Thu hoạch TTHCM về Xây dựng ĐĐK DT.pdf

hatridunglq1 10 views 12 slides Dec 08, 2024
Slide 1
Slide 1 of 12
Slide 1
1
Slide 2
2
Slide 3
3
Slide 4
4
Slide 5
5
Slide 6
6
Slide 7
7
Slide 8
8
Slide 9
9
Slide 10
10
Slide 11
11
Slide 12
12

About This Presentation

adsd


Slide Content

MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người trực tiếp tổ chức và xây dựng Mặt trận dân
tộc thống nhất để quy tụ sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc. Người luôn nhận thức
sâu sắc và trung thành với quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của
quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng; vận dụng, bổ sung và phát triển
lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về tập hợp lực lượng cách mạng, trong đó sáng
tạo nổi bật là lấy liên minh công - nông - trí làm lực lượng nòng cốt cho Mặt trận
Dân tộc thống nhất để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, tạo ra sức mạnh đưa
cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

2

NỘI DUNG
I- QUAN NIỆM CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ LIÊN MINH GIAI
CẤP, TẦNG LỚP
1. Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về liên minh công - nông
C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận bàn đến liên minh công - nông và đi đến kết
luận rằng, những cuộc cách mạng sắp tới chỉ có thể thu được những thắng lợi nếu
giai cấp nông dân ủng hộ những cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, nếu không thì
bài “đơn ca” cách mạng của giai cấp vô sản sẽ trở thành bài “ai điếu”.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nói đến
khả năng và sự cần thiết phải đoàn kết giai cấp vô sản với các tầng lớp trung gian.
Sau cách mạng 1848 - 1852 ở Tây Âu, các ông thấy rõ, vấn đề liên minh giữa giai
cấp công nhân và các tầng lớp lao động khác trong xã hội, nhất là giai cấp nông
dân trở thành vấn đề có tính sống còn đối với cuộc đấu tranh cách mạng của giai
cấp công nhân. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại của Công xã Pa-ri
(năm 1871) cũng là do giai cấp công nhân không liên minh được với giai cấp nông
dân. Từ thực tiễn lịch sử sinh động của Công xã Pa-ri, C.Mác đã bổ sung cho lý
luận của mình về liên minh công - nông: đó là vai trò hết sức quan trọng của giai
cấp nông dân không chỉ trong việc giành chính quyền mà còn cả trong việc giữ
chính quyền.
Tuy nhiên, sự cần thiết của liên minh công - nông không chỉ từ phía giai cấp
công nhân, mà còn từ phía giai cấp nông dân. Giai cấp nông dân và các tầng lớp
nhân dân lao động khác cũng không thể thoát khỏi ách áp bức bóc lột của giai cấp
tư sản, không thể được giải phóng một cách thực sự và triệt để nếu không liên
minh với giai cấp công nhân, không trở thành người bạn đồng minh của giai cấp
công nhân. C.Mác khẳng định: “Đứng trước giai cấp tư sản phản cách mạng đã liên
minh lại thì dĩ nhiên là những phần tử đã được cách mạng hóa của giai cấp tiểu tư
sản và của nông dân, phải liên minh với người đại biểu chủ yếu cho những lợi ích
cách mạng, tức là giai cấp vô sản cách mạng”. Vì “... người nông dân thấy rằng
giai cấp vô sản thành thị, giai cấp có sứ mệnh lật đổ chế độ tư sản là người bạn
đồng minh, người lãnh đạo tự nhiên của mình”. Tuy vậy, để có thể liên minh được
với giai cấp nông dân, cần phải thấy rõ đặc điểm, vai trò của giai cấp nông dân
trong tiến trình cách mạng.
Trong giai cấp nông dân, có một bộ phận cốt lõi là tiểu nông. Về kinh tế,
mỗi gia đình nông dân là một đơn vị kinh tế gần như tự túc hoàn toàn, cho thấy
tính liên kết giữa họ rất ít. Về xã hội, quan hệ xã hội của họ có tính chất dòng họ,
địa phương, làng xã, khiến tầm nhìn, suy nghĩ của người nông dân rất hạn chế. Về
văn hóa - tư tưởng, sống trong những điều kiện kinh tế - xã hội như vậy, nên trình
độ học vấn của nông dân rất thấp kém, tư tưởng bảo thủ và họ không có hệ tư
tưởng riêng. Chính đặc điểm kinh tế - xã hội, văn hóa - tư tưởng đã quy định vị trí,
vai trò của giai cấp nông dân trong xã hội tư bản là tầng lớp trung gian, họ có thể

