các mục tiêu: cung
ứng đủ và kịp thời vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn cho nền kinh tế; cung cấp
các dịch vụ Tài chính để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của nền kinh tế;
cung ứng điều tiết hợp lý khối lượng tiền tệ cho lưu thông kinh tế; sử dụng công cụ
tiền tệ, lãi suất để kích thích nền kinh tế phát triển.
Ảnh hưởng của thị trường Tài chính:

Đối với nhân dân: Thị trường Tài chính là thị trường để đầu tư tiền tệ vào
các loại tài sản Tài chính có lãi, và còn giúp cho dân chúng vay mượn để
thỏa mãn nhu cầu chi tiêu trước khi tích lũy đủ tiền như: mua, sửa chữa nhà
ở, mua sắm tài sản lớn...
Đối với xã hội: Thị trường Tài chính là thị trường huy động mọi tiềm lực Tài
chính và các nguồn lực khác đế phục vụ một cách ích lợi cho sự phát triển
kinh tế.
Đối với các nhà sản xuất kinh doanh: Thị trường Tài chính là thị trường để
vay vốn, vay Tài chính và các sản phẩm khi cần, nhằm phục vụ cho những
thiếu hụt bất thường xẩy ra trong hoạt động kinh doanh, đầu tư sinh lợi....
Tuy nhiên để tạo lập một môi trường sôi động của thị trường Tài chính trên thực tế,
là một sự kết hợp của nhiều yếu tố, trong đó có ba yếu tố cơ bản:
Các yếu tố của thị trường Tài chính:
Yếu tố thứ nhất: Đối tượng của thị trường Tài chính: là những nguồn cung
và nguồn cầu về vốn trong xã hội của các chủ thể kinh tế như nhà nước, các
doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và các tầng lớp dân cư.
Yếu tố thứ hai: Công cự tham gia trẽn thị trường Tài chính: đây là nguồn
sông cho hoạt động của thị trường bao gồm các loại chứng từ có giá trị như
công trái do nhà nước phát hành, chứng khoán do các doanh nghiệp phát
hành, các loại trái phiếu do các tổ chức Tài chính phát hành, các dạng kỳ
phiếu, tín phiếu,...
Yếu tố thứ ba: Chủ thể tham gia trên thị trường Tài chính: Đây là những
pháp nhân hay thê nhân đại diện cho những nguồn cung và cầu về vốn nhàn
rỗi tham gia trên thị trường Tài chính, chủ yếu là các ngân hàng thương mại,
công ty Tài chính, công ty bảo hiếm, quỹ đầu tư... và đặc biệt là các công ty
môi giới

3. Điều kiện cần thiết hình thành Thị trường Tài chính
Có năm điều kiện cần thiết để hình thành và phát triển thị trường Tài chính:
Nền kinh tế hàng hóa phát triển, tiền tệ ổn định, với mức độ lạm phát có thể
kiếm soát được;
Các công cụ của thị trường Tài chính phải đa dạng tạo ra các phương tiện
chuyển giao quyền sử dụng các nguồn Tài chính; hình thành và phát triển hệ
thống các trung gian Tài chính;
Xây dựng, hoàn thiện hệ thông pháp luật và tổ chức quản lý nhà nước để
giám sát sự hoạt động của thị trường Tài chính;
Phải tạo cơ sở vật chất kỹ thuật và hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho
hoạt động của thị trường Tài chính;
Cần có đội ngũ các nhà kinh doanh, các nhà quản lý am hiểu thị trường Tài
chính và phải có đông đảo các nhà đầu tư có kiến thức, kỹ thuật hiện đại,
biết phân tích và có bản lĩnh trước những rủi ro có thể xảy ra.
4. Công cụ chủ yếu trên thị trường Tài chính
Để chuyển giao quyền sử dụng các nguồn Tài chính, các công cụ chủ yếu được sử
dụng trên thị trường Tài chính là các loại chứng khoán. Chứng khoán là chứng từ
dưới dạng giấy tờ hoặc ghi trên hệ thống thiết bị điện tử, xác nhận các quyền hợp
pháp của người sở hữu chứng từ đó đối với người phát hành; hoặc chứng khoán là
chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận các quyền và lợi ích hợp pháp của người
sở hừu chứng từ đó đối với người phát hành.
Chứng khoán có nhiều loại khác nhau; có thể phân loại chứng khoán dựa theo các
tiêu thức khác nhau:
Phân loại chứng khoán:

Căn cứ vào kỳ hạn huy động:
Chứng khoán ngắn hạn, có thời hạn dưới 1 năm;
Chứng khoán trung và dài hạn. Trung hạn từ 1 đến 5 năm, dài hạn là trên 5
năm.
Căn cứ vào chủ thể phát hành:
Chứng khoán Chính phủ Trung ương và địa phương;
Chứng khoán của các ngân hàng và tố chức tín dụng;
Chứng khoán doanh nghiệp.
Căn cứ vào lợi tức:
Chứng khoán có lợi tức ổn định;
Chứng khoán có lợi tức không ổn định.
Căn cứ vào tiêu chuẩn pháp lý:
Chứng khoán vô danh;
Chứng khoán hữu danh.
Căn cứ vào tính chất chứng khoản:
Cổ phiếu (chứng khoán vốn);
Trái phiếu (chứng khoán nợ);
Chứng khoán phái sinh.
Căn cứ vào tính chất của người phát hành:
Chứng khoán sơ cấp;
Chứng khoán thứ cấp.
5. Cấu trúc, phân loại thị trường Tài chính

Căn cứ vào thời gian sử dụng nguồn Tài chính huy động được
Thị trường tiền tệ: Là một thị trường Tài chính chỉ có các công cụ ngắn hạn (kỳ
hạn thanh toán) dưới một năm.
Thị trường vốn: Là thị trường diễn ra việc mua bán các công cụ nợ dài hạn như cổ
phiếu, trái phiếu. Thị trường vốn được phân thành ba bộ phận là thị trường cô
phiếu, các khoản cho vay thế chấp và trái phiếu.
Hình 1: Thị trường Tài chính phân theo thời gian sử dụng nguồn vốn huy
động được
Căn cứ theo phương thức huy động nguồn Tài chính:
Thị trường tài chính bao gồm:

Thị trường nợ: Phương pháp chung nhất mà các công ty sử dụng để vay vốn
trên thị trường Tài chính là đưa ra một còng cụ vay nợ, ví dụ như trái phiếu
hay một món vay thế chấp. Công cụ vay nợ là sự thỏa thuận có tính chất hợp
đồng có lãi suất cố định và hoàn trả tiền vốn vào cuối kỳ hạn (kỳ hạn dưới
một năm là ngắn hạn, trên một năm là trung và dài hạn). Thị trường nợ là thị
trường diễn ra việc mua bán các công cụ nợ kể trên;
Thị trường vốn cổ phần: Phương pháp thứ hai để thu hút vốn là các công ty
phát hành cổ phiếu. Người nắm giữ cố phiếu sở hữu một phần tài sản của
công ty có quyền được chia lợi nhuận ròng từ công ty sau khi trừ chi phí,
thuế và thanh toán cho chủ nợ (những người sở hữu công cụ nợ).
Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn Tài chính: Thị trường tài chính có thể
chia làm hai loại sau đây:
Thị trường sơ cấp: Là thị trường Tài chính trong đó diễn ra việc mua bán
chứng khoán đang phát hành hay chứng khoán mới. Việc mua bán chứng
khoán trên thị trường cấp một thường được tiến hành thông qua trung gian là
các ngân hàng;
Thị trường thứ cấp: Là thị trường mua bán lại những chứng khoán đă phát
hành. Khi diễn ra hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường này, thì
người vừa bán chứng khoán nhận được tiền bán chứng khoán còn công ty
phát hành không thu được tiền nừa, (một công ty thu được vốn chỉ khi chứng
khoán của nó được bán lần đầu tiên trên thị trường sơ cấp).
Căn cứ vào tính chất pháp lý: Thị trường tài chính có thể chia làm hai loại sau
đây:
Thị trường Tài chính chính thức: Là bộ phận của thị trường Tài chính, mà tại
đó mọi hoạt động huy động, cung ứng, giao dịch các nguồn Tài chính được
thực hiện theo những nguyên tắc, thế chế do nhà nước quy định rõ ràng

trong các văn bản pháp luật. Các chủ thể tham gia được pháp luật thừa nhận
và bảo vệ;
Thị trường Tài chính không chính thức: Là thị trường Tài chính, mà ở đó
mọi hoạt động huy động, cung ứng, giao dịch các nguồn Tài chính và người
cần nguồn Tài chính không theo những nguyên tắc, thể chế do nhà nước quy
định
6. Chức năng của thị trường Tài chính
Trong nền kinh tế thị trường, thị trường Tài chính không chỉ là nơi gặp gỡ của
những nguồn cung cầu hàng hóa mà còn là nơi giao lưu giữa những nguồn cung
cầu về vốn. Thị trường Tài chính thực hiện việc dẫn vốn từ những người đã để
dành nhiều vốn tới những người thiếu vốn, chức năng này được trình bày ở dạng
sơ đồ dưới đây:

