Các Sách Ngôn Sứ (Mikha) ban van hy vong.pptx

tanvu5076 6 views 80 slides Oct 17, 2025
Slide 1
Slide 1 of 80
Slide 1
1
Slide 2
2
Slide 3
3
Slide 4
4
Slide 5
5
Slide 6
6
Slide 7
7
Slide 8
8
Slide 9
9
Slide 10
10
Slide 11
11
Slide 12
12
Slide 13
13
Slide 14
14
Slide 15
15
Slide 16
16
Slide 17
17
Slide 18
18
Slide 19
19
Slide 20
20
Slide 21
21
Slide 22
22
Slide 23
23
Slide 24
24
Slide 25
25
Slide 26
26
Slide 27
27
Slide 28
28
Slide 29
29
Slide 30
30
Slide 31
31
Slide 32
32
Slide 33
33
Slide 34
34
Slide 35
35
Slide 36
36
Slide 37
37
Slide 38
38
Slide 39
39
Slide 40
40
Slide 41
41
Slide 42
42
Slide 43
43
Slide 44
44
Slide 45
45
Slide 46
46
Slide 47
47
Slide 48
48
Slide 49
49
Slide 50
50
Slide 51
51
Slide 52
52
Slide 53
53
Slide 54
54
Slide 55
55
Slide 56
56
Slide 57
57
Slide 58
58
Slide 59
59
Slide 60
60
Slide 61
61
Slide 62
62
Slide 63
63
Slide 64
64
Slide 65
65
Slide 66
66
Slide 67
67
Slide 68
68
Slide 69
69
Slide 70
70
Slide 71
71
Slide 72
72
Slide 73
73
Slide 74
74
Slide 75
75
Slide 76
76
Slide 77
77
Slide 78
78
Slide 79
79
Slide 80
80

About This Presentation

Các Sách Ngôn Sứ (Mikha) ban van hy vong


Slide Content

Sách ngôn sứ Mi-kha

Mi-kha và các ngôn sứ cùng thời : - Ta chỉ muốn cho lẽ phải như nước tuôn trào, cho công lý như dòng suối không bao giờ cạn. (Am 5,24) - Vì Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ, thích được các ngươi nhận biết hơn là được của lễ toàn thiêu. (Hs 6,6) - Hãy tập làm điều thiện, tìm kiếm lẽ công bình, sửa phạt người áp bức, xử công minh cho cô nhi, biện hộ cho quả phụ. (Is 1,17)

‎ הִגִּיד לְךָ אָדָם מַה־טּוֹב וּמָה־יְהוָה דּוֹרֵשׁ מִמְּךָ כִּי אִם־עֲשׂוֹת מִשְׁפָּט וְאַהֲבַת חֶסֶד וְהַצְנֵעַ לֶכֶת עִם־אֱלֹהֶיךָ׃ εἰ ἀνηγγέλη σοι ἄνθρωπε τί καλόν ἢ τί κύριος ἐκζητεῖ παρὰ σοῦ ἀλλ᾽ ἢ τοῦ ποιεῖν κρίμα καὶ ἀγαπᾶν ἔλεον καὶ ἕτοιμον εἶναι τοῦ πορεύεσθαι μετὰ κυρίου θεοῦ σου “Hỡi người, bạn đã được nói cho hay điều nào là tốt, điều nào ĐỨC CHÚA đòi hỏi bạn: đó chính là thực thi công bình, quý yêu nhân nghĩa và khiêm nhường bước đi với Thiên Chúa của bạn.” “Người ta đã nói cho bạn, hỡi con người, điều nào là tốt, và điều nào ĐỨC CHÚA đòi hỏi từ bạn : thật vậy, ấy là thực thi công lý, yêu chuộng tình thương và bước đi khiêm nhường với Thiên Chúa của bạn.” (Mk 6,8 KPB)

- Mi-kha người Mô-re-sét, gần thành Gát thuộc duyên hải tây nam Pa-lét-tin. Bắt đầu sứ vụ khoảng năm 710 thời các vua Giô-tham, A-khát và Khít-ki-gia. - Ông tuyên sấm ở Giê-ru-sa-lem, lên án các tệ nạn của các thành thị, những bất công xã hội, các thỏa hiệp với ngoại bang và những thực hành tôn giáo mê tín (x. Mk 2,1-11 ; 3,1-12 ; 5,4-13 ; 6,10-12). - Ông chứng kiến sự sụp đổ của miền Bắc năm 721 (1,6-7) và những cuộc vây hãm, tàn phá ở miền Nam năm 701 (x. 1,8-16 ; 3,12).

Nội dung sách Mi-kha (Bố cục I) - phần một (cch. 1-2) : Thiên Chúa phán xét Ít-ra-en và Giu-đa. - phần hai (cch. 3-5) : Thiên Chúa phán xét riêng các nhà lãnh đạo và các ngôn sứ giả. - phần ba (cch. 6-7) : Dân Chúa bị ruồng rẫy, bị cáo tội và sẽ được phục hồi.  Sau một lời đe dọa (cch. 1-3 và 6,2-7,7) lại có một lời hứa an ủi (cch. 4-5 và 7,8-20)

Thực trạng thời Mi-kha - Tình trạng luân lý và tôn giáo : các tệ đoan xã hội đi liền với niềm tin biến tướng. - Nền phụng tự chỉ tập trung vào bề ngoài. - Thiên Chúa luận phạt về những lỗi phạm, soi vào lương tâm của dân Người (Mk 6,8). - Ngôn sứ kêu gọi dân hoán cải (Mk 4,1-5 ; 5,1-5)

Một số điểm nhấn quan trọng - Đấng Thiên Sai sinh tại Bê-lem (Mk 5,1-3). - Bê-lem Ép-ra-tha (khác Bê-lem miền Ga-li-lê [Gs 19,15]). Bê-lem là nơi nhỏ bé (Gs 15,59 ; Er 2,21 ; Nkm 11,25). - Nguồn gốc của Đấng Thiên Sai có từ thuở xa xưa (dòng dõi vua Đa-vít [1Sam 17,12 ; R 4,11.17.18-22] ; gốc gác thiên giới [Is 9,6]). - Thân mẫu Đấng Thiên Sai (x. 4,9-10) như được ghi trong lời sấm Is 7,14. - Một dân tộc hợp nhất sau thời gian được sửa dạy và thanh luyện qua cuộc lưu đày.

Bố cục II (1) Các chương 1-3 gồm hầu hết là lời cảnh báo về tai họa, những phê bình nhắm trực tiếp vào các thành phần khác nhau trong “nhà Ít-ra-en” (x. Mk 1,5a ; 3,1-9).  L ời sấm Xi-on Giê-ru-sa-lem sẽ hoàn toàn bị tàn phá (x. Mk 3,12). (2) Các chương 4-5 chứa đựng những sấm ngôn lớn về niềm hy vọng hướng về một cuộc khôi phục Xi-on Giê-ru-sa-lem như thể một thế lực chính trị hùng cường.  Đô thành Giê-ru-sa-lem sẽ có ngày khải hoàn, Giu-đa sẽ bình định hết tất cả những địch thù (x. Mk 4,7 ; 5,6-14). (3) Các chương 6-7 là một bộ sưu tập xen kẽ những phê bình và cảnh cáo (x. Mk 6,1-16), những lời ai ca (x. Mk 7,1-4), những lời cầu nguyện (x. Mk 7,7.14-20) và các sấm ngôn về niềm hy vọng như minh chứng sau cùng về định mệnh tốt lành cho Xi-on, nhất là trong tương quan với các quốc gia lân bang (x. Mk 7,8-13).

Từ khóa : Hãy nghe... ! Về mặt biên soạn, các học giả thường bám vào một manh mối nổi trội để đưa ra các ý kiến về cấu tạo và nội dung của quyển sách.  L ời khuyến cáo “ hãy nghe ...!” (Mk 1,2 ; 3,1.9 ; 6,1.2.9). Hãy nghe đây , hỡi chư dân, hãy lắng tai, này trái đất cùng muôn loài muôn vật! Từ thánh điện của Người, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng sẽ làm chứng tố cáo các ngươi. (Mc 1,2) ‎ שִׁמְעוּ עַמִּים כֻּלָּם הַקְשִׁיבִי אֶרֶץ וּמְלֹאָהּ וִיהִי אֲדֹנָי יְהוִה בָּכֶם לְעֵד אֲדֹנָי מֵהֵיכַל קָדְשׁוֹ׃

Biên soạn - Tiêu đề của quyển sách (Mk 1,1) phản ánh tinh thần Đệ Nhị Luật, cách riêng với thành ngữ “Có lời của ĐỨC CHÚA phán với ông Mi-kha...” ( ‎‎ אֶל־מִיכָה ... ‎ דְּבַר־יְהוָה ) và việc xác định thời gian qua việc nêu tên các vua Giô-tham, A-khát và Khít-ki-gia). - Người ta cho rằng, nội dung chính của sách Mi-kha bao gồm hầu hết các chương 1-5. Đây là phần sớm nhất được những nhà biên soạn theo trường phái Đệ-nhị-luật thực hiện. Những người này cũng đã thêm vào chương 6 và chương 7 và ghi chú thêm một số đoạn dẫn chẳng hạn như ở Mk 1,2 và 6,1-8 để làm thành một tác phẩm trọn bộ gồm hai phần : (1) Mk 1-5 ; (2) Mk 6-7.