3

ngả theo giai cấp công nhân và cũng có thể ngả theo giai cấp tư sản. Vấn đề là, trên
thực tế ai đem lại và bảo vệ lợi ích cho họ.
Về nội dung của liên minh công - nông, không chỉ dừng ở sự liên minh về
chính trị, C.Mác và Ph.Ăngghen còn chỉ rõ sự liên minh về kinh tế giữa giai cấp
công nhân và giai cấp nông dân. Trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì
liên minh về kinh tế là liên minh cơ bản, thường xuyên và lâu dài, là cơ sở cho liên
minh trên các lĩnh vực khác.
Theo Ph.Ăngghen, nhiệm vụ chủ yếu của chính đảng vô sản là phải không
ngừng giải thích cho nông dân thấy rằng, chừng nào chủ nghĩa tư bản đang còn nắm
chính quyền thì tình cảnh của họ vẫn là tuyệt vọng mà thôi, tuyệt đối chắc chắn là
nền sản xuất tư bản chủ nghĩa quy mô lớn sẽ đè bẹp sản xuất quy mô nhỏ, bất lực và
lỗi thời của họ. Chỉ cần cho nông dân thấy lợi ích chân chính của họ là phải chuyển
ruộng đất của họ thành tài sản của hợp tác xã, tức là đưa nông dân đi vào sản xuất
hợp tác: “Dù sao thì điều chủ yếu cũng là phải làm cho nông dân hiểu rằng chúng ta
chỉ có thể cứu vãn và bảo tồn được tài sản của họ bằng cách biến tài sản đó thành tài
sản hợp tác xã và thành những doanh nghiệp hợp tác xã”3. Ph.Ăngghen cũng cho
rằng, đó là khâu trung gian trong việc chuyển nền sản xuất cá thể của nông dân quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, không qua phát triển tư bản chủ nghĩa.
C.Mác và Ph.Ăngghen cũng chỉ rõ nguyên tắc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối
với nông nghiệp và nông dân. Nguyên tắc thứ nhất là, không được dùng bạo lực
đối với nông dân, “... mà là bằng những tấm gương và bằng sự giúp đỡ của xã
hội”4. Nguyên tắc thứ hai là, tự nguyện, không được gò ép, bắt buộc đối với nông
dân: “Chúng ta kiên quyết đứng về phía người tiểu nông... để cho họ có thời gian
suy nghĩ với tư cách là người sở hữu mảnh đất của họ nếu họ chưa có thể quyết
định như thế”5. Nguyên tắc thứ ba là, tiến dần từ thấp đến cao: phải phát triển các
hợp tác xã từ bậc thấp đến bậc cao, từ quy mô từng xã đến quy mô liên xã. Các ông
cho rằng, để nông dân đi lên chủ nghĩa xã hội một cách thuận lợi, nhà nước phải có
nhiệm vụ giúp đỡ nông dân trong cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Trong sách lược
đối với nông dân, theo Ph.Ăngghen, trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản không
thể coi nông dân là một khối thống nhất, vì họ không ngừng phân hóa, do đó, sách
lược của các đảng xã hội chủ nghĩa cần phải khác nhau đối với các thành phần
nông dân khác nhau.
Không chỉ dừng lại ở việc luận giải tính tất yếu, nội dung, và nguyên tắc của
liên minh công - nông, C.Mác phê phán quan điểm của phái Látxan cho rằng:
“Ngoài giai cấp vô sản ra, hết thảy mọi giai cấp khác chỉ là một khối phản động”.
C.Mác đã nhắc lại “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” có ghi: “Trong tất cả các giai
cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản, thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực
sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong với sự phát triển
của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản thì trái lại, là sản phẩm của bản thân nền
đại công nghiệp”.

