nhạy cảm của nhóm này đối với các yếu tố môi trường giúp làm rõ hơn mức độ ảnh
hưởng của ô nhiễm lên sức khỏe và hiệu suất học tập.
2.Tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước theo khung khái niệm
2.1 Nghiên cứu trong nước
"Trong môi trường, có rất nhiều loại bụi như bụi tổng, bụi PM10, bụi PM2.5, bụi
PM1, bụi nano. Chúng được phân loại dựa vào kích cỡ của từng loại theo đơn vị
micromet. Hiện nay, thế giới đang lo ngại với PM2.5 hay còn được gọi bằng cái tên
khác là bụi mịn. Với đường kính nhỏ hơn 2,5 micromet, tức là các hạt này bé hơn 1/30
so với sợi tóc của chúng ta. Bụi PM2.5 được gọi là sát thủ vô hình vì chúng có kích
thước nhỏ, chứa nhiều thành phần độc hại, nên khi hít thở nó xâm nhập sâu vào phổi
ảnh hưởng đến hệ hô hấp, máu, gây nhiều bệnh như nhồi máu tim, ung thư, … Cần
phải lưu ý rằng, không giống như bụi thô, PM2.5 không bị những loại khẩu trang phổ
thông ngăn chặn. Qua quan trắc, có nhiều ngày trong mùa đông, nồng độ bụi mịn PM
2.5 tăng rất cao, biểu hiện qua chỉ số AQI đỏ, thậm chí nâu trong khoảng sáng sớm từ
2-6 giờ. Đây là kiểu hình không khí rất có hại cho sức khỏe" (Hoàng Dương Tùng,
2022).
Theo Hồ Quốc Bằng (2014) cho rằng khí thải giao thông đường bộ là nguồn chính
gây ra sự không chắc chắn trong các mô hình số về chất lượng không khí được sử
dụng để dự báo và xác định các chiến lược giảm thiểu. Các mô hình có sẵn để tính
toán khí thải giao thông đường bộ luôn đòi hỏi nhiều công sức, tiền bạc và thời gian.
Vì vậy, trong nghiên cứu này, chúng tôi đã sử dụng một mô hình cụ thể là mô hình
EMISENS để tính toán lượng khí thải không khí trên toàn Thành phố Hồ Chí Minh
(TP.HCM), Việt Nam. Tuy nhiên, mô hình này không thể tính toán lượng khí thải
không khí theo thời gian và tính đến tình trạng kẹt xe. Mục tiêu đầu tiên là cải thiện
phương pháp tính toán bao gồm hiện tượng kẹt xe và tích hợp vào mô hình EMISENS.
Sau đó, nghiên cứu các kịch bản để giảm ô nhiễm không khí do hoạt động giao thông
đường bộ gây ra cho TP.HCM đến năm 2020. Kết quả cho thấy khi tính toán lượng khí
thải, chúng ta phải tính đến tình trạng kẹt xe. Kết quả tính toán phát thải có tính đến
tình trạng kẹt xe cho thấy khí thải xe máy chiếm phần lớn lượng khí thải CH4, CO,
NMVOC, SO2 và NOx (lần lượt là hơn 88%, 85%, 82%, 70% và 31,5% trong tổng
lượng khí thải từ hoạt động giao thông đường bộ tại TP.HCM). Kịch bản đầu tiên là
kịch bản giảm cho năm 2020, kết quả cho thấy lượng khí thải của thành phố sẽ tăng rất
9