Phần 1 Phần 2 Phần 3 Các tội ác và sự trừng phạt Gia-cóp (sấm ngôn chống lại Sa-ma-ri [Mk 1,5b-7] có lẽ được người biên soạn thêm vào sau) Số sót của Ít-ra-en trở thành một “dân tộc hùng cường” ngay tại núi Xi-on (4,7) và trên nhiều dân nước (4,11-13) Ít-ra-en lại bị kiện cáo, khiển trách và đe dọa. Cầu xin các nước phải hỗn độn (7,14-17) Các chương 1-3 Các chương 4-5 Các chương 6-7  Ba phần của sách Mi-kha

Xác định các bộ sưu tập Câu hỏi được đặt ra là, chúng ta dựa vào đâu để xác định bản văn nào trong bộ sưu tập này là của Mi-kha người Mô-re-sét (x. Mk 1,1) và đâu là phần được các học trò hay những nhà biên soạn thêm vào ? Gr 26,16-19 cho biết, cả trăm năm sau thời gian thi hành sứ vụ, Mi-kha vẫn được một số “người thuộc hàng kỳ mục” nhớ đến. Họ nhớ đến ông là một ngôn sứ đã tuyên sấm về sự sụp đổ của Xi-on chứ không nhớ đến những lời hy vọng đầy bình an vào tương lai của ông : “Ông Mi-kha, người Mô-re-sét, đã tuyên sấm vào thời vua Giu-đa là Khít-ki-gia ; ông ấy đã nói với toàn dân Giu-đa rằng : ‘ĐỨC CHÚA các đạo binh phán như sau : Xi-on sẽ thành ruộng cày, Giê-ru-sa-lem sẽ nên chốn tan hoang, và núi Đền Thờ hóa ra nơi cao rậm rạp !’”  Điều này cũng có vẻ phù hợp với lời tuyên bố xác thực sứ vụ và về chính bản thân Mi-kha. Ông nhấn mạnh rằng lời loan báo của ông là để “ cho nhà Gia-cóp biết tội phản nghịch, cho nhà Ít-ra-en biết tội lỗi của nó ” (Mk 3,8).

Bộ sưu tập đầu tiên Những lời tố giác và cảnh cáo trong các chương 1-3 là bộ sưu tập ban đầu của Mi-kha. Tại sao những lời cảnh báo này lại khác hẳn với những lời sấm liên quan đến lời hứa trong các chương còn lại. G iọng văn an ủi khích lệ thịnh hành trong những nhóm nhỏ Ít-ra-en trong thời kỳ sau khi biến cố Giê-ru-sa-lem bị những người Ba-bi-lon phá hủy năm 586 như chúng ta sẽ thấy trong Khác-gai và Da-ca-ri-a. Đ ó không phải là giọng văn lạc quan hy vọng mà Mi-kha hay những người đương thời có được ở thời điểm Xi-on / Giê-ru-sa-lem chưa bị tàn phá. Trong khi Mk 4,10 lại cho thấy sự kiện lưu đày dường như đang xảy ra trước mắt : “H ỡi con gái Xi-on, hãy đớn đau quằn quại, hãy kêu la như phụ nữ lúc sinh con, vì giờ đây, ngươi phải đi khỏi thành và ra đồng ruộng mà ở. Ngươi phải đi đến tận Ba-by-lon và tại đó ngươi sẽ được cứu thoát; ở đó ĐỨC CHÚA sẽ chuộc ngươi lại từ tay kẻ thù ngươi. ”

B. Con người Mi-kha 1. Tên tuổi và quê quán Mi-kha ( ‎ מִיכָה ) có nghĩa là “Ai như ?” một hình thức rút gọn của Mi-kha-giơ-hu (x. 1 V 22,9), có nghĩa là “Ai như Đức Chúa?” Đi kèm danh xưng này là địa danh Mô-rê-sét. Thành Mô-re-sét cũng có thể chính là “Mô-re-sét Gát” (x. Mk 1,14) . Ngôi làng này nằm ở hướng tây nam, cách Giê-ru-sa-lem khoảng 40 km (25 dặm), trên vùng triền núi đổ dốc về đồng bằng duyên hải. Mô-re-sét cũng có thể chính là thành Gát được đề cập tới ở 2 Sb 11,8. Đây là một trong số sáu thành thuộc vùng đất mà Rơ-kháp-am con của Sa-lô-môn đã biến thành những thành phòng thủ trong thời ông cai trị (931-913). Phòng tuyến này tạo tuyến đường vừa đáp ứng nhu cầu giao thông vừa là đường bảo vệ khi Giê-ru-sa-lem bị tấn công. Những người lính từ Giê-ru-sa-lem có thể đồn trú an toàn trong chuỗi thành này qua việc đóng trại gần nhau để giữ được thông tin liên lạc luôn thông xuốt với nhau (xc. 2 Sb 11,1-12).

 Là một người Giu-đa và sống cùng thời là A-mốt và I-sai-a nhưng khung cảnh sống của Mi-kha khá đặc biệt. Thế giới của ông không phải là những người chăn dắt đàn vật du cư như A-mốt, cũng chẳng phải là một cư dân Giê-ru-sa-lem như I-sai-a. Ông đã sống trong một vùng có những thành phòng thủ là tiền đồn phục vụ cho chính sự an toàn của Giê-ru-sa-lem.

3. Nghề nghiệp - Có học giả đã đưa ra ý riến rằng, trên thực tế những người kỳ mục Giê-ru-sa-lem hàng thế kỷ sau này vẫn nhớ đến Mi-kha không phải vì dòng dõi cha ông như cách thức người ta đặt tên theo truyền thống, nhưng là Mi-kha người Mô-re-sét. Gr 26,17-19 cũng chứa đựng khả thể cho thấy ông là một kỳ mục sống ở một ngôi làng đặc biệt, thậm chí có thể là một trưởng lão trong ngôi làng đó. - Những kỳ mục như thế và vai trò của họ được thể hiện rõ trong những “nhiệm vụ mang tính quốc gia” vẫn được nói đến ở một số những đoạn văn trong Sach Thánh chẳng hạn như ở Đnl 19,12 ; 21,1-4. 6. 19-20 ; R 4,1-12 ; 1 Sm 30,26 ; 1 V 8,1 ; 2 V 23,1 ; 2 Sb 19,5-8. Một trong những nhiệm vụ chính yếu của họ là giám sát xem người ta có thực thi công bình trong các thành trì của họ hay không (2 Sb 19,5-11). Vì thế, có lẽ không phải ngẫu nhiên mà Mi-kha trở thành người quan tâm trước hết đến những gì liên quan đến công bình, nhân nghĩa.

Tham khảo Sử Biên Niên 2 Sb 11,1-12 : Về tới Giê-ru-sa-lem, vua Rơ-kháp-am tập họp nhà Giu-đa và chi tộc Ben-gia-min, được một trăm tám mươi ngàn quân tinh nhuệ để giao chiến với Ít-ra-en và thu hồi vương quốc về cho Rơ-kháp-am. Nhưng có lời ĐỨC CHÚA phán với ông Sơ-ma-gia-hu, người của Thiên Chúa rằng : "Hãy nói với Rơ-kháp-am con của Sa-lô-môn vua Giu-đa, với toàn thể Ít-ra-en tại Giu-đa và tại Ben-gia-min rằng : 'ĐỨC CHÚA phán thế này : Các ngươi không được lên giao chiến chống anh em các ngươi ; ai nấy cứ về nhà mình, vì mọi chuyện là do Ta.'" Họ nghe lời ĐỨC CHÚA, và quay về, không đi đánh vua Gia-róp-am nữa. Vua Rơ-kháp-am ngự tại Giê-ru-sa-lem và xây dựng một số thành trì kiên cố tại Giu-đa. Các thành đó là : Bê-lem, Ê-tham, Tơ-cô-a , Bết Xua, Xô-khô, A-đu-lam, Gát, Ma-rê-sa, Díp, A-đô-ra-gim, La-khít, A-dê-ca, Xo-rơ-a, Ai-gia-lôn, và Khép-rôn. Các thành ở Giu-đa và Ben-gia-min này đều là những thành trì vững chắc. Vua củng cố các thành trì ấy, đặt trấn thủ, lập kho dự trữ lương thực, dầu và rượu . Thành nào cững có nhiều khiên thuẫn, giáo mác, và lực lượng được tăng cường tối đa. Thế là Giu-đa và Ben-gia-min hoàn toàn thần phục vua.

