Cấp Dưỡng Sau Ly Hôn Theo Pháp Luật Việt Nam, HAY

Sangtran2010 1,561 views 89 slides Jun 05, 2022
Slide 1
Slide 1 of 89
Slide 1
1
Slide 2
2
Slide 3
3
Slide 4
4
Slide 5
5
Slide 6
6
Slide 7
7
Slide 8
8
Slide 9
9
Slide 10
10
Slide 11
11
Slide 12
12
Slide 13
13
Slide 14
14
Slide 15
15
Slide 16
16
Slide 17
17
Slide 18
18
Slide 19
19
Slide 20
20
Slide 21
21
Slide 22
22
Slide 23
23
Slide 24
24
Slide 25
25
Slide 26
26
Slide 27
27
Slide 28
28
Slide 29
29
Slide 30
30
Slide 31
31
Slide 32
32
Slide 33
33
Slide 34
34
Slide 35
35
Slide 36
36
Slide 37
37
Slide 38
38
Slide 39
39
Slide 40
40
Slide 41
41
Slide 42
42
Slide 43
43
Slide 44
44
Slide 45
45
Slide 46
46
Slide 47
47
Slide 48
48
Slide 49
49
Slide 50
50
Slide 51
51
Slide 52
52
Slide 53
53
Slide 54
54
Slide 55
55
Slide 56
56
Slide 57
57
Slide 58
58
Slide 59
59
Slide 60
60
Slide 61
61
Slide 62
62
Slide 63
63
Slide 64
64
Slide 65
65
Slide 66
66
Slide 67
67
Slide 68
68
Slide 69
69
Slide 70
70
Slide 71
71
Slide 72
72
Slide 73
73
Slide 74
74
Slide 75
75
Slide 76
76
Slide 77
77
Slide 78
78
Slide 79
79
Slide 80
80
Slide 81
81
Slide 82
82
Slide 83
83
Slide 84
84
Slide 85
85
Slide 86
86
Slide 87
87
Slide 88
88
Slide 89
89

About This Presentation

Cấp Dưỡng Sau Ly Hôn Theo Pháp Luật Việt Nam, HAY đã chia sẻ đến cho các bạn học viên những đề tài luận văn thạc sĩ về luật hôn nhân gia đình hoàn toàn miễn phí.


Slide Content

HÀ NỘI - 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




CẤP DƯỠNG SAU LY HÔN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Nhận Viết Thuê Luận Văn
Điểm Cao – Chất Lượng
Uy Tín – Đúng Hẹn
Zalo trao đổi : 0932.091.562






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




CẤP DƯỠNG SAU LY HÔN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM


Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số:



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS MAI HIÊN

LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN



Lê Tuyết Nhung

MỤC LỤC


Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẤP DƯỠNG SAU
LY HÔN........................................................................................ 6
1.1. Khái niệm cấp dưỡng và đặc điểm của quan hệ cấp dưỡng .......... 6
1.2. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của cấp dưỡng sau ly hôn..........11
1.3. Cơ sở xã hội và nội dung điều chỉnh pháp luật về cấp dưỡng
sau ly hôn .....................................................................................15
1.3.1. Cơ sở xã hội điều chỉnh pháp luật về cấp dưỡng sau ly hôn..............15
1.3.2. Nội dung điều chỉnh pháp luật về cấp dưỡng sau ly hôn...................19
1.4. Lược sử quy định pháp luật về vấn đề cấp dưỡng sau ly hôn ......20
1.4.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 ...........................20
1.4.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975 .............................................22
1.4.3. Giai đoạn từ năm 1975 đến nay ......................................................26
Kết luận chương 1 ....................................................................................29
Chương 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ CẤP DƯỠNG SAU LY HÔN .....30
2.1. Điều kiện phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng......................................30
2.2. Mức cấp dưỡng ............................................................................37
2.3. Thời hạn và phương thức thực hiện cấp dưỡng ...........................39
2.4. Thay đổi việc thực hiện cấp dưỡng ..............................................43
2.5. Chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng sau ly hôn....................................45

2.6. Vấn đề bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng ...........................48
2.7. Người có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng ...............51
Kết luận chương 2 ....................................................................................51
Chương 3: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
NHẰM HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PH ÁP LUẬT VỀ VẤN
ĐỀ CẤP DƯỠNG SAU LY HÔN ................................................52
3.1. Nhận xét chung ............................................................................52
3.2. Thực tiễn giải quyết các trường hợp cấp dưỡng sau ly hôn .........55
3.2.1. Về mức cấp dưỡng .........................................................................55
3.2.2. Về thời điểm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng ....................................61
3.2.3. Về thời điểm kết thúc cấp dưỡng nuôi con ......................................63
3.2.4. Về tạm ngừng cấp dưỡng ...............................................................67
3.2.5. Trường hợp cấp dưỡng của bố dượng, mẹ kế cho con riêng của
vợ hoặc con riêng của chồng khi ly hôn ..........................................70
3.3. Một số kiến nghị về cấp dưỡng sau ly hôn ...................................72
3.3.1. Mức cấp dưỡng..............................................................................72
3.3.2. Thời điểm bắt đầu cấp dưỡng nuôi con ...........................................73
3.3.3. Tạm ngừng cấp dưỡng ...................................................................74
3.3.4. Trường hợp cấp dưỡng giữa bố dượng hoặc mẹ kế với con riêng
của vợ hoặc chồng .........................................................................75
3.3.5. Cách tính số tiền bồi thường cấp dưỡng cho con khi cha mẹ ly
hôn mà một người bị tai nạn ...........................................................76
3.3.6. Vấn đề về tổ chức, thực hiện và áp dụng pháp luật ..........................78
Kết luận chương 3 ....................................................................................79
KẾT LUẬN ..............................................................................................80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................81

DANH MỤC BẢNG


Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 3.1: Tổng số án ly hôn được giải quyết từ năm 2008 đến năm 2014 52

1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội, vì vậy muốn xã hội tốt thì trước tiên và
cốt yếu là phải xác lập được một gia đình hạnh phúc. Song nếu như kết hôn là
một hiện tượng xã hội bình thường nhằm xác lập nên tế bào của xã hội, thì ly
hôn có thể coi là hiện tượng bất bình thường nhưng không thể thiếu được khi
quan hệ hôn nhân thực sự tan vỡ. Trong những năm gần đây, tình trạng ly hôn
ngày càng nhiều và phức tạp hơn. Gia đình tan nát, con cái là người gánh chịu
nhiều thiệt thòi nhất bởi không nhận được sự quan tâm, chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục cùng một lúc của cả cha và mẹ. Vì vậy, để đảm bảo cuộc
sống bình thường của con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng
không có khả năng lao động thì vấn đề cấp dưỡng sau ly hôn được đặt ra là
hoàn toàn hợp lý. Hôn nhân tan vỡ, vợ chồng không thể nương tựa, chia sẻ
với nhau, theo nguyên tắc quan hệ nhân thân giữa vợ chồng cũng chấm dứt
theo nhưng quan hệ tài sản trong đó có quan hệ cấp dưỡng giữa vợ và chồng
không hẳn đã chấm dứt, khi một bên vợ hoặc chồng gặp khó khăn, có yêu cầu
cấp dưỡng thì người vợ hoặc chồng cũ có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng
của họ, điều này hoàn toàn phù hợp với truyền thống của người Việt Nam.
Tuy nhiên, thực tiễn xét xử các vụ án ly hôn tại Tòa án, đã xảy ra không ít
trường hợp vợ hoặc chồng bỏ mặc không quan tâm, không cấp dưỡng cho
chồng hoặc vợ cũ khi người chồng hoặc vợ cũ rơi vào hoàn cảnh khó khăn,
túng thiếu hay vợ chồng sau khi ly hôn không quan tâm đến cuộc sống của
con cái, bỏ mặc, không thực hiện trách nhiệm cấp dưỡng đối với con. Trước
thực tiễn như vậy thì việc giải quyết vấn đề cấp dưỡng sau ly hôn là rất cấp
thiết và đáp ứng nhu cầu trực tiếp của các bên, qua đó góp phần hoàn thiện
các quy định pháp luật về cấp dưỡng để đảm bảo quyền và lợi ích của các bên

2
trong quan hệ cấp dưỡng. Đây chính là lý do tôi quyết định chọn đề tài “Cấp
dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam hiện nay” làm Luận văn thạc sĩ
luật học của mình. Trong khuôn khổ luận văn, tôi không đề cập một cách cụ
thể tất cả vấn đề liên quan đến cấp dưỡng mà chỉ trình bày một số vấn đề cấp
dưỡng trong trường hợp vợ chồng ly hôn. Qua đó đưa ra các phân tích, đánh
giá nhằm góp phần xây dựng đề tài khoa học và hoàn thiện pháp luật về vấn
đề cấp dưỡng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu pháp luật về Cấp dưỡng sau ly hôn là mảng đề tài khá quan
trọng trong pháp luật hôn nhân và gia đình, tuy nhiên, mới chỉ có một số công
trình khoa học nghiên cứu vấn đề này một cách riêng lẻ, hầu hết mới chỉ
nghiên cứu vấn đề này như là một phần của hậu quả pháp lý của ly hôn hoặc
là một trường hợp trong vấn đề cấp dưỡng nói chung.
Một số công trình khoa học nghiên cứu ở nhiều phạm vi và cấp độ khác
nhau, đề cập một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như sau:
Nhóm giáo trình, sách bình luận chuyên sâu: Nguyễn Ngọc Điện
(2002), Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, tập 1, NXB
Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh. Đinh Thị Mai Phương (2006) Bình luận khoa học
Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Nguyễn
Văn Cừ và Ngô Thị Hường (2002) Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Luật
Hôn nhân và Gia đình năm 2000, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Giáo trình
Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội.
Ngoài ra còn một số Giáo trình và Bình luận khoa học về Luật Hôn
nhân và gia đình, hầu hết các công trình này mới chỉ dừng lại ở việc phân
tích, bình luận các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình về cấp dưỡng
nói chung và cấp dưỡng sau ly hôn nói riêng, ít đề cập đến thực tiễn việc áp
dụng và thi hành các quy định của pháp luật về vấn đề nêu trên.

3
Nhóm luận văn chuyên ngành Luật: Một số công trình nghiên cứu
tiêu biểu như: Hậu quả pháp lý của ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình
Việt Nam năm 2000, Luận văn thạc sĩ Luật học của Nguyễn Viết Thái (năm
2013); Quan hệ cấp dưỡng trong Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành, Luận
văn tốt nghiệp của Lê Thạch Hương (năm 2008); Bảo vệ quyền lợi của con
khi cha mẹ ly hôn, Khóa luận tốt nghiệp của Hồ Thị Nga (năm 2007)…
Tóm lại, cho đến nay mới chỉ có nhiều công trình khoa học nghiên cứu
vấn đề cấp dưỡng nói chung hoặc hậu quả pháp lý của ly hôn nói chung, chưa
có một công trình nghiên cứu riêng về vấn đề cấp dưỡng sau ly hôn theo pháp
luật Việt Nam hiện nay.
Chính vì lý do đó, tôi đã chọn đề tài này để nghiên cứu đầy đủ, toàn
diện vấn đề cấp dưỡng sau ly hôn cho luận văn thạc sĩ của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm đạt được các mục đích chủ yếu sau đây:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về quan hệ cấp dưỡng, từ đó đi
sâu vào phân tích các trường hợp cần cấp dưỡng khi ly hôn.
- Đánh giá việc áp dụng pháp luật về cấp dưỡng trong quá trình giải
quyết ly hôn.
- Trên cơ sở thực tiễn áp dụng pháp luật về cấp dưỡng chỉ ra được
những vướng mắc, bất cập của các quy định pháp luật cũng như những khiếm
khuyết, sai sót trong công tác xét xử của toà án để đề xuất những kiến nghị,
nhằm đảm bảo chất lượng, hiệu quả công tác xét xử và quyền, lợi chính đáng
của vợ chồng, các con khi ly hôn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về vấn đề cấp dưỡng
khi ly hôn.

4
- Nghiên cứu việc áp dụng pháp luật để giải quyết vấn đề cấp dưỡng
khi vợ chồng ly hôn qua thực tiễn công tác xét xử của toà án.
- Đánh giá hiệu quả của việc xét xử tại toà án về giải quyết vấn đề cấp
dưỡng khi vợ chồng ly hôn, phát hiện những vấn đề vướng mắc, bất cập trong
quy định của pháp luật cũng như trong thực tiễn áp dụng pháp luật khi xét xử
tại toà án và đề xuất các kiến nghị cần thiết.
4. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề cấp
dưỡng sau ly hôn và phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề này qua
các Bản án của Tòa án.
5. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu các quy định của Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000 và một số văn bản khác có liên quan về cấp dưỡng
khi ly hôn. Đồng thời, nghiên cứu việc áp dụng pháp luật giải quyết vấn đề
cấp dưỡng khi ly hôn qua thực tiễn xét xử tại toà án qua các vụ án cụ thể
trong thời gian từ khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực đến
nay. Đề tài chỉ nghiên cứu về mặt nội dung của vấn đề cấp dưỡng khi ly hôn,
không đi sâu xem xét nghĩa vụ thi hành án cấp dưỡng và đưa ra một số biện
pháp để đảm bảo hiệu quả của Bản án cấp dưỡng trên thực tế.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu đề tài là phép duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử và các quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước điều
chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, so
sánh, tổng hợp, thống kê, mô hình hoá và đồng thời nghiên cứu những báo cáo
công tác xét xử của toà án, các bản án của toà án giải quyết vấn đề cấp dưỡng
khi ly hôn, các bài viết, tham luận của một số tác giả về vấn đề nghiên cứu.

5
7. Dự kiến kết quả nghiên cứu của đề tài
Đề tài chú trọng nghiên cứu làm rõ các quy định pháp luật hiện hành về
vấn đề cấp dưỡng sau ly hôn, đồng thời, đánh giá việc áp dụng pháp luật về
vấn đề này qua công tác xét xử của tòa án từ khi Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000 có hiệu lực đến nay. Qua đó phát hiện những vướng mắc, bất cập
trong các quy định của pháp luật cũng như những khiếm khuyết, sai sót trong
quá trình áp dụng pháp luật để giải quyết vấn đề cấp dưỡng sau ly hôn. Trên
cơ sở các kết quả nghiên cứu, luận văn đề xuất một số kiến nghị có cơ sở để
giải quyết những vướng mắc, bất cập đó cũng như các kiến nghị hoàn thiện
pháp luật về vấn đề cấp dưỡng khi ly hôn để việc giải quyết vấn đề này khi ly
hôn một cách có hiệu quả, tiết kiệm được thời gian, chi phí và đảm bảo được
quyền, lợi ích trước hết của trẻ em và của vợ chồng.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương.
Chương 1. Những vấn đề lý luận về cấp dưỡng sau ly hôn.
Chương 2. Nội dung pháp luật Việt Nam hiện nay về cấp dưỡng sau
ly hôn.
Chương 3. Thực tiễn áp dụng pháp luật về cấp dưỡng sau ly hôn và
một số giải pháp tăng cường hiệu quả pháp luật về cấp
dưỡng sau ly hôn ở Việt Nam hiện nay.

6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẤP DƯỠNG SAU LY HÔN


1.1. Khái niệm cấp dưỡng và đặc điểm của quan hệ cấp dưỡng
Cấp dưỡng là một thuật ngữ thể hiện việc một người chu cấp tiền bạc
hoặc tài sản cho người có nhu cầu được nuôi dưỡng trên cơ sở giữa họ có
quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng. Quan hệ cấp dưỡng chỉ phát
sinh giữa các chủ thể gắn bó với nhau bởi tình cảm gia đình. Do đó, quan hệ
cấp dưỡng là quan hệ đặc trưng của pháp luật hôn nhân và gia đình.
Từ khi ra đời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa cho đến nay, vấn đề
hôn nhân và gia đình luôn là mối quan tâm Đảng và Nhà nước ta. Nhiều văn
kiện của Đảng, chính sách của Nhà nước về gia đình đã được ban hành trong
những năm qua: Hiến pháp Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm
1992, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm
1991 cũng như trong các văn kiện của Đảng về chính sách xã hội đã nhấn
mạnh đến vai trò của gia đình như là tế bào của xã hội và là nhân tố quan
trọng quyết định sự phát triển bền vững của xã hội Việt Nam. Quan điểm và
chính sách này của Đảng và Nhà nước đã được thể chế hóa thành các quy định
pháp luật, Điều 64 - Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam (năm 1992) - văn
bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất khẳng định: “Gia đình là
tế bào của xã hội. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình” [19, Điều 64]. Để
cụ thể hoá quy định này của Hiến pháp, nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã
được ban hành, nhằm đề cao vai trò của gia đình trong đời sống xã hội, phát
huy truyền thống và những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam,
xoá bỏ những phong tục tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình như Luật
Hôn nhân và gia đình, Điều 41 - Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về quyền
được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình.

7
Gia đình là môt hình thứ c tổ chứ c đời sống côn g đồ ng của con người ,
môt thiết chế văn hóa – xã hội đặc thù , đươc hình thành, tồn taị và phát triển
trên cơ sở của quan hê ̣hôn nhân, quan hê ̣huyết thống, quan hê ̣nuôi dưỡng và
giáo dục. Chính vì vậy mà giữa các thành viên trong gia đình luôn có sự gắn
bó chặt chẽ, sâu sắc về tình cảm và trách nhiệm đối với nhau. Để đảm bảo cho
gia đình tồn tại và phát triển thì các thành viên trong gia đình phải quan tâm,
chăm sóc, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau. Khi Nhà nước và pháp luật xuất hiện,
quan hệ giữa các thành viên trong gia đình được điều chỉnh bởi các quy phạm
pháp luật, trên cơ sở bảo vệ lợi ích chung của Nhà nước, của giai cấp cầm
quyền. Sự chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình
không chỉ là nhu cầu về đạo đức, mà còn là nghĩa vụ pháp lý được pháp luật
quy định cụ thể, rõ ràng.
Như vậy, chăm sóc, nuôi dưỡng lẫn nhau không chỉ là quyền mà còn là
trách nhiệm của các thành viên trong gia đình, đặc biệt, cha mẹ phải có nghĩa
vụ nuôi dưỡng, chăm sóc, dạy dỗ con cái. Tuy nhiên, không phải lúc nào nghĩa
vụ nuôi dưỡng cũng có thể thực hiện được. Trong những hoàn cảnh nhất định,
người có nghĩa vụ nuôi dưỡng có thể không có điều kiện thực hiện nghĩa vụ
nuôi dưỡng như khi họ phải đi công tác xa, bị bệnh nặng kéo dài, phải chấp
hành hình phạt tù… Để đảm bảo cuộc sống bình thường của người được nuôi
dưỡng, trong những trường hợp này, nghĩa vụ cấp dưỡng được đặt ra.
Khái niệm cấp dưỡng không thay đổi từ Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000 đến Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 tại Khoản 11- Điều 8 -
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, khoản 24 – Điều 3 – Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2014. Từ quy định trên có thể hiểu: Cấp dưỡng là việc một
người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết
yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết
thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên,

8
là người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để
tự nuôi mình, là người gặp khó khăn, túng thiếu.
Đây là định nghĩa chính thức đầu tiên được ghi nhận trong đạo luật.
Mặc dù, ở nước ta quan hệ cấp dưỡng đã được đề cập đến từ khá lâu, từ thời
kỳ phong kiến, Pháp thuộc đến khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa ra đời
với các quy định về cấp dưỡng ngày càng cụ thể hơn, đa dạng hơn nhưng vẫn
còn mang tính chung chung, khái quát. Đến Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000, 2014 đã khắc phục được hạn chế này và là một bước tiến dài trong quá
trình bổ sung, hoàn thiện chế định cấp dưỡng cả về cơ sở pháp lý và lý luận.
Trước hết phải nói đến việc lần đầu tiên đưa ra khái niệm cấp dưỡng và sau
đó là dành một chương riêng để quy định về các vấn đề liên qua đến cấp
dưỡng. Điều này thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Nhà nước ta và cho thấy
tầm quan trọng của chế định này trong cuộc sống. Khái niệm về cấp dưỡng đã
nêu được những nội dung chủ yếu của quan hệ cấp dưỡng như: đối tượng
được cấp dưỡng, điều kiện cấp dưỡng, mục đích của việc cấp dưỡng… Có thể
nói đây là định nghĩa khá bao quát về cấp dưỡng dưới góc độ pháp lý.
Từ khái niệm cấp dưỡng có thể thấy quan hệ cấp dưỡng có những đặc
điểm cơ bản sau:
- Quan hệ cấp dưỡng là một loại quan hệ pháp luật về tài sản gắn với
nhân thân của mỗi bên trong quan hệ cấp dưỡng. Điều đó thể hiện ở chỗ:
người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải chu cấp một số tiền hoặc tài sản nhất định
nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu cho người được cấp dưỡng. Đây là
quan hệ tài sản gắn liền với nhân thân của các bên trong quan hệ cấp dưỡng (bên
có nghĩa vụ cấp dưỡng và bên được cấp dưỡng), vì vậy nghĩa vụ cấp dưỡng là
nghĩa vụ không được chuyển giao cho người khác mà phải do chính người có
nghĩa vụ thực hiện và việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cũng phải được thực
hiện cho người có quyền được cấp dưỡng. Điều này đã được quy định tại

9
khoản 1 - Điều 50 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và khoản 1 - Điều 107
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: “Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế
bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác” [24, Điều 107].
Nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ được phát sinh khi các chủ thể trong quan hệ thỏa
mãn những điều kiện nhất định. Khi nghĩa vụ này xuất hiện, người phải cấp
dưỡng hay thậm chí người được cấp dưỡng không được đơn phương hoặc
thỏa thuận việc thay thế nghĩa vụ cấp dưỡng bằng nghĩa vụ khác. Có nghĩa là
bên có nghĩa vụ cấp dưỡng không thể cam kết sẽ dung nghĩa vụ khác để thay
thế, bù trừ nghĩa vụ cấp dưỡng như là bồi thường thiệt hại hay phạt vi phạm;
hoặc cũng không thể sử dụng chúng làm cơ sở đảm bảo cho những nghĩa vụ
khác, đồng thời chủ thể trên cũng không thể chuyển giao nghĩa vụ này cho bất
cứ ai. Nếu như một người có nghĩa vụ cấp dưỡng cho người khác thì phải tự
mình thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng không thể chuyển giao nghĩa vụ cấp
dưỡng của mình cho bên thứ ba thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thay cho mình,
ngay cả người được cấp dưỡng cũng không được chuyển giao quyền của mình
cho người khác vì nghĩa vụ cấp dưỡng gắn liền với nhân than của chủ thể trên
cơ sở các mối quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng.
Tính không thể chuyển giao và tính không thể thay thế của nghĩa vụ
cấp dưỡng đã được ghi nhận tại Điều 381, 379 – Bộ luật Dân sự năm 2005 về
việc không thể chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng bằng việc thay thế nghĩa vụ
khác và không thể bù trừ nghĩa vụ trong trường hợp nghĩa vụ bù trừ là nghĩa
vụ cấp dưỡng. Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Bên có quyền yêu cầu
thực hiện nghĩa vụ dân sự có thể chuyển giao quyền yêu cầu đó cho người thế
quyền theo thỏa thuận, trừ những trường hợp sau đây: a. Quyền cấp dưỡng,
quyền bồi thường thiệt hại…” [21, Điều 309].
- Quan hệ cấp dưỡng chỉ phát sinh giữa các thành viên trong gia đình
trên cơ sở hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng. Luật Hôn nhân và gia đình

10
năm 2000 quy định “Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và
con, giữa anh chị em với nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa
vợ chồng theo quy định của Luật này” [20, Điều 50, Khoản 1]. Như vậy, Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã xác định rõ phạm vi chủ thể của quan hệ
cấp dưỡng đó là cấp dưỡng giữa cha mẹ và con, giữa anh chị em với nhau,
giữa ông bà và cháu. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã bổ sung thêm
chủ thể của quan hệ cấp dưỡng đó là giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu
ruột tại Khoản 1 – Điều 107. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 mới chỉ
quy định việc cấp dưỡng giữa những người có quan hệ đương nhiên về pháp
luật, trong khi đó tập quán và truyền thống văn hóa, đạo đức của gia đình Việt
Nam thường đề cao trách nhiệm của những người có quan hệ thân thích với
nhau theo quan điểm: “sểnh cha còn chú, sểnh mẹ bú dì”. Đây là một điểm
mới phù hợp với phong tục tập quán của người Việt Nam, đó là truyền thống
tương thân tương ái của dân tộc ta và thực tiễn cuộc sống. Chính từ đặc điểm
này mà quan hệ cấp dưỡng thường hình thành một cách tự nhiên trên cơ sở
đạo đức và quan hệ ruột thịt giữa con người với nhau theo phong tục, tập
quán. Sau đó quan hệ cấp dưỡng mới được điểu chỉnh bởi quy phạm pháp luật
và trở thành quan hệ pháp luật.
- Quan hệ cấp dưỡng là quan hệ tài sản song không mang tính đền bù
ngang giá. Do yếu tố tình cảm gắn bó giữa các chủ thể, nên nghĩa vụ cấp
dưỡng được thực hiện một cách tự nguyện, không tính toán đến giá trị tài sản
đã cấp dưỡng, không đòi hỏi người cấp dưỡng sẽ phải hoàn lại một số tiền
tương ứng. Mặt khác, không phải lúc nào nghĩa vụ cấp dưỡng cũng đặt ra, chỉ
trong trường hợp nhất định và với điều kiện nhất định, nghĩa vụ cấp dưỡng
mới phát sinh. Vì vậy, quan hệ cấp dưỡng không mang tính đền bù tương
đương, không có tính tuyệt đối và không diễn ra đồng thời. Ví dụ: cha mẹ
phải cấp dưỡng cho con khi con chưa thành niên nhưng con chỉ phải cấp
dưỡng cho cha mẹ khi con đã thành niên và có khả năng lao động.