Hình 2: Những dòng vốn đi qua thị trường Tài chính
Trong sơ đồ trên, dòng vốn đi từ người cho vay sang người vay thông qua hai con
đường:
Thứ nhất, là con đường trực tiếp (con đường ở phía dưới Hình, bên vay vốn
mua trực tiếp những công cụ Tài chính (financial instruments) từ bên bán
trên thị trường Tài chính.
Việc dẫn vốn từ người cho vay đến người vay rất quan trọng đối với nền kinh tế, vì
không phải người nào có tiền cũng có sẵn cơ hội đầu tư sinh lợi, ngược lại những
người thiếu vốn không phải lúc nào cũng gặp những người thừa vốn để vay. Nếu
không có thị trường tài chính, có thể họ chẳng bao giờ gặp nhau và cả hai sẽ không
có cơ hội để đầu tư và phát triển.

Thứ hai, con đường gián tiếp (con đường ở phía trên Hình nghĩa là, bên đi
vay vốn không mua trực tiếp các công cụ Tài chính của bên bán mà mua
gián tiếp thông qua các tổ chức trung gian (các ngân hàng thương mại; các tố
chức nhận gửi tiết kiệm theo hợp đồng; những trung gian đầu tư).
Chức năng của thị trường tài chính là:
Cho phép vốn chuyển từ những người, những doanh nghiệp không có cơ hội
đầu tư tới những người, những doanh nghiệp có cơ hội đầu tư.
Cung cấp vốn cho các cá nhân và doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán
trả mà không phải chờ đợi một thời gian tích lũy.
Là một hoạt động hữu hiệu để cải thiện đời sống kinh tế của mỗi thành viên
trong xã hội.
Nâng cao năng suất và hiệu quả sử dụng vốn của toàn bộ nền kinh tế.
7. Hình thức kết nối giữa cung và cầu về vốn trong thị trường Tài chính
Hình thức giản đơn, truyền thống: Và cũng tồn tại lâu đời là những quan hệ vay
mượn trực tiếp giữa các tầng lớp dân cư (hụi, họ) hoặc quan hệ tín dụng thương
mại giữa các doanh nghiệp. Song với hình thức này quy mô vốn không lớn và
phạm vi điều tiết vốn không rộng, vì chủ yếu chỉ diễn ra trên cơ sở quen biết và tín
nhiệm giữa hai chủ thề trong quan hệ tín dụng.
Hình thức thứ hai thông qua các tổ chức tài chính trung gian: Đó là sự ra đời và
phát triển của các tổ chức Tài chính trung gian như ngân hàng thương mại, các tổ
chức tín dụng, các công ty Tài chính. Hoạt động của các tố chức này thật sự là nhịp
cầu giao lưu giữa cung và cầu vốn vì chúng vừa là người đi vay vừa là người cho
vay. Cùng với sự phát triển kinh tế, các ngân hàng đã mở rộng quy mô hoạt động
với số lượng chi nhánh ngày càng tăng và trở thành trung tâm tín dụng quan trọng
của nền kinh tế.

Hình thức thứ ba giao dịch các chứng từ có giá thông qua thị trường Tài chính:
Được phát triển khi chủ thể đại diện cho nhu cầu vốn đầu tư không mucúi thông
qua các tổ chức Tài chính trung gian, mà họ sẽ chủ động tim kiếm nguồn vốn đầu
tư bổ sung bằng cách phát hành các chứng từ có giá. Phát triển sớm nhất là những
Trái phiếu Chính phủ phát hành để huy động vốn nhằm thỏa mãn nhu cầu chi, và
sau này khi các nhà doanh nghiệp cần tập trung vốn đầu tư thì các loại cổ phiếu,
trái phiếu doanh nghiệp ra đời ngày càng phổ biến trong nền kinh tế.
Trên thực tế một thị trường giao dịch các loại chứng từ có giá đã hình thành và
phát triển ngày càng mạnh mẽ như là một loại hàng hóa, trong đó thị trường các
chứng từ có giá được xem là hình thức phát triển cao của thị trường Tài chính, và
là sản phẩm đặc trưng nhất của nền kinh tế thị trường.
8. Vai trò của thị trường Tài chính
Với hai bộ phận cấu thành chủ yếu là thị trường tiền tệ và thị trường vốn, thị
trường Tài chính có các vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường như sau:
Thứ nhất: Thị trường Tài chính là trung tâm điều tiết cung nguồn vốn tiền tệ từ
nơi thừa đến nơi thiếu: thể hiện vai trò này thị trường Tài chính là nơi đáp ứng nhu
cầu vốn đầu tư, là nơi dừng của những nguồn vốn nhàn rỗi. Nói cách khác, thị
trường Tài chính đã tạo ra môi trường thuận lợi để dung hòa các lợi ích kinh tế
khác nhau: người đi vay có điều kiện thu hút được vốn và người cho vay có thể
sinh lời cho lượng tiền tiết kiệm. Mặt khác, cùng với xu hướng quốc tế hóa hoạt
động của thị trường nên thị trường Tài chính ngày nay không chỉ dừng lại ở phạm
vi điều tiết vôứi trong nước, mà còn tham gia vào sự vận động vốn với nước ngoài.
Từ đó quy mô hoạt động của thị trường Tài chính được mở rộng về phạm vi hoạt
động, đa dạng về các nghiệp vụ hoạt động và phong phú với các chú thể tham gia.

Thứ hai: Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển nhượng sở hữu vốn, từ đó
góp phần tăng thèm sự mời gọi đối với giới đầu tư, bởi lẽ người ta cảm thấy không
bị bó buộc trong một phạm vi may rủi hạn hẹp, mà có thể dễ dàng chuyển vốn đầu
tư trên thị trường Tài chính so với những hình thức đầu tư khác, không chỉ khai
thác đầu tư trong nước mà còn đầu tư nước ngoài và ngược lại.
Thứ ba: Điều tiết vĩ mô của nhà nước đối với quá trình điều hòa cung cầu về tiền
tệ và ngăn chặn lạm phát. Trên cơ sở thu hút những nguồn vốn nhàn rỗi trong xã
hội vào những mục tiêu đầu tư ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, sự hoạt động của thị
trường Tài chính đã giảm khối lượng tiền dư thừa trong lưu thông đồng thời góp
phần tăng vòng quay đồng vốn. Bên cạnh đó, ngân hàng Trung ương còn thông qua
thị trường Tài chính đặc biệt là thị trường tiền tệ, để vận dụng linh hoạt những
công cụ điều tiết vĩ mô như lãi suất thị trường, lãi suất tái chiết khấu, nghiệp vụ thị
trường mở... để thực thi chính sách tiền tệ nhằm mục đích kiếm soát lạm phát và ổn
định tiền tệ. Như vậy, với vai trò này, thị trường Tài chính đã tạo khả năng thuận
lợi cho ngân hàng Trung ương điều chỉnh và giám sát số cung về tiền tệ, tín dụng
trong điều kiện nền kinh tế mở, ngăn chặn sự đe dọa của lạm phát cao.
Bài 2: Thị trường tiền tệ
1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại thị trường tiền tệ
1.1 Khái niệm
Thị trường tiền tệ là một thị trường Tài chính, trong đó đối tượng giao dịch, mua
bán, trao đổi trên thị trường là các khoản vốn ngắn hạn hay nói cách khác là nguồn
Tài chính cỏ thời hạn sử dụng kỳ hạn thanh toán dưới một năm, Các công cụ của

