Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000

Sangtran2010 884 views 81 slides Jun 05, 2022
Slide 1
Slide 1 of 81
Slide 1
1
Slide 2
2
Slide 3
3
Slide 4
4
Slide 5
5
Slide 6
6
Slide 7
7
Slide 8
8
Slide 9
9
Slide 10
10
Slide 11
11
Slide 12
12
Slide 13
13
Slide 14
14
Slide 15
15
Slide 16
16
Slide 17
17
Slide 18
18
Slide 19
19
Slide 20
20
Slide 21
21
Slide 22
22
Slide 23
23
Slide 24
24
Slide 25
25
Slide 26
26
Slide 27
27
Slide 28
28
Slide 29
29
Slide 30
30
Slide 31
31
Slide 32
32
Slide 33
33
Slide 34
34
Slide 35
35
Slide 36
36
Slide 37
37
Slide 38
38
Slide 39
39
Slide 40
40
Slide 41
41
Slide 42
42
Slide 43
43
Slide 44
44
Slide 45
45
Slide 46
46
Slide 47
47
Slide 48
48
Slide 49
49
Slide 50
50
Slide 51
51
Slide 52
52
Slide 53
53
Slide 54
54
Slide 55
55
Slide 56
56
Slide 57
57
Slide 58
58
Slide 59
59
Slide 60
60
Slide 61
61
Slide 62
62
Slide 63
63
Slide 64
64
Slide 65
65
Slide 66
66
Slide 67
67
Slide 68
68
Slide 69
69
Slide 70
70
Slide 71
71
Slide 72
72
Slide 73
73
Slide 74
74
Slide 75
75
Slide 76
76
Slide 77
77
Slide 78
78
Slide 79
79
Slide 80
80
Slide 81
81

About This Presentation

Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000 đã chia sẻ đến cho các bạn học viên những bài mẫu luận văn thạc sĩ luật hôn nhân và gia đình hoàn toàn miễn phí.


Slide Content

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI


HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA LY HÔN THEO
LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2000



Nhận Viết Thuê Luận Văn
Điểm Cao – Chất Lượng
Uy Tín – Đúng Hẹn
Zalo trao đổi : 0932.091.562


Chuyên ngành: Luật Dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60 38




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC





HÀ NỘI - 2013

LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn “Hậu quả pháp lý của ly hôn theo Luật Hôn
nhân và gia đình Việt Nam năm 2000” là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ trung thực,
chính xác và tin cậy.
Trân trọng cảm ơn.

Tác giả luận văn




NGUYỄN VIẾT THÁI

LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới TS. Nguyễn Văn Cừ - Giảng viên
Trường Đại học Luật Hà Nội đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em trong suốt quá trình
thực hiện khóa luận này.
Đồng cảm ơn các Thầy, Cô Trường Đại học Luật Hà Nội – những người đã
truyền đạt những kiến thức quý báu trong quá trình em học tập và rèn luyện tại
trường.
Cảm ơn gia đình và bạn bè luôn ủng hộ và động viên em.


Tác giả luận văn




NGUYỄN VIẾT THÁI

CHƯƠNG 2:
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài luận văn ...................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .........................................................................................2
3. Mục đích nghiên cứu đề tài ..........................................................................................3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài ..............................................................3
5. Phương pháp nghiên cứu sử dụng trong đề tài..........................................................3
6. Kết cấu của luận văn .....................................................................................................4
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LY HÔN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA
LY HÔN..............................................................................................................................5
1.1. Khái niệm ly hôn, một số quan điểm và bản chất pháp lý về ly hôn ....................5
1.1.1. Khái niệm ly hôn và một số quan điểm về ly hôn ................................................5
1.1.2. Bản chất pháp lý của ly hôn ..................................................................................6
1.2. Khái quát chung về hậu quả pháp lý của ly hôn .....................................................9
1.2.1. Khái niệm hậu quả pháp lý của ly hôn..................................................................9
1.2.2. Khái lược quy định về hậu quả pháp lý của ly hôn trong pháp luật Việt Nam.
................................................................................................................................... 10
1.2.2.1. Hậu quả pháp lý của ly hôn trong pháp luật Việt Nam trước Cách mạng
tháng Tám năm 1945. .....................................................................................................10
1.2.2.2. Hậu quả pháp lý của ly hôn trong pháp luật ở Miền Nam nước ta từ năm
1945 đến năm 1975. .........................................................................................................13
1.2.2.3. Hậu quả pháp lý của ly hôn theo hệ thống pháp luật hôn nhân và gia đình
của Nhà nước ta từ năm 1975 đến nay..........................................................................18
1.3. Ý nghĩa của những quy định pháp luật về hậu quả của ly hôn ...........................19
HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA VIỆC LY HÔN THEO LUẬT HÔN
NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000 ................................................................................21
2.1. Về quan hệ hôn nhân (quan hệ nhân thân giữa vợ chồng sau khi ly hôn).........21
2.2. Chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn ......................................................................22
2.2.1. Các nguyên tắc và căn cứ chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.......................24
2.2.2. Đối với tài sản chung của vợ chồng .....................................................................26
2.2.3. Đối với tài sản riêng của vợ, chồng. .....................................................................30
2.2.3.1. Xác định tài sản riêng của vợ, chồng................................................................30