11
- Nghĩa vụ cấp dưỡng vừa mang tính đạo lý, vừa mang tính pháp lý
được đảm bảo thực hiện bằng lương tâm, đạo đức, dư luận xã hội và cả các
biện pháp cưỡng chế thi hành. Bởi lẽ, nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ phát sinh giữa
các thành viên trong gia đình trên cơ sở hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi
dưỡng (giữa cha mẹ và con; giữa anh chị em với nhau; giữa ông bà với các
cháu; giữa vợ chồng…). Giữa các thành viên trong gia đình luôn có mối quan
hệ tình cảm khăng khít, khó tách rời. Khi các thành viên trong gia đình không
thể trực tiếp quan tâm, chăm sóc nhau, thì họ thực hiện nghĩa vụ này thông
qua việc cấp dưỡng. Việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thường xuất phát từ
lương tâm, đạo đức và dư luận xã hội. Khi người có nghĩa vụ cấp dưỡng trốn
tránh trách nhiệm cấp dưỡng của mình lúc này biện pháp cưỡng chế mới đặt
ra. Đồng thời, để nâng cao ý thức, trách nhiệm của các chủ thể trong quan hệ
cấp dưỡng Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, Luật Hôn nhân và gia đình
năm 1986 và Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014 đã quy định vấn đề cấp dưỡng như một chế định quan trọng
cần thiết để điểu chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình.
- Quan hệ cấp dưỡng là một quan hệ phái sinh, nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ
phát sinh trong những điều kiện nhất định, tức là khi quan hệ nuôi dưỡng
không thực hiện được hoặc thực hiện không đầy đủ thì lúc đó quan hệ cấp
dưỡng mới xuất hiện. Khi đó nghĩa vụ cấp dưỡng phát sinh nhằm đáp ứng nhu
cầu vật chất tối thiểu cần thiết cho cuộc sống của người được cấp dưỡng.
1.2. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của cấp dưỡng sau ly hôn
Ly hôn là một hiện tượng xã hội phức tạp đã nảy sinh từ rất sớm trong
xã hội có giai cấp. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, ly hôn là một
mặt của quan hệ hôn nhân, nó là mặt trái, mặt bất bình thường nhưng là mặt
không thể thiếu của quan hệ hôn nhân. Khi đời sống tình cảm yêu thương
giữa vợ chồng đã hết, mâu thuẫn gia đình sâu sắc, mục đích hôn nhân không

12
đạt được thì vấn đề ly hôn được đặt ra nhằm giải phóng cho vợ chồng, con cái
và các thành viên trong gia đình thoát khỏi những xung đột, bế tắc trong đời
sống chung. Vì khi hôn nhân tồn tại chỉ là hình thức, thực chất quan hệ vợ
chồng đã hoàn toàn mất hết ý nghĩa thì mối quan hệ của các thành viên trong
gia đình không còn tốt đẹp như trước thì ly hôn là tất yếu xảy ra.
Pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa công nhận quyền tự do ly hôn
chính đáng của vợ chồng, không thể cấm hoặc đặt ra những điều kiện nhằm
hạn chế quyền tự do ly hôn. Ly hôn dựa trên sự tự nguyện của vợ chồng, nó là
kết quả của hành vi có ý chí của vợ chồng khi thực hiện quyền ly hôn của
mình. Việc giải quyết ly hôn là tất yếu đối với quan hệ hôn nhân đã thực sự
tan vỡ. Nhà nước bảo hộ hôn nhân, bảo đảm quyền tự do ly hôn của vợ chồng
không có nghĩa là giải quyết ly hôn tùy tiện, theo ý chí, nguyện vọng của vợ
chồng muốn sao làm vậy mà bằng pháp luật. Bởi trong quan hệ hôn nhân
không chỉ có lợi ích riêng của vợ chồng mà còn có lợi ích của Nhà nước và xã
hội thể hiện qua những chức năng cơ bản của gia đình – tế bào của xã hội và
lợi ích của con cái – thành viên của gia đình và của xã hội. Như vậy, Nhà
nước bằng việc quy định những điều kiện để cho phép vợ chồng ly hôn, đặt ra
những căn cứ để giải quyết ly hôn, từ đó Tòa án có thẩm quyền căn cứ vào
những quy định, căn cứ đó để công nhận hoặc quyết định ly hôn. Bằng những
hoạt động này, Nhà nước kiểm soát việc ly hôn, tránh tình trạng ly hôn tùy
tiện nhằm đảm bảo lợi ích của gia đình và không ảnh hưởng tới chức năng của
gia đình là tế bào của xã hội.
Hơn nữa, trong những năm gần đây, cuộc sống ngày càng đa dạng, phát
triển, hiện đại, kéo theo đó là nhu cầu của con người ngày càng cao trong cả
đời sống vật chất và tình cảm, yêu cầu của mỗi người đối với người khác, đặc
biệt là đối vợ hoặc chồng có sự khác biệt rất lớn đối với quan niệm của con
người thời xưa. Hiện nay, quan niệm về bình đẳng giới dần được công nhận

13
và là một phần của cuộc sống thường ngày, quan niệm “phu xướng phụ tùy”
không còn quá chi phối trong mối quan hệ gia đình. Chính vì vậy, khi xung
đột gia đình xảy ra, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được thì ly hôn là
tất yếu xảy ra.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành, quyền ly hôn đã được
khẳng định trong văn bản pháp luật có hiệu lực cao nhất đó là Hiến pháp,
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân
theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng,
tôn trọng lẫn nhau” [23, Điều 36]. Khái niệm ly hôn được quy định tại Luật
Hôn nhân và gia đình 2000 quy định: “Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân
do Tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc của chồng
hoặc cả hai vợ chồng” [20, Điều 8, Khoản 8]. Khoản 14, Điều 3 - Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014 cũng đưa ra khái niệm ly hôn như sau: “Ly hôn là
việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật
của Tòa án” [24, Điều 3]. Về bản chất hai khái niệm này là giống nhau, đều
khẳng định việc ly hôn là kết quả của hành vi có ý chí của vợ, chồng và được
pháp luật công nhận việc chấm dứt quan hệ vợ chồng thể hiện qua bản án,
quyết định của Tòa án.
Việc ly hôn, chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa vợ và chồng tất yếu sẽ
kéo theo những hậu quả pháp lý cần được thỏa thuận hoặc Tòa án giải quyết.
Những hậu quả pháp lý đó là những nội dung cần được giải quyết khi chấm
dứt hôn nhân liên quan đến quan hệ nhân thân, quan hệ tài sản của vợ và
chồng, quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với
con cái… Xuất phát từ lợi ích của gia đình, quyền và lợi ích chính đáng của
vợ chồng, các con, sự ổn định của các quan hệ hôn nhân và gia đình, việc quy
định bằng pháp luật về hậu quả pháp lý của ly hôn giúp Tòa án nhân dân các
cấp có đủ cơ sở pháp lý để điều tra, tìm hiểu kỹ nguyên nhân dẫn tới những

14
mâu thuẫn vợ chồng, tâm tư, tình cảm của người trong cuộc để có thể giải
quyết ly hôn chính xác đảm bảo quyền lợi của các bên, của gia đình và xã hội.
Nghĩa vụ cấp dưỡng là một trong những hậu quả pháp lý của việc ly
hôn liên quan đến quan hệ giữa cha mẹ với con cái và quan hệ tài sản giữa vợ
cũ với chồng cũ.
Như vậy, từ khái niệm cấp dưỡng nói chung, ta có thể hiểu cấp dưỡng
sau ly hôn như sau: Cấp dưỡng sau ly hôn là việc một người có nghĩa vụ đóng
góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của vợ hoặc chồng
sau khi ly hôn mà gặp khó khăn, túng thiếu hoặc của con chưa thành niên, đã
thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi
mình mà không sống chung với cha hoặc mẹ khi cha mẹ ly hôn.
Là một trường hợp của quan hệ cấp dưỡng nói chung nên cấp dưỡng
sau ly hôn cũng có những đặc điểm cơ bản của quan hệ cấp dưỡng nói
chung như:
- Là một loại quan hệ pháp luật về tài sản gắn với nhân thân của mỗi
bên trong quan hệ cấp dưỡng, nên nó là nghĩa vụ không được chuyển giao
cho người khác mà phải do chính người có nghĩa vụ thực hiện và việc thực
hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cũng phải được thực hiện cho người có quyền
được cấp dưỡng.
- Là quan hệ tài sản song không mang tính đền bù ngang giá.
- Nghĩa vụ cấp dưỡng sau ly hôn vừa mang tính đạo lý, vừa mang tính
pháp lý được đảm bảo thực hiện bằng lương tâm, đạo đức, dư luận xã hội và
cả các biện pháp cưỡng chế thi hành.
- Là một quan hệ phái sinh, chỉ phát sinh trong những điều kiện nhất định.
Luật Hôn nhân và gia đình nhằm mục đích cao nhất là góp phần xây
dựng gia đình hạnh phúc, hòa thuận và điều đó cần thiết cho sự phát triển bền
vững của xã hội. Các quy định của luật có tác dụng phòng ngừa và xử lý

15
những tình huống khủng hoảng và bi kịch của đời sống gia đình, đặc biệt khi
ly hôn. Chế định cấp dưỡng trong Luật Hôn nhân và gia đình góp phần quan
trọng về việc củng cố bền vững của mỗi các nhân, gia đình và toàn xã hội.
Việc cấp dưỡng mang tính chất tương trợ giữa các thành viên trong gia đình.
Đây là một hoạt động được khuyến khích thực hiện không chỉ đối với các
thành viên trong gia đình mà nhà nước và xã hội khuyến khích các tổ chức,
các nhân có hoàn cảnh đặc biệt túng thiếu. Chế định cấp dưỡng nói chung thể
hiện một giá trị tốt đẹp về tình cảm gắn bó, đoàn kết, yêu thương nhau trong
gia đình, thể hiện một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam ta. Chế định
cấp dưỡng mang ý nghĩa tạo nên một sự ổn định đời sống, sự yêu thương,
đoàn kết của mọi người quan tâm lẫn nhau và góp phần ổn định xã hội.
Chế định này lại càng cần thiết hơn khi được quy định trong trường hợp
cha mẹ ly hôn. Khi cha mẹ ly hôn thì con cái là người bị ảnh hưởng và thiệt
thòi về mặt tâm lý tình cảm cũng như sự phát triển bình thường của đứa trẻ,
rất nhiều trường hợp dẫn tới đứa trẻ bỏ học, bỏ nhà, phạm tội… Việc đảm bảo
nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện nhằm tạo điều kiện cho con cái có được
cuộc sống và phát triển bình thường như những đứa trẻ khác. Khi hôn nhân
tồn tại, vợ chồng có nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Nghĩa vụ cấp
dưỡng giữa vợ và chồng sau ly hôn được xác định trên cơ sở quyền và nghĩa
vụ giữa vợ và chồng đảm bảo cho bên khó khăn, túng thiếu có thể ổn định
cuộc sống sau ly hôn. Quy định này thể hiện đạo lý, truyền thống tốt đẹp của
gia đình Việt Nam cũng như con người Việt Nam “lá lành đùm là rách”.
1.3. Cơ sở xã hội và nội dung điều chỉnh pháp luật về cấp dưỡng
sau ly hôn
1.3.1. Cơ sở xã hội điều chỉnh pháp luật về cấp dưỡng sau ly hôn
Ly hôn dẫn đến sự ly tán gia đình, mỗi người mỗi ngả. Cha mẹ chia
tay nhau dẫn đến việc các con sẽ không được hưởng sự nuôi dưỡng trực tiếp

16
của cả hai người. Tuy nhiên, sự ly tán gia đình không làm mất đi sự gắn bó
huyết thống giữa các thành viên gia đình và từ đó là quyền của con được cha
mẹ tiếp tục nuôi dưỡng hay là quyền và trách nhiệm của vợ, chồng cấp
dưỡng lẫn nhau trong trường hợp một trong hai người có nhu cầu cấp dưỡng
và bên kia có khả năng.
Chế định cấp dưỡng có ý nghĩa xã hội quan trọng trong việc củng cố
chức năng của gia đình, đề cao các giá trị đạo đức truyền thống. Gia đình
trong thời kỳ đổi mới ở nước ta có sự đan xen giữa các yếu tố truyền thống
và hiện đại. Các chức năng cơ bản của gia đình vẫn là tái sản xuất ra con
người, tái sản xuất ra sức lao động thông qua việc nuôi dưỡng, chăm sóc các
thành viên trong gia đình. Chế định cấp dưỡng trong luật hôn nhân và gia
đình đã góp phần củng cố chức năng chăm sóc, nuôi dưỡng người chưa
thành niên, người cao tuổi, người không có khả năng lao động trong gia
đình, là cơ sở pháp lý cần thiết để đảm bảo cho con cái được nuôi dạy tốt
trong cả những hoàn cảnh đặc biệt như cha mẹ ly hôn. Chế định cấp dưỡng
đã đóng góp đáng kể vào củng cố chức năng xã hội cơ bản của gia đình, giúp
cho gia đình hoàn thành sứ mệnh thiêng liêng mà xã hội và tự nhiên giao
cho mà không một thiết chế xã hội nào có thể thay thế được. Chế định cấp
dưỡng góp phần củng cố mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình.
Ngoài ra, các chế định về cấp dưỡng còn là cơ sở pháp lý nhằm gắn kết các
thành viên trong gia đình trong một cộng đồng trách nhiệm. Khi mà các giá
trị đạo đức bị thay đổi thì các quy phạm pháp luật sẽ là dây xích gắn kết các
thành viên trong gia đình với nhau.
Hơn nữa, khi quy định vấn đề này pháp luật Việt Nam thể hiện rõ sự
quan tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc đảm bảo quyền con người,
quyền phụ nữ và trẻ em. Việc quy định quyền của phụ nữ và trẻ em trong
pháp luật là sự ghi nhận về mặt pháp lý đối với vai trò của nữ giới và trẻ em

17
trong xã hội, đây là bước tiến trong sự nghiệp giải phóng con người nói chung
và giải phóng phụ nữ, trẻ em nói riêng. Ở Việt Nam, quyền của phụ nữ, trẻ em
thực sự được đề cập đến từ khi nhân dân ta giành được độc lập từ tay thực dân
phong kiến, được thể hiện trước tiên qua các bản Hiến pháp các thời kỳ. Tuy
nhiên, trong từng điều kiện, hoàn cảnh của đất nước, nên ở mỗi thời kỳ, các
quyền công dân nói chung và quyền của phụ nữ, trẻ em nói riêng được thể
hiện và phát triển vừa có tính kế thừa vừa có sự đổi mới. Hiện nay, những
quyền cơ bản của phụ nữ, trẻ em được ghi nhận trong Hiến pháp và cụ thể hóa
trong các văn bản pháp luật. Có thể nói, quyền của phụ nữ Việt Nam được
pháp luật xây dựng bảo đảm quyền bình đẳng giữa nam và nữ trước pháp luật
nhằm xoá bỏ sự phân biệt đối xử trong công việc, trong đời sống chính trị,
kinh tế và trong đời sống gia đình, thể hiện rõ nhất tại Điều 26, 36 Hiến pháp
năm 2013. Trẻ em có quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng để phát triển một
cách toàn diện cả về thể chất và tâm sinh lý, góp phần nuôi dưỡng những
mầm non – tương lai của đất nước, thể hiện ở Điều 37 Hiến pháp năm 2013.
Một trong những điều luật cụ thể hóa sự ghi nhận hai quyền này trong Hiến
pháp đó là việc quy định vấn đề cấp dưỡng sau ly hôn. Việc cấp dưỡng sau ly
hôn nói riêng và cấp dưỡng nói chung cho những người chưa thành niên hoặc
đã thành niên nhưng không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi
mình nhằm đảm bảo cho những người đó được phát triển toàn diện, có cuộc
sống bình thường ngay cả trong những hoàn cảnh đặc biệt.
Đặc biệt, trong những năm vừa qua, tình trạng ly hôn không chỉ ở Việt
Nam mà còn ở nhiều nước trên thế giới đang ngày càng gia tăng với những
nguyên nhân và lý do rất đa dạng, phức tạp. Các con số được thống kê qua
các năm gần đây cho thấy số lượng án ly hôn được giải quyết tăng lên qua các
năm. Nếu như trước đây hầu hết các vụ ly hôn đều xảy ra ở các thành phố lớn
như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh,… thì hiện nay, với công cuộc hiện đại

18
hóa, đô thị hóa nông thôn, tình trạng ly hôn ở các vùng nông thôn đang dần
trở nên phổ biến hơn, nhất là những vùng có nhiều người đi xuất khẩu lao
động. Tuy nhiên, dù tình trạng ly hôn diễn ra ngày càng nhiều và đa dạng,
phức tạp hơn nhưng người dân chưa thực sự tìm hiểu pháp luật về hôn nhân
và gia đình cùng với ý thức pháp luật còn kém. Điều này tất yếu kéo theo việc
người dân tự do ly hôn nhưng không biết hoặc không tìm hiểu rõ các quy định
của pháp luật về ly hôn, dẫn đến không hiểu mình có quyền gì và có nghĩa vụ
gì trong quan hệ giữa các bên khi ly hôn. Đây chính là một trong những lý do
phát sinh vụ án tranh chấp khi ly hôn. Đặc biệt là tranh chấp về cấp dưỡng, do
không tìm hiểu pháp luật nên nhiều người hiểu khi quan hệ vợ chồng chấm
dứt là không có bất kỳ nghĩa vụ nào giữa vợ và chồng, thậm chí là nghĩa vụ
đối với con cái khi được một bên nhận chăm sóc, nuôi dưỡng. Hơn nữa, các
quy định pháp luật về cấp dưỡng trong Luật Hôn nhân và gia đình trước đây
tuy có quy định nhưng không cụ thể, rõ ràng, chỉ mang tính khái quát làm ảnh
hưởng đến việc áp dụng pháp luật của các chủ thể trong quan hệ và đối với cả
chính những người làm công tác giải quyết xét xử còn lúng túng và áp dụng
không đồng bộ. Vì vậy, cần thiết phải có sự quy định rõ ràng, cụ thể của pháp
luật về vấn đề cấp dưỡng cũng như những hậu quả pháp lý khi ly hôn tạo
hành lang pháp lý cho việc xét xử, giải quyết các tranh chấp, các vấn đề phát
sinh khi ly hôn được đồng bộ và đảm bảo nguyên tắc công bằng của pháp
luật, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ hôn
nhân khi quan hệ này chấm dứt.
Pháp luật Việt Nam cũng đi theo xu hướng chung của pháp luật các nước
trên thế giới. Quan hệ cấp dưỡng không chỉ là vấn đề cần thiết trong pháp luật
Việt Nam mà nó còn là vấn đề không kém phần quan trọng trong hệ thống
pháp luật của các nước phát triển. Ví dụ như trong hệ thống pháp luật của Anh
thì chế định cấp dưỡng cũng được quy định khá rõ ràng. Trong Luật Hôn nhân

19
và gia đình của Anh thì việc cấp dưỡng cho trẻ em luôn là vấn đề trên hết. Cấp
dưỡng cho trẻ em được quy định ngay cả khi trẻ em còn chung sống với cha
mẹ. Khi cuộc sống vợ chồng có sự thay đổi như ly hôn, đứa trẻ buộc phải sống
chung với cha hoặc mẹ thì pháp luật quy định cấp dưỡng cho trẻ để đảm bảo
được nhu cầu cơ bản. Cấp dưỡng cho vợ và chồng sau ly hôn cũng là một vấn
đề được pháp luật quan tâm và cũng là vấn đề gây tranh cãi. Một mặt, sự cấp
dưỡng sau ly hôn nhằm làm cho cuộc sống của vợ hoặc chồng ổn định nhưng
mặt khác vấn đề cấp dưỡng lại là việc khó khăn đối với bên cấp dưỡng vì họ có
thể sẽ không đảm bảo được cuộc sống hiện tại. Còn người được cấp dưỡng
cũng sẽ khó trở lại mức sống như lúc ban đầu. Trong hệ thống pháp luật nước
này thì quyền lợi của người phụ nữ được quan tâm hơn. Đây là những điểm nổi
bật trong Luật Hôn nhân và gia đình nước Anh, làm nổi bật quyền và lợi ích
của phụ nữ và trẻ em. Nhìn chung, hệ thống pháp luật của nước Anh so với hệ
thống pháp luật Việt Nam về chế định cấp dưỡng có những điểm khác nhau.
Song chế định cấp dưỡng ở hai hệ thống pháp luật đều có ưu và nhược điểm
riêng phù hợp với tình hình kinh tế xã hội cũng như tính truyền thống trong đời
sống hôn nhân của công dân ở mỗi nước [11, tr.19].
1.3.2. Nội dung điều chỉnh pháp luật về cấp dưỡng sau ly hôn
- Trước hết là xác định nhóm các chủ thể có quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng
Nghĩa vụ cấp dưỡng sau ly hôn chỉ được đặt ra đối với nhóm quan hệ
cha, mẹ, con và quan hệ vợ chồng, không đặt ra đối với nhóm quan hệ giữa
các thành viên khác trong gia đình: quan hệ giữa ông, bà đối với cháu, quan
hệ giữa cô, dì, chú bác đối với cháu bởi đó là những chủ thể không trực tiếp
tham gia và bị ảnh hưởng tới quyền và lợi ích khi ly hôn.
Sau ly hôn, quan hệ cấp dưỡng chủ yếu được xác định là trách nhiệm
cha mẹ, người không trực tiếp nuôi dưỡng phải cấp dưỡng cho con. Việc cấp
dưỡng giữa vợ, chồng chỉ đặt ra trong những trường hợp một trong hai người