thị trường tiền tệ bao gồm tín phiếu kho bạc, các loại thương phiếu, kỳ phiếu,
chứng chỉ tiền gởi, kỳ phiếu ngân hàng, các khế ước cho vay
1.2 Đặc điểm của thị trường tiền tệ
Thị trường tiền tệ là thị trường phi tập trung tại các phòng kinh doanh của các ngân
hàng và các công cụ kinh doanh đầu tư chuyên nghiệp thông qua mạng lưới điện
thoại, internet rộng lớn. Các nghiệp vụ trên thị trường tiền tệ là nghiệp vụ chuyến
giao vốn có khả năng thanh toán cao
Chứng khoán của thị trường tiền tệ thường được mua bán rộng rãi hơn so với
chứng khoán dài hạn và như vậy có xu hướng thanh khoản hơn. Hay nói cách khác,
hàng hóa mua bán trên thị trường tiền tệ có tính thanh khoản rất cao.
Chứng khoán ngắn hạn có giá trị dao động nhỏ hơn so với các chứng khoán dài
hạn, do vậy chúng là những khoản đầu tư ít xảy ra rủi ro đối với người đầu tư, an
toàn hơn.
Chủ thể của thị trường tiền tệ là: Các ngân hàng thương mại tham gia mua bán chủ
yếu trên thị trường này. Khi ngân hàng nhận tiền gửi của khách hàng, nó phát hành
ra các loại phiếu nợ như: sổ tiền gửi có kỳ hạn, chứng chỉ tiền gửi, hoặc nó vay tiền
bằng cách bán ra trái phiếu... Quá trình như vậy làm xuất hiện các hàng hóa, dễ
dàng cho việc mua bán, thanh toán, chuyển dịch hoặc cất trữ để sinh lời.
1.3 Phân loại thị trường tiền tệ
Thị trường tiền tệ bao gồm các thị trường:
Thị trường cho vay ngắn hạn của các định chế Tài chính trung gian: Thị
trường cho vay, tài trợ, bảo lãnh, mua bán các loại chứng từ có giá ngắn hạn.
Thị trường liên ngân hàng: Thị trường cho vay ngắn hạn giữa các ngân hàng.

Thị trường các công cụ nợ ngắn hạn: Thị trường diễn ra các hoạt động mua
bán, cho vay, bảo lãnh, và các giao dịch khác các công cụ nợ ngắn hạn, như
tín phiếu kho bạc, kỳ phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi...
2. Các công cụ của thị trường tiền tệ
2.1 Tín phiếu kho bạc
Tín phiếu kho bạc là loại chứng nhận nợ ngắn hạn của chính phủ do Kho bạc nhà
nước phát hành, nhằm bù đắp thiếu hụt tạm thời của NSNN và tạo thêm công cụ
cho TTTT. Mục đích của việc phát hành các chứng từ cho ta biết thế nào là thâm
hụt tạm thời của NSNN, tạo thêm công cụ cho TTTT
Tín phiếu kho bạc được phát hành dưới hình thức chiết khấu: tín phiếu kho bạc
không trả lãi và được bán ở mức chiết khấu so với mệnh giá, và được kho bạc
chuộc lại với đầy đủ mệnh giá khi đến hạn
Thời hạn của tín phiếu kho bạc thường ngắn có thề ba tháng, sáu tháng, một năm
Khi bán với mức chiết khấu thì chúng ta sẽ xác định được:
Giá tín phiếu kho bạc, việc xác định giá tín phiếu kho bạc tùy thuộc đó là thị
trường sơ cấp, hay thị trường thứ cấp
Lợi suất đầu tư Tín phiếu cho biết khi đầu tư Tín phiếu đem lại lợi nhuận là
bao nhiêu?
Giá bán lại Tín phiếu theo thời gian
Giá bán từ khi mua tới khi bán
Hình thức mua bán Tín phiếu:

Tín phiếu kho bạc có thể phát hành tới tận tay nhà đầu tư hoặc hình thức phổ
biến là kho bạc bán luôn cho NHTW, sau đó NHTW bán lại cho nhà đầu tư
mà chủ yếu là bán cho các NHTM
Tín phiếu kho bạc là một trong những hàng hóa chiếm tỷ trọng lớn trên thị
trường tiền tệ vì nó có độ tin cậy cao và độ thanh khoản cao
2.2 Tín phiếu NHTW
Là loại công cụ nợ do NHTW phát hành với mục đích là hút tiền về nhằm thắt chặt
chính sách tiền tệ do lạm phát cao.
2.3 Chứng chỉ tiền gửi
Là loại công cụ nợ do NHTM phát hành để huy động vốn cam kết trả lãi định kỳ
cho khoản tiền gửi và sẽ. hoàn trả vốn gốc cho người gửi tiền đến ngày đáo hạn
2.4 Chấp nhận của Ngân hàng
Chấp nhận của NH là giấy đảm bảo rằng NH sè thanh toán vô điều kiện số tiền mà
người nhập khẩu còn thiếu đối với người xuất khẩu vào một ngày nào đó xác định
trong tương lai
Chấp nhận của NH thường được sử dụng trong giac dịch thương mại quốc tế, thực
ra đây chính là hôi phiếu phát sinh trong quan hệ mua bán trả chậm giữa các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu được NH chấp nhận thanh toán NHTM thay mặt nhà nhập
khẩu chấp nhận hối phiếu do nhà xuất khẩu ký phát bằng cách đóng dấu
2.5 Thương phiếu
Thương phiếu là loại giây nhận nợ xác định quyền đòi nợ của chủ sở hữu thương
phiếu và nghĩa vụ phải hoàn trả của người mua khi đến hạn

Đặc điểm của thương phiếu:
Có tính trừu tượng
Có tính lưu thông: Thương phiếu có thể chuyển nhượng từ người này sang
người khác
Các loại thương phiếu:
Căn cứ vào chủ thế lập thương phiếu có hai loại:
Hối phiếu: Là thương phiếu do chủ nợ lập đế ra lệnh cho người thiếu nợ trả
một số tiền nhất định cho người hưởng thụ khi món nợ đáo hạn
Lệnh phiếu: Là thương phiếu do người thiếu nợ lập để cam kết trả một món
tiền nhất định cho chủ nợ khi đến hạn
Theo hình thức có hai loại thương phiếu: Thương phiếu vô danh và thương phiếu
ký danh
Vai trò của thương phiếu:
Đối với người đầu tư thương phiếu có độ rủi ro thấp, thời hạn thanh toán ngắn nên
dùng để thay thế cho các công cụ trên thị trường tiền tệ
Đối với người kinh doanh thương phiếu việc mua bán thương phiếu tiến hành qua
hai cách:
Trực tiếp: Người vay có thể bán trực tiếp cho người đầu tư
Gián tiếp: Mua bán qua các nhà kinh doanh thương phiếu bằng cách mua
thương phiếu từ người phát hành với mức lãi suất chiết khấu, sau đó bán lại
cho các chủ thể đang có vốn thặng dư ngắn hạn
Lợi ích đầu tư của thương phiếu:

Đối với người mua: thu được lợi nhuận (chênh lệch giữa giá mua và giá bón)
Đối với người đi vay: Lãi suất chiết khấu (lãi suất vay từ NH) có thể thu hút
nguồn vốn nhàn rỗi để’ đầu tư ngắn hạn, có đủ điều kiện để người đi vay có
thể tham gia hay rút khỏi thị trường mở.
2.6 Hợp đồng mua lại (REPO)
Là thỏa thuận giữa hai bên theo đó bên bán chứng khoán (CK) đồng ý mua lại
chứng khoán đã bán cho người mua theo một mức giá nhất định
Hợp đồng mua lại là khoản vay NH trong đó tín phiếu kho bạc và các giấy tờ có
giá ngắn hạn khác được dùng làm vật đảm bảo cho các khoản vay
REPO gồm hai giao dịch:
Bán CK kèm theo cam kết mua CK vào một thời điểm trong tương lai có thể
theo cùng một mức giá bằng một thời điểm nào đó trong tương lai, và người
bán cam kết trả cho người mua một mức lãi suất nhất định
Mua CK nhưng đưa ra điều kiện người bán phải mua lại CK trong tương lai,
người mua nhận lại tiền gốc cộng với tiền lãi nhất định tại một thời điểm nào
đó trong tương lai
Điều kiện để các công cụ lưu thông trên TTTT
Phát hành theo quy định chặt chẽ như khi có quy định của nhà nước, kho bạc
mới phát hành chứng chỉ tiền gửi, phát hành từng đợt
Các chứng từ có giá phải còn thời hạn thanh toán chưa đến kỳ đáo hạn, các
hàng hóa lưu thông trên TTTT có độ thanh toán cao, rủi ro thấp, chủ thể phát
hành chủ yếu là các chủ thể có độ tín nhiệm cao
3. Các nghiệp vụ trên thị trường tiền tệ

3.1 Nghiệp vụ vay và cho vay vốn ngắn hạn
Nghiệp vụ này diễn ra chủ yếu giữa các ngân hàng thương mại, xuất phát từ chỗ
hoạt động kinh doanh tiền tệ cũng như hoạt động của các doanh nghiệp khác, tại
một thời điểm nhất định, một sô' ngân hàng thương mại tạm thời thừa vốn trong
lúc một số ngân hàng thương mại khác rơi vào tình trạng thiếu vốn tạm thời. Từ
đó, để góp phần đảm bảo khả năng thanh toán và điều tiết vốn giữa các ngân hàng
thương mại, chúng được thực hiện thông qua những hình thức sau:
Cho vay bằng tiền: Nếu căn cứ vào nhu cầu và thời gian trên thị trường có thể gặp
các loại tín dụng sau:
Tín dụng hàng ngày (cho vay từ ngày hôm trước đến ngày hôm sau).
Tín dụng theo yêu cầu (cấp vô thời hạn) không quy định rõ thời hạn trả nợ
nhưng chủ nợ có thể xoá nợ bất cứ lúc nào.
Tín dụng cuối kỳ (cho vay vào thời điểm cuối tháng hay cuối năm).
Tín dụng có kỳ hạn (cho vay tùy theo thỏa thuận giữa đôi bên).
Cho vay dưới hình thức tái cấp vốn: Trong trường hợp cần thiết khi ngân hàng
thương mại vay vốn tại các ngân hàng thương mại khác nhưng không đủ thỏa mãn
nhu cầu, Ngân hàng Trung ương có thể thực hiện việc tái cấp vốn cho các ngân
hàng theo những hình thức sau đây:
Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng;
Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác;
Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá khác.
3.2 Nghiệp vụ mua bán giấy tờ có giả ngắn hạn

Trong nghiệp vụ này công cụ lưu thông chủ yếu là các trái phiếu ngắn hạn được
phát hành từ thị trường tiền tệ sơ cấp và sẽ được tổ chức mua bán tại thị trường tiền
tệ thứ cấp.
Nghiệp vụ mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn gắn với hoạt động mang tính thương
mại trên thị trường tiền tệ, phát sinh trong trường hợp một số chủ thể kinh tế cần
bổ sung vốn bằng tiền của họ, nên phát hành một lượng trái phiếu ngắn hạn ra thị
trường, trong khi một số chủ thể kinh tế khác đang muốn sinh lợi cho khoản vốn
nhàn rỗi của họ bằng con đường kinh doanh trên thị trường tiền tệ, họ sẽ mua các
trái phiếu ngắn hạn. Giá mua bán các giấy có giá trị ngắn hạn trên thị trường tiền tệ
cũng chịu tác động của quan hệ cung cầu, và được hình thành trong bối cảnh cạnh
tranh của hai luồng: luồng cung là sự cạnh tranh giữa những người bán đế bán
được với giá cao nhất, và luồng cầu là sự cạnh tranh giữa những người mua để mua
được với giá thấp nhất. Giá cao nhất và thấp nhất của các loại giấy có giá sẽ được
niêm yết tại thị trường.
Ngoài số lượng trái phiếu ngắn hạn được phát hành và giao dịch tại thị trường tiền
tệ, trong nghiệp vụ này người ta còn mua bán với nhau các loại giấy có giá khác
như kỳ phiếu thương mại, khế ước nợ, kỳ phiếu ngân hàng... Và đặc biệt phải kể
đến ngân hàng Trung ương với nghiệp vụ hoạt động trên thị trường mở. Đây là
nghiệp vụ mua bán chứng khoán ngắn hạn của Ngân hàng Trung ương, ở nghiệp
vụ này Ngân hàng Trung ương thường buộc các ngân hàng thương mại tham gia
mua bán lượng trái phiếu nhất định, qua đó sẽ đưa thêm tiền vào lưu thông bằng
việc bán trái phiếu. Nghiệp vụ trên thị trường mở đã trực tiếp tác động đến khả
năng cung ứng tín dụng của các ngân hàng thương mại, làm ảnh hưởng đến khối
tiền tệ trong nền kinh tế. Do đó, nghiệp vụ này xem như một trong những công cụ
quan trọng để Ngân hàng Trung ương điều tiết cung cầu về tiền tệ.

4. Hoạt động của thị trường tiền tệ ở Việt Nam trong nền kinh tế thị trường
Ở nước ta để phù hợp với việc thực hiện chức năng quản lý kinh tế vĩ mô của nhà
nước, thị trường Tài chính được nâng lên vị trí bao trùm với hai bộ phận cấu thành
là thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Cách phân loại này được dựa trên thời gian
vận động của vốn và đối tượng giao dịch trên thị trường. Theo mô hình này:
Thị trường tiền tệ hoạt động chủ yếu là cho vay vốn ngắn hạn, thị trường
tiền tệ ở Việt Nam bao gồm các thị trường:
Thị trường cho vay ngắn hạn của các định chế Tài chính trung gian gồm thị
trường tiền gửi và thị trường tín dụng.
Thị trường các công cụ nợ ngắn hạn gồm thị trường nội tệ, liên ngân hàng và
các thị trường các giấy tờ có giá ngắn hạn.
Thị trường hối đoái (Foreign exchange) với các hình thức tổ chức hẹp là thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng cho đến hình thức rộng là thị trường hối đoái.
Tuy nhiên, trên thực tế không phải quốc gia nào cũng tổ chức một thị trường hôi
đoái riêng biệt, mà thông thường các hoạt động về hối đoái được tiến hành chủ yếu
qua mạng lưới của hệ thống ngân hàng. Còn thị trường cho vay ngắn hạn của các
định chế Tài chính trung gian thì chịu sự chi phôi về lãi suất, cũng như quá trình
điều tiết cung - cầu từ thị trường liên ngân hàng. Do đó các công cụ nợ ngắn hạn
không chỉ là hình thức phát triển cao của thị trường tiền tệ mà trong đó thị trường
liên ngân hàng lại giữ vai trò là hạt nhân trung tâm.
Bài 3: Thị trường vốn
1. Khái niệm và phân loại thị trường vốn
1.1 Khái niệm

Thị trường vốn là một bộ phận của thị trường Tài chính trong đó có những công cụ
vay nợ trung và dài hạn trên một năm và các chứng khoán được mua bán.
Các chứng khoế thị trường vốn như cố phiếu, Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu
công ty, trái phiếu chính quyền địa phương, các hợp đồng vay thế chấp.
Những chứng khoán của thị trường vốn có tính thanh khoản kém hơn so với các
loại chứng khoán ngắn hạn và rủi ro lớn hơn so với chứng khoán ngắn hạn do giá
cả của chúng biến động nhiều
1.2 Phân loại thị trường vốn
Thị trường vốn bao gồm các thị trường:
Thị trường chứng khoán trung và dài hạn, theo nghĩa rộng thị trường chứng
khoán được gọi là thị trường vốn, trên thị trường đó giao dịch mua bán các
giấy tờ trung hạn, dài hạn có thời gian trên một năm .và các loại cố phiếu.
Thị trường thế chấp là thị trường cung cấp tín dụng dài hạn cho doanh
nghiệp với điều kiện phải có thế chấp.
Thị trường tín dụng thuê mua là thị trường cung cấp các tín dụng trung và
dài hạn cho các doanh nghiệp qua hình thức tài trợ cho thuê tài sản.
2. Các công cụ trên thị trường vốn
2.1 Cổ phiếu
Là giấy tờ chứng nhận về vốn đối với thu nhập ròng và tài sản của một công ty.
Người nắm giữ cổ phiếu sở hữu một phần tài sản của công ty, có quyền được chia
lợi nhuận ròng từ công ty sau khi trừ chi phỉ, thuế và thanh toán cho chủ nợ (những
người sở hữu công cụ nợ).