2.2.3.2. Chia tài sản riêng của vợ, chồng khi ly hôn. ...................................................31
2.3. Một số trường hợp cụ thể. .......................................................................................33
2.3.1. Nhà ở; Quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ, chồng...............................33
2.3.2. Nhà ở, quyền sử dụng đất là tài sản riêng của vợ, chồng..................................40
2.4. Giải quyết vấn đề cấp dưỡng vợ chồng khi ly hôn................................................41
2.4.1. Cơ sở của việc quy định về quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng khi
ly hôn. ................................................................................................................................41
2.4.2. Điều kiện cần và đủ để giải quyết cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn .........42
2.4.3. Các quy định cụ thể về cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn ......................44
2.4.3.1. Mức cấp dưỡng ...................................................................................................44
2.4.3.2. Về thời hạn cấp dưỡng .......................................................................................45
2.4.3.3. Về phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng..............................................46
2.4.3.4. Thay đổi vấn đề cấp dưỡng giữa vợ chồng sau khi ly hôn.............................47
2.4.3.5. Chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau khi ly hôn.................47
2.5. Quan hệ giữa cha mẹ và con khi vợ chồng (với tư cách là cha mẹ của con) ly
hôn. ....................................................................................................................................48
2.5.1. Nguyên tắc chung để giải quyết hậu quả pháp lý đối với con khi cha mẹ (vợ
chồng) ly hôn theo Điều 92, 93, 94 Luật HN&GĐ năm 2000. ....................................48
2.5.2. Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục con. .....................................................................................................................49
2.5.3. Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ là người không trực tiếp chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục con.........................................................................................................51
2.5.4. Các quy định cụ thể về cấp dưỡng nuôi con khi vợ chồng khi ly hôn. ............52
2.5.4.1. Về đối tượng (Con) được cấp dưỡng................................................................52
2.5.4.2. Về mức cấp dưỡng nuôi con, giáo dục con. .....................................................53
2.5.4.3. Về thời hạn và phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con ........54
2.5.4.4. Vấn đề thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con (Điều 93 Luật
HN&GĐ năm 2000).........................................................................................................54
THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA LY HÔN .. 56
3.1. Thực tiễn áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về hậu quả pháp lý
của ly hôn ..........................................................................................................................56
3.1.1. Nhận xét chung .......................................................................................................56
THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIÉN NGHỊ NHẰM HOÀN CHƯƠNG 3:

3.1.2. Một số trường hợp cụ thể. ....................................................................................58
3.1.2.1. Về quan hệ nhân thân giữa vợ chồng khi ly hôn ............................................58
3.1.2.2. Về chia tài sản chung của vợ chồng sau khi ly hôn. .......................................59
3.1.2.3. Về tài sản riêng của vợ, chồng khi ly hôn ........................................................61
3.1.2.4. Về cấp dưỡng giữa vợ chồng với nhau khi ly hôn ..........................................63
3.1.2.5. Về quan hệ giữa cha mẹ và con khi ly hôn. .....................................................64
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về hậu quả pháp lý
của ly hôn. .........................................................................................................................66
3.2.1. Vấn đề xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng khi ly hôn (nếu có
tranh chấp ) ......................................................................................................................66
3.2.2. Vấn đề cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn. .....................................................67
3.2.3. Vấn đề thời điểm cấp dưỡng và mức cấp dưỡng giữa cha mẹ và con khi vợ
chồng ly hôn......................................................................................................................68
3.2.4. Về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con khi ly hôn .........................................68
3.2.5. Giải quyết hậu quả pháp lý của ly hôn cần được xem xét trên cơ sở “lỗi” của
vợ, chồng ...........................................................................................................................69
3.2.6. Công tác xét xử và tổng kết công tác xét xử của Tòa án. ..................................69
KẾT LUẬN .......................................................................................................................71

BẢNG CHỮ VIẾT TẮT


HN&GĐ................................................ Hôn nhân và gia đình.
BLDS.................................................... Bộ luật Dân sự.
TAND................................................... Tòa án nhân dân.
TANDTC.............................................. Tòa án nhân dân Tối cao.
XHCN................................................... Xã hội chủ nghĩa.
Nghị định số 70/2001/NĐ-CP.............. Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày
03.10.2001 của Chính phủ về việc thi
hành Luật Hôn nhân và gia đình Việt
nam năm 2000.

Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP....... Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP
ngày 23.12.2000 của TANDTC hướng
dẫn áp dụng một số quy định của luật
HN&GĐ Việt nam năm 2000.