20
không có điều kiện để tự nuôi mình do không còn đủ sức lao động hoặc thu
nhập quá thấp, không đủ chi phí cho cuộc sống của mình và bên kia có khả
năng cấp dưỡng. Ngoài hai nhóm chủ thể có quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng là
cha mẹ - con và vợ - chồng, nếu trong gia đình trước đó có những người cùng
chung sống, đang được vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng nuôi dưỡng thì
việc xem xét khả năng thực hiện việc cấp dưỡng cho người đó cũng là một
trong những nội dung của pháp luật cần dự liệu quy định.
- Xác định mức cấp dưỡng, thời hạn cấp dưỡng, chấm dứt cấp dưỡng,
phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Xác định trường hợp thay đổi yêu cầu cấp dưỡng sau ly hôn: Thay
đổi mức cấp dưỡng do có sự thay đổi về điều kiện của hai bên; do vợ chồng
sau khi ly hôn một thời gian mới phát sinh điều kiện và nhu cầu cấp dưỡng.
1.4. Lược sử quy định pháp luật về vấn đề cấp dưỡng sau ly hôn
1.4.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
Cho đến giữa thế kỷ XIX, Việt Nam vẫn là một nước phong kiến với
nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu. Trải qua hơn 1000 năm Bắc thuộc, hệ tư
tưởng của giai cấp thống trị của nhà nước phong kiến Việt Nam ít nhiều chịu
ảnh hưởng của văn hóa phương Bắc và được thể hiện rõ nét qua hai Bộ luật
Hồng Đức và Bộ luật Gia Long. Năm 1858 thực dân Pháp xâm lược nước ta
và bắt đầu đặt nền móng cho sự đô hộ bằng việc ban hành các bộ luật như:
Tập Dân luật Giản yếu năm 1883 áp dụng ở Nam Kỳ, Dân luật Bắc kỳ năm
1931 áp dụng ở Bắc kỳ, Dân luật Trung kỳ năm 1936 áp dụng ở Trung kỳ.
Như vậy, có thể chia pháp luật hôn nhân và gia đình trước Cách mạng tháng
Tám ra thành hai thời kỳ:
- Thời kỳ phong kiến:
Dưới triều Lê, Bộ luật Hồng Đức được coi như là một thành tựu to lớn
trong lịch sử lập pháp Việt Nam, các quan hệ hôn nhân và gia đình được thiết

21
lập trên nguyên tắc: Bảo đảm tôn ti, trật tự, đẳng cấp trong mối quan hệ giữa
các thành viên trong gia đình, trọng nam khinh nữ, xác lập tối cao quyền của
người gia trưởng. Đến triều Nguyễn, do ảnh hưởng của hệ tư tưởng Nho giáo
nên Bộ luật Gia Long ra đời được coi là sự sao chép nguyên bản của bộ luật
nhà Thanh, các quan hệ hôn nhân và gia đình xây dựng theo mô hình gia đình
phụ quyền Trung Quốc. Theo đó, vai trò của người đàn ông trong gia đình
được tôn vinh, hạ thấp vai trò và vị trí của người phụ nữ, người phụ nữ phải
sống theo thuyết “tam tòng tứ đức”. Chế độ đa thê và những quy định nghiêm
khắc về ly hôn đã bóp méo bản chất của một cuộc hôn nhân chân, khiến nó
trở thành thứ xiềng xích trói buộc người phụ nữ trong những nghi lễ bất bình
đẳng nên quyền tự do ly hôn của người phụ nữ hầu như không có. Nhưng
pháp luật lại trao cho người đàn ông được quyền ly hôn khi vợ phạm vào
“nghĩa tuyệt” và chỉ khi thuộc trường hợp “tam bất khứ” thì quyền ly hôn
người vợ của người chồng mới bị hạn chế như: vợ đã để tang nhà chồng ba
năm, trước khi cưới nghèo sau giàu… Như vậy, những quy định đó không nói
lên bản chất thật sự của ly hôn mà nó chỉ là một thứ công cụ bảo vệ lợi ích
của giai cấp thống trị trong xã hội.
Trong thời kỳ này quy định về cấp dưỡng nói chung được pháp luật
quy định chặt chẽ để đảm bảo nề nếp, tôn ti trật tự trong gia đình phong
kiến. Có quy định chặt chẽ về nghĩa vụ của cha mẹ đối với con cái và con
cái đối với ông bà cha mẹ nhưng do tư tưởng trọng nam khinh nữ, chỉ
người chồng được quyền ly hôn vợ nên quan hệ cấp dưỡng sau ly hôn hầu
như không được quy định.
- Thời kỳ Pháp thuộc:
Thời kỳ Pháp thuộc, chính quyền thực dân đã lần lượt ban hành các
văn bản pháp luật mới như: Tập Dân luật Giản yếu năm 1883 áp dụng ở
Nam Kỳ, Dân luật Bắc kỳ năm 1931 áp dụng ở Bắc kỳ, Dân luật Trung kỳ

22
năm 1936 áp dụng ở Trung kỳ. Trong giai đoạn này, pháp luật nói chung và
pháp luật hôn nhân và gia đình nói riêng có nhiều thay đổi nhưng vẫn duy trì
sự bất bình đẳng nam nữ, thừa nhận quyền gia trưởng làm ảnh hưởng không
nhỏ tới đời sống của gia đình và xã hội. Tuy nhiên, pháp luật thời kỳ này đã
bước đầu quy định nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ, chồng khi ly hôn tại Dân
luật Bắc kỳ, Điều 142, 143 Dân luật Trung kỳ: “án xử ly hôn sẽ xử cả về tiền
cấp dưỡng cho người vợ về sự trông coi con cái và về quyền lợi tài sản của
người vợ” [7] và việc cấp dưỡng giữa vợ chồng sẽ chấm dứt khi người vợ tái
giá hoặc ăn ở tư tình với người khác hoặc vô hạnh. Việc chăm sóc, nuôi
dưỡng con khi cha mẹ ly hôn được pháp luật ghi nhận nhưng vấn đề nuôi
nấng con cái được giao cho người cha trừ trường hợp vì lợi ích của đứa trẻ
ấy mà Tòa án giao cho người mẹ thì người cha có nghĩa vụ cấp dưỡng tiền
nuôi con. Như vậy, chế định cấp dưỡng sau ly hôn thời kỳ này đã có sự tiến
bộ quan trọng, bước đầu ghi nhận việc đảm bảo quyền lợi của người vợ và
các con khi ly hôn. Mặc dù chưa thật rõ ràng, công bằng và bình đẳng nhưng
có thể coi các quy định này là dấu ấn tiến bộ trong pháp luật hôn nhân và gia
đình, là nền tảng cho các đạo luật hôn nhân và gia đình về sau này ghi nhận,
xây dựng và phát triển thêm góp phần đảm bảo quyền lợi của người phụ nữ
và trẻ em khi cha mẹ ly hôn.
1.4.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra
đời, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc ta: kỷ nguyên độc lập, tự chủ.
Ngay từ khi ra đời, Nhà nước ta đã chú trọng xây dựng một hệ thống pháp
luật hoàn chỉnh, trong đó có pháp luật về hôn nhân và gia đình. Chế định về
cấp dưỡng sau ly hôn từ Cách mạng tháng Tám đến nay được chia làm 3 giai
đoạn tương ứng với sự phát triển của Luật Hôn nhân và gia đình.

23
- Từ năm 1945 đến năm 1954
Năm 1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ra đời, đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử lập hiến ở nước ta.
Hiến pháp năm 1946 đã ghi nhận quyền bình đẳng giữa nam, nữ về mọi mặt
tạo cơ sở pháp lý để ban hành các Sắc lệnh đầu tiên điều chỉnh các quan hệ
hôn nhân và gia đình, từng bước xóa bỏ những quy định lạc hậu của chế độ
cũ. Sự ra đời của Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950 và Sắc lệnh số 159 ngày
17/11/1950 đã đánh dấu bước khởi đầu của pháp luật về hôn nhân và gia đình
trong chế độ mới.
Sắc lệnh số 97/SL gồm có 15 điều, trong đó có 8 điều quy định về hôn
nhân và gia đình, thừa nhận quyền bình đẳng của người phụ nữ trong gia
đình, xóa bỏ tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, được quy định tại Điều 4, 5, 6
của Sắc lệnh. Đây là điểm tiến bộ trong pháp luật hôn nhân gia đình trong giai
đoạn mới. Tuy nhiên, Sắc lệnh số 97/SL chỉ dừng lại ở việc ghi nhận sự bình
đẳng trong quan hệ vợ chồng mà chưa đề cập đến vấn đề ly hôn và hậu quả
pháp lý của ly hôn trong đó có vấn đề cấp dưỡng sau ly hôn. Những hạn chế
này đã được khắc phục trong Sắc lệnh số 159/SL với những quy định thừa
nhận nguyên tắc tự do hôn nhân cùng với việc quyền lợi của người phụ nữ có
thai và thai nhi, con chưa thành niên khi ly hôn. Điều 6 - Sắc lệnh số 159 quy
định: “Tòa án sẽ căn cứ vào quyền lợi của các con vị thành niên để ấn định
việc trông nom, nuôi nấng và dạy dỗ chúng; hai vợ chồng đã ly hôn phải cùng
chịu phí tổn về việc nuôi dạy con, mỗi người tùy theo khả năng của mình” [5,
Điều 6]. Như vậy, pháp luật về ly hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn trong
giai đoạn này đã phần nào xóa bỏ chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến lạc
hậu, giải phóng người phụ nữ khỏi sự ràng buộc khắt khe, không tôn trọng
quyền lợi chính đáng của họ, quyền lợi của người phụ nữ và con chưa thành
niên khi cha mẹ ly hôn được đảm bảo. Tuy nhiên chưa có quy định việc bảo

24
vệ quyền lợi của con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự, đây là
một điểm hạn chế của pháp luật thời kỳ này.
- Từ năm 1954 đến năm 1975
Cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi năm 1954, tuy nhiên đất nước
ta vẫn tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị khác biệt:
miền Bắc được giải phóng bước vào thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội và là
hậu phương lớn chi viện cho miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc, dân
chủ, đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Ở miền Bắc bước vào công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội, Sắc lệnh
số 97/SL và Sắc lệnh số 159/SL đã hoàn thành sứ mệnh của mình tuy nhiên
vẫn không đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ mới.
Vì vậy, “việc ban hành một đạo luật mới về hôn nhân và gia đình đã trở
thành đòi hỏi cấp bách của toàn xã hội. Đó là tất yếu khách quan thúc đẩy sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta” – Công báo số 1 năm 1960.
Hiến pháp năm 1959 ra đời, ghi nhận quyền bình đẳng nam nữ về mọi
mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và gia đình tạo cơ sở pháp lý cho việc
ban hành một đạo luật mới về hôn nhân gia đình. Luật Hôn nhân và gia đình
năm 1959 dành một chương riêng để quy định về ly hôn và hậu quả pháp lý
của ly hôn với những quy định khác hẳn với pháp luật trước kia.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 ghi nhận nguyên tắc bảo vệ
quyền lợi của con sau ly hôn tại Điều 31, 32, 33 - Luật Hôn nhân và gia đình
năm 1959: vợ chồng khi ly hôn vẫn có mọi nghĩa vụ và quyền lợi đối với
con chung: việc giao con cho ai trông nom, nuôi dưỡng và giáo dục con
chưa thành niên phải căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con hay việc đóng
góp phí tổn nuôi con…
Về cấp dưỡng giữa vợ, chồng thì pháp luật ghi nhận nghĩa vụ cấp dưỡng
giữa vợ và chồng khi ly hôn “nếu một bên gặp khó khăn, túng thiếu, yêu cầu cấp
dưỡng thì bên kia phải cấp dưỡng tùy theo khả năng của minh” [17, Điều 30].

25
Như vậy, so với Sắc lệnh số 97/SL và Sắc lệnh số 159/SL thì những
quy định này của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 đã đầy đủ và cụ thể
hơn, thể hiện sự tiến bộ rõ rệt nhưng vẫn còn mang tính khái quát, chưa quy
định cụ thể việc bảo vệ quyền lợi của con đã thành niên không có khả năng
lao động. Có thể nói đây là bước phát triển của pháp luật hôn nhân và gia
đình, là cơ sở để từng bước xây dựng và phát triển ngành luật hôn nhân và gia
đình trong hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa của Nhà nước ta.
Ở miền Nam, sau năm 1954 đế quốc Mỹ thay chân Pháp nhảy vào xâm
lược nước ta, tiến hành chính sách thực dân kiểu mới. Chế độ hôn nhân và gia
đình được áp dụng ở miền Nam trong giai đoạn này thể hiện qua ba văn bản:
Luật Gia đình (Luật số 1/59), Sắc luật số 15/64, Bộ luật dân sự Sài Gòn năm
1972. Trong đó, việc giải quyết hậu quả của ly hôn chủ yếu dựa trên yếu tố lỗi
của các bên vợ chồng như người có lỗi phải cấp dưỡng cho người kia hay
người không có lỗi đương nhiên được nuôi con dưới 16 tuổi…
Dưới thời Ngô Đình Diệm, Luật số 1/59 có những quy định về quyền
bình đẳng của người phụ nữ, người vợ trong gia đình, bãi bỏ chế độ đa thê
những đạo luật này chỉ quy định về ly thân còn vấn đề ly hôn thì quy định tại
Điều 55 như sau: “Cấm chỉ vợ chồng ruồng bỏ nhau và sự ly hôn”, trừ trường
hợp do Tổng thống quyết định. Do đó không đặt ra vấn đề hậu quả của ly hôn
nói chung và vấn đề cấp dưỡng sau ly hôn nói riêng.
Sau khi chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm bị lật đổ, Luật số 1/59
được thay thế bằng Sắc luật số 15/64 ngày 23/7/2964. Sắc luật số 15/64 có
quy định về vấn đề ly hôn giữa vợ và chồng cũng như giải quyết ly hôn và
hậu quả của nó. Theo quy định của Sắc luật số 15/64, quan hệ vợ chồng chấm
dứt bằng ly hôn, vấn đề cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau khi ly hôn được đặt
ra nhưng người có có lỗi phải cấp dưỡng cho người hôn phối không có lỗi,
hay việc giải quyết mối quan hệ giữa cha mẹ và con cũng căn cứ trên cơ sở lỗi

26
của hai vợ chồng nên người không có lõi sẽ đương nhiên được quyền nuôi
con dưới 16 tuổi, quyền thăm nom, cấp dưỡng cho con thuộc về người kia.
Nhìn chung, Sắc luật số 15/64 đã xóa bỏ những quy định không hợp lý của
Luật số 1/59 những cũng chưa quy định một cách rõ ràng việc bảo vệ quyền
và nghĩa vụ của các bên hôn phối và của con cái.
Ngay sau khi lên cầm quyền, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã cho
soạn thảo, sửa đổi và ban hành các văn bản pháp luật sao cho phù hợp với nhu
cầu phát triển của xã hội nhằm phục vụ cho sự cầm quyền của mình. Bộ Dân
luật năm 1972 ra đời thay thế Sắc luật số 15/64. Bộ Dân luật năm 1972 coi ly
hôn là một chế định do dân luật điều chỉnh nhưng về cơ bản dựa trên các quy
định của Sắc luật 15/64. Theo đó, vấn đề cấp dưỡng được đặt ra nhưng có sự
phân biệt giữa tiền cấp dưỡng mà người có lỗi phải trả cho người vô tội với tiền
cấp dưỡng được ấn định trong thời gian làm thủ tục ly hôn. Bộ Dân luật năm
1972 quy định: “Tòa án có thể buộc người hôn phối có lỗi trong việc ly hôn
phải cấp dưỡng cho người kia tùy theo tư lực của mình …” [1, Điều 197].
Tựu chung lại, pháp luật hôn nhân và gia đình áp dụng ở miền Nam
thời kỳ này ra đời trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, các phong tục tập
quán lạc hậu vẫn còn tồn tại, và đó là công cụ để bảo vệ của chính quyền phản
động tay sai. Vì vậy, các văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân và
gia đình do chính quyền ngụy Sài Gòn ban hành thời kỳ này đều bảo vệ quyền
lợi của người gia trưởng, thực hiện nguyên tắc bất bình đẳng giữa vợ chồng,
có sự phân biệt giữa các con nhằm bảo vệ nhà nước phản động mị dân đi
ngược lại với lợi ích của nhân dân ta.
1.4.3. Giai đoạn từ năm 1975 đến nay
Cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước, Cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn cả
nước giành độc lập, thống nhất và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Việc xây dựng

27
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật áp
dụng thống nhất chung cho cả nước. Trước yêu cầu đó, Hiến pháp năm 1980
được ban hành, ghi nhận các nguyên tắc về chế độ hôn nhân và gia đình, trên
cơ sở đó ban hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986.
Các quy định về cấp dưỡng sau ly hôn về cơ bản vẫn dựa trên những
quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 nhưng có một số bổ sung
thêm theo hướng tiến bộ và hoàn thiện hơn. Ví dụ như lần đầu tiên đưa ra quy
định để bảo vệ quyền lợi của con đã thành niên nhưng không có khả năng lao
động hoặc vấn đề thay đổi mức cấp dưỡng, thời gian cấp dưỡng. Với những
quy định này, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã góp phần vào việc xây
dựng và củng cố quan hệ gia đình xã hội chủ nghĩa, giữ gìn và phát huy các
phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp về hôn nhân và gia đình của dân tộc
ta tuy nhiên vẫn mang tính định hướng, khái quát. Do vậy, việc áp dụng các
quy định này vào giải quyết các tranh chấp phát sinh trên thực tế gặp nhiều
khó khăn, vướng mắc, đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung. Trước những thay đổi về
điều kiện kinh tế - xã hội, sau hơn 10 năm thực hiện Luật Hôn nhân và gia
đình năm 1986, kỳ họp thứ VII Quốc hội khóa X đã thông qua Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2000.
Kế thừa và phát huy thành tựu của Luật Hôn nhân và gia đình năm
1959 và năm 1986 của nhà nước ta, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
ra đời đã góp phần đề cao vai trò của gia đình trong đời sống xã hội, giữ
gìn và phát huy truyền thống văn hóa đạo đức tốt đẹp của gia định Việt
Nam, qua đó có những đóng góp đáng kể vào việc phát triển nguồn nhân
lực, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương nói riêng và
đất nước nói chung.
Thông qua những quy định cụ thể, Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000 đã góp phần xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ hôn nhân và gia

28
đình tiến bộ, ấm no hạnh phúc ở Việt Nam, bảo vệ tốt hơn quyền con người,
quyền công dân, đặc biệt là quyền của phụ nữ và trẻ em trong lĩnh vực hôn
nhân và gia đình, tạo ra hành lang pháp lý góp phần thiết lập và bảo đảm sự
an toàn cho các quan hệ phát sinh trong nội bộ các thành viên gia đình. Điểm
mới thiết thực nhất gắn liền với việc bảo vệ lợi ích hợp pháp của các bên
trong quan hệ cấp dưỡng mà đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, đó là Luật Hôn
nhân và gia đình đã quy định mở rộng đối tượng được cấp dưỡng và phương
thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Tuy nhiên sau 13 năm đi vào cuộc sống, trong bối cảnh đất nước bước
sang giai đoạn phát triển mới, cùng với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và hội nhập quốc tế, các quan hệ hôn nhân và gia đình đã có
những thay đổi đáng kể cần có sự điều chỉnh phù hợp hơn của pháp luật.
Trong bối cảnh như vậy, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã bộc lộ một
số điểm bất cập, hạn chế. Do đó, việc sửa đổi, bổ sung Luật này là yêu cầu
cấp thiết nhằm đáp ứng đòi hỏi của thực tế các quan hệ xã hội phát sinh trong
lĩnh vực hôn nhân và gia đình.
Sau một thời gian tổ chức lấy ý kiến đóng góp của các địa phương và
bộ ngành có liên quan và thông qua quá trình tiếp thu, chỉnh lý của cơ quan
soạn thảo, ngày 19/6/2014, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XIII Luật Hôn
nhân và gia đình sửa đổi chính thức được thông qua, với 79,52% số phiếu tán
thành, Luật Hôn nhân và gia đình sửa đổi có hiệu lực từ 01/01/2015, với 10
chương, 133 điều quan hệ hôn nhân và gia đình sẽ có những quy định pháp lý
điều chỉnh về chế độ hôn nhân và gia đình; chuẩn mực pháp lý cho cách ứng
xử giữa các thành viên gia đình; trách nhiệm của cá nhân, tổ chức, Nhà nước
và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình. Cụ thể,
Luật quy định những vấn đề như: Kết hôn; quan hệ giữa vợ và chồng; chấm
dứt hôn nhân; quan hệ giữa cha, mẹ và con; quan hệ giữa các thành viên khác
của gia đình; cấp dưỡng; quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài...

29
Kết luận chương 1

Việc làm rõ cơ sở lý luận của vấn đề cấp dưỡng sau ly hôn sẽ là cơ sở
cho việc đưa ra các quy định pháp luật về cấp dưỡng sau ly hôn tại chương 2
một cách đầy đủ, phù hợp với Hiến pháp, đồng bộ với các quy định pháp luật
khác có liên quan.