Tuy nhiên, theo luật công ty ở các nước vẫn quy định cổ phiếu của những thành
viên trong hội đồng quản trị của công ty, của những cố đông góp vổn bằng hiện vật
hoặc cổ phiếu được mưa bằng cách góp vốn nhiều lần sẽ phải là loại cổ phiếu ký
danh. Ngoài ra, đối với một số công ty của một dòng họ hay gia đình không muôn
có sự can thiệp bởi thế lực Tài chính khác, sẽ phát hành loại cố phiếu ký danh đế
nắm rõ được danh sách cụ thể của cố đông trong công ty.
2.2 Vay thế chấp
Là những khoản tiền cho các cá nhân hoặc Doanh nghiệp vay để mua nhà, đất,
hoặc những công trình xây dựng. Trong đó, các công trình và nhà đất được dùng
làm vật thế chấp cho khoản vay. Ngân hàng là những đơn vị cho vay hàng đầu
trong thị trường cho vay thế chấp nhà ở. Tuy nhiên, có một số tố chức tín dụng
khác cũng tham gia cung cấp dịch vụ này.
2.3 Trái phiếu công ty
Là loại trái phiếu dài hạn do các công ty phát hành. Trái phiếu công ty điển hình
mang lại cho người nắm giữ nó một khoản lãi nhất định mỗi năm và thanh toán hết
mệnh giá khi trái phiếu đến kỳ hạn thanh toán. Một số trái phiếu công ty được gọi
là trái phiếu chuyển đổi, do có đặc điểm phụ thêm là cho phép người giữ nó
chuyển đổi thành một số cổ phần nhất định. Đặc điểm này khiến các trái phiếu
chuyển đổi có thêm tính hấp dẫn đôi với những người mua tương lai hơn là những
trái phiếu không có khả năng chuyển đổi. Đồng thời, nó cho phép công ty giảm
tiền lãi thanh toán vì các trái phiếu này có thể tăng thêm giá trị nếu giá cố phiếu
của công ty phát hành tăng lên. Diễn biến cưa thị trường trái phiếu công ty có thể
quan trọng hơn nhiều đôi với các quyết định về Tài chính của một công ty, so với
diễn biến của thị trường cổ phiếu.

2.4 Trái phiếu Chính phủ và trái phiếu các cơ quan thuộc chính phủ
Những công cụ nợ dài hạn này do Kho bạc Nhà nước phát hành để huy động tiền
bù đắp những thiếu hụt của ngân sách chính phủ. Chúng là nhừng trái phiếu được
mua bán phổ biến, là chứng khoán có thanh khoản khá cao trên thị trường vốn.
Ngoài ra, còn có trái phiếu dài hạn do nhiều cơ quan thuộc chính phủ phát hành và
được chính phủ bảo đảm, do vậy chúng có đặc điểm khá giông Trái phiếu Chính
phủ.
2.5 Những khoản vay thương mại và vay tiêu dùng
Là những khoản vay dành cho người tiêu dùng và những công ty kinh doanh, chủ
yếu do ngân hàng cho vay. Bên cạnh đó, có nhiều trường hợp, các khoản vay của
ngươi tiêu dùng có thể do những công ty Tài chính cho vay và thường không có thị
trường cấp hai cho những khoản vay này.
3. Các công cụ trên thị trường vốn tại Việt Nam
Theo Luật Chứng khoán của Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam số
70/2006/QH11 ngày 29 tháng 6 năm 2006. Hiện nay trên thị trường vốn tại Việt
Nam, có hai loại công cụ chủ yếu hoạt động là cổ phiếu và trái phiếu.
3.1 Cổ phiếu
Theo Luật Chứng khoán Việt Nam năm 2006, cổ phiếu là một loại chứng khoán
xác nhận quyền sở hữu vốn góp vào công ty và quyền được hưởng một khoản cổ
tức theo định kỳ. cổ phiếu lưu hành trên thị trường có nhiều loại:
Phân loại cổ phiếu ở Việt Nam: Dựa vào các căn cứ sau đây:
Căn cứ vào hình thức, cổ phiếu có hai loại: cổ phiếu vô danh và cổ phiếu ký
danh.

Lúc mới ra đời cổ phiếu tồn tại dưới dạng ký danh có ghi tên người sở hữu
nó, sau này khi thị trường cố phiếu phát triển loại cổ phiếu ký danh gây trở
ngại cho việc lưu thông và chuyển nhượng cổ phiếu. Do đó, loại cổ phiếu vô
danh không ghi tên người sở hữu ra đời và ngày càng phổ biến.
Căn cứ vào quyền lợi được hưởng, cổ phiếu gồm hai loại phổ hiến: cổ phiếu
ưu đãi và cổ phiếu thường.
Cổ phiếu ưu đãi có mức cổ tức cố định và được ghi rõ trên cổ phiếu lúc phát
hành. Với cổ phiếu này thu nhập của cổ đông không phụ thuộc vào chính
sách chia lãi hàng năm của công ty. Tính ưu đãi của cổ phiếu ưu đãi còn
được biểu hiện ở một số điểm như: được chia cổ tức trước loại cổ phiếu
thường, trường hợp tài sẻn công ty bị thanh lý, phần tài sản còn lại sau khi
thanh toán hết các khoản nợ của công ty sẽ được hoàn vốn cho cổ đông giữ
cổ phiếu Ưu đãi. Loại cố phiếu ưu đãi còn được phát hành dưới nhiều hình
thức như: cổ phiếu ưu đãi có thể chuyển đổi thành cổ phiếu thường, cổ phiếu
ưu đãi có lãi cố phần gộp, cổ phiếu ưu đãi có thể bồi hoàn...
Cổ phiếu thường có mức cổ tức phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công
ty. Vì vậy, cổ đông mua loại cổ phiếu này rất quan tâm đến hoạt động của
công ty, và họ thường là những người đứng trong Ban quản trị chịu trách
nhiệm điều hành hoạt động của công ty. Trên thị trường giá của loại cô
phiếu thường biến động nhiều hơn so với loại cố phiếu ưu đãi.
Căn cứ vào phương thức góp vốn, cổ phiếu có hai loại: cổ phiếu hiện kim và
cổ phiếu hiện vật. cổ phiếu hiện kim dành cho những cổ đông góp vốn bằng
tiền và cổ phiếu hiện vật dành cho những cổ đông góp vốn bằng tài sản như
máy móc, thiết bị, nhà xưởng...
3.2 Trái phiếu