Mi-kha thuộc mẫu ngôn sứ nào ? Giống như I-sai-a với Giê-ru-sa-lem, có thể Mi-kha còn thực thi vai trò quan trọng này trong đời sống của làng quê của ông như thể là vị lãnh đạo được kỳ vọng, một vị cố vấn và cũng là thẩm phán. Như một người kỳ mục của Mô-re-sét, tuy nhiên, làng quê của ông cũng có một bối cảnh khác đáng cho chúng ta lưu tâm. Mi-kha có vẻ như rất giống với A-mốt , đặc biệt là trong thái độ không màng đến những người chỉ tập trung vào những truyền thống lễ nghi duy nhất ở Giê-ru-sa-lem, những người chỉ xem trọng Đền Thờ và Vương Quyền.  Giống như I-sai-a, Mi-kha cho rằng ĐỨC CHÚA có thể không ngự tại Núi Xi-on vì “Người sẽ là một thánh điện...” (x. Is 8,11-14, nhưng sẽ ngự trên toàn cõi đất. Từ nơi thánh của Người, ĐỨC CHÚA sẽ ngự xuống và dẹp bỏ những nơi cao, phạt dân Người vì tội lỗi của họ dù đó là Sa-ma-ri hay Giê-ru-sa-lem (xc. Mk 1,3-5a). Những lời ngôn sứ của ông cũng tránh đi những liên hệ mật thiết với vương triều Đa-vít.

4. Sứ vụ ngôn sứ Mi-kha tố cáo những ngôn sứ cùng thời với ông là những người bị tính tham tàn thúc đẩy. Mi-kha đúc kết lời tố cáo này qua một trong những lời chính ông thổ lộ trong sách (x. Mk 3,5-7). Ông nói rõ quan điểm của khác biệt của mình : “ phần tôi, trái lại, nhờ thần khí của ĐỨC CHÚA, tôi được đầy sức mạnh, công lý và can trường để loan báo cho nhà Gia-cóp biết tội phản nghịch, cho nhà Ít-ra-en biết tội lỗi của nó .” (Mk 3,8) Đây là biểu lộ duy nhất về sứ vụ ngôn sứ hay lời mời gọi thi hành sứ vụ của ông. Tuy nhiên trên bình diện này chúng ta có thể tạm kết luận rằng, cũng như những ngôn sứ cùng thời, sứ vụ ngôn sứ của ông tựu trung ở kinh nghiệm biến đổi cuộc đời một cách cụ thể. T rường hợp của Mi-kha lại tạo nên một mẫu thức khác biệt, không phải bằng việc lắng nghe tiếng gọi hay là trông thấy thị kiến, nhưng đơn thuần chỉ là một lệnh truyền rõ ràng cụ thể, đầy sức mạnh làm nên lòng can đảm đạo đức. Chỉ riêng điều này thôi cũng cho thấy ông khác với những kỳ mục đương thời với ông, đặt ông vào hàng các ngôn sứ mà loan báo đường ngay lẽ phải cho dân của ông bằng sức mạnh, công lý và can trường.

5. Bối cảnh lịch sử Về bối cảnh lịch sử thời Mi-kha, tiêu đề Mk 1,1 tỏ lộ sự nghiệp ngôn sứ của ông trải dài trong các triều đại của các vua Giu-đa là Giô-tham, A-khát và Khít-ki-gia. Như vậy, Mi-kha sống và hoạt động như một ngôn sứ trong suốt bốn thập kỷ, từ những năm 740 cho đến khoảng năm 687 ? Chúng ta có thể xác định thời điểm thi hành sứ vụ ở Gr 26,18 : “ Ông Mi-kha, người Mô-re-sét, đã tuyên sấm vào thời vua Giu-đa là Khít-ki-gia ; ông ấy đã nói với toàn dân Giu-đa rằng: “ĐỨC CHÚA các đạo binh phán như sau: Xi-on sẽ thành ruộng cày, Giê-ru-sa-lem sẽ nên chốn tan hoang, và núi Đền Thờ hoá ra nơi cao rậm rạp! ”  Khoảng 716 – 6 87 (Đập tan rắn đồng : 2 V 18,4)

Mk 1,8-16 : “Vì vậy, tôi muốn thương khóc và rống lên, tôi sẽ đi chân không và để mình trần, tôi sẽ rên rỉ như chó sói, khóc than như đà điểu. Vết thương của nó thật vô phương cứu chữa, vì vết thương ấy lan mãi đến Giu-đa, đụng tới cổng thành dân tôi ở, cho đến tận Giê-ru-sa-lem...”

- Những thành phòng thủ của Giê-ru-sa-lem bị Xan-khê-ríp tiến đánh và triệt hạ trong cuộc tàn phá xảy ra cho vùng Giu-đa vào năm 701. Hoạt động ngôn sứ của Mi-kha đã tập trung vào thời thời kỳ khủng hoảng trong lịch sử Ít-ra-en. Kể từ sau cái chết của Sa-gôn II năm 705, Giu-đa dưới sự lãnh đạo của vua Khít-ki-gia đã trải qua một thời kỳ thoát khỏi vòng kiểm soát của người Át-sua. Thay vì bị tàn phá bình địa thành được để lại an toàn. Việc giả định rằng Mi-kha đã hoạt động như một ngôn sứ trước thời kỳ này hay thậm chí còn sớm hơn cả triều các vua Giô-tham và A-khát xuất phát từ những đoạn văn chống Sa-ma-ri, chẳng hạn như ở Mk 1,5b-7. Nếu đây không phải là những lời do các nhà biên soạn thêm vào sau, thì giả thiết Mi-kha cũng có thể đã bắt đầu sứ vụ ngôn sứ của mình trước lúc Sa-ma-ri sụp đổ năm 721. P hần đông các học giả vẫn cho rằng thời gian thi hành sứ vụ của Mi-kha được xảy ra không lâu trước cuộc xâm chiếm Giu-đa của người Át-sua năm 701.

Sứ điệp sách Mi-kha 1. Tai ương đang đến ! Sứ điệp của sách Mi-kha khởi đi một cách ấn tượng ngay từ sấm ngôn đầu tiên 1,3-5a. Bằng những lời gợi nhớ về bài ca cổ xưa của bà Đơ-vô-ra ở Tl 5,4-5, Mi-kha họa lại hình ảnh Đức Chúa đang đi xuống từ nơi thánh trên trời của Người để sửa trị những nơi cao trên trái đất. Tuy nhiên, sự xuất hiện của Đức Chúa không phải là để giải cứu dân Người như trong thời của bà Đơ-vô-ra, mà là đánh phạt Giu-đa, đánh phạt “chính Giê-ru-sa-lem.” Đó là lý do mà Mi-kha thốt lên : “Vì vậy, tôi muốn thương khóc và rống lên, tôi sẽ đi chân không và để mình trần, tôi sẽ rên rỉ như chó sói, khóc than như đà điểu. Vết thương của nó thật vô phương cứu chữa, vì vết thương ấy lan mãi đến Giu-đa, đụng tới cổng thành dân tôi ở, cho đến tận Giê-ru-sa-lem...” (Mk 1,8-9).