30
Chương 2
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ CẤP DƯỠNG SAU LY HÔN


2.1. Điều kiện phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng
Là một trong những hậu quả pháp lý của ly hôn nên nghĩa vụ cấp
dưỡng sau ly hôn có chủ thể hẹp hơn nghĩa vụ cấp dưỡng nói chung. Khi ly
hôn, chỉ giải quyết, xem xét mối quan hệ giữa vợ và chồng; giữa cha mẹ với
con. Chính vì vậy mà nghĩa và cấp dưỡng sau ly hôn chỉ xảy ra hai trường
hợp là nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng và nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha
mẹ với con.
Nghĩa vụ cấp dưỡng sau ly hôn phát sinh khi có đầy đủ các điều kiện sau:
- Giữa người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng có quan hệ hôn
nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng.
Quan hệ hôn nhân được hiểu là quan hệ vợ chồng sau khi đã kết hôn.
Sự kiện kết hôn đã làm phát sinh quan hệ pháp luật giữa vợ chồng. Nội dung
quan hệ pháp luật giữa vợ chồng bao gồm các nghĩa vụ và quyền về nhân thân
và các nghĩa vụ về tài sản. Thực hiện quyền và nghĩa vụ đó nhằm đảm bảo
thoả mãn những nhu cầu tình cảm và vật chất trong đời sống vợ chồng, đảm
bảo lợi ích chung của gia đình và xã hội. Khi quan hệ hôn nhân chấm dứt (vợ
chồng ly hôn) về nguyên tắc các quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng
sẽ chấm dứt hoàn toàn dù vợ chồng có thoả thuận hay không thoả thuận được
thì Toà án cũng sẽ quyết định nhưng quyền và nghĩa vụ về tài sản trong đó có
quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng không hẳn đã chấm dứt. Quyền và nghĩa vụ cấp
dưỡng giữa vợ và chồng là kết quả của quan hệ hôn nhân hợp pháp và quan
hệ cấp dưỡng giữa vợ và chồng phát sinh kể từ thời điểm kết hôn. Khi ly hôn,
một bên vợ hoặc chồng sẽ được cấp dưỡng nếu bên khó khăn túng thiếu có
yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng.

31
Quan hệ huyết thống là quan hệ dựa trên sự kiện sinh đẻ của người phụ
nữ và từ sự kiện đó phát sinh quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con. Có chung
huyết thống tức là giữa họ có mối quan hệ về mặt sinh học. Cha mẹ là người
sinh ra các con, do vậy họ phải có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc các con trở
thành công dân tốt, và những người con cũng có nghĩa vụ chăm sóc cha mẹ,
đặc biệt là khi cha mẹ ốm đau bệnh tật… Điều đó bắt nguồn từ mối quan hệ
tình cảm tồn tại lâu bền giữa họ.
Quan hệ nuôi dưỡng là quan hệ do sự kiện nuôi con nuôi và quan hệ
hôn nhân đem lại, được thể hiện qua Quyết định công nhận cha, mẹ, con của
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Nuôi con nuôi là việc một người nhận nuôi
một đứa trẻ (trừ trường hợp đặc biệt có thể người được nhận làm con nuôi là
người đã thành niên) không do họ sinh ra nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ và
các con giữa người nhận nuôi và người được nhận làm con nuôi, đảm bảo cho
người được nhận nuôi được trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng phù hợp với
đạo đức xã hội.
- Người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng không sống chung với nhau.
Khi người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng cùng sống chung với
nhau thì người cấp dưỡng đã trực tiếp thực hiện hành vi chăm sóc, nuôi
dưỡng người được cấp dưỡng bằng tài sản của mình, do đó việc cấp dưỡng
không được đặt ra. Tuy nhiên, không phải lúc nào nghĩa vụ nuôi dưỡng cũng
có thể thực hiện được. Trong những hoàn cảnh nhất định người có nghĩa vụ
nuôi dưỡng không có điều kiện để thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng của mình
như: phải đi công tác xa, bị bệnh nặng kéo dài, phải chấp hành hình phạt tù
hay phổ biến nhất là trong trường hợp vợ chồng ly hôn. Trong những trường
hợp đó, để đảm bảo cuộc sống của người được nuôi dưỡng, đồng thời thể hiện
phần nào sự quan tâm, chăm sóc giữa người có nghĩa vụ nuôi dưỡng và người
được nuôi dưỡng thì nghĩa vụ cấp dưỡng được đặt ra.

32
Tuy nhiên trong rất nhiều trường hợp nghĩa vụ cấp dưỡng bị nhầm lẫn
với nghĩa vụ nuôi dưỡng. Nghĩa vụ nuôi dưỡng và nghĩa vụ cấp dưỡng có
cùng chủ thể, đó là những người có mối quan hệ đặc biệt với nhau - là những
người có quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và quan hệ hôn nhân. Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định tại các điều 36, 38, 47, 48 những
người có nghĩa vụ nuôi dưỡng bao gồm: cha, mẹ và con, anh chị em với nhau,
ông bà và cháu. Điều 50 - Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng quy
định: nghĩa vụ cấp dưỡng cũng được thực hiện giữa cha mẹ và con, giữa anh
chị em với nhau, giữa ông bà nôi, ông bà ngoại với cháu, giữa vợ và chồng.
Mặt khác điều kiện phát sinh hai nghĩa vụ này cũng có nét tương đồng như:
một hoặc nhiều người trong số những người có quan hệ gia đình với nhau
nhưng không có khả năng để tự nuôi mình và những người khác có khả năng
để nuôi dưỡng hoặc cấp dưỡng. Do vậy, để phân biệt hai nghĩa vụ này phải
dựa vào yếu tố không gian giữa các chủ thể. Luật Hôn nhân và gia đình quy
định khi người có quan hệ nuôi dưỡng không cùng chung sống với nhau thì
giữa họ phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng.
Nếu trong quan hệ nuôi dưỡng, người được nuôi dưỡng và người có
nghĩa vụ nuôi dưỡng sống chung với nhau thì ngược lại trong quan hệ cấp
dưỡng, người được cấp dưỡng và người có nghĩa vụ cấp dưỡng không cùng
chung sống với nhau. Vấn đề đặt ra là thế nào là “sống chung”. Hiện nay có
ba quan điểm khác nhau về “sống chung”.
Quan điểm thứ nhất cho rằng những người sống chung là những người
có cùng nơi đăng ký hộ khẩu thường trú.
Quan điểm thứ hai cho rằng chỉ coi là sống chung khi họ cùng sinh
sống thường xuyên dưới một mái nhà và không phụ thuộc vào nơi đăng ký hộ
khẩu thường trú.
Quan điểm thứ ba cho rằng việc xác định thế nào là sống chung không

33
phụ thuộc vào nơi đăng ký hộ khẩu thường trú hoặc tạm trú mà căn cứ vào
nguồn tài chính để đảm bảo nhu cầu vật chất hằng ngày của họ, do đó những
người được coi là sống chung khi họ có cùng quỹ tiêu dùng.
Từ những quan điểm khác nhau về “sống chung”, có thể thấy rằng quan
điểm thứ ba là đầy đủ hơn cả vì trong thực tế có những người có cùng nơi
đăng ký hộ khẩu thường trú nhưng lại không cùng ăn chung ở chung. Ví dụ
như cha mẹ cho con ăn riêng trong khi họ vẫn ở chung một nhà với nhau. Bên
cạnh đó cũng có những trường hợp có những người có nơi đăng ký hộ khẩu
khác nhau nhưng lại ăn chung, ở chung với nhau. Như vậy, theo quan điểm
thứ ba thì những người không cùng chung sống là những người không có quỹ
tiêu dùng chung. Điều đó có nghĩa là khi xem xét một quan hệ có phải là quan
hệ cấp dưỡng hay quan hệ nuôi dưỡng cần xác định giữa các chủ thể này có
quỹ tiêu dùng chung hay không? Khi họ không có quỹ tiêu dùng chung thì
quan hệ giữa họ là quan hệ cấp dưỡng. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp
dù sống chung một nhà, dù có quỹ tiêu dùng chung nhưng người có nghĩa vụ
nuôi dưỡng lại không quan tâm, chăm sóc đến người được nuôi dưỡng. Lúc
này nghĩa vụ nuôi dưỡng được chuyển thành nghĩa vụ cấp dưỡng. Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Trong trường hợp người có nghĩa vụ nuôi
dưỡng trốn tránh nghĩa vụ thì theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức được
quy định tại Điều 119 của Luật này, Tòa án buộc người đó phải thực hiện nghĩa
vụ cấp dưỡng theo quy định của Luật này” [24, Điều 107, Khoản 2].
Từ sự phân tích trên có thể thấy rằng để xác định, phân biệt đâu là
nghĩa vụ cấp dưỡng và đâu là nghĩa vụ nuôi dưỡng là không dễ . Tuy vậy,
không phải vì thế mà không cần phân biệt giữa cấp dưỡng và nuôi dưỡng, cần
phải phân biệt khi nào nghĩa vụ cấp dưỡng phát sinh, khi nào nghĩa vụ nuôi
dưỡng phát sinh để đảm bảo quyền lợi của các chủ thể trong quan hệ đó, đặc
biệt là đối với những chủ thể chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng bị

34
mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản
để tự nuôi mình.
- Trong quan hệ cấp dưỡng sau ly hôn giữa cha mẹ với con thì con
được cấp dưỡng là chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng không có khả
năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Con chưa thành niên thì
luôn là đối tượng được cấp dưỡng nhưng đối với con đã thành niên thì phải
có điều kiện nhất định mới được cấp dưỡng. Pháp luật quy định như vậy
nhằm đảm bảo quyền lợi cho con chưa thành niên, hơn nữa con chưa thành
niên là con chưa có đủ điều kiện cũng như quyền lợi về mặt pháp luật để có
thể tự nuôi sống bản thân nhưng con đã thành niên đã có đầy đủ điều kiện về
thể chất, sức khỏe cũng như được pháp luật thừa nhận là người đã trưởng
thành, có quyền được làm việc để nuôi sống bản thân. Đối với con đã thành
niên phải có điều kiện thì mới được cấp dưỡng, đó là phải không có khả
năng lao động và đi kèm là không có tài sản để tự nuôi mình. Không có khả
năng lao động có thể là do già yếu, mất sức lao động, bị tàn tật, mất năng lực
hành vi dân sự… Tuy nhiên không có khả năng lao động phải đi kèm với
điều kiện không có tài sản để tự nuôi mình, quy định như vậy bởi trên thực
tế có rất nhiều trường hợp không có khả năng lao động nhưng họ vẫn có tài
sản để tự nuôi mình. Tuy nhiên vấn đề khi nào một người được coi là
“không có tài sản để tự nuôi mình” là vấn đề cần được pháp luật quy định cụ
thể để làm một trong những căn cứ xác định việc thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng. Vấn đề này Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 không quy định rõ
ràng, đến Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng chưa quy định cụ thể,
vì vậy pháp luật cần phải quy định cụ thể vấn đề này để đảm bảo tính thống
nhất trong thực tiễn xét xử.
- Trong quan hệ cấp dưỡng sau ly hôn giữa vợ và chồng, Điều 60 –
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Điều 115 - Luật Hôn nhân và gia đình

35
năm 2014 quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn như sau:
“Khi ly hôn nếu bên khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do
chính đáng thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình” [24,
Điều 115]. Như vậy, có thể hiểu một trong những điều kiện để phát sinh nghĩa
vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn là một bên có khó khăn, túng thiếu
có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng. Theo đó, người có yêu cầu cấp
dưỡng phải là người có khó khăn, túng thiếu và có lý do chính đáng. Tuy
nhiên, pháp luật hiện hành chưa quy định cụ thể vấn đề này, không quy định
thế nào là khó khăn, túng thiếu có lý do chính đáng. Do vậy, khi giải quyết các tình
huống trong thực tế người áp dụng pháp luật sẽ gặp khó khăn do thiếu căn cứ pháp
lý nên trong nhiều trường hợp người có yêu cầu cấp dưỡng tự do yêu cầu việc
cấp dưỡng và việc xét xử nhiều trường hợp khác nhau nhưng tương tự nhau
lại không được giải quyết một cách nhất quán.. Sự túng thiếu, khó khăn được đề
cập ở đây phải là sự túng thiếu , khó khăn thất sự và có lý do chính đáng như ốm
đau, bệnh tật, tai nạn…Nếu có khó khăn, túng thiếu thật sự nhưng vì những lý do
không chính đáng như nghiện hút, cờ bạc… thì cũng không được cấp dưỡng.
- Người cấp dưỡng phải có khả năng cấp dưỡng.
Về nguyên tắc, giữa cha mẹ và con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho
nhau khi một bên gặp khó khăn, túng thiếu hoặc là con chưa thành niên, con
đã thành niên nhưng không có khả năng lao động. Song nghĩa vụ cấp dưỡng
chỉ có thể thực hiện được khi người có nghĩa vụ có khả năng kinh tế. Điều 16
- Nghị định số 70/2001/NĐ - CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (sau đây gọi là Nghị
định số 70/2001/NĐ - CP) (hiện nay, chưa có Nghị định hướng dẫn thi hành
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014) quy định: “Người có khả năng thực tế
để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng là người có thu nhập thường xuyên hoặc tuy
không có thu nhập thường xuyên nhưng còn tài sản sau khi đã trừ đi chi phí

36
thông thường cần thiết cho cuộc sống của người đó” [3, Điều 16]. Như vậy,
đánh giá khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng có thể dựa vào
hai yếu tố: Thu nhập thường xuyên và tài sản hiện có hoặc một người tuy
không có thu nhập thường xuyên nhưng lại còn tài sản sau khi đã trừ đi chi
phi cần thiết cho bản thân thì cũng được coi là có khả năng để thực hiện nghĩa
vụ cấp dưỡng. Theo Điều 56 và Điều 92 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
thì khi ly hôn cha mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con
và theo Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số
02/2000/NQ - HĐTP ngày 23/12/2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định
của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 (Sau đây gọi là Nghị quyết số
02/2000/NQ – HĐTP) quy định:
Đây là nghĩa vụ của cha mẹ do đó không phân biệt người
trực tiếp nuôi con có khả năng kinh tế hay không, người không
trực tiếp nuôi con vẫn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Trong
trường hợp người trực tiếp nuôi con không yêu cầu người không
trực tiếp nuôi con cấp dưỡng vì lý do nào đó thì Tòa án cần giải
thích cho họ hiểu rằng việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là quyền
lợi của con, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con. Nếu xét
thấy việc họ không yêu cầu cấp dưỡng là tự nguyện, họ có đầy đủ
khả năng, điều kiện nuôi con thì Toà án không buộc bên kia phải
cấp dưỡng nuôi con [9, mục 11].
Theo những quy định trên thì người không trực tiếp nuôi con phải có
nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Đây là nghĩa vụ của bậc làm cha mẹ, dù họ
không thể tiếp tục cuộc sống vợ chồng nhưng không phải vì thế mà mối quan
hệ giữa họ với con cái bị cắt đứt. Họ vẫn phải thực hiện trách nhiệm “nuôi
dưỡng” dưới dạng “cấp dưỡng” nhằm đảm bảo cho con cái họ được bù đắp sự
hụt hẫng về mặt tinh thần và đảm bảo cuộc sống tối thiểu của con họ. Tuy

37
nhiên, trong trường hợp con có quyền được cha mẹ cấp dưỡng nhưng cha mẹ
lại không có khả năng thực hiện nghĩa vụ đó thì cha, mẹ cũng không phải thực
hiện nghĩa vụ (chẳng hạn như trường hợp cha, mẹ bị tàn tật, mất năng lực
hành vi dân sự, mất khả năng lao động và không có tài sản). Trong trường
hợp này cha, mẹ, người không trực tiếp nuôi con có thể xin tạm hoãn nghĩa vụ
cấp dưỡng cho đến khi họ có khả năng cấp dưỡng. Nhưng Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2000 cũng như các văn bản hướng dẫn không nói cụ thể thời
gian tạm hoãn đến khi nào kết thúc như vậy thì quyền lợi của con cái trong
trường hợp này cũng sẽ không được bảo đảm. Hơn nữa pháp luật còn quy
định phải căn cứ vào khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Tuy
nhiên, việc xác định khả năng cấp dưỡng của người có nghĩa vụ cấp dưỡng là
một vấn đề nan giải, khó xác định được nhất là đối với những người làm nghề
tự do, buôn bán nhỏ… những người có thu nhập bấp bênh, không ổn định.
2.2. Mức cấp dưỡng
Khi đặt ra nghĩa vụ cấp dưỡng, việc đầu tiên là phải xem xét các điều
kiện để phát sinh nghĩa vụ này, nếu có đầy đủ các điều kiện thì phải xét đến
mức cấp dưỡng. Có thể hiểu mức cấp dưỡng là tiền hoặc một khoản tài sản
có giá trị quy đổi được thành tiền mà người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải trả
cho người được cấp dưỡng để đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của người
được cấp dưỡng.
Khoản 1 - Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và khoản 1
- Điều 116 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về mức cấp
dưỡng như sau:
Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người
được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn
cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng
và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu hai bên không
thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết [24, Điều 116].

38
Như vậy, mức cấp dưỡng sẽ do người được cấp dưỡng và người cấp
dưỡng thỏa thuận, chỉ khi họ không thỏa thuận được thì Tòa án sẽ giải quyết.
Việc quyết định mức cấp dưỡng phải căn cứ vào hai điều kiện:
- Thứ nhất, phải căn cứ vào thu nhập thực tế, khả năng thực tế của
người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Thu nhập của người có nghĩa vụ cấp dưỡng bao
gồm toàn bộ thu nhập của người đó, gồm có thu nhập theo lương và các
khoản thu nhập khác ngoài lương – tức là thu nhập thực tế của người có nghĩa
vụ cấp dưỡng. Trong các trường hợp thu nhập thực tế của người có nghĩa vụ
cấp dưỡng không ổn định thì mức thu nhập của họ được xác định là mức thu
nhập bình quân hàng tháng của người đó. Trên cơ sở thu thập, kết hợp với các
điều kiện cụ thể khác có thể đánh giá khả năng thực tế của người phải cấp
dưỡng. Khả năng thực tế của người phải cấp dưỡng cơ bản phụ thuộc vào thu
nhập thực tế của họ (thu nhập do lao động mà có). Bên cạnh đó, họ còn có
những thu nhập khác không do lao động mà có như thu nhập do được thừa kế,
do trúng xổ số, do được lợi tự nhiên về tài sản.
Theo quy định tại khoản 1 – Điều 16 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP thì:
“Người có khả năng thực tế thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng quy định tại điều
51, 52 và 53 của Luật Hôn nhân và gia đình là người có thu nhập thường
xuyên hoặc tuy không có thu nhập thường xuyên nhưng còn tài sản khi trừ đi
chi phí thông thường cần thiết cho cuộc sống của người đó” [3, Điều 16].
Khoản 3 Điều 16 của Nghị định số 70/2001/NĐ-CP quy định:
Trong trường hợp nhiều người cùng cấp dưỡng cho một
người mà trong số đó có người có khả năng thực tế và người không
có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định
tại Khoản 1 Điều này thì người có khả năng thực tế phải thực hiện
nghĩa vụ cấp dưỡng cho người được cấp dưỡng theo quy định tại
Điều 52 của Luật Hôn nhân và gia đình [3, Điều 16].

39
Pháp luật quy định mức cấp dưỡng căn cứ vào thu nhập, khả năng thực
tế của người cấp dưỡng để đảm bảo tính khả thi của nghĩa vụ cấp dưỡng,
quyền lợi của người được cấp dưỡng.
- Thứ hai, căn cứ vào nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng.
Khoản 2 Điều 16 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP quy đinh:
Nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng theo quy định
tại các điều 51, 52 và 53 của Luật này được xác định căn cứ vào các
mức sinh hoạt trung bình tại địa phương nơi người được cấp dưỡng
cư trú, bao gồm các chi phí thông thường cần thiết về ăn, ở, mặc,
học, khám, chữa bệnh và các chi phí thong thường cần thiết khác để
đảm bảo cuộc sống của người được cấp dưỡng [3, Điều 16].
Điều 53 -Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 còn quy định về việc
thay đổi mức cấp dưỡng khi có lý do chính đáng và theo thỏa thuận của các
bên. Nếu các bên không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Việc
thay đổi mức cấp dưỡng có thể theo hướng tăng hoặc giảm tùy theo hoàn cảnh
cụ thể của người cấp dưỡng. Việc thay đổi mức cấp dưỡng trên cơ sở có lý do
chính đáng, lý do đó có thể là người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng
lâm vào tình trạng khó khăn hơn do bị bệnh tật, tai nạn, không còn việc làm
nên không có lương hoặc có thu nhập hợp pháp khác…
2.3. Thời hạn và phương thức thực hiện cấp dưỡng
Thời hạn cấp dưỡng được hiểu là khoảng thời gian thực hiện nghĩa
vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng, giữa cha mẹ với con khi ly hôn theo thỏa
thuận hoặc theo quyết định của Tòa án.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 không quy định về thời gian cấp dưỡng khi ly hôn mà tùy theo từng
trường hợp, các bên có thể thỏa thuận hoặc Tòa án quyết định thời hạn cấp
dưỡng tại Điều 61 – Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và Điều 118 - Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014 về chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng.