4

C.Mác khẳng định: “Látxan thuộc làu cuốn “Tuyên ngôn cộng sản”, cũng
như các tiến đồ của ông ta thuộc những thánh thư do ông ta viết ra. Sở dĩ ông ta
xuyên tạc cuốn “Tuyên ngôn” một cách thô bỉ như thế vì đó chỉ là để biện hộ cho
sự liên minh của ông ta với những kẻ thù chuyên chế và phong kiến chống giai cấp
tư sản”. C.Mác lý giải phái Látxan cho rằng: “Việc giải phóng lao động phải là sự
nghiệp của giai cấp công nhân, đối với giai cấp công nhân tất cả các giai cấp khác
chỉ gộp thành một khối phản động” thì đó là một điều phi lý. Thực chất quan điểm
Látxan đòi phủ định khả năng tham gia cách mạng của giai cấp nông dân và tiểu tư
sản; phủ nhận một vấn đề chiến lược của cách mạng vô sản là vấn đề bạn đồng
minh tạm thời và lâu dài của giai cấp vô sản, đã đẩy giai cấp vô sản vào thế bị cô
lập, điều đó chỉ có lợi cho giai cấp bóc lột.
C.Mác phê phán phái Látxan đưa ra yêu sách: Tổ chức những “Hợp tác xã
sản xuất” của công nhân do nhà nước giúp đỡ. C.Mác cho rằng: Đề ra yêu sách này
mục đích làm cho phong trào công nhân quay về hoạt động bè phái, thay thế đấu
tranh giai cấp bằng những hoạt động bè phái, làm cho phong trào công nhân đi vào
thế cô lập trước mặt kẻ thù giai cấp. Theo C.Mác, nói rằng những người lao động
muốn xây dựng những điều kiện sản xuất tập thể theo quy mô xã hội và trước hết
theo quy mô dân tộc, điều đó chỉ có nghĩa là: họ cố gắng tìm cách lật đổ những
điều kiện sản xuất hiện nay và việc đó không liên quan gì tới việc thành lập những
hợp tác xã do nhà nước giúp đỡ. Lập luận của Látxan và quan điểm phủ định liên
minh công - nông của bọn cơ hội chủ nghĩa trong Quốc tế II có mối liên hệ tư
tưởng rất rõ ràng, cho nên phê phán của C.Mác đối với chủ nghĩa Látxan trên vấn
đề này đã vạch ra đường lối cơ bản cho việc phê phán chủ nghĩa cơ hội sau này
trong phong trào cộng sản quốc tế.
2. Quan điểm của V.I.Lênin về liên minh công - nông
Kế thừa, bổ sung và phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về vị
trí, vai trò của liên minh công - nông, V.I.Lênin cho rằng, liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp công nhân và tầng lớp trí thức là nguyên tắc tối cao của
chuyên chính vô sản.
V.I.Lênin chỉ rõ: “Chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên
minh giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiên phong của những người lao động, với
đông đảo những tầng lớp lao động không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông
dân, trí thức, v.v.) hoặc với phần lớn những tầng lớp đó; liên minh nhằm chống lại
tư bản, liên minh nhằm lật đổ hoàn toàn tư bản, tiêu diệt hoàn toàn sự chống cự của
giai cấp tư sản và những mưu toan khôi phục của giai cấp ấy, nhằm thiết lập và
củng cố vĩnh viễn chủ nghĩa xã hội”.
Theo luận điểm này, V.I.Lênin chỉ ra: Xét về nguyên tắc tập hợp lực lượng
cách mạng của chuyên chính vô sản thì khối liên minh này đã tập hợp được những
giai cấp và tầng lớp xã hội đông đảo và mạnh nhất trong các giai tầng xã hội, trong
đó giai cấp công nhân là tiên tiến nhất. Xét về nguyên tắc lãnh đạo xã hội, thì
người lãnh đạo cao nhất và duy nhất chỉ là giai cấp công nhân thông qua đội tiền

5

phong của nó là Đảng Cộng sản. Tuy nhiên, vai trò đó chỉ được giữ vững khi đảng
tổ chức và lãnh đạo được khối liên minh. Xét về lợi ích cơ bản thì nguyên tắc cao
nhất và mục tiêu của chuyên chính vô sản là vì lợi ích toàn thể nhân dân lao động.
Như vậy, sức mạnh và độ bền vững của khối liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là thể hiện sức mạnh của Đảng, Nhà nước và
tính hiện thực quyền làm chủ xã hội của nhân dân lao động, đó là những yếu tố cơ
bản của chuyên chính vô sản.
V.I.Lênin đặc biệt nhấn mạnh khi chuyển từ giai đoạn giành quyền sang giai
đoạn “chuyên chính vô sản”, chính trị đã chuyển sang chính trị trong lĩnh vực kinh
tế, liên minh muốn được phát huy và củng cố hơn phải lấy kinh tế làm cơ sở. Phải
xuất phát từ yêu cầu khách quan về kinh tế - kỹ thuật của một nước nông nghiệp
lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, phải gắn công nghiệp với nông nghiệp và
khoa học công nghệ hiện đại. Về tất yếu kinh tế - kỹ thuật, Lênin chỉ rõ: nếu không
có kinh tế nông nghiệp làm cơ sở, thì một nước nông nghiệp không thể xây dựng
được nền công nghiệp.
V.I.Lênin nêu nhiều luận điểm về liên minh công - nông - trí thức. Trong đó
có luận điểm: “Chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giai
cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiên phong của những người lao động, với đông đảo
những tầng lớp không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức)”.
Người còn khẳng định: “Trước sự liên minh của các đại biểu khoa học, giai cấp vô
sản và giữa kỹ thuật, không một thế lực đen tối nào đứng vững được”.
Trong tác phẩm “Những người bạn dân” là thế nào và họ đấu tranh chống
những người dân chủ - xã hội ra sao?”, V.I.Lênin phê phán quan điểm phi lịch sử
của phái “dân tuý” cho rằng nông dân là lực lượng chủ yếu của cách mạng. Đồng
thời, khẳng định vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và cho rằng, đã có
chủ nghĩa tư bản thì có đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.
Người chỉ rõ: “Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra những điều kiện vật chất cho chế độ
mới, và đồng thời cũng tạo ra một lực lượng xã hội mới: Giai cấp công nhân công
xưởng - nhà máy, giai cấp vô sản thành thị. Tuy phải chịu cùng một sự bóc lột tư
sản, mà xét theo thực chất kinh tế của nó thì sự bóc lột toàn thể nhân dân lao động
ở Nga cũng là một sự bóc lột như thế, nhưng giai cấp đó lại được đặt trong những
điều kiện đặc biệt có lợi cho sự giải phóng của nó: chẳng có cái gì gắn bó nó với
cái xã hội cũ hoàn toàn xây dựng trên sự bóc lột; chính bản thân những điều kiện
lao động của nó và hoàn cảnh sinh sống của nó đã tổ chức nó lại, buộc nó phải suy
nghĩ, làm cho nó có khả năng bước lên vũ đài đấu tranh chính trị”.
Theo V.I.Lênin, đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân chống giai cấp tư
sản, là một tất yếu và đó là cuộc đấu tranh mạnh mẽ nhất, tập trung nhất và quyết
liệt nhất, trong cuộc đấu tranh đó giai cấp công nhân phải liên minh với nông dân,
vì nông dân là lực lượng của cách mạng. Ông đề cập tư tưởng liên minh công -
nông và cho rằng, đường lối thì của một giai cấp, còn lợi ích thì của sự liên minh