Lời than van của Mi-kha - Những từ ngữ “điệp âm” giàu cảm xúc - Liệt kê mười hai thành trong một bài ai ca : “ Các ngươi đừng loan tin ở Gát ở... cũng đừng khóc lóc làm gì, tại Bết Lơ-áp-ra, hãy lăn lộn trên đất. Hỡi dân cư ở Sa-phia trần truồng, nhục nhã, hãy đi tới... Dân cư ở Xa-a-nan không dám ra khỏi thành; cảnh tang tóc tại Bết Ha Ê-xen khiến các ngươi không thể ở lại đó nữa. Dân cư ở Ma-rốt, lo sợ cho của cải mình, vì tai hoạ từ ĐỨC CHÚA giáng xuống tại cổng thành Giê-ru-sa-lem. Hỡi dân cư ở La-khít, hãy thắng ngựa vào xe. Chính ngươi mở đường cho con gái Xi-on phạm tội, vì nơi ngươi, người ta đã thấy các tội phản nghịch của Ít-ra-en. Vì thế, ngươi sẽ đem Mô-re-sét Gát làm của hồi môn. Còn Bết Ác-díp sẽ khiến các vua Ít-ra-en phải thất vọng. Hỡi dân cư ở Ma-rê-sa, Ta sẽ lại trao ngươi cho quân xâm lược, vinh quang của Ít-ra-en sẽ phải rời sang tận A-đu-lam. Hãy cắt tóc cạo đầu thương cho những người con yêu quý; hãy để đầu hói như diều hâu, thương cho chúng đã phải xa ngươi mà đi đày ” (1,10-16).

Quê hương điêu tàn Tất cả đều thuộc những thành làng quê quanh vùng Mi-kha đang sống. Đây là vùng mà các địch thù đã kéo đến vây hãm trước khi tiến về triệt hạ Giê-ru-sa-lem. Thực ra, vùng này cũng chính xác là nơi được xem như hành lang các thành phòng thủ mà quân Át-sua đã tàn phá trong cuộc xâm lăng Giu-đa năm 701 như những gì Xan-khê-ríp ghi lại. Rất có thể tiếng kêu thống thiết này được viết lại ngay trong cảnh bên bờ vực thảm họa.

2 V 18,13-37... 2 Sb 32,1-19... 13 Năm thứ mười bốn triều vua  Khít-ki-gia , vua  Át-sua  là  Xan-khê-ríp  tiến lên đánh mọi thành kiên cố của  Giu-đa  và đã chiếm được.  14 Vua  Giu-đa  là  Khít-ki-gia  mới sai người đến nói với vua  Át-sua  ở  La-khít  : “Tôi có tội, xin ngài lui binh cho, ngài bắt nộp gì, tôi cũng chịu.” Vua  Át-sua  bắt vua  Khít-ki-gia  phải nộp chín ngàn ký bạc và chín trăm ký vàng. 1 Sau khi nghe biết các sự việc và lòng trung thành của vua  Khít-ki-gia , thì  Xan-khê-ríp , vua  Át-sua  đến. Vua đến  Giu-đa , đóng trại trước các thành kiên cố và ra lệnh phá các tường thành.  2 Vua  Khít-ki-gia  thấy  Xan-khê-ríp  đến với ý đồ đánh  Giê-ru-sa-lem ,  3 nên bàn mưu với các thủ lãnh và dũng sĩ của mình ngăn chặn các mạch suối ở bên ngoài thành. Và họ đã ủng hộ vua.  Cuộc xâm lăng của vua  Xan-khê-ríp

15 Vua  Khít-ki-gia  nộp tất cả số bạc có trong Nhà  ĐỨC CHÚA  và trong kho đền vua. 4 Đông đảo dân chúng tụ tập lại, ngăn tất cả các suối và khe nước chảy qua vùng đất ấy. Họ nói : “Các vua  Át-sua  đến đây làm sao còn kiếm được nhiều nước nữa ?”  5 Vua phấn khởi, xây lại tất cả tường thành đổ nát, dựng những tháp canh và một bức tường khác bên ngoài. Vua còn củng cố  Mi-lô ,  Thành vua Đa-vít  và làm rất nhiều lao cũng như thuẫn.

16 Chính vào thời đó, vua  Khít-ki-gia  đập gẫy các cánh cửa của đền thờ  ĐỨC CHÚA , cũng như các khung cửa mà..., vua  Giu-đa , đã bọc bằng kim khí, lấy nộp cho vua  Át-sua . 6 Vua đặt các tướng lãnh cai quản dân chúng ; rồi triệu tập họ lại ở quảng trường của cổng thành  i  và khích lệ họ rằng :  7 “Mạnh bạo lên ! Can đảm lên ! Đừng sợ hãi, đừng kinh khiếp trước mặt vua  Át-sua  và trước tất cả đám đông đi với vua ấy, bởi vì  o Đấng ở với chúng ta mạnh hơn những người ở với vua ấy.  8 Ông ta chỉ có sức mạnh phàm nhân  k , còn chúng ta có  ĐỨC CHÚA  là Thiên Chúa của chúng ta,  o Đấng phù hộ và chiến đấu bên cạnh chúng ta.” Dân chúng được khích lệ vì những lời lẽ của  Khít-ki-gia , vua  Giu-đa .

Sứ mạng của quan chánh chước tửu 17 Từ  La-khít , vua  Át-sua  sai tướng tổng tư lệnh, quan đại thái giám và quan chánh chước tửu, cùng với một đạo binh hùng hậu, đến gặp vua  Khít-ki-gia  ở  Giê-ru-sa-lem . Họ tiến lên và đến  Giê-ru-sa-lem . Họ đứng gần kênh dẫn nước của hồ trên, phía đường dẫn tới cánh đồng Thợ Nện Dạ. Những lời phạm thượng của  Xan-khê-ríp 9 Sau đó,  Xan-khê-ríp , vua  Át-sua , ở lại  La-khít  cùng với tất cả binh lực. Vua sai thuộc hạ đến  Giê-ru-sa-lem  gặp  Khít-ki-gia , vua  Giu-đa , cùng toàn dân  Giu-đa  ở  Giê-ru-sa-lem  và nói rằng : 

18 Họ cho mời vua đến. Ra đón tiếp họ có ông  En-gia-kim , con ông  Khin-ki-gia-hu , đại nội thị thần, cũng như viên ký lục  Sép-na  và viên quản lý văn khố  Giô-ác , con ông  A-xáp .  19 Viên chánh chước tửu bảo các ông này : “Hãy nói với vua  Khít-ki-gia  : đại đế là vua  Át-sua  phán thế này : ‘Dựa vào niềm tin nào mà ông tin tưởng như thế ?  20 Ông tưởng rằng trong cuộc chiến, lời nói suông ngoài miệng thay thế được cho mưu kế và sức mạnh sao ? Giờ đây, ông tin tưởng vào ai mà dám nổi loạn chống ta ?  10 “ Xan-khê-ríp , vua  Át-sua , nói thế này : các ngươi tin tưởng vào cái gì mà cứ ở mãi trong  Giê-ru-sa-lem  bị vây hãm vậy ? 

21 Hoá ra ông tin tưởng vào que sậy giập nát là  Ai-cập  ; nó sẽ đâm thủng bàn tay kẻ vịn vào nó !  Pha-ra-ô  vua  Ai-cập  là vậy đó, đối với mọi kẻ tin tưởng vào ông ta.’  22 Có thể ông sẽ nói với tôi : ‘Chúng tôi tin tưởng vào  ĐỨC CHÚA , Thiên Chúa chúng tôi. Thế chẳng phải  Khít-ki-gia  đã dẹp các nơi cao và các bàn thờ của Người đó sao ? Ông ta đã chẳng nói với  Giu-đa  và  Giê-ru-sa-lem  rằng : Các ngươi sẽ sụp lạy trước bàn thờ này ở  Giê-ru-sa-lem  ? 11 Chẳng phải  Khít-ki-gia  đã phỉnh gạt các ngươi, để cho các ngươi chết đói chết khát khi nói rằng : ‘ ĐỨC CHÚA , Thiên Chúa của chúng ta sẽ giải thoát chúng ta khỏi tay vua  Át-sua  đó sao ?’  12 Lại chẳng phải  Khít-ki-gia  đã dẹp các tế đàn ở nơi cao và các tế đàn khác của Người đó sao ? Ông ta đã nói với người  Giu-đa  và người  Giê-ru-sa-lem  rằng : các ngươi chỉ sụp xuống lạy một tế đàn mà thôi và chỉ dâng hương trên tế đàn đó ?

23 Bây giờ ông hãy đánh cuộc với vua  Át-sua  chúa thượng tôi : Tôi cho ông hai ngàn con ngựa nếu ông tìm được người cưỡi.  24 Liệu ông có thể đẩy lui được một người thuộc hạng dở nhất trong nhóm bộ hạ của chúa thượng tôi không ? Thế mà ông lại cậy vào  Ai-cập  để có xe, có ngựa !  25 Bây giờ có phải ngoài ý muốn của  ĐỨC CHÚA  mà ta đã tiến đánh để tàn phá nơi này không ? Chính  ĐỨC CHÚA  đã phán với ta : ‘Hãy tiến đánh và tàn phá xứ này !’” 13 Há các ngươi chẳng biết ta và cha ta đã làm gì cho toàn dân thiên hạ ? Có phải thần minh của các nước thiên hạ đã giải phóng xứ sở chúng khỏi tay ta ?  14 Trong tất cả thần minh của các nước mà cha ông ta đã cho biệt hiến, đã có thần nào giải phóng được dân mình khỏi tay ta. Và Thiên Chúa các ngươi có thể giải phóng các ngươi khỏi tay ta chăng ?