Sắc lệnh số 97/SL................................. Sắc lệnh số 97/SL ngày 22.5.1950 của
Chủ tịch nước Việt nam dân chủ cộng
hòa sửa đổi một số quy lệ và chế định
trong dân luật.

Sắc lệnh số 159/SL............................... Sắc lệnh số 159/SL ngày 17.11.1950
của Chủ tịch nước Việt nam dân chủ
cộng hòa quy định về vấn đề ly hôn.

Nghị quyết số 35/2000/QH10-NQ........ Nghị quyết số 35/2000/QH10-NQ
ngày 09.6.2000 của Quốc hội về việc
thi hành Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000.

Nghị quyết số 01/1988.......................... Nghị quyết số 01 ngày 20.01.1988 của
HĐTP/TANDTC- hướng dẫn áp dụng
một số quy định của Luật HN&GĐ
năm 1986.

1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài luận văn.

Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường
quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách của mỗi cá nhân, chuẩn bị hành
trang để họ hòa nhập với cuộc sống xã hội. Kết hôn là cơ sở, là tiền đề để xác lập quan
hệ vợ chồng và quan hệ gia đình theo quy định của pháp luật nhằm xây dựng gia đình
bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững. Ngược lại, ly hôn làm chấm dứt quan hệ vợ
chồng trước pháp luật. Hậu quả pháp lý của ly hôn làm chấm dứt quan hệ nhân thân
giữa vợ chồng trước pháp luật và hàng loạt vấn đề về thanh toán tài sản vợ chồng, nghĩa
vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng, chăm sóc và nuôi dưỡng con chung. Những vấn đề đó có
tác động và ảnh hưởng không nhỏ tới lợi ích của các bên trong gia đình cũng như sự ổn
định của xã hội. Vì vậy, cần phải có sự điều chỉnh bằng pháp luật mà cụ thể là pháp luật
về hôn nhân và gia đình để có thể hạn chế tối đa những tác động tiêu cực mà ly hôn
mang lại.
Thực tế ở Việt Nam trong những năm gần đây, tình trạng ly hôn ngày càng gia
tăng đã ảnh hưởng ít nhiều tới mục tiêu xây dựng gia đình dân chủ, hòa thuận, hạnh
phúc và bền vững. Theo báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tối cao thì số vụ án ly
hôn ngày càng tăng cao. Mặc dù, Luật HN&GĐ hiện hành có quy định khá chi tiết về
vấn đề ly hôn để hạn chế thấp nhất những hậu quả đáng tiếc mà ly hôn để lại cho gia
đình và xã hội, đặc biệt là tình trạng nhiều thanh thiếu niên phạm tội do sinh ra và lớn
lên trong những gia đình bị ly tán; Tuy nhiên, việc áp dụng các quy định này vào thực
tiễn xét xử còn gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc… Vì vậy việc giải quyết tranh chấp
liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình như tranh chấp về chia tài sản vợ chồng,
giải quyết vấn đề cấp dưỡng và chăm sóc, nuôi dưỡng con chung đang trở thành một
vấn đề mà cả xã hội quan tâm.
Hậu quả pháp lý của ly hôn là vấn đề đã được nghiên cứu dưới nhiều góc độ
nhưng cho đến nay thì vẫn luôn mang tính thời sự và thu hút sự quan tâm của toàn xã
hội. Đề tài “Hậu quả pháp lý của ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
năm 2000” được lựa chọn làm đề tài luận văn thạc sỹ; với mong muốn đóng góp những
ý kiến của bản thân cho việc hoàn thiện những quy định của pháp luật Việt Nam về giải
quyết những hậu quả pháp lý của ly hôn cũng như thực tiễn áp dụng các quy định của

2
pháp luật để giải quyết những tranh chấp sau ly hôn, góp phần ổn định chế độ hôn nhân
và gia đình xã hội chủ nghĩa.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.