40
Phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng được hiểu là hình thức,
cách thức nhằm chuyển giao một số tiền hoặc một số hiện vật có số lượng đã
được xác định theo thỏa thuận hoặc theo bản án, quyết định của Tòa án từ
người cấp dưỡng sang người được cấp dưỡng có thể trực tiếp hoặc gián tiếp
thông qua cơ quan thi hành án.
Điều 50 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2014 quy định:
Việc cấp dưỡng có thể thực hiện định kì hàng tháng, hàng
quý, hàng năm hoặc một lần. Các bên có thể thỏa thuận thay đổi
phương thức cấp dưỡng, tạm ngừng cấp dưỡng trong trường hợp
người có nghĩa vụ lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế mà không
có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận
được thì yêu cầu Tòa án giải quyết [24, Điều 117].
Phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng được quy định rất linh
hoạt, mềm dẻo. Điều đó tạo điều kiện cho các bên dễ dàng thoả thuận lựa
chọn cách thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng sao cho phù hợp với hoàn
cảnh của mình.
Thông thường nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện theo định kì, nghĩa
là nghĩa vụ được thực hiện theo kì hạn đã được định trước một các đều đặn.
Nghị định số 70/2001/NĐ - CP quy định:
Người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc
người giám hộ của người đó thoả thuận về phương thức thực hiện
nghĩa vụ cấp dưỡng bằng tiền hoặc tài sản. Nghĩa vụ cấp dưỡng
được ưu tiên thực hiện theo phương thức định kì hàng tháng, hàng
quý, nửa năm hoặc hàng năm [3, Điều 18, Khoản 1].
Trong trường hợp đặc biệt, nếu người cấp dưỡng có khả năng thực tế và
người được cấp dưỡng đồng ý, thì nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện một

41
lần. Khoản 2 Điều 18 Nghị định số 70/2001/NĐ - CP, quy định: Việc cấp
dưỡng được thực hiện một lần trong các trường hợp sau:
- Do người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của họ thoả thuận với
người có nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Theo yêu cầu của người có nghĩa vụ và được Toà án chấp nhận;
- Theo yêu cầu của người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của
người đó và được Toà án chấp nhận trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp
dưỡng thường xuyên có hành vi phá tán tài sản hoặc trốn tránh việc thực hiện
nghĩa vụ cấp dưỡng mà hiện có tài sản để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Theo yêu cầu của người trực tiếp nuôi con khi vợ chồng ly hôn mà có
thể trích từ phần tài sản của bên có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
Quy định này phù hợp với điều kiện kinh tế hiện nay, góp phần bảo
vệ thiết thực quyền lợi của người được cấp dưỡng, ngăn chặn hành vi phá
tán tài sản, trốn tránh, trì hoãn… thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của người
có nghĩa vụ, đồng thời bảo đảm việc thi hành nghĩa vụ cấp dưỡng nhanh,
gọn, hiệu quả.
Như vậy, những quy định này nhằm đảm bảo cho người được cấp
dưỡng có thể có được cuộc sống vật chất ổn định trong những điều kiện tối
thiểu trong suốt thời kỳ được cấp dưỡng mà không phải lo lắng về việc người
có nghĩa vụ cấp dưỡng tìm cách trốn tránh, trì hoãn thực hiện nghĩa vụ đồng
thời bảo đảm việc thi hành nghĩa vụ cấp dưỡng nhanh gọn, có hiệu quả. Số
tiền cấp dưỡng một lần, trong chừng mực nào đó, mang ý nghĩa của việc trợ
cấp trọn gói. Chuyển giao số tiền trợ cấp trọn gói, người có nghĩa vụ trên
nguyên tắc coi như đã hoàn thành nghĩa vụ cấp dưỡng của mình. Tuy nhiên,
bên cạnh đó, nó cũng có những mặt hạn chế mà phần nhiều do người cấp
dưỡng phải chịu. Giả sử, sau khi cha mẹ ly hôn, người được cấp dưỡng là con

42
chưa thành niên nhưng đủ 16 tuổi và dưới 18 tuổi, theo Khoản 2 – Điều 20 –
Bộ luật Dân sự năm 2005 thì số tiền cấp dưỡng là tài sản riêng của người con,
do đó người con có quyền quản lý. Khi cha mẹ ly hôn, con cái rất dễ rơi vào
tâm trạng cô đơn, đau khổ nên việc sử dụng số tiền cấp dưỡng vào những mục
đích không tốt hoặc tiêu xài phung phí là điều rất dễ xảy ra. Sau khi hết tiền
cấp dưỡng, đứa trẻ lâm vào tình trạng khó khăn, túng thiếu. Thì khi đó, có
được xem là lý do chính đáng để cấp dưỡng bổ sung hay không? Điều 19 -
Nghị định số 70/2001/NĐ - CP thì:
Trong trường hợp người được cấp dưỡng một lần lâm vào
tình trạng khó khăn trầm trọng do bị tai nạn hoặc mắc bệnh hiểm
nghèo mà người đã thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng có khả năng thực
tế để cấp dưỡng ở mức cao hơn, thì phải cấp dưỡng bổ sung theo
yêu cầu của người được cấp dưỡng [3, Điều 19].
Theo điều luật này thì không thể viện dẫn đã sử dụng hết số tiền cấp
dưỡng để yêu cầu cấp dưỡng bổ sung. Chính vì vậy, nhằm bảo vệ quyền lợi
của người được cấp dưỡng có được cuộc sống vật chất ổn định trong những
điều kiện tối thiểu trong suốt thời kỳ được cấp dưỡng mà Nghị định
70/2001/NĐ-CP đã hướng dẫn chi tiết về quản lý số tiền cấp dưỡng một lần:
3. Theo yêu cầu của người có nghĩa vụ cấp dưỡng, khoản cấp
dưỡng một lần có thể được gửi tại ngân hàng hoặc được giao cho
người được cấp dưỡng, người giám hộ của người được cấp dưỡng
quản lý, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
4. Người được giao quản lý khoản cấp dưỡng một lần có
trách nhiệm bảo quản tài sản đó như đối với tài sản của chính mình
và chỉ được trích để bảo đảm các nhu cầu thiết yếu của người được
cấp dưỡng [3, Điều 18, Khoản 3,4].

43
Tuy nhiên, việc cấp dưỡng một lần sẽ gây khó khăn rất nhiều cho Thẩm
phán khi tính tổng số tiền cấp dưỡng cũng như xác định thời gian, số năm kết
thúc để tính số tiền cấp dưỡng một lần. Đây là vấn đề khó xác định, giả sử khi
người được cấp dưỡng là người không có khả năng lao động, bị tàn tật thì khi
nào nghĩa vụ chấm dứt, thời gian đó là bao lâu, Thẩm phán căn cứ vào đâu để
tính số tiền mà người này sẽ nhận, hoặc khi cấp dưỡng cho chồng hoặc vợ là
đối tượng được cấp dưỡng, lúc đó khó có thể xác định được khi nào người
được cấp dưỡng có cuộc sống ổn định. Từ đó cho thấy việc cấp dưỡng theo
phương thức định kỳ sẽ mang lại nhiều thuận lợi cho Thẩm phán trong việc ấn
định một mức cấp dưỡng, cũng như tính khả thi trong thực tế, bảo đảm cuộc
sống ổn định của người được cấp dưỡng. Quá trình thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng là cả một thời gian dài cho nên sẽ phát sinh nhiều vấn đề, để tránh
trường hợp làm phát sinh yếu tố bất lợi cho người được cấp dưỡng cũng như
người có nghĩa vụ cấp dưỡng thì việc khuyến khích áp dụng phương thức cấp
dưỡng theo định kỳ là hợp lý vừa đảm bảo tính khả thi vừa đảm bảo cuộc
sống của các bên.
2.4. Thay đổi việc thực hiện cấp dưỡng
Trong thực tiễn, việc thực hiện các quy định pháp luật không phải lúc
nào cũng xảy ra một cách thuận lợi mà có thể vì những lý do khách quan, việc
thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng trở nên khó khăn như người có nghĩa vụ không
phải lúc nào cũng có thu nhập ổn định để thực hiện nghĩa vụ, người được cấp
dưỡng không phải lúc nào cũng sống ổn định với số tiền được cấp dưỡng. Do
đó, việc thực hiện nghĩa vụ này luôn luôn thay đổi theo hoàn cảnh trong cuộc
sống của người cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng. Vì
thế các nhà làm luật đã dự kiến các trường hợp đó và kịp thời điều chỉnh
nhằm tạo điều kiện cho việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng tốt, đảm bảo cuộc
sống của các bên tham gia quan hệ cấp dưỡng.

44
- Thay đổi về phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
Cũng chính vì nghĩa vụ cấp dưỡng là nghĩa vụ nhân thân có tính tài sản,
việc thực hiện xong nghĩa vụ cấp dưỡng một lần không hoàn toàn đồng nghĩa
với việc chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các bên với nhau. Thông thường
cấp dưỡng một lần được thực hiện xong, nghĩa vụ cấp dưỡng của người cấp
dưỡng sẽ chấm dứt. Tuy nhiên trong một số trường hợp nhất định như đã
phân tích ở trên, người cấp dưỡng vẫn có quyền yêu cầu cấp dưỡng bổ sung.
Điều này là cần thiết để đảm bảo cuộc sống của người được cấp dưỡng trong
những hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, nhất là đối với con chưa thành niên.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định:
Các bên có thỏa thuận thay đổi phương thức cấp dưỡng, tạm
dừng cấp dưỡng trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng lâm
vào tình trạng khó khăn về kinh tế mà không có khả năng thực hiện
nghĩa vụ cấp dưỡng: nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu tòa án
giải quyết [20, Điều 54].
Quy định này đảm bảo tính khả thi của việc cấp dưỡng.
Xuất phát từ quan điểm và lối sống của người Việt Nam là tình nghĩa
và tinh thần đùm bọc nhau lúc khó khăn. Do vậy, việc thay đổi vấn đề cấp
dưỡng được quy định, mà ở đây là việc bổ sung cấp dưỡng khi người được
cấp dưỡng có khó khăn trầm trọng xảy ra. Tuy nhiên, về mặt nguyên lý, nếu
việc bổ sung cấp dưỡng được thực hiện thì việc “cấp dưỡng một lần” sẽ
không có ý nghĩa. Cấp dưỡng một lần được hiểu là sau khi hoàn thành việc
cấp dưỡng thì sẽ chấm dứt hoàn toàn nghĩa vụ cấp dưỡng. Việc thay đổi cấp
dưỡng đặc biệt là việc tạm dừng cấp dưỡng có ảnh hưởng trực tiếp đến đời
sống của người được cấp dưỡng nên được tòa xem xét thận trọng, chỉ nên cho
phép tạm dừng cấp dưỡng khi sự khó khăn kinh tế của người có nghĩa vụ cấp
dưỡng là có thật và vì những lý do chính đáng (như bị mất mùa, bị thiên tai,
hỏa hoạn, ốm đau, tai nạn …).

45
- Thay đổi về mức cấp dưỡng
Mức cấp dưỡng được thỏa thuận hoặc được ấn định bằng con đường tư
pháp không nhất thiết được cố định trong suốt thời gian cấp dưỡng. Khoản 2
– Điều 53 – Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Khoản 2 – Điều 116 – Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Khi có lý do chính đáng, mức cấp
dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận;
nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết” [24, Điều 116]. Lý
do chính đáng rất đa dạng: bị tai nạn, ốm đau, hoàn cảnh sống thay đổi…
nhưng chưa có quy định nào quy định cụ thể lý do chính đáng trong trường
hợp này là thế nào. Ví dụ như trong trường hợp mức sống ở địa phương thay
đổi mà mức cấp dưỡng không thay đổi thì sẽ dẫn đến không đảm bảo được
nhu cầu thiết yếu, cuộc sống ổn định cho người được cấp dưỡng.
- Tạm ngừng cấp dưỡng
Việc tạm ngừng cấp dưỡng có thể được chấp nhận trong trường hợp
chính người có nghĩa vụ cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế mà
không có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Mặt khác cũng cần có sự
hướng dẫn cụ thể hơn về thời gian tạm dừng cấp dưỡng. Việc tạm dừng cấp
dưỡng không thể kéo dài mà chỉ có thể cho phép tạm dừng trong một khoản
thời gian nhất định. Vì vậy, pháp luật nên quy định một khoản thời gian tối đa
được phép tạm dừng cấp dưỡng sao cho không ảnh hưởng đến cuộc sống của
người được cấp dưỡng.
2.5. Chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng sau ly hôn
Chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng là việc người phải cấp dưỡng kết thúc,
không tiếp tục thực hiện việc đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu
cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng. Theo quy định tại Điều 61 – Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000 và Điều 118 – Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014, nghĩa vụ cấp dưỡng sẽ chấm dứt trong các trường hợp sau:

46
- Người được cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động
Về nguyên tắc, nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ đặt ra khi người được cấp
dưỡng là người chưa thành niên hoặc là người đã thành niên nhưng không có
khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Vì vậy, khi người
được cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động thì họ không được cấp
dưỡng nữa. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp người đã thành niên và có khả
năng lao động, song vẫn không đủ thu nhập để tự nuôi mình. Về nguyên tắc
những người này sẽ không được cấp dưỡng nữa. Việc cấp dưỡng (nếu được
thực hiện) là xuất phát trên cơ sở đạo đức, phong tục tập quán và tùy thuộc
vào sự thỏa thuận giữa người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng.
- Người được cấp dưỡng có thu nhập hoặc tài sản để tự nuôi mình
Khi có thu nhập hoặc tài sản để tự nuôi mình, người được cấp dưỡng
không còn lâm vào hoàn cảnh khó khăn, túng thiếu nên việc cấp dưỡng là
không còn cần thiết. Tuy nhiên, trong trường hợp này nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ
chấm dứt nếu người được cấp dưỡng không phải là con của người cấp dưỡng.
Nghĩa là giữa họ không có quan hệ cha, mẹ, con. Nếu người được cấp dưỡng
là con chưa thành niên thì mặc dù có tài sản riêng nhưng cha mẹ vẫn có nghĩa
vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, do đó vẫn có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
- Người được cấp dưỡng được nhận làm con nuôi
Khi được nhận làm con nuôi, giữa cha mẹ nuôi với người được cấp
dưỡng sẽ phát sinh quan hệ cha, mẹ và con nên cha mẹ nuôi sẽ có nghĩa vụ
nuôi dưỡng con nuôi nên không cần phải có người khác cấp dưỡng.
- Người được cấp dưỡng đã trực tiếp nuôi dưỡng người được cấp dưỡng
Nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ phát sinh khi người có nghĩa vụ nuôi dưỡng
không trực tiếp nuôi dưỡng người mà mình có nghĩa vụ nuôi dưỡng do hai
người không sống chung. Khi người có nghĩa vụ nuôi dưỡng đã trực tiếp nuôi
dưỡng người kia thì nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt.

47
- Người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng đã chết
Quan hệ cấp dưỡng là quan hệ tài sản gắn liền với nhân than giữa các
thành viên trong gia đình, dựa trên cơ sở hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng
được thực hiện giữa các chủ thể đó với nhau nên không thể chuyển giao cho
người khác. Do đó khi một bên (người cấp dưỡng hoặc người được cấp
dưỡng) chết thì quan hệ cấp dưỡng chấm dứt.
- Bên được cấp dưỡng sau khi ly hôn đã kết hôn với người khác
Trường hợp người được cấp dưỡng sau ly hôn mà kết hôn với người
khác thì nghĩa vụ cấp dưỡng cũng được chấm dứt. Bởi vì khi người được cấp
dưỡng đã kết hôn với người khác thì vợ hoặc chồng mới của họ có nghĩa vụ
chăm sóc, nuôi dưỡng họ chứ không phải vợ hoặc chồng cũ. Do vậy, việc cấp
dưỡng trong trường hợp này được chấm dứt.
- Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật
Ngoài các trường hợp trên, nghĩa vụ cấp dưỡng còn có thể chấm dứt
khi người phải cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế và không
thể có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Xác định tình trạng khó khăn
về sức khỏe của người phải cấp dưỡng dựa vào tình trạng sức khỏe, khả năng
lao động và mức thu nhập của người đó. Nếu một người trước đây có sức
khỏe, có khả năng lao đọng và có thu nhập nên được xác định là có khả năng
thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, nhưng nay tình trạng sức khỏe của họ giảm sút,
nếu họ tiếp tục phải cấp dưỡng thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của
chính họ. Đối với những trường hợp này, nghĩa vụ cấp dưỡng của họ bị chấm
dứt hoặc có thể tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Vì vấn đề cấp dưỡng
giữa vợ và chồng được thực hiện theo khả năng thực tế của các bên, nên khi
không đáp ứng được các điều kiện theo quyết định của pháp luật thì nghĩa vụ
cấp dưỡng sẽ được chấm dứt.
Ví dụ: người có nghĩa vụ cấp dưỡng đau ốm, tai nạn hoặc mất việc
không có hoặc không còn khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nữa.

48
2.6. Vấn đề bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
Bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng trong thực tế có ý nghĩa
quan trọng vì nó liên quan trực tiếp đến cuộc sống của người được cấp
dưỡng. Khi bản án, quyết định về việc cấp dưỡng của Tòa án có hiệu lực,
người có nghĩa vụ cấp dưỡng có thể tự nguyện thi hành nghĩa vụ cấp dưỡng
trong một thời hạn nhất định. Nếu hết thời hạn tự nguyện thi hành mà người
có nghĩa vụ cấp dưỡng không chịu thi hành thì có thể bị áp dụng các biện
pháp cưỡng chế thi hành án. Các biện pháp đó là kê biên tài sản, bán đấu giá
tài sản đã kê biên, trừ vào thu nhập của người phải thi hành án… Các biện
pháp này đã được quy định trong pháp lệnh thi hành án dân sự. Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000 chỉ quy định về mặt nguyên tắc là: “Trong trường
hợp người có nghĩa vụ nuôi dưỡng mà trốn tránh nghĩa vụ đó thì buộc phải
thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng được quy định tại Luật này” [20, Điều 50] và
theo Điều 107 - Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000: nếu không thực hiện
nghĩa vụ cấp dưỡng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt
hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải
bồi thường. Đối với việc không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, gây hậu quả
nghiêm trọng có thể bị xử lý về hình sự theo quy định tại Điều 152 Bộ luật
Hình sự năm 1999.
Tuy nhiên, các biện pháp chế tài trên chỉ được áp dụng khi có hậu quả
nghiêm trọng xảy ra đối với người được cấp dưỡng, nếu chưa đáp ứng được
nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng. Để bảo đảm thực hiện kịp thời
nghĩa vụ cấp dưỡng, Điều 20 - Nghị định số 70/2001/NĐ-CP quy định:
- Trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của
Luật Hôn nhân và gia đình mà không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng, thì theo yêu cầu của các cơ quan, tổ chức, cá nhân quy định tại Điều

49
55 của Luật Hôn nhân và gia đình, tòa án ra quyết định buộc người có nghĩa
vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó. Thời điểm thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng thỏa thuận;
nếu không thỏa thuận được thì thời điểm đó được tính từ ngày ghi trong bản
án, quyết định của tòa án.
- Trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quyết định của
tòa án không tự nguyện thực hiện nghĩa của mình, thì người được cấp dưỡng
hoặc người giám hộ của người đó có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án buộc
người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó. Thời điểm thực hiện
nghĩa vụ cấp dưỡng được tính từ ngày ghi trong bản án, quyết định của tòa án.
- Theo quyết định của tòa án, cơ quan, tổ chức trả tiền lương, tiền công
lao động, các thu nhập thường xuyên khác cho người có nghĩa vụ cấp dưỡng
có trách nhiệm thực hiện việc khấu trừ khoản cấp dưỡng để chuyển trả cho
người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó theo đúng mức và
phương thức cấp dưỡng do người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của
người đó và người có nghĩa vụ cấp dưỡng thỏa thuận hoặc theo mức và
phương thức cấp dưỡng do tòa án quyết định.
Để đảm bảo được nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng mà
người có nghĩa vụ cấp dưỡng không thực hiện như trốn tránh mà gây hậu quả
nghiêm trọng thì theo quy định tại khoản 2 – Điều 20 – Nghị định 70/NĐ-CP
sẽ bị xử phạt hành chính. Nghị định số 87/2001/NĐ-CP về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình đã quy định tại Điều 12 hình
thức và mức xử phạt đối với hành vi vi phạm quy định về cấp dưỡng.
Quy định này được thay thế tại Nghị định số 110/2009/NĐ-CP ngày
10/12/2009 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực phòng, chống bạo lực gia đình. Theo quy định này thì mức phạt được

50
thay đổi từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng. Tuy nhiên, sau một thời gian
áp dụng quy định này trong thực tế thì quy định này thể hiện những khó
khăn, bất cập, không có tính khả thi nên trong Nghị định 110/2013/NĐ-CP
ngày 24/9/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ
tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá
sản doanh nghiệp, hợp tác xã đã hủy bỏ quy định xử phạt vi phạm hành
chính về cấp dưỡng.
Người không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng tùy theo tính chất có thể bị
truy cứu trách nhiệm hình sự. Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung
năm 2009 quy định:
Người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để
thực hiện việc cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp
dưỡng theo quy định của pháp luật mà cố tình từ chối hoặc trốn tránh
nghĩa vụ cấp dưỡng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc bị xử phạt hành
chính về hành vi này mà còn vi phạm thì phạt cảnh cáo, cải tạo không
giam giữ đến 2 năm hoặc bị tù từ 3 tháng đến 2 năm [22, Điều 152].
Để làm rõ điều này, theo Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-BTP-
BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 25/9/2001 hướng dẫn áp dụng các quy định
tại chương XV “các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình” của Bộ luật
Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 thì có thể truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng khi có đầy đủ các
dấu hiệu sau:
- Người phạm tội là người có nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Người phạm tội phải có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng, khả năng thực tế được hiểu là khả năng về kinh tế của người có nghĩa
vụ cấp dưỡng như tiền, tài sản hoặc thu nhập có khả năng bảo đảm cuộc sống
của gia đình với mức sống trung bình ở địa phương;

51
- Người phạm tội có hành vi cố ý từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp
dưỡng của mình. Tuy nhiên, hành vi từ chối hoặc trốn tránh phải thỏa mãn
một trong hai dấu hiệu là: gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt vi
phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
Việc quy định các hành phạt nhằm đảm bảo người có nghĩa vụ cấp
dưỡng thực hiện nghĩa vụ một cách nghiêm chỉnh, đảm bảo quyền và lợi ích
của người được cấp dưỡng.
2.7. Người có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
Theo quy định tại Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Điều
119 - Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và Điều 162 Bộ luật Tố tụng dân
sự, những người sau đây có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng khi
người có nghĩa vụ cấp dưỡng không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ đó:
- Người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó.
- Cơ quan về dân số, gia đình và trẻ em.
- Hội liên hiệp phụ nữ.
Như vậy, những người có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
rất rộng. Điều đó nhằm bảo đảm lợi ích của người được cấp dưỡng, đặc biệt là
người già và trẻ em, vì thông thường những chủ thể này rất ít khi tự mình yêu
cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Kết luận chương 2
Từ những quy định pháp luật về vấn đề cấp dưỡng sau ly hôn cho thấy
các quy định của pháp luật về vấn đề này còn chung chung, bất cập, hạn chế
dẫn đến việc áp dụng pháp luật chưa thực sự hiệu quả. Đó là cơ sở để học
viên đánh giá thực trạng giải quyết các vụ việc về cấp dưỡng sau ly hôn, từ đó
đưa ra những giải pháp tại chương 3 nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp
dụng pháp luật vào thực tế các vụ việc phát sinh.

52
Chương 3
THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ VẤN ĐỀ CẤP DƯỠNG
SAU LY HÔN

3.1. Nhận xét chung
Trong lịch sử phát triển của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000 và năm 2014 được coi là đạo luật hoàn thiện
nhất cả về nội dung lẫn kỹ thuật lập pháp. Có thể nói các quy định của Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000, 2014 đã kịp thời bổ sung những thiết sót và
cụ thể hóa các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình trước đây để điều
chỉnh các quan hệ mới phát sinh trong lĩnh vực này. Các quy định về việc giải
quyết hậu quả pháp lý của ly hôn nói chung và giải quyết về vấn đề cấp
dưỡng sau ly hôn nói riêng đã góp phần bảo vệ tốt các quyền và nghĩa vụ của
các bên cũng như các thành viên khác trong gia đình.
Qua tổng kết hoạt động xét xử của ngành Tòa án, có thể thấy trong
những năm gần đây, tình trạng ly hôn ở nước ta ngày càng gia tăng về số
lượng và phức tạp về tính chất tranh chấp.
Theo báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án tính từ năm 2008 đến
năm 2014, cụ thể:
Bảng 3.1: Tổng số án ly hôn được giải quyết từ năm 2008 đến năm 2014

Năm 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
Sơ thẩm 69.485 84.305 94.106 115.331 130.860 151.830 159.462
Phúc thẩm 2.529 2.380 2.264 2.666 2.663 2.447 2.545
(Nguồn: Tòa án nhân dân tối cao, Báo cáo tổng kết ngành tòa án) [27]; [28];
[29]; [30]; [31]; [32]; [33].