26 Ông  En-gia-kim , con ông  Khin-ki-gia-hu , ông  Sép-na  và ông  Giô-ác  nói với viên chánh chước tửu : “ Xin  ngài dùng tiếng  A-ram  mà nói vì các tôi tớ ngài đây hiểu được. Ngài đừng nói tiếng  Giu-đa  với chúng tôi, kẻo dân ở trên tường thành nghe được.”  27 Viên chánh chước tửu nói : “Chẳng lẽ Chúa thượng tôi sai tôi đến nói những lời như thế với chúa thượng của ông hay với ông sao ? Chẳng phải là để nói với những người đang ngồi trên tường thành kia, đang phải ăn phân và uống nước tiểu của mình, cùng với các ông sao ?” 15 Vậy bây giờ các ngươi đừng để  Khít-ki-gia  lừa dối và phỉnh gạt như thế. Đừng tin vào ông ta, vì nếu không có thần của bất cứ nước nào hay vương quốc nào có thể giải phóng chúng khỏi tay ta và tay cha ông ta, thì ngay cả Thiên Chúa các ngươi cũng không giải phóng các ngươi khỏi tay ta được !”  16 Thuộc hạ của  Xan-khê-ríp  còn nói phạm đến  ĐỨC CHÚA  là Thiên Chúa và nói phạm đến  Khít-ki-gia , tôi tớ Người. 

28 Bấy giờ, viên chánh chước tửu đứng thẳng và hô lớn bằng tiếng  Giu-đa  rằng : “Hãy nghe lời đại đế, vua  Át-sua  :  29 Đức vua phán thế này : Đừng để  Khít-ki-gia  lừa dối các ngươi, vì ông ta không thể nào giải thoát các ngươi khỏi tay ta được.  30 Cũng đừng để  Khít-ki-gia  dụ dỗ các ngươi tin tưởng vào  ĐỨC CHÚA  khi ông ta nói : Chắc chắn  ĐỨC CHÚA  sẽ giải thoát chúng ta, và thành này sẽ không bị nộp vào tay vua  Át-sua . 17 Vua ấy cũng viết thư  o thoá mạ  ĐỨC CHÚA  là Thiên Chúa  Ít-ra-en  và nói phạm đến Người rằng : “Cũng như các thần của các nước thiên hạ đã không giải phóng dân mình khỏi tay ta, thì Thiên Chúa của  Khít-ki-gia  cũng không giải phóng dân mình khỏi tay ta được ?”  18 Rồi chúng dùng tiếng  Giu-đa  la lớn cho dân  Giê-ru-sa-lem  đang ở trên tường thành phải sợ hãi, kinh hoàng, để chiếm lấy thành.  19 Chúng nói về Thiên Chúa của  Giê-ru-sa-lem  y hệt như nói về các thần của các dân thiên hạ, coi đó như sản phẩm do tay người phàm.

31 Đừng nghe lời  Khít-ki-gia , vì vua  Át-sua  phán thế này : Hãy làm hoà với ta và ra đây ; ai nấy trong các ngươi vẫn được ăn hoa trái trong vườn nho, vườn vả của mình, vẫn được uống nước bể nhà mình,  32 cho tới khi ta đến đem các ngươi tới một xứ giống như xứ các ngươi, một xứ có lúa mì và rượu, xứ có bánh, có vườn nho và vườn ô-liu, xứ có dầu tươi và mật ong ; như vậy, các ngươi sẽ được sống và khỏi phải chết. Đừng nghe lời  Khít-ki-gia , vì ông ta phỉnh gạt các ngươi khi nói :  ĐỨC CHÚA  sẽ giải thoát chúng ta.

33 Hỏi rằng trong các thần của chư dân, đã có vị nào thật sự giải thoát xứ mình khỏi tay vua  Át-sua  chưa ?  34 Các thần của  Kha-mát  và  Ác-pát  ở đâu ? Các thần của  Xơ-phác-va-gim , của  Hê-na  và I-va ở đâu ? Họ có giải thoát được  Sa-ma-ri  khỏi tay ta chăng ?  35 Trong tất cả các thần của các xứ, hỏi đã có thần nào cứu được xứ của họ thoát khỏi tay ta chưa ? Vậy  ĐỨC CHÚA  cứu nổi  Giê-ru-sa-lem  khỏi tay ta sao ?”

36 Dân làm thinh, không đáp một lời ; vì vua đã ra lệnh : “Các ngươi đừng đáp lại hắn !”  37 Ông  En-gia-kim , đại nội thị thần, con ông  Khin-ki-gia  vào yết kiến vua  Khít-ki-gia -hu cùng với ông  Sép-na , ký lục, và ông  Giô-ác , quản lý văn khố, con ông  A-xáp . Họ xé áo mình ra, kể lại cho vua nghe những lời viên chánh chước tửu đã nói.

Những lời lẽ cay đắng vị ngôn sứ càng chất chồng thêm nữa qua lời tiên báo đầy kinh ngạc rằng, Giê-ru-sa-lem và dân chúng cũng không thoát khỏi những điều khủng khiếp sẽ giáng xuống : “Vết thương của nó thật vô phương cứu chữa, vì vết thương ấy lan mãi đến Giu-đa, đụng tới cổng thành dân tôi ở, cho đến tận Giê-ru-sa-lem” (Mk 1,9). Tuy nhiên, cho đến phần kết của ba chương đầu của quyển sách, Mi-kha mới mở ra một điều bất ngờ về nguyên nhân gây ra những đau thương cho Giê-ru-sa-lem :

“ Hãy nghe đây, hỡi các thủ lãnh nhà Gia-cóp, hỡi các tướng lãnh nhà Ít-ra-en, là những kẻ ghê tởm công lý và bẻ cong những gì ngay thẳng. Các ngươi xây Xi-on bằng máu, dựng Giê-ru-sa-lem bằng bất công. Các thủ lãnh của nó xét xử dựa theo quà cáp, các tư tế dạy bảo vì tiền, các ngôn sứ bói toán vì bạc. Chúng ỷ vào ĐỨC CHÚA mà nói: “ĐỨC CHÚA chẳng ở giữa chúng ta hay sao? Tai hoạ sẽ chẳng giáng xuống chúng ta đâu!” Bởi vậy, chính vì các ngươi lầm lỗi mà Xi-on sẽ thành ruộng cày, Giê-ru-sa-lem nên chốn tan hoang, và núi Đền Thờ hoá ra nơi cao rậm rạp ” (Mk 3,9-12)

Lập trường chống lãnh đạo Giu-đa ? “ Ông Mi-kha, người Mô-re-sét, đã tuyên sấm vào thời vua Giu-đa là Khít-ki-gia; ông ấy đã nói với toàn dân Giu-đa rằng: “ĐỨC CHÚA các đạo binh phán như sau: Xi-on sẽ thành ruộng cày, Giê-ru-sa-lem sẽ nên chốn tan hoang, và núi Đền Thờ hoá ra nơi cao rậm rạp! Có phải vì thế mà vua Giu-đa là Khít-ki-gia và toàn thể Giu-đa đã xử tử ông ấy? Há chẳng phải vua đã kính sợ ĐỨC CHÚA và làm cho nét mặt Đức Chúa dịu lại, khiến ĐỨC CHÚA hối tiếc về tai hoạ Người đã quyết định để lên án họ hay sao? Còn chúng ta, chính chúng ta lại muốn chuốc lấy cho mình một tai hoạ lớn lao như thế! ” (Gr 26,18-19).

Có người cho rằng, đây là dấu tích cho thấy có các ngôn sứ thể hiện lập trường đối chọi rõ rệt với nền thần học Giê-ru-sa-lem đang thịnh hành. Vương triều Đa-vít và đền thờ được thánh hiến không phải là bảo đảm để chống lại cuộc xâm lăng của người Át-sua sắp xảy đến. Một thế kỷ sau, ngôn sứ Giê-rê-mi-a sẽ phát biểu những lời mạnh mẽ tương tự, và cũng chính vì thế mà ông xuýt phải mất mạng (x. Gr 7,1-15 ; ch. 26). Giê-ru-sa-lem quả thực cũng chẳng thoát được những roi đòn đau đớn mà Đức Chúa giáng phạt trên toàn thể Giu-đa vào thời Giê-rê-mi-a.