Theo Luật Chứng khoán Việt Nam năm 2006, trái phiếu là một loại chứng khoán
xác nhận một khoản vốn cho vay và quyền được hưởng mức thu nhập theo định
kỳ, người mua trái phiếu là chủ nợ của đơn vị phát hành và sẽ được hoàn lại vốn
khi đến kỳ hạn. Căn cứ vào chủ thể phát hành, trên thị trường vốn có các loại trái
phiếu sau:
Trái phiếu doanh nghiệp. Do các công ty hoặc các xí nghiệp đang hoạt động phát
hành với mục đích bổ sung vốn kinh doanh. Trái phiếu chỉ là loại chứng khoán có
lợi tức cố định và người sở hữu trái phiếu chỉ là chủ nợ của công ty, do đó chủ sở
hữu trái phiếu không được tham dự và can thiệp vào hoạt động của công ty. Tuy
nhiên đầu tư vào trái phiếu vẫn có mức độ an toàn cao hơn so với đầu tư vào cổ
phiếu. Trái phiếu doanh nghiệp có các loại như:
Trái phiếu Chính phủ: Tại Việt Nam do Chính phủ uỷ quyền cho Kho bạc Nhà
nước hoặc Ngân hàng Phát triển Việt Nam (trước đây gọi là Quỹ Hỗ trợ Phát triển)
phát hành với mục đích bù đắp những khoản chi của ngân sách nhà nước. Nói cách
khác, trái phiếu nhà nước là chứng thư xác nhận khoản nợ của nhà nước. Trái
phiếu do chính quyền địa phương phát hành: Với mục đích hỗ trợ cho ngân sách
địa phương. Loại trái phiếu này hiện nay ở nước ta chưa phát triển. Trái phiếu kho
bạc: Do Kho bạc nhà nước phát hành với mục đích chủ yếu là thu hút bớt khoản
vốn nhàn rỗi trong lưu thông trên cơ sở điều hòa cung cầu về tiền tệ. Tín phiếu kho
bạc gồm hai loại: Trái phiếu dầu tư: Do một công ty đầu tư phát hành. Người mua
trái phiếu sẽ là người gia nhập quỳ đầu tư.
Trái phiếu có đảm bảo tài sản của công ty hoặc được bảo lãnh bởi uy tín của
một doanh nghiệp khác (thường là ngân hàng đầu tư hoặc công ty chứng
khoán...)

Trái phiếu không cần bảo đảĩn thường được phát hành từ một công ty danh
tiếng đã hoạt động lâu năm hoặc từ một công ty công cộng.
Trái phiếu có thể chuyển hoán thành cổ phiếu thường của công ty, loại trái
phiếu này sẽ tăng giá nếu công ty kinh doanh phát đạt. Trái phiếu phát hành
bán dưới mệnh giá được công ty phát hành trong thời kỳ lãi suất tín dụng
đang cao trên thị trường tiền tệ.
Tín phiếu ngắn hạn lưu thông trên thị trường tiền tệ đặc biệt là thị trường
mới. Tín phiếu dài hạn (còn gọi là trái phiếu kho bạc), trung hạn lưu thông
trên thị trường vốn.
4. Các khái niệm chủ yếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Ngoài ra để biết thêm các công cụ trên thị trường chứng khoán Việt Nam, cần nắm
thêm một số khái niệm chủ yếu đã được quy định tại Luật Chứng khoán của Quốc
hội nước cộng hòa XHCN Việt Nam số 70/2006/QH11 ngày 29 tháng 6 năm 2006.
Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu
đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện
dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại
sau đây:
Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ;
Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng
tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán.
Chứng chỉ quỹ là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của nhà đầu tư
đối với một phần vốn góp của quỳ đại chúng.

Quyền mua cổ phần là loại chứng khoán do công ty cổ phần phát hành kèm
theo đợt phát hành cổ phiếu bổ sung, nhằm bảo đảm cho cổ đông hiện hữu
quyền mua cổ phiếu mới theo những điều kiện đã được xác định.
Chứng quyền là loại chứng khoán được phát hành cùng với việc phát hành
trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi, cho phép người sở hữu chứng khoán được
quyền mua một số cổ phiếu phổ thông nhất định theo mức giá đã được xác
định trước trong thời kỳ nhất định.
Quyền chọn mua, quyền chọn bán là quyền được ghi trong hợp đồng cho
phép người mua quyền chọn mua hoặc quyền chọn bán một sô" lượng chứng
khoán xác định trước, trong khoảng thời gian nhất định với mức giá được
xác định trước.
Hợp đồng tương lai là cam kết mua hoặc bán các loại chứng khoán, nhóm
chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán nhất định, với một số lượng và mức
giá nhất định vào ngày xác định trước trong tương lai.
Cổ đông lớn là cổ đông sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp từ năm phần trăm trở
lên số cổ phiếu có quyền biểu quyết của tổ chức phát hành.
Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân Việt Nam và tổ chức, cá nhân nước ngoài
tham gia đầu tư trên thị trường chứng khoán.
Nhà đầu tư chứng khoản chuyên nghiệp là ngân hàng thương mại, công ty
Tài chính, công ty cho thuê Tài chính, tổ chức kinh doanh bảo hiểm, tổ chức
kinh doanh chứng khoán.
Chào bán chứng khoán ra công chúng là việc chào bán chứng khoán theo
một trong các phương thức sau đây: Tổ chức phát hành là tổ chức thực hiện
phát hành chứng khoán ra công chúng.
Thông qua phương tiện thông tin đại chúng, kể cả Internet;
Chào bán chứng khoán cho từ một trăm nhà đầu tư trở lên, không kể nhà đầu
tư chứng khoán chuyên nghiệp;

Chào bán cho một số lượng nhà đầu tư không xác định.
Tổ chức bảo lãnh phát hành là công ty chứng khoán được phép hoạt động
bảo lãnh phát hành chứng khoán, và ngân hàng thương mại được Ưy ban
Chứng khoán Nhà nước chấp thuận bảo lãnh phát hành trái phiếu theo điều
kiện do Bộ Tài chính quy định.
Tổ chức kiểm toán được chấp thuận là công ty kiềm toán độc lập thuộc danh
mục các công ty kiểm toán được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước chấp thuận
kiểm toán theo điều kiện do Bộ Tài chính quy định.
Bản cáo bạch là tài liệu hoặc dữ liệu điện tử công khai những thông tin chính
xác, trung thực, khách quan liên quan đến việc chào bán hoặc niêm yết
chứng khoán của tổ chức phát hành.
Niêm yết chứng khoán là việc đưa các chứng khoán có đủ điều kiện vào giao
dịch tại Sở giao dịch chứng khoán hoặc Trung Tâm giao dịch chứng khoán.
Thị trường giao dịch chứng khoán là địa điểm hoặc hình thức trao đổi thông
tin để tập hợp lệnh mua, bán và giao dịch chứng khoán.
Kinh doanh chứng khoán là việc thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán,
tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư
chứng khoán, lưu ký chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, quản lý
danh mục đầu tư chứng khoán.
Môi giới chứng khoán là việc công ty chứng khoán làm trung gian thực hiện
mua, bán chứng khoán cho khách hàng.
Tự doanh chứng khoán là việc công ty chứng khoán mua hoặc bán chứng
khoán cho chính mình.
Bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc tô chức bảo lãnh phát hành cam kết
với tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán,
nhận mưa một phần hay toàn bộ chứng khoán của tố chức phát hành, đế bán
lại hoặc mua số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết của tố chức

phát hành, hoặc hỗ trợ tổ chức phát hành trong việc phân phối chứng khoán
ra công chúng.
Tư vấn đầu tư chứng khoán là việc công ty chứng khoán cung cấp cho nhà
đầu tư kết quả phân tích, công bô" báo cáo phân tích và khuyến nghị liên
quan đến chứng khoán.
Lưu ký chứng khoán là việc nhận ký gửi, bảo quản, chuyển giao chứng
khoán cho khách hàng, giúp khách hàng thực hiện các quyền liên quan đến
sở hữu chứng khoán.
Đăng ký chứng khoán là việc ghi nhận quyền sở hữu và các quyền khác của
người sở hữu chứng khoán.
Quản lý danh mục đầu tư chứng khoán là việc công ty quản lý quỹ đầu tư
chứng khoán thực hiện quản lý theo ủy thác của từng nhà đầu tư trong mua,
bán, nắm giữ chứng khoán.
Quỹ đầu tư chứng khoán là quỹ hình thành từ vốn góp của nhà đầu tư với
mục đích kiếm lợi nhuận từ việc đầu tư vào chứng khoán hoặc các dạng tài
sản đầu tư khác, kể cả bất động sản, trong đó nhà đầu tư không có quyền
kiểm soát hàng ngày đối với việc ra quyết định đầu tư của quỹ.
Quỹ đại chúng là quỹ đầu tư chứng khoán thực hiện chào bán chứng chỉ quỹ
ra công chúng.
Quỹ thành viên là quỹ đầu tư chứng khoán có số thành viên tham gia góp
vốn không vượt quá ba mươi thành viền và chỉ bao gồm thành viên là pháp
nhân.
Quỹ mở là quỹ đại chúng mà chứng chỉ quỹ đã chào bán ra công chúng phải
được mua lại theo yêu cầu của nhà đầu tư.
Quỹ đóng là quỳ đại chúng mà chứng chỉ quỹ đã chào bán ra công chúng
không được mua lại theo yêu cầu của nhà đầu tư.