6

giai cấp. Giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng, nhưng không chỉ đem lại lợi ích
cho giai cấp công nhân mà cho cả giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động.
Về thái độ đối với nông dân và tư tưởng liên minh công - nông do giai cấp
công nhân lãnh đạo, trong tác phẩm “Những người bạn dân” là thế nào và họ đấu
tranh chống những người dân chủ - xã hội ra sao?”, V.I.Lênin cho rằng, do quan
niệm không đúng, nên Plêkhanốp đã đoạn tuyệt với nông dân, V.I.Lênin đã luận
chứng vai trò của nông dân, đưa ra tư tưởng liên minh công - nông và yêu cầu cần
phải ủng hộ yêu sách của họ. Người chỉ rõ: Phải có thái độ đúng với nông dân,
tuyên truyền giác ngộ họ, cần phải đoạn tuyệt với tư tưởng nông dân, nhưng không
đoạn tuyệt với nông dân, mà phải có sách lược với họ. Và cho rằng, những người
dân chủ - xã hội có nhiệm vụ thành lập một đảng công nhân mácxít và đề ra tư
tưởng liên minh cách mạng giữa giai cấp công nhân và nông dân, coi đó là phương
sách chủ yếu để lật đổ chế độ Nga hoàng, bọn địa chủ và giai cấp tư sản.
Một nguyên tắc trong liên minh giai cấp, tầng lớp theo quan điểm của
V.I.Lênin đó là vấn đề thỏa hiệp cả với giai cấp tư sản. Trong tác phẩm “Bệnh ấu
trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng sản”, V.I.Lênin đã phê phán: “Những người
cộng sản Đức đã gạt bỏ việc tham gia nghị viện phản động tư sản và việc tham gia
các công đoàn phản động”. V.I.Lênin còn khẳng định: Đấu tranh cách mạng có lúc
phải thoả hiệp. Bởi vì, tiến hành cách mạng không phải hoàn toàn thuận lợi và dễ
dàng, mà còn có những lúc cách mạng gặp khó khăn. Trong những hoàn cảnh khó
khăn phức tạp đòi hỏi người cách mạng phải biết lựa chiều, liên minh, thoả hiệp để
tránh tổn thất cho cách mạng. Cách mạng không phải chỉ biết có tiến công, khoa
học tiến công phải được bổ sung bằng khoa học rút lui khi cần thiết, rút lui là để
chuẩn bị tiến công những thắng lợi lớn hơn. Vì vậy, V.I.Lênin đòi hỏi: Những
người cộng sản có nhiệm vụ phải tìm kiếm và tìm ra một hình thức thoả hiệp thích
đáng để có thể, một mặt làm dễ dàng và xúc tiến việc thống nhất hoàn toàn và cần
thiết với cách ấy, mặt khác, không làm trở ngại gì đến cuộc đấu tranh tư tưởng và
chính trị của những người cộng sản. Người nhấn mạnh nguyên tắc: “Không bao
giờ được thoả hiệp, không bao giờ được lựa chiều chỉ làm hại cho sự mở rộng ảnh
hưởng của giai cấp vô sản”.
Như vậy, theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức không chỉ là nhu cầu nội tại
của cách mạng xã hội chủ nghĩa, mà nó còn xuất phát từ những cơ sở khách quan
khác, cụ thể: Thứ nhất, liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
tầng lớp trí thức là điều kiện đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, là
điều kiện quyết định thắng lợi trong cuộc đấu tranh giành chính quyền và công
cuộc cải tạo và xây dựng xã hội mới. Thứ hai, liên minh giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là mối liên hệ tự nhiên gắn bó và sự
thống nhất lợi ích cơ bản của tất cả các giai cấp, tầng lớp. Thứ ba, liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là do sự gắn bó thống
nhất giữa sản xuất công nghiệp, nông nghiệp với khoa học kỹ thuật. Nếu không có