2. Tại sao ? Sách Mi-kha cho biết : “Tất cả những điều ấy đều vì tội phản nghịch của Gia-cóp, vì tội lỗi của nhà Ít-ra-en. Ai đã khiến Gia-cóp phản nghịch, há chẳng phải Sa-ma-ri sao ? Ai đã xúi Giu-đa thờ ngẫu tượng, há chẳng phải Giê-ru-sa-lem sao?” (Mk 1,5). Giống như A-mốt, Hô-sê và I-sai-a trước đó, Mi-kha tin rằng thảm họa xâm lăng tàn phá là lời đáp trả của Đức Chúa đối với những tội lỗi bạo tàn hiển nhiên. Điều còn đặc biệt hơn nữa được mô tả ở những lời sấm lần lượt được trình bày trong các chương 2-3.

Người đọc có thể nhận diện được ba nhóm khác nhau mà các chương này đã đề cập : a. Những giới chức quân sự (hạng sĩ quan) : Mk 2,1-11 b. Những kỳ mục tại các thành : Mk 3,1-4. 9-12 c. Các ngôn sứ : Mk 3,5-8

Thể văn phóng sự ! Thể văn trong các câu này này thuộc thể loại tường thuật phóng sự. Theo đó mà chúng ta biết được không chỉ có những quan điểm mà Mi-kha nêu ra, nhưng còn là những phản ứng của người nghe ông nói (x. Mk 2,6-7), kể cả những phản ứng của Mi-kha đối với họ nữa (x. Mk 3,1.8). Có thể nói đây là một lối trình bày sứ điệp ngôn sứ khá độc đáo, sống động. Qua đó, người đọc thấy rõ hơn những gì đang thực sự xảy ra đàng sau cuộc gặp gỡ (có thể là đối thoại) của Mi-kha với từng nhóm này nói lên điều gì.

2.1. Quan quân bóc lột (2,1-11) Những người mà Mi-kha đã nhắm đến ở Mk 2,1-11 là những người có quyền lực rất lớn. Mi-kha nói đến kế hoạch mà họ định làm sau khi đã toan tính cả đêm. Tay họ sẵn quyền bính để thực hiện những âm mưu đó từ tảng sáng (x. Mk 2,1). Những người này cũng là những nhân vật đã ra lệnh cho Mi-kha đừng nói tiên tri nữa (x. Mk 2,6).

H ọ là ai ? Mô-re-sét là một thành phòng thủ trong chuỗi những thành phòng thủ tợ như một vành đai tiền phương bảo vệ Giê-ru-sa-lem để giúp thành chống lại những kẻ xâm lược tiến đến từ phía biển. Đây là lý do giúp chúng ta biết những người được kể ở Mk 2,1-11 là những sĩ quan thuộc những đạo quân từ Giê-ru-sa-lem hay từ những vùng khác trong miền đến chi viện và trú đóng. Lâu dần, họ trở thành những lực lượng như thể địa phương quân đồn trú lâu dài và am hiểu địa phương.

Tại sao họ lại muốn chiếm đất ? Về mặt địa lý, thời tiết tại Mô-re-sét rất ôn hòa, đặc biệt là vào mùa đông vì vùng đất này thấp hơn Giê-ru-sa-lem khoảng 400 mét. Thế nên đây thực sự là nơi khiến cho những binh sĩ muốn đóng trại lâu dài. Họ chọn những vùng đồi cao hay những nơi có cơ sở tài sản trong vùng để mua. Đấy có thể là căn nhà tiện nghi hơn cho họ và gia đình thay vì trại gia binh.

Tuy nhiên, nguồn cung đất đai và nhà cửa sẵn có để mua bán thật hiếm hoi, vì hầu như vùng đất này đều đã có chủ. Đây là vùng đất có những gia đình sinh sống ở đây từ rất nhiều thế hệ. Những gia đình này không muốn bán đất hương hỏa của họ, vì một mặt họ sẽ phải đối diện với tình trạng bấp bênh vô gia cư, lang thang và rất có thể kéo theo chuyện mất cả địa vị của một cư dân tự do. Nếu không sở hữu tài sản, đất đai, họ phải tìm cách rút khỏi cộng đồng hay có thể trở thành một nô lệ ở ẩn trong gia đình khác.

Hệ quả kéo theo là sự căng thẳng ngày càng gia tăng. Is 2,2 cho chúng ta thấy thực trạng, một đàng giới nhà binh ngày càng nuôi tham vọng chiếm đoạt : “ Muốn cánh đồng nào là chúng cướp lấy, muốn ngôi nhà nào là chúng chiếm đoạt. Chúng bắt giữ cả chủ lẫn nhà, cả người lẫn nghiệp .” Ngược lại, tầng lớp dân nghèo càng lúc càng chất chứa thêm ức uất vì bị tước đoạt tài sản của mình.

Tái hiện bi kịch Na-vốt Mi-kha khiến người đọc nhớ lại bi kịch liên quan tới vườn nho của ông Na-vốt ở 1 V 21. Khi ấy, vua A-kháp của Ít-ra-en muốn mua lấy vườn nho này để nối thêm vào dinh thự mùa đông của ông ở Gít-rơ-en để làm vườn rau cho mình. Nhưng người chủ của thửa đất thì khác, ông từ chối bán ruộng, ông nói : “Nhưng ông Na-vốt thưa với vua A-kháp : ‘Xin Đức Chúa đừng để tôi nhượng gia sản của tổ tiên tôi cho ngài!’” (1 V 21,3). Thất vọng vô cùng, A-kháp bỏ ngỏ sự việc đó. Nhưng khi người vợ X i-đôn của ông là I-de-ven biết chuyện thì thị bà ta lại hành động rất mưu mô. Vì không cùng truyền thống với những người Ít-ra-en, bà ta đưa đã ra một giải pháp thật tệ hại. Những bức thư gởi đến cho các kỳ mục khắp các thị thành điều gây tác động khiến họ xử với Na-vốt như tội phạm phải ném đá chết. Sau khi giết Na-vốt, vườn nho tức tốc về tay người chiếm đoạt.

Quy hoạch  Kế hoạch  Âm mưu ? “ Khốn thay những kẻ nằm trên giường toan tính chuyện xấu xa, lập mưu làm điều ác! Vừa tảng sáng đã đem ra thực hiện vì nắm sẵn quyền hành trong tay . .. ” (2,1-2). Những hành động theo kiểu này nhiều lần được nói đến như là điều luật cấm kỵ mà Ít-ra-en không được phạm tới (x. Xh 20,17 ; Lv 19,13 ; Cn 14,31 ; 28,3). Thế nhưng trên thực tế những hành động phạm luật như vậy vẫn xảy ra như thể người ta chẳng hay biết gì luật pháp hay tệ hơn nữa, họ đã hoàn toàn mất cảm thức trước hành động tội lỗi của họ. Án phạt giáng xuống họ là xứng đáng. Những gì họ phải đón lấy chính là một cuộc xâm lăng của người ngoại đang đến gần. Sẽ đến lúc đất đai của kẻ mạnh cũng lại rơi vào tay kẻ mạnh hơn (x. Mk 2,4).

Sự cố chấp của giới lãnh đạo Nhưng cảnh báo của Mi-kha vẫn không làm cho giới sĩ quan nhà binh bớt tham vọng. Chẳng những vậy, họ còn phản ứng lại vị ngôn sứ. Một cách đầy phẫn nộ, họ truyền bảo Mi-kha đừng cao hứng thốt ra lời phỉnh gạt (x. Mk 2,6-11). Họ làm vậy không phải chỉ vì điều mà Mi-kha loan báo có liên quan đến thói bóc lột của họ, nhưng bởi vì lời của Mi-kha còn công kích cả nền thần học giả hình của họ nữa !

“ Nhà Gia-cóp hỡi, liệu có thể nói : Đức Chúa đã hết kiên nhẫn rồi sao ? Lẽ nào Người lại hành động như thế ? Những điều tôi nói chẳng sinh ích lợi cho những kẻ theo đường chính trực hay sao ? ” (Mk 2,7). Mi-kha nói những lời nặng nề về những hạng tinh hoa cầm quyền thuộc vương triều, những người ỷ nại Đức Chúa nhân từ ưu đãi họ (x. Mk 3,11b) và không bao giờ muốn chấp nhận sự thể “nhục nhã sẽ không rời xa chúng ta” (Mk 2,6b).