Thông tin nội bộ là thông tin liên quan đến công ty đại chúng hoặc quỳ đại
chúng chưa được công bố, mà nếu được công bố có thể ảnh hưởng lớn đến
giá chứng khoán của công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng đó.
Người biết thông tin nội bộ là: 
Thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Giám đốc hoặc Tổng giám
đốc, Phó Giám đốc hoặc Phó Tổng giám đốc của công ty đại chúng; thành
viên Ban đại diện quỹ đại chúng;
Cổ đông lớn của công ty đại chúng, quỹ đại chúng;
Người kiểm toán báo cáo Tài chính của công ty đại chúng, quỹ đại chúng;
Người khác tiếp cận được thông tin nội bộ trong công ty đại chúng, quỹ đại
chúng;
Công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán và người
hành nghề chứng khoán của công ty;
Tổ chức, cá nhân có quan hệ hợp tác kinh doanh, cung cấp dịch vụ với công
ty đại chúng, quỹ đại chúng và cá nhân làm việc trong tổ chức đó;
Tổ chức, cá nhân trực tiếp hoặc gián tiếp có được thông tin nội bộ từ những
người biết thông tin nội bộ kế toán.
Người có liên quan là cá nhân hoặc tổ chức có quan hệ với nhau trong các trường
hợp sau đây:
Cha, cha nuôi, mẹ, mẹ nuôi, vợ, chồng, con, con nuôi, anh, chị em ruột của
cá nhân;
Tổ chức trong đó có cá nhân là nhân viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc,
chủ sở hữu trên mười phần trăm số cổ phiếu lưu hành có quyền biểu quyết;
Thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Giám đổc hoặc Tổng giám
đổc, Phó Giám đốc hoặc Phó Tổng giám đôc và các chức danh quản lý khác
của tổ chức đó;

Người mà trong mối quan hệ với người khác trực tiếp, gián tiếp kiểm soát
hoặc bị kiêm soát bởi người đó, hoặc cùng với người đó chịu chung một sự
kiểm soát;
Công ty mẹ, công ty con;
Quan hệ hợp đồng trong đó một người là đại diện cho người kia.
Bài 4: Mối quan hệ giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn
Thị trường tiền tệ và thị trường vốn là hai bộ phận cấu thành thị trường Tài chính,
cùng thực hiện chức năng là cung cấp vốn cho nền kinh tế, do đó các nghiệp vụ
hoạt động ở trên hai thị trường có các mối liên quan bổ sung và tác động tương hỗ
lẫn nhau thể hiện qua một số nhân tố sau:
Thứ nhất: Sự biến động của lãi suất.
Sự biến động của lãi suất trên thị trường tiền tệ có ảnh hưởng lớn đến việc phát
hành và mua bán chứng khoán trên thị trường vốn. Nếu lãi suất các ngân hàng trả
cho người tiết kiệm cao, sẽ khiến cho người tiết kiệm thích gửi tiền vào ngân hàng
để hưởng lãi suất cao và rủi ro thấp hơn so với mua chứng khoán. Mặt khác, những
biến đổi về lãi suất trên thị trường tiền tệ thường kéo theo các biến đổi trực tiếp
trên thị trường vốn như quan hệ cung cầu và giá cổ phiếu, trái phiếu. Chẳng hạn
như một số chứng khoán dài hạn có lãi suất thả nổi, căn cứ để điều chỉnh lãi suất là
lãi suất tiền gửi ngắn hạn của ngân hàng. Hay khi định giá trái phiếu hoặc cố phiếu
trên thị trường, người ta phải tham khảo lãi suất của ngân hàng được hình thành
trên thị trường tiền tệ. Giữa lãi suất thị trường và giá trái phiêu có mối quan hệ tỷ
lệ nghịch: khi lãi suất của ngân hàng tăng cao hơn lãi suất trái phiếu, giá trái phiếu

sẽ sụt giảm và tình hình ngược lại khi lãi suất ngân hàng hạ thấp hơn lãi suất trái
phiếu.
Các thay đổi về chỉ số giá cổ phiếu của thị trường vốn cũng phản ánh các hiện
tượng tốt hay xấu, đã, đang hoặc sẽ xảy ra trên thị trường tiền tệ. Đối với thị
trường vốn, việc duy trì một số lãi suất ổn định không biến động quá đáng là sự
cần thiết cho sự ổn định của thị trường.
Thứ hai: sự đồng bộ và quan hệ hữu cơ giữa hai thị trường
Các hoạt động của thị trường tiền tệ và thị trường vốn được thực hiện đồng bộ xen
lẫn nhau, tác động và chịu ảnh hưởng của nhau, tạo thành cơ cấu hoàn chỉnh của
một thị trường tài chính.
Việc phân định các bộ phận của thị trường Tài chính chỉ là biện pháp để tạo thuận
lợi cho quá trình nghiên cứu của từng loại thị trường, như một khái niệm kinh tế
tồn tại tương đối độc lập, và tách ra khỏi các mối quan hệ giữa các bộ phận cấu
thành của nó.
Trên thực tế không dễ dàng có thể chỉ ra đâu là khu vực chuyên môn hóa của thị
trường tiền tệ và đâu là khu vực chuyên môn hóa của thị trường vốn. Hai thị trường
này có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Các biến đổi về giá cả, lãi suất trên thị trường
tiền tệ diễn ra kéo theo các biến đổi trực tiếp trên thị trường vốn. Ngược lại, các
thay đổi về chỉ số chứng khoán hoặc thị giá cổ phiếu của thị trường vốn, cũng phản
ánh các hiện tượng tốt hoặc xấu đã và đang hoặc sẽ xảy ra trên thị trường tiền tệ.
Thứ ba: Đều là nền tảng của chính sách Tài chính và Tiền tệ của nhà nước
Các chính sách của Nhà nước như chính sách lãi suât, tiền tệ với mục đích phát
triển thị trường tiền tệ đồng thời cũng là các yếu tố ngăn cản phạm vi hoạt động
của thị trường vốn. Xét trong tương lai, xuất phát từ những đòi hỏi của thực tế,

không thể tồn tại một thị trường tiền tệ thuần túy cũng như không thể có một thị
trường vốn thuần túy, mà sẽ tồn tại một thị trường Tài chính hỗn hợp.
Bài 5: Các công cụ chủ yếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Các công cụ của thị trường Tài chính ở Việt Nam khá đa dạng. Hiện nay có một số
công cụ chủ yếu như: Trái phiếu Chính phủ, tín phiếu kho bạc, cổ phiếu, trái phiếu
doanh nghiệp, kỳ phiếu ngân hàng, tiền gửi tiết kiệm...
1. Trái phiếu Chính phủ
Trái phiếu Chính phủ là một loại trái phiếu do Chính phủ (kho bạc Nhà nước) phát
hành với lãi suất cố định và thời hạn ấn định trước, nhằm huy động vốn để bô sung
ngân sách nhà nước. Trái phiếu Chính phủ thường là dài hạn và rủi ro ít, Chính phủ
Việt nam đã phát hành trong nước và ra thị trường Quốc tế.
Trên thị trường Việt Nam, Trái phiếu Chính phủ là công cụ phát hành rộng rãi và
phố biến nhất và là công cụ an toàn nhất (được xem như không có rủi ro khi thanh
toán).
Trái phiếu Chính phủ chủ yếu do các tổ chức Tài chính tín dụng mua thông qua
hình thức đấu thầu. Lãi suất Trái phiêu Chính phủ thông thường thấp hơn lãi suất
tiền gửi ngân hàng cùng kỳ hạn nhưng độ an toàn cao hơn.
Trái phiếu Chính phủ thời hạn dài, thường từ 3 đến 5 năm có khi đến 10 năm để
xây dựng những công trình dự án lớn của Chính phủ, Quốc hội phê duyệt.
2. Tín phiếu kho bạc