53
Có thể thấy rằng án ly hôn ngày càng tăng, đặc biệt trong những năm
gần đây. Tuy nhiên, công tác xét xử án ly hôn không ngừng được nâng cao và
luôn đạt tỷ lệ cao trong những năm vừa qua. Ví dụ: Xét xử sơ thẩm: tỷ lệ giải
quyết năm 2011 đạt 94,7%, năm 2012 đạt 95,8%, năm 2013 đạt 96%, năm
2014 đạt 96,6%; Xét xử phúc thẩm: tỷ lệ giải quyết năm 2011 đạt 95,9%, năm
2012 đạt 96,2%, năm 2013 đạt 96,8%, năm 2014 đạt 97,1%. Như vậy, tỷ lệ
giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình luôn đạt kết quả cao, điều này
cho thấy công tác giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình có chất
lượng khá cao so với các lĩnh vực khác.
Nhìn chung, tỷ lệ ly hôn trong nước có chiều hướng ngày càng tăng và
tập trung ở những tỉnh, thành phố phát triển. Xét về mặt xã hội, ly hôn ảnh
hưởng sâu sắc đến lợi ích của vợ chồng, của gia đình và xã hội. Từ góc độ
pháp luật, việc Toà án giải quyết cho vợ chồng ly hôn dẫn đến những hậu quả
pháp lý nhất định: chấm dứt quan hệ vợ chồng, đồng thời Toà án cần giải
quyết các vấn đề về chia tài sản giữa vợ chồng, quyết định cấp dưỡng vợ hoặc
người chồng trong trường hợp gặp khó khăn, túng thiếu sau khi ly hôn và vấn
đề cấp dưỡng nuôi con. Khi vợ chồng ly hôn thường kèm theo các yêu cầu mà
phần lớn là các yêu cầu về chia tài sản chung, về con cái…
Qua báo cáo tổng kết công tác xét xử của Tòa án nhân dân tối cao trong
những năm vừa quan cho thấy số án ly hôn có tranh chấp, yêu cầu về cấp
dưỡng là không nhiều, chiếm tỉ lệ rất ít so với án ly hôn nói chung và số án ly
hôn có tranh chấp về tài sản. Cụ thể: năm 2008, số vụ án được xét xử sơ thẩm
là 494 vụ, phúc thẩm là 56 vụ; năm 2009, sơ thẩm là 506 vụ, phúc thẩm là 53
vụ; năm 2010, sơ thẩm là 501 vụ, phúc thẩm là 46 vụ; năm 2011, sơ thẩm là
560 vụ, phúc thẩm là 74 vụ; năm 2012, sơ thẩm là 578 vụ và phúc thẩm là 68
vụ; năm 2013, xét xử sơ thẩm là 507 vụ và năm 2014 xét xử sơ thẩm là 447
vụ. Số vụ án có tranh chấp về cấp dưỡng chiếm tỉ lệ ít hơn có thể do những
nguyên nhân sau:

54
Thứ nhất: Đối với nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau ly hôn, do
hiểu biết pháp luật còn kém, nên nhiều trường hợp hiểu ly hôn là chấm dứt
hoàn toàn về quan hệ nhân thân cũng như quan hệ tài sản giữa vợ và chồng.
Chính vì vậy, nhiều trường hợp, tuy một bên sau ly hôn lâm vào hoàn cảnh
khó khăn, túng thiếu nhưng cũng không yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng. Trong một số trường hợp, tuy hiểu biết pháp luật về quyền yêu cầu
được cấp dưỡng của mình khi lâm vào hoàn cảnh khó khăn, túng thiếu nhưng
cũng không thực hiện quyền yêu cầu đó bởi tâm lý e ngại, tránh gặp mặt vợ
cũ hoặc chồng cũ, tự ái do quan niệm rằng một khi tình cảm, điều thiêng liêng
nhất trong hôn nhân, mục tiêu và nền tảng của hạnh phúc gia đình không còn
nữa thì vật chất có nghĩa lý gì nên âm thầm chịu đựng sống trong hoàn cảnh
khó khăn, túng tiếu,
Thứ hai: Trong đa số các trường hợp ly hôn, trong quan niệm của người
chồng hay vợ có trách nhiệm cấp dưỡng lại nghĩ rằng: Dù quan hệ vợ chồng
đã chấm dứt nhưng quan hệ của họ và các con không thể vì lý do đó mà chấm
dứt theo. Vì những lý do nhất định họ không có điều kiện trực tiếp chăm sóc
con cái. Do vậy mà họ tự nguyện đóng góp một phần nào đấy để bù đắp mất
mát của con cái họ. Vì những nguyên nhân đó mà yêu cầu về cấp dưỡng khi
vợ chồng ly hôn ít xảy ra hơn so với các yêu cầu khác.
Nhìn chung, Tòa án nhân dân các cấp khi xét xử các vụ án về hôn nhân
và gia đình đều cố gắng bám sát các quy định của Bộ luật Dân sự, Luật Hôn
nhân và gia đình và vận dụng đúng đắn các văn bản hướng dẫn có liên quan
trong việc giải quyết các vụ án cụ thể. Vì vậy, đã hoàn thành tốt công tác xét
xử trong năm, chất lượng xét xử các vụ án ngày càng được nâng cao. Tuy
nhiên, qua báo cáo tổng kết công tác xét xử của Tòa án nhân dân tối cao cho
thấy, việc giải quyết hậu quả pháp lý của ly hôn vẫn còn nhiều vướng mắc và
bất cập. Nguyên nhân có thể là do việc điều tra, xác minh tình trạng tài chính

55
còn nhiều thiếu sót. Hơn nữa, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 – cơ sở
pháp lý cơ bản cho việc giải quyết các tranh chấp phát sinh còn quy định một
cách chung chung, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng không sửa đổi
nhiều các điều khoản quy định về cấp dưỡng sau ly hôn, về cơ bản là giữ
nguyên. Hoặc do trình độ xét xử của đội ngũ Thẩm phán chưa đồng đều... nên
nhiều vụ án phải xử đi, xử lại nhiều lần.
3.2. Thực tiễn giải quyết các trường hợp cấp dưỡng khi ly hôn
Xét từ góc độ pháp lý, mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình
được thể hiện một cách tập trung và cụ thể nhất trong các quy định của Luật
về nghĩa vụ cấp dưỡng lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình, góp phần
nâng cao trách nhiệm đùm bọc, tương trợ lẫn nhau giữa những người thân
thích trong gia đình, pháp huy truyền thống đạo đức tốt đẹp “tương thân,
tương ái” giữa các thành viên trong gia đình Việt Nam. Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000 và sau này là Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy
định trách nhiệm giữa các thành viên trong gia đình, đặc biệt là nghĩa vụ cấp
dưỡng lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình. Tuy nhiên, việc nhận thức
các nguyên tắc cùng với các quy định của pháp luật về cấp dưỡng trong Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000, 2014 và các văn bản hướng dẫn chưa cụ thể,
dẫn tới khi xét xử Toà án còn lúng túng chưa đưa ra các quyết định phù hợp,
thậm chí chưa đúng và cũng xuất hiện những vướng mắc trong quá trình giải
quyết cấp dưỡng trong trường hợp ly hôn làm ảnh hưởng đến quyền lợi của
các bên trong quan hệ cấp dưỡng đặc biệt là quyền lợi của con cái.
3.2.1. Về mức cấp dưỡng
Mức cấp dưỡng cho con do cha, mẹ thoả thuận; nếu không thoả thuận
được thì yêu cầu Toà án giải quyết. Quy định này nhằm đảm bảo sự phát triển
cho con sau khi gia đình tan vỡ. Cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn là nghĩa vụ,
đạo lý và tình cảm của bậc làm cha mẹ, bất luận khả năng về kinh tế như thế

56
nào. Luật Hôn nhân và gia đình không quy định rõ cụ thể mức cấp dưỡng
nuôi con là bao nhiêu, điều này gây ra một bất cập đó là hầu hết các trường
hợp sau khi ly hôn vấn đề cấp dưỡng chưa bảo đảm quyền lợi của con. Cả
trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng thực hiện việc cấp dưỡng theo
đúng quy định của bản án mà Tòa án đã tuyên thì cũng chưa đáp ứng được
nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống của người con.
Trong thực tiễn khi giải quyết các vụ ly hôn nếu các bên không thỏa
thuận được thì Tòa án căn cứ vào những quy định hiện hành và điều kiện khả
năng thực tế của mỗi bên để quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi
dưỡng. Bên không trực tiếp nuôi dưỡng thì áp dụng hướng dẫn quy định
tại Nghị quyết số 02/2000/NĐ-HĐTP ngày 23 tháng 12 năm 2000 của Hội
đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định
của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Đây là nghĩa vụ của cha, mẹ; do đó,
không phân biệt người trực tiếp nuôi con có khả năng kinh tế hay không,
người không trực tiếp nuôi con vẫn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi
con.Trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không yêu cầu người không
trực tiếp nuôi con cấp dưỡng vì lý do nào đó thì Toà án cần giải thích cho họ
hiểu rằng việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là quyền lợi của con để họ biết
nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con...
Tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm những chi phí tối thiểu cho việc nuôi
dưỡng và học hành của con và do các bên thoả thuận. Trong trường hợp các
bên không thoả thuận được thì tuỳ vào từng trường hợp cụ thể, vào khả năng
của mỗi bên mà quyết định mức cấp dưỡng nuôi con cho hợp lý.
Nghị định số 70/2001/NĐ-CP quy định:
Nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng được xác
định căn cứ vào mức sinh hoạt trung bình tại địa phương nơi
người được cấp dưỡng cư trú, bao gồm các chi phí thông

57
thường cần thiết về ăn, ở, mặc, học, khám chữa bệnh và các
chi phí thông thường cần thiết khác để bảo đảm cuộc sống của
người được cấp dưỡng [3, Điều 16, Khoản 2].
Trong thực tiễn, hầu hết các trường hợp sau khi ly hôn vấn đề cấp
dưỡng chưa bảo đảm quyền lợi của con sau khi ly hôn. Chưa nói đến trường
hợp khoản tiền cấp dưỡng sau khi ly hôn là "nợ khó đòi" đối với một số
trường hợp; cả trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng thực hiện việc
cấp dưỡng theo đúng quy định của bản án mà tòa án đã tuyên thì cũng chưa
đáp ứng được "nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng". Xin được viện
dẫn một trường hợp cụ thể:
Năm 2007, bà Nguyễn Thị Bở và ông Cao Văn Tiến ly hôn theo quyết
định của bản án số 102/2007/HNGĐ- ST ngày 24/12/2007 của Tòa án nhân
dân thị xã Sơn La (nay là TAND thành phố Sơn La). Ngoài ra, bản án còn
quyết định giao cho bà Bở trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục hai cháu Cao Thị
Hồng Mai, sinh năm 1993 và cháu Cao Đức Bình, sinh năm 1999. Ông Tiến
phải đóng góp phí tổn nuôi 2 con là 300.000 đồng/tháng cho đến khi các
con tròn 18 tuổi.
Năm 2008, ông Tiến có đơn yêu cầu xin thay đổi người trực tiếp nuôi
con và bà Bở có yêu cầu tăng mức cấp dưỡng nuôi con. Tại bản án số
82/2008/HNGĐ- ST ngày 18/9/2008 Tòa án nhân dân thị xã Sơn La đã quyết
định giao hai cháu Mai và Bình cho bà Bở tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc và
ông Tiến phải cấp dưỡng cho mỗi cháu 400.000 đồng/tháng cho đến khi các
con tròn 18 tuổi.
Ngày 16/7/2011 bà Bở có đơn khởi kiện yêu cầu ông Tiến tăng mức
cấp dưỡng nuôi cháu Bình là 2.000.000 đồng/tháng đến khi cháu Bình đủ 18
tuổi và hỗ trợ cháu Mai 1.500.000 đồng/tháng đến khi cháu học chuyên
nghiệp ra trường công tác. Bà trình bày là hiện nay do giá cả tăng cao, chi

58
phí ăn ở, nuôi các con ăn học tốn kém, cháu Mai đang đi học chuyên nghiệp,
mặc dù đã hơn 18 tuổi nhưng cháu vẫn còn chưa có khả năng nuôi bản thân,
cháu Bình đang học cấp 2 nên một mình bà không đủ khả năng nuôi dưỡng,
chu cấp cho hai cháu, trong khi đó ông Tiến lương cao (khoảng 8.100.000
đồng/ tháng), ông Tiến đã lấy vợ mới, chưa có con, vợ mới cũng có lương và
có thu nhập.
Ông Tiến không nhất trí yêu cầu tăng mức cấp dưỡng của bà Bở, ông
cho rằng hiện nay cháu Mai đã trưởng thành và ông yêu cầu được nuôi cháu
Cao Đức Bình và không yêu cầu bà Bở cấp dưỡng, mặt khác ông hay đau ốm,
không có nhà phải thuê nhà ở nên không đồng ý với yêu cầu của bà Bở.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 165/2011/HNGĐ- ST ngày 30/9/2011
Tòa án nhân dân thành phố Sơn La đã quyết định:
Giao cháu Cao Đức Bình, sinh năm 1999 cho bà Bở trực tiếp chăm
sóc, nuôi dưỡng giáo dục đến tuổi trưởng thành. Ông Tiến phải cấp dưỡng
nuôi con mỗi tháng 1.200.000 đồng đến khi cháu Bình đủ 18 tuổi, kể từ
tháng 10/2011.
Ngày 10/10/2011 ông Tiến kháng cáo không nhất trí mức cấp dưỡng
nuôi con là 1.200.000 đồng/tháng, ông yêu cầu được nuôi dưỡng cháu Bình
và yêu cầu được chia lại tài sản.
Ngày 13/10/2011, bà Bở kháng cáo yêu cầu tăng mức cấp dưỡng đối
với ông Bình là 3.000.000 đồng/tháng và phải có trách nhiệm đóng góp nuôi
cháu Mai đang học đại học đến khi ra trường.
Tại bản án số 03/2011/HNGĐ- PT ngày 29/11/2011 Tòa án nhân
dân tỉnh Sơn La đã quyết định:
Không chấp nhận kháng cáo của ông Cao Văn Tiến, chấp nhận một phần
kháng cáo của bà Nguyễn Thị Bở, sửa bản án sơ thẩm số số 165/2011/HNGĐ-
ST ngày 30/9/2011 Tòa án nhân dân thành phố Sơn La như sau:

59
Giao cháu Cao Đức Bình, sinh năm 1999 cho bà Nguyễn Thị Bở trực
tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục đến tuổi trưởng thành (18) tuổi. Ông Cao
Văn Tiến phải cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng/tháng đến khi
cháu Bình đủ 18 tuổi kể từ tháng 10/2011.
Ông Tiến có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.
Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn tuyên về phần án phí.
(Tòa án phúc thẩm sửa án sơ thẩm tăng mức cấp dưỡng từ 1.200.000
đồng lên 2.000.000 đồng).
Ngày 8/12/2011 ông Tiến có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám
đốc thẩm đối với bản án phúc thẩm nêu trên, nội dung đơn:
- Phiên tòa xét xử phúc thẩm không có mặt ông tại phiên tòa, và người
được hưởng cấp dưỡng là cháu Bình cũng không có mặt; phiên tòa đã phủ
nhận toàn bộ những gì mà ông trình bày trong đơn kiến nghị trước đó.
- Không chấp nhận tăng thêm tiền cấp dưỡng nuôi con với bất kỳ
hình thức nào ngoài mức 400.000 đồng/tháng đối với cháu Bình vì hiện nay
ông đang phải thuê nhà ở, lại phải chi phí thuốc men để chữa bệnh trong
khi bà Bở đã có nhà, hàng năm thu lợi sản phẩm từ 1 ha trang trại trồng cà
phê, cây ăn quả.
Do cháu Bình có nguyện vọng ở với mẹ và xét hoàn cảnh của ông Tiến
hay ốm đau, vẫn phải thuê nhà để ở nên Tòa án các cấp đã giao cháu Bình cho
bà Bở trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, buộc ông Bình phải cấp dưỡng nuôi
con chung là đúng. Về mức cấp dưỡng thì theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án
thể hiện, thu nhập hàng tháng của ông Tiến là 8.111.797 đồng (BL 37), trong
khi đó bà Bở đang nuôi hai cháu, mặc dù cháu Mai đã trưởng thành nhưng
vẫn đang đi học, sống phụ thuộc vào bà Bở, hơn nữa hiện nay giá cả thị
trường có nhiều biến động nên cần thiết phải tăng mức cấp dưỡng nuôi con
đối với ông Tiến, do đó Tòa án cấp phúc thẩm buộc ông Tiến cấp dưỡng nuôi
cháu Bình mỗi tháng 2.000.000 đồng là đúng.

60
Quy định của tòa án về mức cấp dưỡng là căn cứ vào mức thu nhập, giá
cả thị trường tại thời điểm xét xử vụ án; Khi ly hôn hầu hết con còn ở tuổi rất
nhỏ có trường hợp 14; 15 năm sau mới đủ 18 tuổi. Mức cấp dưỡng lại không
thay đổi trong khi thị trường đầy biến động, giá cả leo thang đến chóng mặt.
Mức cấp dưỡng đã và đang trở thành gánh nặng cho những người trực tiếp
nuôi dưỡng con sau khi ly hôn. Chưa kể những trường hợp người có nghĩa vụ
cấp dưỡng không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Cơ quan thi hành
án và cơ quan tổ chức trả tiền lương, tiền công lao động cho người có nghĩa
vụ cấp dưỡng không thực hiện việc khấu trừ khoản cấp dưỡng để chuyển trả
cho người được cấp dưỡng theo như quy định của khoản 2 -3 Điều 20 Nghị
định 70/2001/NĐ-CP nêu trên thì gánh nặng lại chồng lên vai người trực tiếp
nuôi dưỡng con sau khi ly hôn; có trường hợp chị L khi ly hôn Tòa án giao
con nhỏ cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, con lớn ở với bố, khi người bố kết hôn
đứa con lớn của chị về ở với mẹ... Sáu năm sau khi ly hôn chị không nhận
được một khoản cấp dưỡng nào của chồng, chị làm đơn đến cơ quan thi hành
án vẫn chưa được giải quyết, chị đến Ban chỉ đạo thi hành án dân sự thành
phố nhờ can thiệp. Qua lời trình bày của chị: Từ khi ly hôn chị không nhận
được khoản tiền cấp dưỡng nuôi con theo như bản án mà tòa án đã tuyên, đợt
này chị phải cầu cứu vì sau khi bị mổ ruột thừa sức khỏe chị giảm sút, kinh tế
kiệt quệ không đủ trang trải cuộc sống hàng ngày...điều đáng nói là chồng chị
lại là người đang làm việc tại cơ quan bảo vệ pháp luật. Cũng phải đến "năm
lần bảy lượt" gặp người có nghĩa vụ cấp dưỡng thuyết phục vận động, nhờ thủ
trưởng cơ quan can thiệp theo như Điều 20 - Nghị định số 70/2001/NĐ-CP thì
mới "đòi" được tiền cấp dưỡng. Nghĩa vụ nuôi con mà còn trốn tránh thì việc
cấp dưỡng bổ sung là việc không thể. Hầu như rất ít các cơ quan, tổ chức thực
hiện khoản 3 - Điều 20 - Nghị định số 70/2001/NĐ-CP. Họ từ chối phối hợp
với cơ quan tư pháp và né tránh việc khấu trừ lương theo như quy định vì ngại

61
va chạm, cho rằng đó không phải là nghĩa vụ của họ nên việc thực thi các quy
định về cấp dưỡng còn khó khăn.
Do các quy định về cấp dưỡng còn chung chung, chưa có quy định cụ
thể về mức cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn, tòa án căn cứ vào điều kiện
hoàn cảnh cụ thể của từng trường hợp ly hôn mà phán quyết mức cấp dưỡng.
Tuy nhiên, chính vì chữ tùy vào "khả năng thực tế" của người được cấp
dưỡng mà mức cấp dưỡng mỗi trường hợp ly hôn mỗi nơi một kiểu.
3.2.2. Về thời điểm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
Thời điểm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng là thời điểm mà khi đó người
có nghĩa vụ cấp dưỡng bắt đầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng đối với người
được cấp dưỡng. Theo quy định của pháp luật thì nếu vợ chồng không thỏa
thuận được thì sẽ do Tòa án giải quyết.Vậy Tòa án sẽ dựa trên cơ sở nào để
giải quyết khi mà hiện nay chưa có văn bản pháp luật nào quy định hoặc
hướng dẫn về vấn đề này. Điều này đã dẫn đến việc Toà án khi giải quyết vấn
đề cấp dưỡng nuôi con chưa có sự thống nhất và chưa phù hợp, không đảm
bảo quyền lợi của con trong rất nhiều trường hợp. Thực tiễn xét xử có Toà
cho rằng, thời điểm bắt đầu cấp dưỡng nuôi con là ngày tuyên án, có Toà lại
tuyên thời điểm bắt đầu cấp dưỡng nuôi con là ngày bản án có hiệu lực pháp
luật, hoặc không tuyên là thời điểm nào thì người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi
con phải thực hiện nghĩa vụ đó.
Ví dụ: Tòa án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng đã xét
xử sơ thẩm vụ án ly hôn giữa chị Nguyễn Ngọc Tân và anh Nguyễn Tiến Điệp.
Chị Tân và anh Điệp kết hôn năm 2002. Anh chị có một đứa con chung
là cháu Nguyễn Xuân Tâm tại thời điểm ly hôn là 28 tháng tuổi. Tháng
4/2005 chị Tân làm đơn xin ly hôn và yêu cầu được nuôi con và yêu cầu anh
Điệp phụ cấp nuôi con chung mỗi tháng 100.000 đồng. Anh Điệp đồng ý ly
hôn và cũng muốn nuôi con, không yêu cầu chị Tân cấp dưỡng nuôi con.