7

sự liên minh chặt chẽ của cả 3 lực lượng này thì các ngành kinh tế sẽ khó phát
triển. Đúng như V.I. Lênin đã khẳng định: “… thực hiện liên minh công nông là
một việc khó, nhưng vô luận thế nào đó cũng là khối liên minh vô địch duy nhất để
chống lại bọn tư bản”.
Hầu hết những luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về liên minh giai cấp,
tầng lớp trong cách mạng xã hội chủ nghĩa như đã trình bày cho đến nay vẫn còn
nguyên giá trị. Tuy nhiên, có những luận điểm đã bị lịch sử vượt qua, chẳng hạn
luận điểm “liên minh công - nông là nguyên tắc tối cao của chuyên chính vô sản”.
Bởi vì hiện nay, cơ cấu xã hội - giai cấp ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam đã
thay đổi. Nhiều nước tỷ lệ dân cư là nông dân đã giảm xuống tuyệt đối; hơn nữa,
quá trình trí thức hóa công nhân, công nhân hóa nông dân cũng đang diễn ra mạnh
mẽ. Vậy, phải căn cứ vào điều kiện lịch sử - cụ thể của từng quốc gia, dân tộc để
xác định liên minh giai cấp và các tầng lớp cho đúng…
Mặt khác, hiện nay trên thế giới, nhất là ở các nước xã hội chủ nghĩa không
dùng thuật ngữ “chuyên chính vô sản”, thay vào đó sử dụng thuật ngữ có cùng bản
chất là “hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa”. Một trong những đặc điểm của của
hệ thống chính trị đó là một hệ thống tổ chức, hệ thống chuyên chính của giai cấp
thống trị, do giai cấp công nhân thống trị lãnh đạo nhằm thực hiện và bảo đảm thực
hiện quyền lực của giai cấp công nhân; là sự liên minh giai cấp trong đấu tranh
giành, giữ, củng cố và sử dụng quyền lực chính trị và trên bề mặt xã hội, nó đại
diện cho toàn xã hội.
Trước những biến đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp, dưới sự tác động của
cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, đặc biệt là cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, trong điều kiện chủ nghĩa tư bản đang điều chỉnh để thích nghi,
nhằm kéo dài sự tồn tại của chúng… thì những nội dung cần bổ sung, phát triển
quanđiểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về liên minh giai cấp, tầng lớp trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa tập trung cần quan tâm, đó là: một là, vị trí, vai trò của các
giai cấp, tầng lớp trong khối liên minh; hai là, nội dung thực chất của liên minh; ba
là, nguyên tắc của liên minh, nhất là nguyên tắc bảo đảm về lợi ích; bốn là, phương
thức tập hợp lực lượng…
II- Chủ tịch Hồ Chí Minh phát triển sáng tạo quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin về xây dựng khối liên minh công-nông-trí trong sự nghiệp
cách mạng
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì “trí thức là hiểu biết”, “trí thức ta là những
người lao động trí óc, luôn luôn hòa mình với công nông và cùng công nông ra sức
xây dựng xã hội mới”, “Lao động trí óc là ai? Là thầy giáo, thầy thuốc, kỹ sư,
những nhà khoa học, văn nghệ, những người làm bàn giấy.v.v…”. Như vậy, trí
thức là hiểu biết, là những người lao động trí óc (khoa học tự nhiên và khoa học xã
hội) đem hiểu biết của mình truyền thụ, phổ biến, hướng dẫn cho mọi người trong
xã hội cùng hiểu biết và phát triển.