Những tố cáo cụ thể Tiếp nối phản ứng mà của những người bị lên án thẳng thừng trong đoạn 2,8-11, Mi-kha chỉ ra những bạo tàn khủng khiếp mà chính họ sẽ phải chịu trách nhiệm : + các ngươi giựt áo choàng ra khỏi áo dài của những kẻ trở về từ mặt trận đang điềm nhiên đi đường (Mk 2,8); + phụ nữ của dân Ta, các ngươi đuổi khỏi mái nhà thân yêu của họ. Còn con cái họ, các ngươi đã vĩnh viễn lấy đi niềm vinh dự Ta đã ban cho chúng (Mk 2,9); + vì ngươi ra ô uế, nên sẽ bị tiêu diệt, một cuộc tiêu diệt vô cùng thảm khốc (Mk 2,10).

Đoạn văn trên kết thúc với lời bình luận đầy mỉa mai mà Mi-kha đã dành cho đối tượng là những người đang đối đáp với vị ngôn sứ : “Cứ đưa rượu đưa thức có men cho tôi uống, tôi sẽ nói tiên tri sao có lợi cho anh, thì người ấy chính là tiên tri của dân này !” (Mk 2,11). Đây là lời lẽ quật lại họ theo kiểu gậy ông đập lưng ông, trút cái hậu họa trên những người ngoan cố dù được nghe lời ngôn sứ cảnh báo.

2.2. Các kỳ mục vô tâm (Mk 3,1-4. 9-12) Những thính giả nghe thấy lời ngôn sứ trong hai đoạn Mk 3,1-4 và 3,9-12 khác với những thính giả ở đầu chương 2. Mi-kha nói về một số những “kỳ mục, thủ lãnh, tướng lãnh” thuộc nhà Ít-ra-en giờ đây chỉ còn lại miền đất Giu-đa. Mi-kha, cũng như với A-mốt và Hô-sê, thì Ít-ra-en là một dân đặc độc, một “Nhà” rất đặc biệt và được lãnh đạo bởi những “đầu mục” bị đòi hỏi nhiều hơn. Vì nhiệm vụ của những người thủ lãnh này phải là những người thường kỳ chú mục đến việc thi hành “sự công chính, công bình” (mishpat) trong các thành thị, làng mạc (x. Mk 3,1). Nếu chính Mi-kha là một trong số những đầu mục đặc biệt như vậy, thì những lời của ông trong phần này gây tác động rất lớn trên các đầu mục khác. Thậm chí cũng có thể gọi là lời tố cáo gởi đến cho cả hội đồng các kỳ mục vốn có vai trò rất quan trọng tại Giê-ru-sa-lem.

Những người khốn khổ Những lời cáo tội của Mi-kha chống lại họ như được nhân đôi sức nặng. Trước hết, họ là những người mà Mi-kha nói : “ Thế mà các ông lại ghét điều lành, ưa điều ác, các ông lột da khỏi thân người ta và lóc thịt khỏi xương của họ. Chúng ăn thịt dân tôi và lột da khỏi mình họ ; xương của họ, chúng đập gãy tan. Chúng chặt ra từng mảnh như thịt trong chảo, trong nồi ” (Mk 3,2-3). Lời ám chỉ ở đây có lẽ trực tiếp nhắm tới những nỗi thống khổ mà các cư dân trong những thành quanh vùng Mô-re-sét đang phải gánh chịu. Hoặc cũng có thể họ là những bần dân lao động nghèo đang rơi vào tay những kẻ dùng sức mạnh bóc lột tại Giê-ru-sa-lem.

Những người lao động bị cưỡng bức theo kiểu này là nguyên có cho những luận đề lớn ở vùng Giu-đa kể từ thời Sa-lô-môn cho tới mãi sau này (xc. 1 V 9,15-24 ; 12,6-16). Chắc hẳn chính nơi cư ngụ của Mi-kha, chính thành mà vị kỳ mục này cư ngụ cũng phải đối diện với vấn này dưới thời vua Út-di-gia. Ông vua này là người muốn bào sức dân để củng cố thêm sức mạnh quốc gia, cách riêng là các chi phí liên quan đến an ninh quốc phòng (x. 2 Sb 26,1-15).

Thời Mi-kha thi hành sứ vụ, vua Khít-ki-gia có lẽ cũng cố gắng củng cố và khôi phục sức mạnh vương quốc như vậy. Bằng chứng là đường kênh ngầm dẫn nước nổi tiếng dài hơn 500 mét (1,700 feet) chẳng hạn. Đường hầm này vẫn còn dùng được ở Giê-ru-sa-lem cho đến ngày nay (xc. 2 V 20,20 ; 2 Sb 32,2-4. 30).

Mk 3,9-12 N hững lời tố cáo của Mi-kha được xem là phương tiện, là võ khí chống lại giới áp bức như chúng ta thấy trong đoạn 3,9-12 : “ Hãy nghe đây, hỡi các thủ lãnh nhà Gia-cóp, hỡi các tướng lãnh nhà Ít-ra-en, là những kẻ ghê tởm công lý và bẻ cong những gì ngay thẳng. Các ngươi xây Xi-on bằng máu, dựng Giê-ru-sa-lem bằng bất công. Các thủ lãnh của nó xét xử dựa theo quà cáp, các tư tế dạy bảo vì tiền, các ngôn sứ bói toán vì bạc. Chúng ỷ vào ĐỨC CHÚA mà nói: “ĐỨC CHÚA chẳng ở giữa chúng ta hay sao? Tai hoạ sẽ chẳng giáng xuống chúng ta đâu!” Bởi vậy, chính vì các ngươi lầm lỗi mà Xi-on sẽ thành ruộng cày, Giê-ru-sa-lem nên chốn tan hoang, và núi Đền Thờ hoá ra nơi cao rậm rạp . ”

2Sb 26,6-15 : (cả trước thời Khít-ki-gia) Thế lực của vua  Út-di-gia -hu 6 Vua  Út-di-gia -hu xuất quân giao chiến với người  Phi-li-tinh , triệt hạ tường thành  Gát , tường thành  Giáp-ne , tường thành  Át-đốt , rồi kiến thiết các thành trong miền  Át-đốt  và miền của người  Phi-li-tinh .  7 Thiên Chúa đã hỗ trợ vua chống lại người  Phi-li-tinh , người  Ả-rập  cư ngụ ở  Gua Ba-an , và người  Mơ-u-nim .  8 Người  Am-mon  đã triều cống vua  Út-di-gia -hu ; danh tiếng vua vang đến tận ranh giới  Ai-cập , vì uy lực của vua đã đạt tới cao độ.

9 Vua  Út-di-gia -hu xây những tháp canh ở  Giê-ru-sa-lem , tại Cửa Góc, Cửa Thung lũng và Nơi Tiếp Nối ; vua tăng cường phòng thủ các tháp ấy.  10 Vua cũng xây những tháp canh trong sa mạc, đào nhiều giếng nước, vì vua có nhiều súc vật cả ở miền  Sơ-phê-la , lẫn trên miền cao nguyên ; lại có những người làm nghề nông, những người trồng nho trên miền núi và trên núi  Các-men , vì vua là người yêu chuộng đất đai.

11 Vua  Út-di-gia -hu có một lực lượng quân binh thiện chiến, được chia thành từng đội, tuỳ theo số người được kinh sư  Giơ-y-ên  và ký lục  Ma-a-xê-gia-hu  tuyển lựa ; lực lượng ấy thuộc quyền ông  Kha-nan-gia-hu , một trong số các tướng lãnh của vua.  12 Tổng số các trưởng tộc anh hùng dũng sĩ là hai ngàn sáu trăm người.  13 Dưới quyền họ, có một lực lượng chiến đấu gồm ba trăm lẻ bảy ngàn năm trăm chiến binh can trường mạnh mẽ để giúp vua chống chọi với quân thù.  14 Vua  Út-di-gia -hu đã chuẩn bị cho mỗi đạo quân : nào khiên, giáo, nào mũ chiến, áo giáp, nào cung tên và dây phóng đá.  15 Vua cũng chế tạo ở  Giê-ru-sa-lem  những cỗ máy theo sáng kiến của một người nghĩ ra, và đặt trên các tháp canh, các góc để phóng tên và đá lớn. Nhờ được trợ giúp  y  cách lạ lùng, vua trở nên hùng mạnh và danh tiếng đồn đãi đến tận nơi xa.

