triết phú.docx môn nay là môn triết học nha mọi người

quangphudang 20 views 3 slides Nov 27, 2024
Slide 1
Slide 1 of 3
Slide 1
1
Slide 2
2
Slide 3
3

About This Presentation

triết học


Slide Content

*Quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại.
Quy luật này chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận động và phát triển, khi cho thấy sự thay đổi về
chất chỉ xảy ra khi sự vật, hiện tượng đã tích luỹ những thay đổi về lượng đạt đến ngưỡng nhất định.
Quy luật cũng chỉ ra tỉnh chất của sự vận động và phát triển, khi cho thấy sự thay đổi về lượng của
sự vật, hiện tượng diễn ra từ từ kết hợp với sự thay đổi nhảy vọt về chất làm cho sự vật, hiện tượng
vừa tiến bước tuần tự, vừa có những bước đột phá vượt bậc.
-Nội dung quy luật được vạch ra thông qua việc làm rõ các khái niệm, phạm trù có liên quan.
Khái niệm chất: dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là sự thống
nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với cái khác.
+ Khái niệm chất không đồng nhất với khái niệm thuộc tỉnh. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có những
thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Thuộc tính cơ bản hợp thành chất của sự vật. Khi thuộc tính cơ
bản thay đổi thì chất của của nó thay đổi. Việc phân biệt thuộc tỉnh cơ bản và không cơ bản của sự
vật tùy theo quan hệ cụ thể.
+ Chất của sự vật, hiện tượng không những được xác định bởi chất của các yếu tố cấu thành mà còn
bởi cấu trúc và phương thức liên kết giữa chúng, thông qua các mối liên hệ cụ thể. Mỗi sự vật, hiện
tượng không chỉ có một chất, mà có nhiều chất, tùy thuộc vào các mối quan hệ cụ thể của nó với
những cái khác. Chất không tồn tại thuần túy tách rời sự vật, biểu hiện tính ổn định tương đối của
nó.
Khái niệm lượng: dùng để chỉ tỉnh quy định khách quan vốn có của sự vật về các phương diện: số
lượng các yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của các quá trình vận động, phát
triển của sự vật
Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là một thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng, 2 mặt đó
không tách rời nhau mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng. Sự thay đổi về lượng tất yếu sẽ dẫn
tới sự chuyển hóa về chất của biện chứng tượng. Tuy nhiên, không phải sự thay đổi về lượng bất kỳ
nào cũng dẫn đến sự thay đổi về chất. Ở một giới hạn nhất định, sự thay đổi về lượn chưa dẫn tới sự
thay đổi về chất. Giới hạn mà sự thay đổi về lượng chưa làm chất thay đổi được gọi là độ.
Khái niệm độ chỉ tỉnh quy định, mối liên hệ thống nhất giữa chất và lượng, là khoảng giới hạn mà
trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, trong
giới hạn của độ, sự vật, hiện tượng vẫn còn là nó, chưa chuyển hóa thành sự vật và hiện tượng khác
Sự vân động, biến đổi của sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Khi lượng thay
đổi đến một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến những sự thay đổi về chất. Giới hạn đó chính là
điểm nút. Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút, với những điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn tới
sự ra đời của chất mới. Đây chính là bước nhảy trong quá trình vận động, phát triển của sự vật.
Bước nhảy là sự chuyển hóa tất yếu trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Sự thay đổi về
chất diễn ra với nhiều hình thức bước nhảy khác nhau, đó là các bước nhảy: nhanh và chậm, lớn và
nhỏ, cục bộ và toàn bộ... Bước nhảy là kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển; đồng thời đó
cũng là điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới, phát triển liên tục của sự vật. Trong thể giới luôn diễn