Nghiên cứu pháp luật về Hậu quả pháp lý của ly hôn là một mảng đề tài được khá
nhiều nhà khoa học, thuộc nhiều lĩnh vực quan tâm. Trong khoa học Luật nói chung và
Luật HN&GĐ nói riêng, hậu quả pháp lý của ly hôn là một cơ sở pháp lý quan trọng
cho việc ban hành các quy phạm pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các bên liên quan khi ly hôn.
Đã có một số công trình khoa học nghiên cứu ở nhiều phạm vi và cấp độ khác
nhau, đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến hậu quả pháp lý của ly hôn như sau:
Nhóm giáo trình, sách bình luận chuyên sâu: Nguyễn Ngọc Điện (2002), Bình
luận khoa học Luật Hôn nhân và Gia Đình Việt Nam, tập 1, NXB Trẻ Thành phố Hồ
Chí Minh. Tưởng Duy Lượng (2001), Bình luận một số án Dân sự và Hôn nhân và gia
đình, NXB chính trị Quốc gia Hà nội. Đinh thị Mai Phương (2006) Bình luận khoa học
Luật Hôn nhân và Gia đình Việt nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội. Nguyễn Văn
Cừ và Ngô Thị Hường (2002) Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2000, NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội. Giáo trình Luật Hôn nhân và Gia
đình Việt nam, NXB Công an Nhân dân, Hà nội.
Ngoài ra còn một số Giáo trình và Bình luận khoa học về Luật HN&GĐ; Hầu hết
các công trình này mới chỉ dừng lại ở việc phân tích, bình luận các quy định của pháp
luật HN&GĐ về nhân thân hoặc về tài sản, về cấp dưỡng nói chung giữa vợ chồng sau
khi ly hôn, ít đề cập thực tiễn việc áp dụng và thi hành các quy định của pháp luật về
vấn đề trên.
Nhóm luận văn, luận án chuyên ngành Luật: Một số công trình nghiên cứu
khoa học tiêu biểu như: Chế độ tài sản của vợ, chồng theo luật HN&GĐ Việt năm
2000, Luận án Tiến sĩ luật học, Nguyễn Văn Cừ (2004) Trường Đại học Luật Hà nội.
Luận án Thạc sỹ Luật học: Giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn theo
Luật HN&GĐ Việt nam năm 2000 của Phạm Thị Ngọc Lan, Khoa Luật Trường Đại học
Quốc gia năm 2008... Bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn, Khóa luận tốt nghiệp
của Hồ Thị Nga (2007)...

3
Tóm lại, cho đến nay dù đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về hậu quả
pháp lý của ly hôn nhưng các công trình đó hoặc chủ yếu tập trung về một mảng cụ thể
của mối quan hệ này như về nhân thân hoặc nghiên cứu dưới góc độ tranh chấp tài sản
hoặc về cấp dưỡng sau khi ly hôn. Chưa có một công trình nào nghiên cứu toàn diện và
đầy đủ về các hậu quả pháp lý của ly hôn theo luật HN&GĐ Việt nam 2000.
Chính vì lý do đó, tôi đã chọn đề tài này để nghiên cứu đầy đủ và toàn diện
về những “hậu quả pháp lý của ly hôn theo Luật HN&GĐ Việt nam năm 2000” cho
luận văn thạc sỹ của mình.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài.

Với đề tài “Hậu quả pháp lý của ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
năm 2000”, Luận văn được xây dựng nhằm thực hiện những nhiệm vụ chính sau:
- Tìm hiểu những vấn đề lý luận cơ bản về ly hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn

- Tìm hiểu một cách có hệ thống và hoàn chỉnh những quy định hiện hành của pháp luật
Việt Nam mà trọng tâm chính là Luật HN&GĐ năm 2000 về hậu quả pháp lý của ly
hôn
- Trên cơ sở những tìm hiểu về lý luận và những quy định của pháp luật cũng như tìm
hiểu thực trạng áp dụng pháp luật về ly hôn để giải quyết những hệ quả của ly hôn ở
Việt Nam, luận văn mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật
Việt Nam về hậu quả pháp lý của ly hôn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.

Trong giới hạn cho phép về dung lượng, đề tài tập trung đi vào làm rõ những vấn
đề lý luận trực tiếp về vấn đề ly hôn và những hậu quả pháp lý cũng như những quy
định hiện hành của pháp luật Việt Nam về hậu quả pháp lý của ly hôn; nêu và phân tích
được những điểm còn hạn chế của pháp luật, từ đó có những đề xuất nhằm hoàn thiện
pháp luật về hôn nhân và gia đình của Việt Nam (Phạm vi nghiên cứu không đề cập đến
ly hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn có yếu tố nước ngoài ).
5. Phương pháp nghiên cứu sử dụng trong đề tài.

Luận văn được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Các phương pháp
nghiên cứu khoa học cụ thể được sử dụng trong đề tài bao gồm phương pháp phân tích

4
để làm rõ những vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu; phương pháp so sánh, phương pháp
tổng hợp…nhằm đánh giá sự phù hợp của pháp luật Việt Nam để điều chỉnh vấn đề hậu
quả pháp lý của ly hôn; phương pháp thống kê, tổng hợp nhằm nhận định và đánh giá
thực trạng áp dụng quy định của pháp luật về hậu quả pháp lý của ly hôn để giải quyết
vấn đề ly hôn trước cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam…
6. Kết cấu của luận văn.

Kết cấu luận văn ngoài lời mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được
chia làm ba chương:
Chương 1. Khái quát chung về ly hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn

Chương 2. Nội dung các quy định về hậu quả pháp lý của ly hôn theo Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2000
Chương 3. Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của
pháp luật về hậu quả pháp lý của ly hôn.
Trong khuôn khổ đề tài luận văn tốt nghiệp với thời lượng nghiên cứu và trình
độ còn hạn hẹp, chắc chắn luận văn này không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong
nhận được những ý kiến đóng góp đánh giá của thầy, cô giáo để luận văn của em được
hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!