62
Tại bản án số 51/2006/HNGĐ ngày 3/3/2006. Tòa án nhân dân huyện
Thuỷ nguyên, thành phố Hải Phòng đã ra quyết định: Chị Nguyễn Ngọc Tân
và anh Nguyễn Tiến Điệp được ly hôn. Giao con cho chị Nguyễn Ngọc Tân
nuôi con. Anh Điệp cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Tân mỗi tháng
100.000 đồng kể từ tháng 03/2006 đến khi con trưởng thành.
Trong trường hợp trên cả hai anh chị Tân và Điệp đều muốn nuôi con,
Toà án huyện Thủy Nguyên đã xử cho chị Tân nuôi con là đúng vì theo quy
định Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì “con dưới ba mươi sáu tháng
tuổi phải được người mẹ chăm sóc, nếu hai bên không có thoả thuận khác”
[19, Điều 92], Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên đã đưa ra quyết định như
vậy là nhằm bảo vệ quyền lợi của cháu Nguyễn Xuân Tâm.Trong trường hợp
này thì thời điểm anh Điệp cấp dưỡng nuôi con bắt đầu từ tháng 3/2006.
Có nhiều quan điểm cho rằng không cần thiết phải quy định về vấn đề
thời điểm bắt đầu cấp dưỡng sau ly hôn bởi cấp dưỡng là yếu tố xuất phát từ
tình cảm, cha mẹ luôn muốn con mình có cuộc sống đầy đủ vì vậy mà họ nghĩ
không cần có quy định thì họ cũng tự nguyện, tự giác thực hiện trách nhiệm
của mình. Tuy nhiên, qua tình hình thực tế mấy năm gần đây cho thấy, án cấp
dưỡng sau ly hôn ngày càng nhiều. Ngày càng nhiều các vụ việc cha hoặc mẹ
không trực tiếp nuôi con trốn tránh không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng,
nhiều trường hợp phải nhờ đến cơ quan thi hành án buộc họ phải thực hiện,
thậm chí có nhiều trường hợp khi cơ quan thi hành án buộc họ phải thực hiện
nhưng họ vẫn cố tình không thực hiện. Nghĩa vụ cấp dưỡng cho con còn
không thực hiện thì việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ cũ và chồng
cũ lại càng khó khăn hơn.
Tình trạng này có thể do một số nguyên nhân sau:
- Tuy người có nghĩa vụ cấp dưỡng có việc làm và thu nhập ổn định, có
điều kiện kinh tế, có khả năng tài chính nhưng không chịu cấp dưỡng nuôi

63
con vì nguồn thu nhập của họ bị người vợ hoặc chồng mới quản lý chặt chẽ,
không cho họ sử dụng để lo việc cấp dưỡng nuôi con riêng của họ sau khi đã
ly hôn. Có lẽ vì quan niệm rằng sự ràng buộc này duy trì lâu sẽ bất lợi cho họ,
cũng có thể nảy sinh sự ghen tuông, ganh ghét, đặt họ vào các mối nghi ngờ
“tình cũ không rủ cũng tới”.
- Cũng có trường hợp, cha hoặc mẹ phải cấp dưỡng cho con sau khi ly
hôn do làm ăn thua lỗ, phá sản, do đó mà không có tiền cấp dưỡng nuôi con,
tuy lương tâm họ không có ý định lẩn tránh trách nhiệm.
Như vậy, trên thực tế chỉ có những đứa trẻ vô tội sau khi cha mẹ ly hôn
phải chịu nhiều thiệt thòi nhiều nhất. Số tiền cấp dưỡng từ cha hoặc mẹ các
cháu không chỉ có ý nghĩa bảo đảm cuộc sống hàng ngày trong việc ăn học và
các chi phí sinh hoạt mà còn là tình cảm từ cha hoặc mẹ đối với con sau khi
họ đã ly hôn. Thiếu sự trợ cấp chính đáng này, con trẻ khi hiểu được sẽ bị tổn
thương và có thể xuất hiện tâm lý oán trách các bậc sinh thành, tủi thân và dễ
tạo cho các cháu yếu tố tâm lý dẫn vào con đường hư háng và không ít trường
hợp trẻ em phạm pháp từ các nguyên nhân này.
Luật Hôn nhân và gia đình cùng các văn bản hướng dẫn cần đưa ra các
quy định cụ thể hơn về thời điểm bắt đầu cấp dưỡng để các Toà án trong quá
trình xét xử sẽ đưa ra các phán quyết chính xác về thời điểm bắt đầu cấp
dưỡng nuôi con nhằm bảo vệ quyền lợi của con nhất là trong trường hợp cha
hoặc mẹ không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, lúc đó cơ
quan thi hành án dân sự mới có cơ sở, căn cứ xác định để buộc người phải cấp
dưỡng thi hành nghĩa vụ của mình.
3.2.3. Về thời điểm kết thúc cấp dưỡng nuôi con
- Trong quá trình áp dụng pháp luật về cấp dưỡng sau ly hôn vào thực
tế xét xử các vụ án cho thấy nhiều bản án, quyết định của Tòa án tuyên một
cách chung chung: “... có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 500.000

64
đồng cho đến khi cháu N trưởng thành, tự lập được”. Vấn đề ở đây là khi Tòa
án tuyên như vậy thì khi nào được coi là con chưa thành niên đã trưởng thành.
Theo quy định tại Khoản 1- Điều 61 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000 và Khoản 1 – Điều 118 – Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về chấm
dứt nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: “1. Người được cấp dưỡng đã thành niên
và có khả năng lao động…”. Theo Bộ luật dân sự năm 2005 thì “Người từ đủ
mười tám tuổi trở lên là người đã thành niên, người chưa đủ mười tám tuổi là
người chưa thành niên” [21, Điều 18]. Như vậy, căn cứ vào hai điều luật này
chúng ta thấy nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chưa thành niên của người có
nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt vào thời điểm người được cấp dưỡng đã thành
niên và có khả năng lao động tức là thời điểm người được cấp dưỡng đủ mười
tám tuổi và có khả năng lao động.
Có nhiều cách hiểu và áp dụng Khoản 1- Điều 61 Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000 và Khoản 1 – Điều 118 – Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 chưa thống nhất, nên có những khó khăn nhất định trong việc Toà án
đưa ra phán quyết chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Điều đó ảnh hưởng
đến quyền lợi của người được cấp dưỡng.
- Theo như Điều 56 - Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Khi
ly hôn, cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con chưa thành niên hoặc con đã thành
niên bị tàn tật mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không
có tài sản để tự nuôi mình có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con…” [20, Điều 56] và
Điều 61 quy định nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt trong trường hợp: “người
được cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động” [20, Điều 61]. Vậy
theo như hai quy định trên thì khi cha mẹ ly hôn, con chưa thành niên luôn
nhận được sự cấp dưỡng từ cha hoặc mẹ, có phải điều đó đều đúng trong mọi
trường hợp không? Thực tế một số vụ việc ly hôn, không phải tất cả mọi
trường hợp có con chưa thành niên thì Tòa án sẽ phán quyết cha hoặc mẹ
không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

65
Ví dụ: Anh Nguyễn Trọng Thành và chị Nguyễn Thị Yến kết hôn năm
1988, có hai người con là cháu Nguyễn Trọng Công sinh năm 1990 và cháu
Nguyễn Thị Kim Oanh sinh năm 1993, cháu Công đã đi học nghề và làm
thêm với mức lương 800.000 đồng/tháng. Năm 2007, anh chị có yêu cầu Tòa
án cho ly hôn. Tại bản số 02/2007/HNGĐ ngày 10/10/2007 của Tòa án nhân
dân huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên đã xét xử sơ thẩm vụ án ly hôn giữa anh
Nguyễn Trọng Thành và chị Nguyễn Thị Yến.
Tòa án nhân dân huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên đã ra quyết định: Giao
hai cháu cho chị Nguyễn Thị Yến nuôi dưỡng và chăm sóc. Anh Thành có
trách nhiệm cấp dưỡng cho cháu Nguyễn Thi Kim Oanh với mức 250.000
đồng/tháng, còn cháu Nguyễn Trọng Công (do đã đi làm và có thu nhập ổn
định có thể tự lo cho cuộc sống của mình) do vậy anh Thành không phải cấp
dương nuôi cháu.
Nếu căn cứ vào quy định của pháp luật thì cháu Công chưa đủ 18 tuổi,
vẫn được cấp dưỡng, nhưng do cháu đã đi làm và có thu nhập ổn định nên
Tòa án nhân dân huyện Mỹ Hào đã không đưa cháu vào diện được cấp dưỡng.
Trong trường hợp này có thể thấy Tòa án nhân dân huyện Mỹ Hào đã áp dụng
linh hoạt các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình. Theo như quy định
của Bộ Luật lao động thì mức lương tối thiểu phải trả cho người lao động là
750.00 đồng/tháng - đây là mức lương đảm bảo cuộc sống tối thiểu cho một
người. Như vậy, cháu Công với mức lương 800.000 đã có khả năng để lo cho
cuộc sống của mình, dù không có sự trợ cấp từ phía anh Thành thì cuộc sống
của cháu không vì thế mà rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Mặt khác anh Thành
về mặt kinh tế cũng không dư dả lắm. Vì vậy, phán quyết của Tòa án huyện
Mỹ Hào Tỉnh Hưng Yên đưa ra là đúng, nó phù hợp với điếu kiện thực tế của
cả hai phía và không gây ảnh hưởng khó khăn hay trở ngại cho cháu Công
cũng như anh Thành.

66
Về nguyên tắc nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ đặt ra khi người con là người
chưa thành niên hoặc người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động
và không có tài sản nuôi mình. Vậy khi con đã thành niên và có khả năng lao
động thì cha hoặc mẹ - người không trực tiếp nuôi con sẽ không phải cấp
dưỡng nuôi con nữa. Trên thực tế, cho thấy không phải người đã thành niên
nào cũng có khả năng lao động để tự nuôi bản thân. Ví dụ như thực tế cho
thấy có nhiều trường hợp sinh viên đi làm thêm hưởng lương nhiều hơn lương
của cha mẹ họ, nhưng không phải bất cứ sinh viên nào cũng có thể làm thêm
và kiếm được nhiều tiền để tự lo cho cuộc sống của mình. Ví dụ: thời gian
học không cho phép làm thêm; không xin được việc làm thêm, vì thế mà họ
vẫn cần được cha mẹ cấp dưỡng.
- Thông thường một người mắc bệnh tâm thần không thể xác định được
lúc nào người ấy khỏi bệnh và như vậy khó có thể biết được thời điểm nào
nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt. Trường hợp này trong các bản án hay quyết
định của Toà án không nên tuyên thời hạn chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng.
Ví dụ: Trong bản án số 58/2006/HNGĐ ngày 23/10/2006 của TAND
huyện Q Tỉnh T đã xét xử sơ thẩm vụ án ly hôn giữa anh Phạm Ngọc T và chị
Nguyễn Kiều C. Anh chị kết hôn năm 1997 và có một người con chung là
cháu Phạm Văn M sinh năm 1997, cháu M hiện đang mắc bệnh tâm thần (Có
giấy chứng nhận của bệnh viện)
Tòa án nhân dân huyện Q Tỉnh T đã ra quyết định: Xử ly hôn giữa anh
Phạm Ngọc T và chị Nguyễn Kiều C. Về con chung: Giao chị Nguyễn Kiều C
trực tiếp nuôi cháu Phạm Văn M. Anh Phạm Ngọc T có trách nhiệm cấp
dưỡng nuôi cháu Phạm Văn M mỗi tháng 300.000 đồng/tháng kể từ tháng
10/2006 đến khi cháu Phạm Văn M tròn 18 tuổi.
Trong trường hợp này Tòa án nhân dân huyện Q Tỉnh T tuyên thời
điểm chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con của anh Phạm Ngọc T là sai.

67
Căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì dù cháu Phạm
Ngọc M đã thành niên (tròn 18 tuổi) mà M vẫn mắc bệnh tâm thần thì có
quyền nhận sự cấp dưỡng từ phía anh Phạm Ngọc T. Trách nhiệm cấp dưỡng
cho cháu M của anh chỉ chấm dứt khi cháu tròn 18 tuổi và điều quan trọng là
M phải khỏi bệnh.
Tòa án nhân dân huyện Q Tỉnh T nên giải thích thêm nghĩa vụ cấp
dưỡng nuôi con cho anh T hiểu ngay cả khi cháu M đã đủ 18 tuổi nhưng
không có khả năng lao động và không có tài sản để nuôi mình. Đồng thời cần
có giải thích về quyền xin thay đổi cấp dưỡng nuôi con của anh T khi cháu M
khỏi bệnh. Như vậy quyền lợi của cháu M cũng như quyền lợi của anh T sẽ
được đảm bảo.
Từ những phân tích trên, có thể thấy được pháp luật không thể nào dự
liệu hết các trường hợp xảy ra trong thực tế. Chính vì vậy, khi xem xét, giải
quyết sự việc Toà án nên căn cứ vào tình hình thực tế của các bên đặc biệt
quan tâm đến quyền lợi của con cái để đưa ra các phán quyết “ thấu tình đạt lý
hơn”. Tuy rằng trên nguyên tắc, mọi phán quyết của Tòa án đều phải dựa trên
cơ sở các quy định pháp luật, tuân thủ pháp luật nhưng với thực tế đa dạng thì
trong một số trường hợp việc áp dụng các quy định pháp luật một cách linh
hoạt nhằm đem lại quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên chủ thể cũng là một
việc cần thiết.
3.2.4. Về tạm ngừng cấp dưỡng
Theo như quy định tại Điều 54 – Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
và Điều 117 – Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì khi vợ hoặc chồng
nếu gặp khó khăn về kinh tế thì có thể thoả thuận với nhau, hoặc nhờ Toà án
giải quyết tạm ngừng cấp dưỡng. Quy định này của pháp luật hôn nhân và
gia đình với mục đích nhằm đảm bảo cho nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ
cho con có tính khả thi hơn. Cuộc sống thường không như mong muốn của

68
con người, không phải trong suốt cuộc đời tất cả mọi việc đều diễn ra suôn
sẻ, có lúc sẽ phải gặp khó khăn nào trong cuộc sống có thể do yếu tố chủ
quan hoặc do yếu tố khách quan đem lại. Nhưng việc tạm ngừng cấp dưỡng
lại ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người được cấp dưỡng, vì như thế
có nghĩa là trong một thời gian sắp tới người được cấp dưỡng sẽ không nhận
được sự trợ cấp từ phía người được nghĩa vụ cấp dưỡng để đảm bảo cuộc
sống cho mình.
Trên thực tế đã có rất nhiều trường hợp xin tạm ngừng cấp dưỡng với lí
do “khó khăn về kinh tế” quả thực có trường hợp khó khăn thật sự nhưng
cũng có trường hợp trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, đùn đẩy
việc thực hiện nghĩa vụ đó cho người khác, còn bản thân họ thì có thời gian
và tiền của để làm những việc riêng mang lại lợi ích cho họ, vô tâm trước
cuộc sống của người được cấp dưỡng.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, 2014 tuy có quy định về việc
“tạm ngừng cấp dưỡng trong trường hợp người có nghĩa vụ lâm vào hoàn
cảnh khó khăn” nhưng lại không đưa ra các quy định cụ thể thế nào là “khó
khăn về kinh tế” và cũng không quy định khi nào thì thời gian bắt đầu tạm
ngừng cấp dưỡng cũng như thời gian tạm ngừng cấp dưỡng chấm dứt, điều đó
khiến cho Toà án lúng túng khi giải quyết yêu cầu tạm ngừng cấp dưỡng.
Ví dụ: Chị Lê Thị H và anh Bùi Văn T đã ly hôn năm 2004. Trong
quyết định ly hôn chị H được tạm hoãn cấp dưỡng nuôi con vì chị hiện đang
khó khăn về kinh tế (do chị làm ruộng). Và trong quyết định lúc đó không nói
rõ thời gian bắt đầu t• thời gian chấm dứt việc tạm hoãn cấp dưỡng. Sau 2
năm tức là năm 2006 anh T nhiều lần đề nghị chị H cấp dưỡng nuôi con, vì
anh cho rằng chị H không còn khó khăn về kinh tế nữa biểu hiện: chị H có xe
máy đi, trong nhà lại có rất nhiều đồ dùng mới như ti vi, tủ lạnh… nhưng chị
H một mực nói rằng chị hiện vẫn đang khó khăn về kinh tế, tất cả những tài

69
sản anh T nhìn thấy đều do người bà con xa của chị gửi về tặng cho khi thấy
chị gặp cảnh khó khăn, túng thiếu.
Toà án huyện T Tỉnh T sau khi điều tra xác nhận đúng là số tài sản hiện
có của chị H do người bà con xa gửi về tặng cho còn bản thân chị H với nghề
làm ruộng thu nhập chưa ổn định kinh tế vẫn chưa thoát khỏi cảnh khó khăn
vì vậy Toà đã ra quyết định cho chị H tạm ngừng cấp dưỡng nuôi con
Theo Nghị định số 70/2001/NĐ - CP ngày 30/10/2001 quy định chi tiết
thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định:
Người có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
được quy định tại các điều 51, 52, 53 Luật HN&GĐ là người có thu
nhập thường xuyên hoặc tuy không có thu nhập thường xuyên
nhưng còn tài sản sau khi đã trừ đi chi phí thông thường cần thiết
cho cuộc sống của người đó [3, Điều 16, Khoản 1].
Căn cứ vào quy định trên, Toà án huyện T Tỉnh T đã sai lầm trong việc
đưa ra quyết định cho chị H tiếp tục tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
Mặc dù với nghề làm ruộng chị H có khó khăn về kinh tế điều đó là có thật,
nhưng trong vòng 2 năm, chị H đã nhận được những món quà giá trị từ phía
người bà con xa gửi tặng cho. Những món quà có giá trị đó được coi là tài sản
của chị H và được tính là khoản “thu nhập không thường xuyên”. Nghề làm
ruộng cùng với khối lượng tài sản có giá trị đó chị H không được coi là người
“không có khả năng thực tế” để được “tạm hoãn” cấp dưỡng nuôi con. Trong
trường hợp này chị H phải thực hiện trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con, thời
gian “tạm hoãn ” cấp dưỡng nuôi con chấm dứt. Đồng thời tự bản thân chị H
cũng phải thấy rằng chị nên thực hiện trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con cùng
anh T, không cần anh T yêu cầu, bởi lẽ khi ly hôn biết chị H gặp khó khăn
anh T đã đồng ý cho chị H tạm hoãn cấp dưỡng nuôi con, vì thế mà khi có
điều kiện chị H nên tự động thực hiện trách nhiệm đã bị “tạm hoãn” của mình

70
cùng với anh T trợ cấp nuôi con, như thế sẽ hợp với đạo lý trách những điều
làm tổn thương con trẻ.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cùng văn bản hướng dẫn và mới
đây là Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 không quy định rõ thế nào là khó
khăn về kinh tế để được xin tạm hoãn cấp dưỡng đồng thời không quy định
thời gian bắt đầu, kết thúc tạm hoãn cấp dưỡng điều đó gây ra những bất lợi
cho người được cấp dưỡng cũng như người trực tiếp nuôi người được cấp
dưỡng, mà trong trường hợp vợ chồng ly hôn người con sẽ là người chịu thiệt
thòi nhiều hơn cả. Phải có một mốc thời gian nhất định để người đang khó
khăn về kinh tế phải tự thúc giục bản thân “ cố gắng” thoát khỏi khó khăn để
thực hiện trách nhiệm của mình, đồng thời nhằm trách những bất lợi không
đáng có cho người được cấp dưỡng.
3.2.5. Trường hợp cấp dưỡng của bố dượng, mẹ kế cho con riêng của
vợ hoặc con riêng của chồng khi ly hôn
Mối quan hệ giữa bố dượng hay mẹ kế với con riêng của vợ hay chồng
không phải là mối quan hệ huyết thống. Hiện nay, trong các quy định của
pháp luật chưa có quy định cụ thể đầy đủ về các trường hợp cấp dưỡng của bố
dượng, mẹ kế cho con riêng của vợ hoặc con riêng của chồng khi ly hôn
không sống chung với nhau nữa. Mà mới quy định về nghĩa vụ và quyền của
bố dượng, mẹ kế với con riêng của vợ hoặc chồng. Trên thực tế, trong quá
trình xét xử vụ án ly hôn không phải không có yêu cầu cấp dưỡng của bố
dượng, mẹ kế cho con riêng của vợ hay con riêng của chồng Toà án không
tìm được quy định pháp luật cụ thể để đưa ra phán quyết chính xác.
Ví dụ: Chị Phạm Thị M và anh Vũ Văn Đ chung sống với nhau có đăng
kí kết hôn năm 1996 tại Uỷ ban nhân dân phường HH – HL. Trước khi kết
hôn anh Vũ Văn Đ đã có vợ và đã ly hôn. Chị Phạm Thị M cũng có chồng
nhưng đã chết, đồng thời chị cũng có một người con được 3 tuổi tên là Trần

71
Thị H (con của chồng trước). Cuộc sống vợ chồng giữa anh Đ và chị M hoà
thuận, hạnh phúc và trong thời gian này anh chị đã có một người con chung
tên là Vũ Văn Q. Đến năm 2005 thì mâu thuẫn trầm trọng. Chị Phạm Thị M
viết đơn xin ly hôn. Trong đơn chị yêu cầu nuôi hai con là cháu: Trần Thị H
và cháu Phạm Văn Q. Chị có yêu cầu anh Phạm Văn Đ cấp dưỡng nuôi 2
cháu mỗi tháng 500.000 đồng. Anh Vũ Văn Đ chấp nhận yêu cầu cấp dưỡng
nuôi con chung là cháu Vũ Văn Q nhưng không chấp nhận cấp dưỡng nuôi
cháu Trần Thị H vì anh cho rằng cháu H không phải là con ruột của anh nên
anh không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu H.
Trong quá trình xét xử vụ án ly hôn này, Tòa án nhân dân thành phố H
Tỉnh Q có giải thích với anh Đ việc cấp dưỡng nuôi con riêng là cháu Trần
Thị H như sau: Theo quy định của pháp luật tại Điều 38 thì giữa bố dượng và
con riêng có quyền và nghĩa vụ như giữa bố với con đẻ do vậy mà khi anh chị
ly hôn anh Đ nên cấp dưỡng nuôi cháu H. Nhưng anh Đ không chấp nhận yêu
cầu cấp dưỡng nuôi cháu H. Anh cho rằng yêu cầu đó hết sức vô lý và nếu
buộc phải cấp dưỡng nuôi H, anh xin nhận nuôi cháu Vũ Văn Q và không yêu
cầu chị M cấp dưỡng nuôi con. Chị M không đồng ý để anh Đ nuôi con và
theo nguyện vọng của cháu Vũ Văn Q cháu muốn ở với mẹ.
Trong bản án số 57/2006/ HNGĐ của Tòa án nhân dân thành phố H
Tỉnh Q ngày 30/10/2006 đã ra quyết định: Xử cho chị Phạm Thị M và anh Vũ
Văn Đ ly hôn. Về con giao cho chị Phạm Thị M nuôi con chung và anh Vũ
Văn Đ có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung 300.000 đồng/tháng. Anh
Vũ Văn Đoàn không phải cấp dưỡng nuôi con riêng là cháu Trần Thị H (Do
chị Phạm Thị M đã đồng ý rút lại yêu cầu đòi anh Đ cấp dưỡng nuôi cháu).
Vậy nếu như chị M cương quyết buộc anh Đ cấp dưỡng nuôi cháu Trần
Thị H thì Toà án sẽ giải quyết thế nào? Toà án sẽ căn cứ vào quy định nào của
pháp luật để buộc anh Đ phải cấp dưỡng nuôi cháu H hoặc từ chối yêu cầu
cấp dưỡng nuôi con riêng của chị M.