8

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng,
thắng lợi của cách mạng là do sự phấn đấu, hy sinh và trí thông minh, sáng tạo của
hàng triệu nhân dân, nhất là công nhân, nông dân và những người trí thức cách
mạng”, nhân dân là động lực chủ yếu của cách mạng... Vì thế, ngay trong tác
phẩm Đường Kách mệnh, mặc dù xác định “Dân chúng công nông là gốc cách
mệnh” trong đó công nhân giữ vai trò lãnh đạo, song trong tiến trình cách mạng,
dù ở thời kỳ cách mạng giải phóng dân tộc hay cách mạng xã hội chủ nghĩa, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đều nhận thức rõ vị trí, vai trò của tầng lớp trí thức cách mạng và
xác định xây dựng liên minh công - nông - trí thành lực lượng nòng cốt cho khối
đại đoàn kết dân tộc, tạo động lực cơ bản cho cách mạng.
1. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trí thức là “vốn liếng quý báu của
dân tộc”.
Tiếp thu truyền thống của dân tộc Việt Nam coi “hiền tài là nguyên khí
quốc gia”, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rõ sức mạnh vô tận của trí tuệ con người và
sức mạnh lớn lao của một dân tộc giàu tri thức. Người nhận thấy, trí thức không
phải là một giai cấp, họ chỉ là một tầng lớp có số lượng khiêm tốn trong xã hội
Việt Nam (đầu thế kỉ XX), nhưng luôn đi đầu, là ngòi nổ trong phong trào đấu
tranh đòi độc lập, đòi quyền dân tộc, dân chủ. Trí thức cũng là những người luôn đi
tiên phong trong việc tiếp thu những thành tựu của văn minh nhân loại, đón nhận
những luồng tư tưởng mới, tiến bộ để từ đó tuyên truyền, giáo dục quần chúng
nhân dân.
Trong Mười chính sách của Việt Minh và Kính cáo đồng bào (1941), Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã đưa các bậc Hiền huynh, các Hiền nhân chí sĩ lên hàng đầu.
Người coi trí thức là lớp tiên tri, tiên giác. Sau khi giành độc lập, tại cuộc họp đầu
tiên của Ủy ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc (1946), Người khẳng định: “Một
phần tương lai của dân tộc” nằm trong sự cố gắng, sự đóng góp của anh chị em trí
thức. Người “tin rằng, với kinh nghiệm, với học thức, với sự quyết tâm” của những
trí thức cách mạng thì “việc kháng chiến nhất định thành công và nền tự do, độc
lập nhất định vững vàng”.
Năm 1946, trên cương vị Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, khi trả
lời câu hỏi của một nhà báo nước ngoài về vấn đề trí thức, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhấn mạnh: “Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc. Ở nước khác như thế, ở Việt
Nam càng như thế”. Tại Đại hội II của Đảng (2/1951), vị trí, vai trò của trí thức
được thể hiện rõ hơn khi Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra quan điểm: “Đảng Lao động
Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là
đảng của dân tộc Việt Nam”; “Về thành phần, Đảng Lao động Việt Nam sẽ kết nạp
những công nhân, nông dân, lao động trí óc thật hăng hái, thật giác ngộ cách mạng”
“Lao động trí óc” ở đây là cái nền, mà cái lõi là đội ngũ (tầng lớp) trí thức.
2. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi trí thức là bộ phận quan trọng trong lực
lượng cách mạng.
Người đã nhận rõ sự khác biệt giữa trí thức tại các nước thuộc địa, nửa thuộc
địa hay các dân tộc bị áp bức với các nước tư bản đế quốc. Trí thức Việt Nam “dù

9

là trí thức một số khá đông thuộc thành phần phú nông, địa chủ, phong kiến, tư sản
mà ra nhưng cũng đều bị đế quốc áp bức”. Sự áp bức của thực dân Pháp đối với
nhân dân Việt Nam, trong đó bao gồm cả giới trí thức đã được Người tố cáo một
cách đanh thép: “Tất cả những người trí thức nào có đôi chút tiếng tăm đều bị đưa
đi đày. Tất cả các trường tư thục đều bị đóng cửa và tất cả các sách báo nước ngoài
đều bị cấm”.
Là những người có học thức, hiểu biết, trí thức Việt Nam rất nhạy bén với
cái mới, với những tư tưởng tiến bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra hai yếu tố tích
cực của trí thức Việt Nam: “Có đầu óc dân tộc và đầu óc cách mạng”. Người nhận
xét, trí thức “có học thức, dễ có cảm giác chính trị. Họ không trực tiếp bóc lột lao
động. Vì vậy, họ dễ tiếp thụ sự giáo dục cách mạng và cùng đi với công nông”(12).
Trong tâm thức của mỗi trí thức Việt Nam luôn luôn có ý thức và tình cảm sâu sắc
với dân tộc. Đối với họ, dân tộc chính là cái nôi sinh thành và nuôi dưỡng lý trí,
tình cảm, tinh thần và trí tuệ, tài năng của mình. Với thế mạnh là nhạy bén về
chính trị, những người trí thức Việt Nam nhận thấy rõ tình cảnh của dân tộc và
chính bản thân mình. Họ cảm thấy nô lệ, mất nước là “quốc sỉ” và mong muốn tìm
lối thoát.
Sự nhạy bén về chính trị và tinh thần cách mạng của trí thức được biểu hiện
qua sự ra đời, tồn tại và phát triển nhanh chóng của những tổ chức chính trị của
sinh viên, trí thức (phần lớn trong số họ sau này trở thành những đảng viên đầu tiên
của Đảng Cộng sản Việt Nam), mà Nguyễn Ái Quốc đã nhắc đến trong báo cáo gửi
Quốc tế Cộng sản ngày 5/3/1930: Bên cạnh Việt Nam thanh niên cách mạng đồng
chí hội, còn có ba nhóm chính trị: nhóm thanh niên ở Nam Kỳ, Tân Việt ở Trung
Kỳ và An Nam quốc dân Đảng ở Bắc Kỳ. Nhóm thứ nhất gồm phần lớn là thanh
niên, sinh viên; nhóm thứ hai là trí thức; nhóm thứ ba là tiểu tư sản.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy rõ, trong hoàn cảnh nước mất nhà tan, trí thức
Việt Nam đã đi tiên phong tham gia cách mạng. Họ chính là lực lượng đi đầu trong
việc tiếp thu tư tưởng cách mạng tiến bộ của chủ nghĩa Mác - Lênin, tích cực
truyền bá trong quần chúng nhân dân và hăng hái tham gia vào các tổ chức cách
mạng - tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhận thức được vị trí, vai trò quan trọng của trí thức Việt Nam trong cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng XHCN, khi thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam, trước yêu cầu phải có một đường lối chính trị rõ ràng, phải phân
định rõ chiến tuyến giữa cách mạng và phản cách mạng, Hồ Chí Minh đã xếp trí
thức vào hàng ngũ lực lượng cách mạng của dân tộc do giai cấp vô sản lãnh đạo, là
một trong những đồng minh gần gũi của giai cấp công nhân và nông dân. Người
khẳng định một cách dứt khoát trong những văn kiện đầu tiên mang tính cương
lĩnh của Đảng. Trong Sách lược vắn tắt của Đảng, Người viết: “Đảng phải hết sức
liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi
vào phe vô sản giai cấp”. Chương trình tóm tắt của Đảng viết: “Đảng lôi kéo tiểu
tư sản, trí thức và trung nông về phía giai cấp vô sản”. Việc xác định ngay từ rất