5
CHƯƠNG 1

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LY HÔN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA LY HÔN

1.1. Khái niệm ly hôn, một số quan điểm và bản chất pháp lý về ly hôn.
1.1.1. Khái niệm ly hôn và một số quan điểm về ly hôn.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, ly hôn là một mặt của quan hệ hôn
nhân, nó là mặt trái, mặt bất bình thường nhưng là mặt không thể thiếu của quan hệ hôn
nhân. Khi đời sống tình cảm yêu thương giữa vợ chồng đã hết, mâu thuẫn gia đình sâu
sắc, mục đích hôn nhân không đạt được thì vấn đề ly hôn được đặt ra nhằm giải phóng
cho vợ chồng, con cái và các thành viên trong gia đình thoát khỏi những xung đột, bế
tắc trong đời sống chung. Vì khi quan hệ hôn nhân tồn tại chỉ là hình thức, thực chất
quan hệ vợ chồng đã hoàn toàn mất hết ý nghĩa thì: “Tự do ly hôn không có nghĩa là
làm tan rã những mối quan hệ gia đình mà ngược lại nó củng cố những mối liên hệ đó
trên những cơ sở dân chủ, những cơ sở duy nhất có thể có và vững chắc trong xã hội
văn minh”.
Vấn đề ly hôn, được quy định trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia là khác
nhau. Một số nước cấm ly hôn như Anđôna, Manta, Paragoat,… có nước lại đặt ra các
quy định hết sức nghiêm ngặt như Achentina, Italia ... Nhưng việc cấm hay hạn chế ly
hôn đều trái với quyền tự do dân chủ của cá nhân, V. I Lênin đã khẳng định: “người ta
không thể là một người dân chủ và xã hội chủ nghĩa nếu ngay từ bây giờ không đòi
quyền hoàn toàn tự do ly hôn, vì thiếu quyền tự do ấy là một sự ức hiếp lớn đối với giới
bị áp bức, đối với phụ nữ. Tuy hoàn toàn chẳng khó khăn gì mà không hiểu được rằng
khi ta thừa nhận cho phụ nữ tự do bỏ chồng không có nghĩa là ta khuyên tất cả họ bỏ
chồng.” [41]
Ly hôn là sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ hôn nhân mà chỉ có vợ, chồng
hoặc cả hai vợ chồng mới có quyền yêu cầu ly hôn. Tuy nhiên, quyền ly hôn của vợ,
chồng phải đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước và pháp luật nhằm hạn chế,
ngăn chặn những hiện tượng vợ chồng lạm dụng quyền tự do ly hôn gây hậu quả xấu
cho gia đình và xã hội. Đứng trên lập trường quan điểm Chủ nghĩa Mác – Lênin, khoản
8 Điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình (HN&GĐ) năm 2000 quy định: “ly hôn là việc
chấm dứt quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ
hoặc chồng hoặc của cả hai vợ chồng” [2]. Như vậy, ly hôn là kết quả của hành vi có ý
chí của hai vợ chồng và được công nhận bằng bản án, quyết định của Tòa án. Đảm bảo

6
quyền tự do ly hôn cho các bên vợ chồng chính là nội dung quan trọng của nguyên tắc
hôn nhân tiến bộ được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 [1, Điều 64] và được cụ thể
hóa tại Điều 2 Luật HN&GĐ năm 2000 [2]. Nhưng tự do ly hôn không có nghĩa là ly
hôn một cách tùy tiện, theo ý chí nguyện vọng của vợ chồng mà phải dựa trên những
căn cứ luật định và trên cơ sở đó Tòa án mới xử cho ly hôn. Theo quy định tại khoản 1
Điều 89 Luật HN&GĐ năm 2000 thì căn cứ ly hôn là khi quan hệ vợ chồng đã ở vào
“tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không
đạt được” thì Tòa án sẽ xem xét yêu cầu giải quyết cho ly hôn. Ngoài ra, trong trường
hợp đặc biệt“vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa
án giải quyết cho ly hôn” [2, khoản 2 Điều 89]. Tuy nhiên, ly hôn trong trường hợp này
chỉ là quyết định của một bên vợ, chồng trong hoàn cảnh đặc biệt mà không phát sinh
từ mâu thuẫn của vợ chồng trong đời sống thực tế. Như vậy, căn cứ ly hôn theo quy
định của Luật HN&GĐ năm 2000 vừa đảm bảo quyền tự do ly hôn của vợ chồng vừa
thể hiện tư tưởng phê phán của các nhà làm luật về việc ly hôn tùy tiện.
1.1.2. Bản chất pháp lý của ly hôn.

