4
Đặc điểm lâm sàng
Các dấu hiệu và triệu chứng
Đa số bệnh nhân HCC có tiền sử bệnh lý gan đã hoặc đang mắc do các nguyên
nhân khác nhau. Yếu tố nguy cơ chính của HCC là xơ gan; 70–90% HCC phát triển
trên xơ gan nốt lớn. Triệu chứng của HCC bao gồm: đau bụng, mệt mỏi, chán ăn và sụt
cân, buồn nôn hoặc nôn. Các triệu chứng này liên quan đến các bệnh lý của gan, xơ gan
hoặc các biến chứng của bệnh hay do khối u gây ra. Đa số các dấu hiệu lâm sàng của
HCC là gan to, cổ trướng, sốt, tắc mật, lách to. Xét nghiệm nhằm phát hiện các bệnh lý
gan trước đó, bao gồm một số men gan như: aspartate amino transferase (AST),
alanine aminotransferase(ALT), alkaline phosphatase(AP), gamma-glutamyl-
transpeptidase (GGT) và bilirubin. Đây không phải là các xét nghiệm đặc hiệu cho
HCC. Mức tăng alpha-fetoprotein (AFP) trên > 500 ng/ml, hoặc vẫn tiếp tục tăng ngay
cả khi dưới 100 ng/ml gợi ý nhiều HCC. Tuy nhiên, không phải tất cả các trường hợp
HCC đều có tăng AFP và AFP tăng cao cũng có thể gặp trong các bệnh lý gan không
phải HCC. Hơn nữa, trong giai đoạn đầu của HCC, lượng AFP không tương xứng với
giai đoạn lâm sàng.
Lượng AFP cần được đánh giá cụ thể trên từng bệnh nhân kết hợp các triệu
chứng lâm sàng và chẩn đoán hình ảnh. Dấu ấn đặc hiệu của HCC khác là des-gamma-
carboxyprothrombin (DCP) thường đồng hành cùng AFP. Một số trường hợp bệnh nhân
HCC có hội chứng cận u, bao gồm tăng hồng cầu, giảm đường máu, tăng can xi máu.
Chẩn đoán hình ảnh
Chẩn đoán hình ảnh rất quan trọng để xác định và định vị tổn thương trong điều
trị HCC. Các kỹ thuật có giá trị bao gồm: siêu âm gan và ổ bụng, siêu âm Doppler
mạch, CT, CT có tiêm lipiodol, cộng hưởng từ, chụp mạch, PET (positron emission
tomography). Kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh tiêu chuẩn là siêu âm và CT. Với đa số
trường hợp, kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh này cho phép phát hiện HCC và định giai
đoạn. Trường hợp có nghi ngờ HCC di căn cần làm thêm X-quang lồng ngực, xạ hình
xương, hoặc các kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh bổ sung khác nếu thấy cần thiết.
Sinh thiết gan
Chẩn đoán HCC phải dựa trên xét nghiệm mô bệnh học vùng tổn thương nhất là
các trường hợp không có tăng AFP. Sinh thiết qua da dưới hướng dẫn của siêu âm hoặc
CT bằng kim 22-gauge thường cung cấp đủ mô cho chẩn đoán và giảm thiểu các tai
biến chảy máu và reo rắc u dọc theo đường kim chọc. Tuy nhiên, với bệnh nhân có
lượng AFP tăng còn có khả năng phẫu thuật hoặc ghép gan thì không nhất thiết phải
sinh thiết gan để giảm nguy cơ lan rộng u trước khi phẫu thuật.