10

sớm vị trí của trí thức trong lực lượng cách mạng đã góp phần cô lập kẻ thù, đưa
tầng lớp trí thức về phía cách mạng, tăng cường sức mạnh lớn lao cho cách mạng
và vấn đề mang tính chất chiến lược này được khẳng định xuyên suốt trong các
giai đoạn cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Cuộc cách mạng mà Hồ Chủ tịch, Đảng và nhân dân ta tiến hành là một
cuộc cách mạng vô cùng khó khăn, gian khổ với những nhiệm vụ rất lớn lao. Đó là
đánh đuổi đế quốc thực dân, đánh đổ phong kiến, đòi lại tự do, độc lập cho dân tộc
và ruộng đất cho dân cày, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân và tiến lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Những nhiệm vụ ấy được thực hiện khi ở
Việt Nam có đến 95% dân số mù chữ, nền kinh tế nước ta ở vào tình trạng hết sức
lạc hậu, tiêu điều, kiệt quệ, nhân dân hết sức cực khổ, lầm than. Trong hoàn cảnh
ấy, nhiệm vụ cách mạng của các giai cấp, của nhân dân Việt Nam càng trở nên
nặng nề, trong đó giới trí thức cũng phải đảm nhận nhiều trọng trách lớn hơn, phức
tạp hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “lao động trí óc có nhiệm vụ rất quan
trọng trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, trong công cuộc hoàn thành dân chủ
mới để tiến đến chủ nghĩa xã hội”. Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, trí
thức phải tuyên truyền, giáo dục quần chúng những tư tưởng cách mạng, là ngòi nổ
cho các phong trào cách mạng, đấu tranh chống lại những luận điệu phản động, mị
dân của kẻ thù. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, trí thức phải đi đầu trong việc
nâng cao dân trí, xây dựng và kiến thiết nước nhà. Người khẳng định: “Trí thức
phục vụ nhân dân bây giờ cũng cần, kháng chiến kiến quốc cũng cần, tiến lên xã
hội chủ nghĩa càng cần, tiến lên cộng sản chủ nghĩa lại càng cần”.
Người nhấn mạnh: “Chính là những đảng cách mạng lại càng trọng trí thức:
vì muốn phát triển văn hóa thì phải cần thầy giáo, muốn phát triển sức khỏe của
nhân dân thì phải cần thầy thuốc, muốn phát triển kỹ nghệ phải cần các kỹ sư.v.v...
Tóm lại cách mạng rất cần trí thức và chính ra chỉ có cách mạng mới biết trọng trí
thức”. Trong mọi lĩnh vực, mọi thời kỳ cách mạng đều rất cần đến học vấn, tài
năng và tâm huyết, sức lực của giới trí thức. Đội ngũ trí thức đồng hành cùng dân
tộc tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và tiến lên cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Trong suốt quá trình cách mạng “Trí thức không có bao giờ thừa, chỉ có
thiếu trí thức thôi”.
Từ vị trí, vai trò cực kỳ quan trọng của đội ngũ trí thức, Chủ tịch Hồ Chí
Minh coi đây là lực lượng cơ bản và đưa họ tham gia vào khối liên minh công -
nông - trí để tạo ra thế “chân kiềng” vững chắc làm nòng cốt cho khối đại đoàn kết
dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi trong mọi giai đoạn cách mạng “công, nông,
trí cần phải đoàn kết chặt chẽ thành một khối”. Theo Người, “Tính chất cách mạng
của ta là cách mạng dân chủ mới, cho nên động lực cách mạng gồm có những giai
cấp: công nhân, nông dân, tiểu tư sản”. Người nhấn mạnh: “Tuyên ngôn của Đảng
nói: "Đảng Lao động Việt Nam sẽ gồm những công nhân, nông dân và lao động trí
óc yêu nước nhất, hăng hái nhất, cách mạng nhất” và: “Lao động trí óc cần được