72
Trên thực tế, giữa con riêng của vợ hoặc chồng với bố dượng hay mẹ
kế đã có thời gian quan tâm, chăm sóc lẫn nhau khá dài, giống như trường
hợp cha mẹ đẻ sống chung với con đẻ hoặc cha mẹ nuôi với con nuôi. Hơn
nữa, tuy không quy định nghĩa vụ cấp dưỡng giữa bố dượng, mẹ kế với con
riêng của vợ hoặc của chồng nhưng pháp luật cũng quy định quyền và nghĩa
vụ giữa các chủ thể này, điều này cho thấy pháp luật cũng ghi nhân sự gắn kết
về mặt tình cảm giữa các chủ thể này. Mà khi con riêng với bố dượng và mẹ
kế vì lý do khác nhau không còn sống chung với bố dượng, mẹ kế nữa khi ly
hôn, mà những người con riêng này lại không được hưởng cấp dưỡng của bố
dượng mẹ kế thì chưa thoả đáng. Mặc dù không có mối quan hệ máu mủ ruột
thịt nhưng khi cùng sống dưới một mái nhà thì giữa họ cũng đã nảy sinh
những tình cảm gắn bó, thân thiết như ruột thịt với nhau. Thậm chí có những
người bố dượng hay mẹ kế còn thương yêu con riêng hơn cả người cha mẹ
ruột của con riêng, và cũng có trường hợp con riêng dành tình cảm của mình
cho bố dượng mẹ kế như dành tình cảm cho cha mẹ ruột của mình.
Luật Hôn nhân và gia đình nên đưa ra các quy định cụ thể về việc cấp
dưỡng nuôi con riêng giữa bố dượng, mẹ kế để trách tình trạng Toà án khi xét
xử không có căn cứ pháp luật trong trường hợp giải quyết yêu cầu cấp dưỡng
giữa bố dượng, mẹ kế với con riêng của vợ hoặc con riêng của chồng. Việc
quy định bố dượng, mẹ kế có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con riêng của vợ hoặc
con riêng của chồng khi ly hôn và ngược lại con riêng cũng có nghĩa vụ chăm
sóc bố dượng, mẹ kế điều này hoàn toàn phù hợp với phong tục, tập quán và
đạo đức của người Việt Nam.
3.3. Một số kiến nghị về cấp dưỡng khi ly hôn
3.3.1. Mức cấp dưỡng
Đằng sau bản án ly hôn là số phận của mỗi con người. Mặc dù trên thực
tế mỗi trường hợp ly hôn mức thu nhập, điều kiện cụ thể và hoàn cảnh sống

73
của mỗi người khác nhau; nhưng để đảm bảo các "nhu cầu thiết yếu" trong
cuộc sống để những đứa trẻ sau khi ly hôn "phát triển lành mạnh về thể chất
và tinh thần" thì Nhà nước cần quy định rõ ràng hơn nữa về mức cấp dưỡng.
Theo quan điểm của tôi nên quy định một mức trần là mức thấp nhất người có
nghĩa vụ phải thực hiện cấp dưỡng. Quy định mức trần có thể dựa trên mức
tiền lương tối thiểu vào từng thời điểm, từng vùng miền bởi mỗi vùng khác
nhau có mức thu nhập, mức sinh hoạt khác nhau, như vậy để đảm bảo mức
sống tối thiểu của người được cấp dưỡng. Khi có sự thay đổi về mức lương,
mức sống thì căn cứ vào đó cơ quan thi hành án áp dụng vào từng thời điểm
thi hành án thì mới có thể bảo đảm quyền lợi cho người được cấp dưỡng và
tránh thiệt thòi cho người được cấp dưỡng sau khi ly hôn.
Luật cũng cần quy định cụ thể về phương thức cấp dưỡng, đặc biệt đối
với trường hợp cấp dưỡng một lần cần quy định về mức, hình thức và phải dự
liệu cả trường hợp cấp dưỡng bổ sung.
3.3.2. Thời điểm bắt đầu cấp dưỡng nuôi con
Để đảm bảo quyền lợi của con được cấp dưỡng nhằm đáp ứng nhu cầu
thiết yếu trong mọi trường hợp thực tiễn, tôi xin kiến nghị các cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền cần phải có quy định và xác định thời điểm cha hoặc mẹ
phải cấp dưỡng nuôi con khi ly hôn mà không trực tiếp nuôi con như sau:
Thứ nhất: Thời điểm cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con khi ly
hôn phải cấp dưỡng nuôi con là ngày tuyên án sơ thẩm, trong trường hợp
các bên không thoả thuận được về việc cấp dưỡng nuôi con và Toà án đưa
vụ án ra xét xử.
Thứ hai: Thời điểm cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con khi ly hôn
phải cấp dưỡng nuôi con là thời điểm Toà án lập biên bản lần sau cùng, trong
trường hợp quyết định thuận tình ly hôn.
Thứ ba: Thời điểm cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con khi ly hôn

74
phải cấp dưỡng nuôi con kể từ ngày cha hoặc mẹ không sống chung với nhau
trở về sau cho đến khi chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Mà Toà án có
căn cứ xác định trong khoảng thời gian vợ chồng không sống chung với nhau,
nên không thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con - có nghĩa
là nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con của vợ hoặc chồng khi ly hôn bắt đầu kể từ
thời điểm vợ chồng ly thân đến khi ly hôn trở về sau cho đến lúc nghĩa vụ cấp
dưỡng được chấm dứt theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình. Bởi
vì trên thực tế có nhiều người vợ do mâu thuẫn quá lớn đối với người chồng
và thường xuyên bị người chồng đánh đập, xúc phạm về nhân phẩm (mà
chúng ta thường gọi là nạn bạo hành, nhưng chưa đến mức phải truy cứu trách
nhiệm hình sự) đã làm cho người vợ và con phải đi nơi khác để chờ toà giải
quyết việc ly hôn hoặc người chồng đi làm ăn xa, chung sống với người khác
mà vợ chồng không chung sống với nhau trước khi ly hôn mà một bên vợ
hoặc chồng không sống chung với con, đồng thời cũng không thực hiện việc
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con cái (Nhưng không thuộc trường hợp trốn
tránh nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con và đã yêu cầu Toà án giải quyết).
3.3.3. Tạm ngừng cấp dưỡng
Để đảm bảo việc tạm ngừng cấp dưỡng sau ly hôn không nhằm trốn
tránh việc thực hiện nghĩa vụ thì pháp luật nên quy định chặt chẽ vấn đề
này, phải đưa ra các điều kiện được tạm hoãn, thời gian kết thúc việc tạm
hoãn nhằm bảo vệ quyền lợi cho người được cấp dưỡng cũng như người
nuôi dưỡng.
- Về điều kiện được tạm hoãn cấp dưỡng, tôi xin kiến nghị như sau:
Người được cấp dưỡng phải lâm vào “ hoàn cảnh kinh tế khó khăn”.
Mà một người được coi là khó khăn về kinh tế là người không có thu nhập
hoặc có thu nhập nhưng mức thu nhập thấp và với mức thu nhập đó không thể
đảm bảo, và lo cho cuộc sống của người được cấp dưỡng. Đồng thời họ cũng

75
không có tài sản giá trị hoặc có tài sản nhưng sau khi bán đi cũng không thể
có khả năng thực hiện trách nhiệm cấp dưỡng của mình.
- Về thời gian kết thúc tạm hoãn cấp dưỡng:
Thứ nhất: Đó là trước thời điểm người được cấp dưỡng tròn 18 tuổi và
có khả năng lao động. Bởi lẽ nếu người được cấp dưỡng tròn 18 tuổi và có
khả năng lao động thì nghĩa vụ cấp dưỡng cũng chấm dứt, người phải cấp
dưỡng lúc đó cũng không phải thực hiện trách nhiệm cấp dưỡng nữa, trong
trường hợp này thời gian tạm hoãn cấp dưỡng đương nhiên chấm dứt. Như
vậy, quyền lợi của người được cấp dưỡng trong thời gian tạm hoãn trước đó
sẽ không được đảm bảo và cũng ảnh hưởng đến quyền lợi của người trực tiếp
nuôi người được cấp dưỡng
Thứ hai: Trong trường hợp được cấp dưỡng là người thành niên nhưng
mất năng lực hành vi dân sự, bị tàn tật, rơi vào hoàn cảnh khó khăn, túng
thiếu thì việc tạm ngừng cấp dưỡng chỉ được tạm ngừng trong một thời gian
có lợi nhất không được tạm ngừng cấp dưỡng trong một thời gian dài.
Trong các bản án hay quyết định của Toà phải quy định cụ thể ngày
tạm ngừng cấp dưỡng là ngày nào. Ấn định một thời gian nhất định để bảo vệ
quyền lợi cho người được cấp dưỡng cũng như quyền lợi của người trực tiếp
nuôi người được cấp dưỡng.
3.3.4. Trường hợp cấp dưỡng giữa bố dượng hoặc mẹ kế của con
riêng của vợ hoặc chồng
Luật Hôn nhân và gia đình mới chỉ có quy định về quyền và nghĩa vụ
trong đó có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng giữa bố dượng hoặc mẹ kế với
con riêng của vợ hoặc chồng nhưng lại không có quy định cụ thể về nghĩa vụ
cấp dưỡng giữa họ khi họ không sống chung. Qua thực tiễn cho thấy cũng có
không ít các yêu cầu cấp dưỡng giữa những chủ thể này, vì vậy để hoàn thiện
pháp luật nhằm tạo cơ sở để các cơ quan xét xử giải quyết vấn đề cấp dưỡng

76
xảy ra giữa những chủ thể này thì cần thiết có quy định cụ thể và giải thích rõ
hơn cũng như bổ sung thêm về chế định con riêng nói chung và cấp dưỡng
đối với con riêng trong trường hợp ly hôn.
Tuy nhiên, việc quy định này ngoài đáp ứng các điều kiện như: Con
chưa thành niên hoặc con đã thành niên mà bị tàn tật, mất năng lực hành vi
dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, thì
phải xét tới việc giữa bố dượng, mẹ kế phải có thời gian sống chung với con
riêng khá dài. Đồng thời, con riêng của vợ hoặc con riêng của chồng đã có
công lao chăm sóc, nuôi dưỡng bố dượng, mẹ kế như cha mẹ đẻ hoặc cha mẹ
nuôi của mình theo các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình trong
một thời gian dài mà họ không được ai cấp dưỡng khi đã hội đủ điều kiện để
được cấp dưỡng. Chứ hoàn toàn không phải mọi trường hợp con riêng của bố
dượng mẹ kế đều được bố dượng, mẹ kế khi ly hôn cấp dưỡng cho con riêng
của vợ hoặc con riêng của chồng, mà thời gian sống chung quá ít hoặc công
sức chăm sóc lẫn nhau chưa nhiều, nay vì bố dượng, mẹ kế chấm dứt hôn
nhân, nên không còn sống chung với bố dượng hoặc mẹ kế nữa. Bởi có quy
định đó đảm bảo cho việc người có nghĩa vụ cấp dưỡng có tâm lý tự nguyện
và thực sự có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ như đối với con đẻ.
3.3.5. Cách tính số tiền bồi thường cấp dưỡng cho con khi cha mẹ ly
hôn mà một người bị tai nạn
Quan hệ cấp dưỡng là loại quan hệ nhân thân, gắn liền với nhân thân
của chủ thể. Đồng thời quan hệ cấp dưỡng là loại quan hệ tài sản đặc biệt.
Giả sử vợ, chồng sau khi ly hôn, nếu bên không trực tiếp nuôi con
không may bị tai nạn có thể bị chết hoặc mất khả năng lao động, điều đó đồng
nghĩa với việc nghĩa vụ cấp dưỡng của người đó đối với con cũng chấm dứt.
Trong trường hợp này thì quyền lợi của người con tức là quyền lợi của người
được cấp dưỡng bị ảnh hưởng trực tiếp cả về vật chất lẫn tinh thần. Đúng ra

77
người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con phải thực hiện trách nhiệm cấp dưỡng
đến khi người con trưởng thành và có khả năng lao động, thậm chí phải thực
hiện trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con vô thời hạn nếu rơi vào trường hợp con
đã thành niên không có năng lực hành vi dân sự, bị tàn tật nhưng vì sự cố
không may, lý do khách quan mà họ không thể tiếp tục thực hiện trách nhiệm
của họ, do vậy, trong trường hợp này người đã gây ra thiệt hại cho người phải
cấp dưỡng phải chịu trách nhiệm thực hiện tiếp trách nhiệm mà người phải
cấp dưỡng đang thực hiện dang dở. Mặc dù quan hệ cấp dưỡng là loại quan hệ
nhân thân và không thể chuyển giao cho người khác nhưng trong trường hợp
này thì khác. Người đã gây ra thiệt hại cho người có trách nhiệm cấp dưỡng,
khiến người phải cấp dưỡng không thể thực hiện trách nhiệm của mình phải
có nghĩa vụ bồi thường khoản tiền cấp dưỡng cho người được cấp dưỡng,
nhằm đảm bảo cuộc sống cho người được cấp dưỡng.
Để xác định, tính toán chi phí cấp dưỡng, đảm bảo nguyên tắc bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng với mục đích của trách nhiệm bồi thường là
khôi phục lại tình trạng như trước khi xảy ra thiệt hại điều đó không hề đơn
giản. Căn cứ vào hoàn cảnh kinh tế chung ở nước ta và thực tế giải quyết việc
cấp dưỡng, trên cơ sở quy định tại khoản 2- Điều 613- Bộ Luật dân sự 2005,
Điều 116 – Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, theo tôi cách tính khoản
tiền bồi thường khoản tiền cấp dưỡng có thể thực hiện bằng hai cách sau:
Thứ nhất: Các bên có thể tự tính toán, thoả thuận mức bồi thường và
thực hiện việc bồi thường theo nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thoả
thuận trong bồi thường thiệt hại.
Thứ hai: Trong trường hợp các bên không tự thoả thuận được thì việc
tính toán, xác định mức bồi thường phải đồng thời căn cứ vào thu nhập của
người bị hại, mức cấp dưỡng thực tế trước khi xảy ra thiệt hại, mức sống
trung bình của đại bộ phận dân cư được cấp dưỡng đang sống. Nếu vẫn có
tranh chấp thì yêu cầu Toà án giải quyết.

78
Căn cứ việc xác định tính toán các thiệt hại khác, việc bồi thường
khoản chi phí cấp dưỡng cũng cần phải căn cứ vào lỗi của các bên, trong đó
có lỗi của người bị thiệt hại. Trong trường hợp nhiều người cùng có lỗi gây
thiệt hại thì họ có trách nhiệm liên đới cùng bồi thường. Khoản tiền phải bồi
thường của mỗi người trong trường hợp này được xác định căn cứ vào mức
độ lỗi của họ, trong đó có cả lỗi của người bị thiệt hại nếu người này có lỗi.
Trong trường hợp không xác định được mức độ lỗi thì những người gây thiệt
hại phải bồi thường theo phần bằng nhau.
Ngoài ra, việc tính toán khoản tiền cấp dưỡng gây thiệt hại phải bồi
thường cho người được cấp dưỡng cũng cần phải xem xét đến nghĩa vụ cấp
dưỡng của những người khác đối với người được cấp dưỡng. Ví dụ như nghĩa
vụ cấp dưỡng của bố hoặc mẹ đối với các con khi một trong hai người bị tai
nạn để tránh buộc người gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ khoản tiền cấp
dưỡng. Giải quyết việc bồi thường khoản tiền cấp dưỡng khi cha mẹ ly hôn
mà một trong hai người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con không may bi tai nạn
đang là một vấn đề phức tạp. Nhất là hiện nay, khi việc bồi thường thiệt hại
đang chịu sự tác động tiêu cực của cơ chế thị trường nên đang có xu hướng bị
thương mại hoá. Vì vậy Luật Hôn nhân và gia đình cùng các văn bản pháp
luật khác cần có các quy định cụ thể về vấn đề này để bảo vệ quyền lợi cho
người được cấp dưỡng.
3.3.6. Vấn đề về tổ chức, thực hiện và áp dụng pháp luật
Nhằm ngăn chặn những hiện tượng tiêu cực có thể xảy ra trong việc
cấp dưỡng nuôi con khi vợ chồng ly hôn như: Trốn tránh việc thực hiện nghĩa
vụ… đảm bảo mục đích của việc cấp dưỡng nuôi con một trong những biện
pháp quan trọng và cần thiết là công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát việc cấp
dưỡng nuôi con. Công tác đó cần được thực hiện một cách thường xuyên theo
định kì hoặc tiến hành đột xuất khi có dư luận, hay có đơn tố cáo của quần
chúng nhân dân.

79
Để đảm bảo việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn các vấn đề liên quan
đến việc cấp dưỡng nuôi con được chính xác, đúng đắn và có hiệu quả, vấn đề
đặt ra là nâng cao năng lực cán bộ có liên quan đến việc cấp dưỡng nuôi con,
đề cao trách nhiệm “chí công vô tư” không ngại khó khăn khi xác minh sự
việc. Trong quá trình cưỡng chế thi hành án cần có sự phối hợp của các cơ
quan như Viện kiểm sát, cơ quan Công an, cơ quan thi hành án đưa ra những
biện pháp thoả đáng buộc người phải thi hành án thực hiện nghiêm túc nghĩa
vụ cấp dưỡng.
Ngoài ra, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về cấp dưỡng nuôi
con khi vợ chồng ly hôn được tiến hành và đẩy mạnh để làm cho quần chúng
nhân dân hiểu rõ mục đích và ý nghĩa về các vấn đề có liên quan đến việc cấp
dưỡng nuôi con. Do đó, tạo được sự đồng tình, ủng hộ và mọi người có thái
độ đúng đắn, nhận thức đầy đủ các vấn đề về cấp dưỡng nuôi con. Trên cơ sở
đó giúp mọi người ý thức quyền lợi của mình và bảo vệ quyền lợi chính đáng
của của các bên trong quan hệ cấp dưỡng đặc biệt là quyền lợi của người con.

Kết luận chương 3

Để nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án tranh chấp về cấp dưỡng sau
ly hôn đòi hỏi phải hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật về tố tụng và nội
dung, phải thực hiện tốt, đồng bộ các giải pháp trên sẽ nâng cao hiệu quả áp
dụng pháp luật, từ đó bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong
quan hệ cấp dưỡng, đặc biệt bảo vệ quyền và lợi ích của phụ nữ và trẻ em.

80
KẾT LUẬN

Trên đây là những nội dung cơ bản của luận văn thạc sĩ luật học: “Cấp
dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam hiện nay”.
Chế định cấp dưỡng là một chế định có ý nghĩa quan trọng trong pháp
luật về hôn nhân và gia đình. Không chỉ có ý nghĩa trong phạm vi một quốc
gia mà đây đã và đang là vấn đề của toàn cầu. Chế định cấp dưỡng đã góp
phần vào việc đảm bảo cho cuộc sống của người được cấp dưỡng, đặc biệt đối
với những người chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng không có năng
lực hành vi dân sự, bị tàn tật trong trường hợp cha mẹ ly hôn. Đảm bảo cho
các em được chăm sóc, nuôi dưỡng được phát triển toàn diện về thể chất và
tinh thần dù không được sống cùng cả cha và mẹ trong mét gia đình. Ngoài
ra, chế định cấp dưỡng còn là phương thức để bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng của người phải cấp dưỡng trong quan hệ cấp dưỡng, qua việc xác lập
quan hệ cấp dưỡng giữa người được cấp dưỡng và người phải cấp dưỡng.
Vấn đề cấp dưỡng được quy định khá cụ thể và đầy đủ trong Luật
HN&GĐ năm 2000, 2014 và có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định các
vấn đề liên quan đến cấp dưỡng cho con khi vợ chồng ly hôn, cấp dưỡng giữa
vợ và chồng.
Tuy nhiên, cùng với sự vận động và phát triển của nền kinh tế đã tác
động vào các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ cấp dưỡng nói riêng. Một
số quy định của pháp luật đã không còn phù hợp với thực tế, một số vấn đề
còn chưa được quy định hoặc quy định chưa đầy đủ, đòi hỏi pháp luật về cấp
dưỡng cần phải sửa đổi, bổ sung nhằm đáp ứng các yêu cầu của thực tế. Cùng
với đó, chúng ta cần tiến hành công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát về cấp
dưỡng trên thực tế và nâng cao trách nhiệm, năng lực chuyên môn của cán bộ
có thẩm quyền, phải chú trọng công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp
luật về cấp dưỡng, đặc biệt là cấp dưỡng trong trường hợp vợ chồng ly hôn để
mọi tầng lớp nhân dân có nhận thức đầy đủ, đúng đắn về vấn đề này và ý thức
được quyền lợi, trách nhiệm của mình trong việc cấp dưỡng.

81

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ luật Dân sự Sài Gòn năm 1972.
2. C.Mác – Ph Ăngghen toàn tập (2000), Nguồn gốc của gia đình, của chế
độ tư hữu và Nhà nước, NXB Sự thật, Hà Nội.
3. Chính phủ (2001), Nghị định số 70/2001/NĐ - CP ngày 03/10/2001 quy
định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Hà Nội.
4. Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1950), Sắc lệnh số 97/SL
ngày 22/5/1950, Hà Nội.
5. Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1950), Sắc lệnh số 159 ngày
17/11/1950 về ly hôn, Hà Nội.
6. Dân luật Bắc kỳ năm 1931.
7. Dân luật Trung kỳ năm 1936.
8. Hoàng Việt Luật lệ (1811), Bộ luật Gia Long.
9. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2000), Nghị quyết số
02/2000/HĐ - HĐTP ngày 23/12/2000 hướng dẫn áp dụng một số quy
định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Hà Nội.
10. Lê Thạch Hương (2008), Quan hệ cấp dưỡng trong Luật Hôn nhân và
gia đình hiện hành, Luận văn tốt nghiệp, Đại học Cần thơ.
11. Nguyễn Ngọc Điện (2005), Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia
đình Việt Nam tập 1- Gia đình, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
12. Nguyễn Thanh Hồng (2002), “Vấn đề bồi thường khoản tiền cấp dưỡng
trong các vụ tai nạn giao thông theo Bộ Luật dân sự Việt Nam”, Tạp chí
Luật học, (4).
13. Ngô Thị Hường (2003), “Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi li
hôn”, Tạp chí Luật học, (3).

82
14. Ngô Thị Hường (2005), “Mối quan hệ giữa nghĩa vụ nuôi dưỡng và cấp
dưỡng trong Luật Hôn nhân và gia đình”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật,
(4), tr.13-18.
15. Phan Thị Vân Hương (2004), “Cấp dưỡng theo quy định của Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (6).
16. Phạm Xuân Linh (2006), “Bàn về chế định nghĩa vụ của cha mẹ đối
với con theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000”, Tạp chí dân chủ
và pháp luật, (9).
17. Quốc hội (1959), Luật Hôn nhân và gia đình, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
18. Quốc hội (1986), Luật Hôn nhân và gia đình, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
19. Quốc hội (1992), Hiến pháp, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
20. Quốc hội (2000), Luật Hôn nhân và gia đình, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
21. Quốc hội (2005), Bộ Luật dân sự, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
22. Quốc hội (2009), Bộ Luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm
2009, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
23. Quốc hội (2014), Hiến pháp, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Quốc hội (2014), Luật Hôn nhân và gia đình, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
25. Quốc triều hình luật (1483), Bộ luật Hồng Đức.
26. Tập Giản yếu năm 1883, Nam kỳ.
27. Tòa án nhân dân tối cao (2008), Báo cáo tổng kết ngành tòa án, Hà Nội.
28. Tòa án nhân dân tối cao (2009), Báo cáo tổng kết ngành tòa án, Hà Nội.

83
29. Tòa án nhân dân tối cao (2010), Báo cáo tổng kết ngành tòa án, Hà Nội.
30. Tòa án nhân dân tối cao (2011), Báo cáo tổng kết ngành tòa án, Hà Nội.
31. Tòa án nhân dân tối cao (2012), Báo cáo tổng kết ngành tòa án, Hà Nội.
32. Tòa án nhân dân tối cao (2013), Báo cáo tổng kết ngành tòa án, Hà Nội.
33. Tòa án nhân dân tối cao (2014), Báo cáo tổng kết ngành tòa án, Hà Nội.
34. Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Luật Hôn nhân và gia
đình Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
Tags