Cũng theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, hôn nhân trong đó có ly hôn
là một hiện tượng xã hội mang tính giai cấp sâu sắc. Pháp luật thể hiện ý chí của giai
cấp thống trị, do đó với mỗi hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử lại hình thành một hệ
thống pháp luật dựa trên hệ tư tưởng của giai cấp thống trị trong xã hội. Với tư cách là
một trong những quan hệ chủ đạo trong xã hội, quan hệ HN&GĐ cũng chịu sự chi phối
sâu sắc của hệ tư tưởng đó.
Dưới chế độ phong kiến, do ảnh hưởng tư tưởng trọng nam khinh nữ, bảo vệ
quyền gia trưởng của người đàn ông, với quan niệm “nhất nam viết hữu, thập nữ viết
vô”. Theo đó, pháp luật và các tục lệ phong kiến ở Việt Nam có nhiều quy phạm mang
tính luân lý đặc biệt là các quy phạm về HN&GĐ phản ánh những đặc quyền của người
đàn ông, còn người phụ nữ phải sống theo thuyết “tam tòng tứ đức”. Chế độ đa thê và
những quy định nghiêm khắc về ly hôn đã bóp méo bản chất của một cuộc hôn nhân
chân chính, khiến nó trở thành thứ xiềng xích trói buộc người phụ nữ trong những nghi
lễ bất bình đẳng. Ở đó, cuộc đời họ gắn liền với công việc gia đình, với chồng con và bị
chi phối bởi nguyên tắc “phu xướng phụ tùy” nên họ không có quyền quyết định bất kì
việc gì, ngay cả việc bảo toàn hạnh phúc riêng tư cũng không được đảm bảo.

7
Như vậy, pháp luật phong kiến, thừa nhận sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, bảo
vệ quyền lợi tối cao của người gia trưởng nên quyền tự do ly hôn của người phụ nữ
không được đảm bảo. Nhưng pháp luật lại trao cho đàn ông quyền được ly hôn khi vợ
phạm vào điều “nghĩa tuyệt” và chỉ khi thuộc trường hợp “tam bất khứ” thì quyền ly
hôn người vợ của người chồng mới bị hạn chế như: Vợ đã để tang nhà chồng ba năm,
trước khi cưới nghèo sau giàu,… Như vậy, những quy định đó đã không nói lên bản
chất thật sự của ly hôn mà nó chỉ là một thứ công cụ bảo vệ cho lợi ích của giai cấp
thống trị trong xã hội.
Đến thời kỳ tư bản chủ nghĩa, các quy định của pháp luật chịu ảnh hưởng sâu sắc
của tư tưởng cách mạng tư sản là tự do, bình đẳng. Các luật gia tư sản cho rằng tự do ly
hôn phải được thừa nhận như một quyền pháp định và đưa ra các quy định nhằm đảm
bảo quyền tự do ly hôn. Song, trên thực tế đó chỉ là quy định mang tính hình thức, thực
chất khi ly hôn họ vẫn bị ràng buộc bởi các quy định ngăn cấm của nhà làm luật: “dưới
chế độ tư bản chủ nghĩa quyền ly hôn cũng như tất cả các quyền dân chủ khác, không
loại trừ quyền nào đều không thể thực hiện một cách dễ dàng, nó lệ thuộc vào nhiều
điều kiện, bị giới hạn, bị thu hẹp và có tính chất hình thức”.
Quan hệ HN&GĐ trong xã hội tư sản thường được coi như là một khế ước, một
hợp đồng dân sự mà khi có bất kì hành vi nào vi phạm hợp đồng ấy thì bên đối tác có
thể đặt vấn đề chấm dứt hôn nhân. Theo đó, ly hôn thường căn cứ vào lỗi của một bên
đương sự nên không thể hiện được bản chất thực sự của ly hôn. Vì vậy, bản chất pháp
lý của ly hôn trong pháp luật HN&GĐ phong kiến và tư sản không được xem xét, đánh
giá một cách sâu sắc và toàn diện.
Đối lập với pháp luật phong kiến và tư sản, dưới chế độ Xã hội chủ nghĩa
(XHCN) pháp luật đã thể hiện tính ưu việt của nó ở mọi lĩnh vực trong đó có vấn đề ly
hôn. Đứng trên lập trường quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, pháp luật XHCN
không coi hôn nhân là một hợp đồng dân sự hay một khế ước dân sự mà coi hôn nhân là
sự tự nguyện của hai bên nam - nữ, là sự liên kết suốt đời giữa vợ và chồng. Bởi nó
được xây dựng trên cơ sở tình yêu chân chính của hai bên nam - nữ nhằm xây dựng gia
đình hạnh phúc và bền vững. Tuy nhiên, tính chất suốt đời của hôn nhân cũng có trường
hợp ngoại lệ. Nghĩa là sau khi kết hôn, trong thời gian chung sống giữa vợ chồng phát
sinh mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, không thể tiếp tục duy
trì cuộc sống chung thì pháp luật cho phép họ chấm dứt hôn nhân bằng ly hôn. Như