Là một loại trái phiếu ngắn hạn, Chính phủ phát hành nhằm để bù đắp bội chi ngân
sách nhà nước, và giải quyết thiếu hụt tạm thời khi giữa thu và chi NSNN không ăn
khớp thời gian.
Tín phiếu kho bạc do các Ngân hàng thương mại mua theo hình thức đấu thầu với
thời hạn 3, 6, 9, 12 tháng.
3. Kỳ phiếu ngân hàng
Để huy động được một khối lượng vốn lớn trong thời gian ngắn, phục vụ mục đích
hoạt động hoặc đầu tư trung hạn cho các chương trình Chính phủ chỉ định, các
ngân hàng trong đó, chủ yếu là ngân hàng thương mại cổ phần, tỷ trọng vốn nhà
nước lớn như: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn; Ngân hàng Công
thương Việt Nam; Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, phát hành kỳ phiếu ngân hàng
để thu hút vốn. Kỳ phiếu được phát hành theo hai phương thức: phát hành theo
mệnh giá và phát hành theo hình thức chiết khấu.
Phát hành theo mệnh giá: Theo hình thức này người mua trả tiền mua kỳ phiếu
theo mệnh giá đã được ghi trên kỳ phiếu. Khi đến hạn ngân hàng sẽ hoàn trả vốn
gốc và thanh toán lãi cho người mua kỳ phiếu.
Phát hành theo hình thức chiết khấu: Theo hình thức này người mua sẽ trả số tiền
mua kỳ phiếu bằng mệnh giá trừ đi khoản lãi mà họ được hưởng. Khi đến hạn ngân
hàng sẽ trả cho khách hàng theo mệnh giá của kỳ phiếu, nghĩa là khách hàng được
trả lãi trước.
Lãi suất kỳ phiếu ngân hàng thông thường cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm, trả lãi
trước hoặc sau. Nếu so sánh với trái phiếu kho bạc thì loại kỳ phiếu này có mức độ
rủi ro cao hơn, do đó có thể các ngân hàng này không có khả năng thanh toán. Tuy

nhiên, thực tế cho thấy các ngân hàng này là các ngân hàng có tỷ trọng vốn của nhà
nước, do vậy việc mất khả năng thanh toán của ngân hàng rất khó có thể xảy ra.
4. Tiền gửi ngân hàng:
Là khoản tiền của tổ chức hoặc cá nhân vào ngân hàng với từng kỳ hạn gửi đã
được ngân hàng công bố sẵn. Có thể là tiền gửi không kỳ hạn hoặc có kỳ hạn. Các
kỳ hạn thường là 1,3, 6, 9, 12, 18, 24 tháng. Do cơ chế tự chủ trong Tài chính và
độc lập trong kinh doanh, các tổ chức tín dụng không ngừng đa dạng hóa các hình
thức huy động vốn như tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, gửi tiết kiệm. Lãi suất
huy động do các ngân hàng tự quyết định căn cứ quy định theo từng thời kỳ của
ngân hàng Nhà nước. Hiện nay ở Việt Nam tiền gửi ngân hàng bao gồm ba loại
sau:
Tiền gửi không kỳ hạn: đây là loại tiền gửi mà người gửi tiền có thể gửi vào và
rút ra theo nhu cầu sử dụng mà không cần báo trước cho ngân hàng, tuy nhiên lãi
suất của loại tiền gửi này rất thấp.
Tiền gửi có kỳ hạn: là loại tiền gửi có thời hạn gửi cố định. Loại tiền gửi này
không được rút ra trước hạn, được hưởng lãi cao hơn loại tiền gửi không kỳ hạn và
không được hưởng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Với dạng tiền gửi này
người gửi chỉ được gửi tiền vào một lần và rút ra một lần cả vốn lẫn lãi khi đến
hạn, và không được phép bổ sung thêm vào số tiền gửi khi chưa hết hạn. Mỗi lần
gửi được coi là một khoản tiền riêng biệt. Mức tôi thiểu của mỗi lần gửi tiền do
mỗi ngân hàng quy định.
Tiền gửi có mục đích: là hình thức tiền gửi trung và dài hạn nhằm mục đích xây
dựng nhà ở. Những người gửi tiền ngoài hưởng lãi còn được ngân hàng cho vay

nhằm bổ sung vốn cho mục đích xây dựng nhà ở. Mức vay tối đa bằng Số dư tiền
gửi.
5. Cổ phiếu
Theo Luật Chứng Khoán Việt Nam năm 2006:
Cổ phiếu phải có các nội dung chủ yếu sau đây:
Tên, địa chỉ trụ sở chính của công ty;
Số và ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh;
Số lượng cổ phần và loại cổ phần;
Mệnh giá mỗi cổ phần và tổng mệnh giá Số cổ phần ghi trên cổ phiếu;
Họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, Số Giấy chứng minh nhân dân, Hộ
chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của cổ đông là cá nhân; tên,
địa chỉ thường trú, quốc tịch, Số quyết định thành lập hoặc Số đăng ký kinh
doanh của cổ đông là tế chức đối với cổ phiếu có ghi tên;
Tóm tắt về thủ tục chuyển nhượng cổ phần;
Chữ ký mẫu của người đại diện theo pháp luật và dấu của công ty;
Số đăng ký tại sổ đăng ký cổ đông của công ty và ngày phát hành cổ phiếu;
6. Trái phiếu doanh nghiệp
Trái phiếu doanh nghiệp ở nước ta chưa phát triển nhiều vì nước ta chưa có nhiều
doanh nghiệp có uy tín, chỉ có những doanh nghiệp có uy tín lớn trên thị trường
mới được phát hành trái phiếu. Thí dụ một công ty cổ phần đã phát hành trái phiếu
doanh nghiệp ở nước ta như:

Ngày 03/11/2009, Công ty cổ phần Đầu tư Địa ốc Nova đã phát hành trái
phiếu có bảo đảm, toàn bộ gốc, lãi trái phiếu khi đến hạn được bảo đảm bằng
tài sản của Công ty.
Trái phiếu được bảo đảm bằng tài sản là bất động sản (Quyền sử dụng khu
đất xây dựng dự án Khu cao ốc Thương mại - Căn hộ Sunrise City (Dự án
Sunrise City) nằm tại Lô w, Khu dân cư Him Lam, Phường Tân Hưng, Quận
7, Thành phố Hồ Chí Minh, các tài sản hình thành trên đất trong tương lai và
quyền phát sinh từ tài sản). Vietinbank và Vietinbank sc là các tổ chức đồng
thu xếp cho đợt phát hành này.
Trái phiếu được phát hành riêng lẻ, mỗi trái phiếu có mệnh giá là một triệu
đồng/một trái Phiếu, kỳ hạn năm năm. Trái phiếu có lãi suất cố định năm
đầu, thả nổi từ năm thứ hai. Mỗi năm điều chỉnh lãi suất một lần. Tiền lãi
trái phiếu được thanh toán định kỳ sáu tháng một lần. Tiền gốc trái phiếu
được thanh toán một lần khi đến hạn đúng bằng mệnh giá trái phiếu, trừ khi
trái phiếu được mua lại theo quyết định của Công ty. Đến ngày thanh toán
lãi và/hoặc gốc trái phiếu, tiền lãi và/hoặc gốc trái phiếu được thanh toán tại
Đại lý thanh toán theo chỉ định của Công ty.
Mục đích sử dụng tiền thu từ phát hành trái phiếu để tăng quy mô vốn hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, đầu tư cho Dự án của công ty
7. Các công cụ Tài chính khác
Ngoài một số công cụ Tài chính kê trên, hiện nay một số ngành đã phát hành trái
phiếu dài hạn trong nước và nước ngoài để thu hút vốn, như ngành năng lượng
phát hành trái phiếu xây dựng đường dây 500 KV, Tổng Công ty Bưu chính Viễn
thông phát hành trái phiếu xây dựng hệ thông bưu điện...