11

khuyến khích giúp đỡ, phát triển tài năng”. Khẳng định giai cấp công nhân là giai
cấp lãnh đạo cách mạng, giai cấp nông dân là đội quân chủ lực của cách mạng,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xếp tầng lớp tiểu tư sản (trong đó có trí thức) là đồng
minh của giai cấp công nhân, là một động lực của cách mạng, là một lực lượng của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là chân lý hiển nhiên không chỉ đúng trong cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân mà còn đúng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Không có tầng lớp trí thức hợp tác với giai cấp công, nông thì cách mạng không
thể thành công và sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam mới sẽ không thể hoàn
thành được. Thực tế cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ta ra đời và lãnh đạo cách
mạng đã chứng minh điều đó là hoàn toàn đúng đắn. Sức mạnh của khối đại đoàn
kết toàn dân, trong đó nòng cốt là liên minh công - nông - trí thức sẽ khắc phục
được mọi khó khăn, trở ngại để đưa cách mạng đến thắng lợi.
Những trí thức Việt Nam trước Cách mạng tháng 8/1945 hầu hết được đào
tạo trong các nhà trường của chế độ thực dân phong kiến hoặc làm việc trong bộ
máy của chế độ cũ nên ít nhiều chịu ảnh hưởng của tư tưởng, lề lối làm việc cũ
như: lập trường thiếu kiên định, tính kỷ luật chưa cao, xa rời quần chúng... “lý luận
không đi đôi với thực hành, xem khinh lao động, tư tưởng mơ hồ, lập trường
không vững, khi hành động thì hay lung lay”. Để trở thành người lao động chân
chính, thành lực lượng quan trọng của cách mạng, thành bộ phận nòng cốt không
thể thiếu của khối liên minh công - nông - trí thức, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng: “trí thức ta cần cải tạo tư tưởng, sửa đổi lề lối làm việc”. “Mục đích cải tạo là
làm cho những người trí thức chúng ta trở thành những người trí thức của giai cấp
công nhân, hết lòng hết sức phục vụ công nông, góp phần xứng đáng và vẻ vang
vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Muốn vậy cần phải thực hiện “Công
nông trí thức hóa. Trí thức công nông hóa. Nghĩa là công nông cần học tập văn hóa
để nâng cao trình độ tri thức của mình, trí thức cần gần gụi công nông và học tập
tinh thần, nghị lực, sáng kiến và kinh nghiệm của công nông. Đó là nhiệm vụ
chung và cần kíp, mà chúng ta phải cùng nhau cố gắng làm cho kỳ được”. Theo
Người, cần phải đưa trí thức tham gia trực tiếp vào công cuộc kháng chiến, kiến
quốc, để “anh em trí thức cũng biết trọng lao động, cũng biết làm lao động, hợp
thành một khối với công nông, nâng cao trình độ công nông về văn hóa lý luận”.
Từ quan điểm chỉ đạo đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều trí thức đã hăng hái
xung phong ra tiền tuyến, trực tiếp vào các nhà máy, ruộng đồng, học tập, lao
động, xây dựng ý thức phục vụ công nông, cải tạo tư tưởng, sửa đổi lối làm việc,
trở thành những trí thức cách mạng chân chính. Bởi vì, chỉ có gắn bó với công
nông, phục vụ, suy tư, trăn trở về những vấn đề có liên quan đến vận mệnh của đất
nước, dân tộc, hạnh phúc của nhân dân, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục
vụ nhân dân, trí thức mới khẳng định được vai trò, vị trí của mình đối với sự phát
triển của đất nước, dân tộc. Đó cũng chính là tiền đề quan trọng để khối liên minh
công - nông - trí ngày càng được củng cố bền chặt, tăng cường sức mạnh và thực
sự trở thành hạt nhân của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

12

KẾT LUẬN
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài của Đảng và nhân dân ta, người thầy
vĩ đại của cách mạng Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa
thế giới”, Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta một di sản tinh
thần vô giá - tư tưởng Hồ Chí Minh, được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực. Trong
đó, tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc là vấn đề nhất quán, nổi bật và xuyên suốt
toàn bộ hoạt động lý luận, thực tiễn phong phú của Người. Tư tưởng đó được hình
thành trên nền tảng truyền thống đoàn kết trong hàng nghìn năm dựng nước và giữ
nước của dân tộc, nhất là khi cách mạng Việt Nam có Đảng lãnh đạo; cũng như
tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của phong trào đấu tranh giải phóng dân
tộc trên thế giới; đặc biệt, là sự thấm nhuần, vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, về đoàn kết
trong đảng, đoàn kết giai cấp, đoàn kết quốc tế vào điều kiện cụ thể của cách mạng
Việt Nam.
Tags