8
vậy, bản chất của ly hôn là sự tan vỡ của cuộc hôn nhân, là chấm dứt quan hệ vợ chồng
trước pháp luật.
Pháp luật của nhà nước XHCN công nhận và tôn trọng quyền tự do ly hôn chính
đáng của vợ chồng, không thể cấm hoặc đặt ra những điều kiện nhằm hạn chế quyền tự
do ly hôn. Ly hôn dựa trên sự tự nguyện của vợ chồng, nó là kết quả của hành vi ý chí
của vợ chồng khi thực hiện quyền tự do ly hôn. Nhà nước bằng pháp luật không thể
cưỡng ép nam nữ yêu nhau và kết hôn với nhau thì cũng không thể bắt buộc vợ chồng
sống phải duy trì quan hệ hôn nhân khi tình cảm yêu thương gắn bó không còn, mục
đích của cuộc hôn nhân đã không đạt được. Khi ấy, ta không thể nhìn nhận ly hôn đơn
thuần chỉ là mặt tiêu cực, mà cần phải nhận thức được rằng nó là mặt trái nhưng là mặt
không thể thiếu được của quan hệ hôn nhân. Vì cho phép các bên ly hôn là giải pháp
mở ra lối thoát cuối cùng, giải phóng cho vợ chồng, các con cũng như các thành viên
trong gia đình thoát khỏi xung đột, mâu thuẫn, bế tắc trong cuộc sống chung. Bởi thực
chất “ly hôn chỉ là việc xác nhận một sự kiện: cuộc hôn nhân này là cuộc hôn nhân đã
chết, sự tồn tại của nó chỉ là bề ngoài và giả dối”. Nếu như cuộc hôn nhân đã thực sự
tan vỡ và ly hôn đã trở thành mong muốn của vợ chồng thì việc ghi nhận quyền tự do ly
hôn là hoàn toàn chính đáng thể hiện tính chất dân chủ và nhân đạo của pháp luật
XHCN. Hõn nữa, cũng cần phải ghi nhận rằng, tự do ly hôn là một quyền cơ bản và
bình đẳng giữa vợ và chồng, bởi đây là quyền gắn liền với nhân thân của vợ chồng.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, mục đích của việc xác lập quan hệ hôn
nhân là xây dựng gia đình dân chủ, hòa thuận, bền vững và hạnh phúc. Nhưng vì lí do
nào đó mà giữa vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, khiến cho tình nghĩa vợ
chồng không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài được nữa thì ly hôn là biện pháp
cần thiết để giải phóng cho họ. Khi xây dựng Luật HN&GĐ năm 1959, đồng chí Xuân
Thủy đã phân tích: “hôn nhân bao gồm hai mặt: tự do kết hôn và tự do ly hôn. Tự do ly
hôn không có nghĩa là ly hôn bừa bãi, ly hôn là biện pháp giải phóng một tình trạng
trầm trọng làm cho đôi vợ chồng không thể sống chung được nữa”.
Như vậy, bản chất pháp lý của ly hôn là sự tan vỡ của cuộc hôn nhân, là việc
chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật, khi tình cảm yêu thương gắn bó giữa họ đã
hết, mục đích của hôn nhân không đạt được. Luật HN&GĐ phong kiến và tư sản
thường quy định việc ly hôn dựa trên cơ sở lỗi của vợ chồng, vấn đề xét xử ly hôn của
Tòa án là việc làm có tính thụ động, hoàn toàn do ý chí của các bên đương sự nên mới

9
chỉ dừng lại ở mặt hiện tượng mà chưa nhìn nhận và đánh giá đúng bản chất của vấn đề
ly hôn. Chỉ dưới chế độ XHCN, các nhà làm luật mới nhìn nhận ly hôn theo đúng thực
trạng và bản chất của cuộc hôn nhân để xem xét và quyết định hợp tình, hợp lý.
1.2. Khái quát chung về hậu quả pháp lý của ly hôn.

Việc Toà án nhân dân xét xử cho ly hôn do một bên yêu cầu hoặc công nhận
thuận tình ly hôn sẽ dẫn đến những hậu quả pháp lý nhất định cho vợ chồng và con cái.
Do đó, chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa vợ chồng tất yếu sẽ kéo theo nhiều vấn đề cần
giải quyết trong quá trình tiến hành xét xử, đó là:
- Quan hệ vợ chồng về nhân thân chấm dứt trước pháp luật.