ra quá trình biến đổi tuần tự về lượng dẫn đến bước nhảy về chất, tạo ra một đường nút vô tận, thể
hiện cách thức vận động và phát triển của sự vật từ thấp lên cao.
Chất mới ra đời có sự tác động trở lại lượng của sự vật. Chất mới tác động tới lượng của sự vật trên
nhiều phương diện như: làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát
triển của sự vật.
Từ những điều trình bày ở trên có thể khái quát lại nội dung cơ bản của quy luật như sau: Mọi sự
vật đều là sự thống nhất của hai mặt đối lập chất và lượng, những sự thay đổi dần dần về lượng
vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn đến sự thay đổi căn bản về chất của nó thông qua bước nhảy, chất
mới ra đời tiếp tục tác động trở lại duy trì sự thay đổi của lượng.
Ý nghĩa phương pháp luận
-Thứ nhất, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải biết tích luỹ về lượng để có
biến đổi về chất; không được nôn nóng cũng như không được bảo thủ.
-Thứ hai, khi lượng đã đạt đến điểm nút thì thực hiện bước nhảy là yêu cầu khách quan của sự
vận động của sự vật, hiện tượng, tư tưởng nôn nóng thường biểu hiện ở chỗ không chú ý
thỏa đáng đến sự tích luỹ về lượng mà cho rằng, sự phát triển của sự vật, hiện tượng chỉ là
những bước nhảy liên tục; ngược lại, tư tưởng bảo thủ thường biểu hiện ở chỗ không dám
thực hiện bước nhày, coi sự phát triển chỉ là những thay đổi về lượng. Do vậy, cần khắc phục
cả hai biểu hiện trên.
-Thứ ba, sự tác động của quy luật này đòi hỏi phải có thái độ khách quan, khoa học và quyết
tâm thực hiện bước nhày; tuy đều có tính khách quan, nhưng quy luật xã hội chỉ diễn ra
thông qua hoạt động có ý thức của con người; do vậy, trong hoạt động thực tiễn, không
những cần xác định quy mô và nhịp điệu bước nhảy một cách khách quan, khoa học, chống
tư tưởng giáo điều, rập khuôn.
-Thứ tư, quy luật yêu cầu phải nhận thức được sự thay đổi về chất còn phụ thuộc vào phương
thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật, hiện tượng, do đó, phải biết lựa chọn phương
pháp phù hợp để tác động vào phương thức liên kết đó trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật
của chúng.
* Quy luật thống nhất và đấu tranh các mặt đối lập
Quy luật thống nhất và đấu tranh các mặt đối lập thể hiện bản chất, là hạt nhân của phép biện chứng
duy vật, bởi nó đề cập tới vấn đề cơ bản và quan trọng nhất của phép biện chứng duy vật - vấn đề
nguyên nhân, động lực của sự vận động, phát triển.
- Khái niệm mâu thuẫn: dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt
đối lập của mỗi sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
- Nhân tố tạo thành mâu thuẫn là mặt đối lập. Khái niệm mặt đối lập dùng để chỉ những mặt, những
thuộc tính, những khuynh hướng vận động trái ngược nhau nhưng đồng thời lại là tiền đề tồn tại của
nhau. VD: điện tích âm và điện tích dương trong một nguyên tử, đồng hóa và dị hóa của một cơ thể
sống, sản xuất và tiêu dùng trong hoạt động kinh tế, chân lý và sai lầm trong quá trình phát
*Quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại.
Quy luật này chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận động và phát triển, khi cho thấy sự thay đổi về
chất chỉ xảy ra khi sự vật, hiện tượng đã tích luỹ những thay đổi về lượng đạt đến ngưỡng nhất định.

Quy luật cũng chỉ ra tính chất của sự vận động và phát triển, khi cho thấy sự thay đổi về lượng của
sự vật, hiện tượng diễn ra từ từ kết hợp với sự thay đổi nhảy vọt về chất làm cho sự vật, hiện tượng
vừa tiến bước tuần tự, vừa có những bước đột phá vượt bậc.
Nội dung quy luật được vạch ra thông qua việc làm rõ các khái niệm, phạm trù có liên quan.
Khái niệm chất: dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là sự thống
nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với cái khác.
+ Khái niệm chất không đồng nhất với khái niệm thuộc tính. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có những
thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Thuộc tính cơ bản hợp thành chất của sự vật. Khi thuộc tính cơ
bản thay đổi thì chất của của nó thay đổi. Việc phân biệt thuộc tính cơ bản và không cơ bản của sự
vật tùy theo quan hệ cụ thể.
+ Chất của sự vật, hiện tượng không những được xác định bởi chất của các yếu tố cấu thành mà còn
bởi cấu trúc và phương thức liên kết giữa chúng, thông qua các mối liên hệ cụ thể. Mỗi sự vật, hiện
tượng không chỉ có một chất, mà có nhiều chất, tùy thuộc vào các mối quan hệ cụ thể của nó với
những cái khác. Chất không tồn tại thuần túy tách rời sự vật, biểu hiện tính ổn định tương đối của
nó.
Khái niệm lượng: dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật về các phương diện: số
lượng các yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của các quá trình vận động, phát
triển của sự vật
Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là một thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng. 2 mặt đó
không tách rời nhau mà tác động lẫn nhau một cách
Tags