2.3. Các ngôn sứ thỏa hiệp Nhóm thứ ba mà người đọc có thể bắt gặp chính là các ngôn sứ được nói đến trong tiểu đoạn Mk 3,5-8 : “ Đức Chúa phán thế này về các ngôn sứ đã làm cho dân tôi lầm lạc : Khi răng chúng cắn được cái gì thì chúng hô: “Bình an”, còn khi không ai bỏ gì vào miệng chúng, thì chúng lại mở cuộc thánh chiến tấn công họ. Vì thế, các ngươi chỉ có đêm mà không có thị kiến, chỉ có tối tăm mà không bói toán được gì. Đối với các ngôn sứ, mặt trời sẽ lặn, và ngày sẽ ra tối tăm. Các nhà chiêm thị sẽ xấu hổ, bọn bói toán sẽ bẽ mặt hổ ngươi, tất cả bọn chúng phải che môi bịt miệng vì Thiên Chúa không đáp lời. Phần tôi, trái lại, nhờ thần khí của ĐỨC CHÚA, tôi được đầy sức mạnh, công lý và can trường để loan báo cho nhà Gia-cóp biết tội phản nghịch, cho nhà Ít-ra-en biết tội lỗi của nó. ”

Những lời của Mi-kha gởi đến họ có độ châm biếm đậm đặc. Họ nói bình an khi họ có ăn, nhưng khi không có ai cho họ thức gì để bỏ vào miệng thì họ lại tấn công người khác (x. Mk 3,5). Họ cũng chẳng khác gì những kẻ hành động chỉ vì tiền mà chúng ta vừa tìm hiểu ở trên. Đây là lý do tại sao mà Mi-kha đã thương cho dân mình bị dẫn đi đến chỗ lầm lạc.

B. Sứ điệp cho hôm nay Các sấm ngôn của Mi-kha chủ yếu được thu tập lại trong các chương 1-3, tuy nhiên xứ điệp mà Mi-kha muốn gởi đến cho các độc giả hôm nay được nối dài thêm rất nhiều trong những chương được biên tập thêm. Tương lai của Xi-on tùy thuộc vào việc xét xử, và trong mọi trường hợp, thì ấy là chủ để chính yếu nhất của Mk 1-3. Người đọc sẽ hiểu thêm ý nghĩa của chủ đề này trong phần thứ hai gồm các chương từ 4-7. Ngay từ đoạn mở đầu Mk 4,1-5, phần viễn cảnh tương lai như thể đền bù cho hình ảnh bi thương ở Is 2,1-5. Trong phần này Giê-ru-sa-lem không chỉ được khôi phục lại, nhưng còn là một trung tâm an bình thịnh vượng.

Tuy nhiên, những phác thảo tương lai trong phần mang cung giọng cục bộ hơn. Niềm hy vọng được nhấn mạnh nhất chính là triều đại của Đa-vít sẽ được phục hồi cùng với việc Dân Ít-ra-en được quy tụ về một mối. Sự vĩ đại và sức mạnh được trải rộng vô biên (x. Mk 4,3). Chính vì thế, Ít-ra-en một lần nữa sẽ là “dân hùng cường” thậm chí là siêu cường (x. Mk 4,7) như thời vua Đa-vít (x. Mk 4,8 ; 7,11-12).

Phê bình bất công xã hội Trong khi đó, những nội dung tiếp nối đã lập lại những phê bình xã hội như thể khẳng định thêm đặc điểm nổi trội của gia sản Mi-kha. Rất có thể đó là đóng góp của những người biên soạn. Chẳng hạn như những lời cảnh báo trong đoạn Mk 6,1-14, người đọc thấy lại bóng dáng Sa-ma-ri bị biến thành nơi hoang tàn ở Mk 1,6-7 và 6,16.

“ Các ngươi hãy nghe điều ĐỨC CHÚA phán: “Đứng lên! Hãy mở một vụ kiện trước các núi, các đồi phải nghe tiếng của ngươi!” Hãy nghe vụ kiện của ĐỨC CHÚA, hỡi các núi, hỡi nền tảng vững bền của cõi đất, nghe đây! Vì ĐỨC CHÚA đang kiện cáo dân Người, Người tranh luận với Ít-ra-en. “Dân Ta hỡi, Ta đã làm gì ngươi? Ta đã làm chi khiến ngươi phiền lòng? Hãy trả lời cho Ta. Phải chăng vì Ta đã đưa ngươi lên từ đất Ai-cập, đã giải thoát ngươi khỏi cảnh tôi đòi, đã sai Mô-sê, A-ha-ron và Mi-ri-am đến hướng dẫn ngươi?” Dân Ta hỡi, hãy nhớ lại những gì Ba-lác, vua Mô-áp, đã dự định và những gì Bi-lơ-am, con Bơ-o, đã trả lời cho nó?

... từ Sít-tim cho đến Ghin-gan, để ngươi nhận biết hồng ân của ĐỨC CHÚA. [Dân tự hỏi mình rằng:] “Tôi sẽ mang gì vào chầu ĐỨC CHÚA và cúi mình trước Thiên Chúa tối cao? Phải chăng tôi sẽ mang những lễ toàn thiêu, những con bê một tuổi vào chầu Đức Chúa? Phải chăng ĐỨC CHÚA ưa thích từng ngàn dê đực, và hằng vạn suối dầu? Phải chăng tôi sẽ dâng con trai đầu lòng để chuộc lỗi cho tôi, dâng con ruột để đền tội cho chính mình?” [Ngôn sứ đáp:] “Hỡi người, bạn đã được nói cho hay điều nào là tốt, điều nào ĐỨC CHÚA đòi hỏi bạn: đó chính là thực thi công bình, quý yêu nhân nghĩa và khiêm nhường bước đi với Thiên Chúa của bạn” (Mk 6,1-8).

9 Đây là tiếng  ĐỨC CHÚA  kêu gọi thành, – kính sợ danh Ngài là điều thật khôn ngoan. Hãy nghe, hỡi chi tộc và đại hội của thành. 10 Hỡi nòi gian ác, làm sao Ta chịu nổi những của cải chiếm được bằng dối gian, ê-pha thiếu hụt, xấu xa ghê tởm ? 11 Ta coi là liêm chính thế nào được những bàn cân gian trá, những túi đựng các quả cân gian ? 12 Hạng giàu có trong thành thì hung hãn, còn dân thành lại quen ăn gian nói dối, miệng hay nói lời lẽ gian tà.

13 Bây giờ, đến lượt Ta, Ta bắt đầu trừng phạt ngươi, vì tội ngươi, Ta sẽ làm cho ngươi ra hoang tàn đổ nát. 14 Phần ngươi, ngươi sẽ ăn mà không được no thoả, nạn đói kém sẽ hành hạ ngươi. Ngươi cất giấu, nhưng không thể đem đi an toàn, những gì ngươi đem đi an toàn, Ta sẽ nộp cho gươm.

Trường phái Đệ Nhị Luật Đoạn văn này mang âm hưởng của trường phái Đệ Nhị Luật. Các tác giả của nó rất có thể là những người đã nhìn lại các ngôn sứ ở thế kỷ thứ VIII và sắp xếp chung vào một nhóm. Hình thức văn chương được chọn để trình bày những suy nghĩ của họ về một cuộc phán xử công minh mà ở đó Đức Chúa được mô tả như một Đấng tố cáo dân Người mặc dù Người vẫn mang hình ảnh một Đấng tiếp tục ra tay cứu giúp như được thấy ở Mk 6,1-5.

Dân chúng đáp lại một cách hững hờ và có vẻ làm ngơ trước điều Đức Chúa thực sự mong muốn (x. Mk 6,6-7). Vì thế vụ án kết thúc với một lời tuyên bố chắc chắn không còn gì để biện bạch nữa (x. Mk 6,8). Thực thi công bình chính là chủ đề trọng tâm của A-mốt ; quý yêu nhân nghĩa chính là chủ đề trọng tâm của Hô-sê ; và khiêm nhường bước đi với Thiên Chúa của bạn chính là điều căn cốt mà I-sai-a đã loan báo.

Còn Mi-kha ? Đóng góp rất riêng của Mi-kha đối với truyền thống ngôn sứ này có lẽ chính là “ sức mạnh, công lý và can trường ” (Mk 3,8) mà nhờ đó Mi-kha đ ã đối đầu với sự tham tàn, với giả nhân giả nghĩa và tội ác của những nhóm lãnh đạo trong xã hội thời ông. Mặc dù lòng đạo đức là cốt lõi và là bảo đảm cho sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân người, nhưng những người thuộc giới lãnh đạo hành xử ngược lại...
Tags