- Chế độ tài sản chung của vợ chồng chấm dứt và tài sản chung được chia cho mỗi
bên vợ, chồng sẽ thuộc sở hữu riêng của mỗi người.
- Việc cấp dưỡng giữa vợ chồng sau ly hôn được đặt ra nếu một bên vợ hoặc
chồng túng thiếu, yêu cầu cấp dưỡng và có lý do chính đáng.
- Nếu vợ chồng đã có con chung thì phải giải quyết việc giao con cho ai trông
nom, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, đồng thời giải quyết vấn đề đóng góp
phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con.
Trong Luật HN&GĐ không có điều nào quy định cụ thể về việc chấm dứt quan hệ
nhân thân giữa vợ chồng khi ly hôn. Nhưng thông thường khi ly hôn thì quan hệ nhân
thân giữa vợ và chồng không liên quan gì đến nhau, dù hai bên có thoả thuận hay
không thoả thuận thì Toà án cũng sẽ quyết định và việc chấm dứt quan hệ nhân thân
giữa vợ và chồng được tính từ khi bản án của Toà án có hiệu lực. Đồng thời luật cũng
không quy định hạn chế việc kết hôn xây dựng hạnh phúc mới của vợ chồng sau khi đã
ly hôn, mỗi bên đều có quyền kết hôn với người khác. Tuy nhiên việc quyết định cho ly
hôn hoặc công nhận thuận tình ly hôn giữa hai vợ chồng không có nghĩa là giải phóng
họ khỏi các quyền và nghĩa vụ khác như: nghĩa vụ cấp dưỡng lẫn nhau và đặc biệt là
quyền và nghĩa vụ đối với con cái, đó chính là trách nhiệm và vinh dự của người làm
cha, làm mẹ, Toà án phải giải thích cho họ biết và thấy được những quyền và nghĩa vụ
của họ đối với con cái họ ngay cả khi đã ly hôn.
1.2.1. Khái niệm hậu quả pháp lý của ly hôn.

10
Là một yếu tố của kiến trúc thượng tầng, pháp luật không chỉ chịu sự ảnh hưởng
bởi cơ sở hạ tầng sinh ra nó mà các yếu tố như tâm lý xã hội, phong tục tập quán, bản
sắc dân tộc, … đều ảnh hưởng sâu sắc tới pháp luật và cũng chỉ đạt đến độ ấy pháp luật
mới thực sự là những quy phạm có sức sống. Luật HN&GĐ Việt Nam đặt dưới sự phát
triển của xã hội, ở mỗi thời kì lịch sử không những phản ánh đúng quy luật này mà nó
còn mang đậm bản sắc, truyền thống đạo lý của dân tộc Việt Nam.
Ly hôn là một hiện tượng xã hội phức tạp đã nảy sinh từ rất sớm trong xã hội có
giai cấp. Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận hoặc quyết định
theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng. Ly hôn ảnh hưởng trực tiếp đến
hạnh phúc gia đình, ảnh hưởng đến lợi ích của vợ chồng, các con và lợi ích xã hội.
Về mặt pháp lý, khi Tòa án quyết định cho vợ chồng ly hôn dẫn tới các hậu quả
sau:


+ Về quan hệ nhân thân giữa vợ chồng: Quan hệ vợ chồng được chấm dứt.

+ Chia tài sản chung của vợ chồng.

+ Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ và con sau khi cha mẹ ly hôn.

+ Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn.

Như vậy, Hậu quả pháp lý của ly hôn là những nội dung sự việc mà Tòa án phải
giải quyết khi xét xử cho vợ chồng ly hôn, bao gồm: Chấm dứt quan hệ vợ chồng trước
pháp luật; chia tài sản chung của vợ chồng; giao con chưa thành niên cho một bên
nuôi dưỡng, giáo dục và quyết định mức cấp dưỡng nuôi con; giải quyết việc cấp
dưỡng giữa vợ chồng khi có yêu cầu.
1.2.2. Khái lược quy định về hậu quả pháp lý của ly hôn trong pháp luật Việt
Nam.
1.2.2.1. Hậu quả pháp lý của ly hôn trong pháp luật Việt Nam trước Cách mạng
tháng Tám năm 1945.
Cho đến giữa thế kỉ XIX, Việt Nam vẫn là một nước phong kiến với nền kinh tế
nông nghiệp lạc hậu. Trải qua hơn 1000 năm Bắc thuộc, hệ tư tưởng của giai cấp thống
trị Việt Nam ít nhiều chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Bắc và được thể hiện rõ nét
qua hai Bộ luật Hồng Đức (BLHĐ) và Bộ luật Gia Long ( BLGL). Năm 1858 thực dân
Pháp xâm lược nước ta và bắt đầu đặt nền móng cho sự đô hộ bằng việc ban hành các
bộ luật: Tập Dân luật Giản yếu năm 1883 áp dụng ở Nam Kỳ, Dân luật Bắc kỳ năm

11
1931 (DLBK) áp dụng ở Bắc kỳ, Dân luật Trung kỳ năm 1936 (DLTK) áp dụng ở
Trung kỳ. Như vậy, có thể chia pháp luật HN&GĐ trước Cách mạng tháng Tám ra
thành hai thời ḱỳ:
- Thời kỳ phong kiến:
Dưới triều Lê, BLHĐ được coi như là thành tựu to lớn trong lịch sử lập pháp
Việt Nam, các quan hệ HN&GĐ được thiết lập trên nguyên tắc: Bảo đảm tôn ti, trật tự,
đẳng cấp trong mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, trọng nam khinh nữ,
xác lập tối cao quyền của người gia trưởng. Đến triều Nguyễn, do ảnh hưởng của hệ tư
tưởng Nho giáo nên BLGL ra đời được coi là sự sao chép nguyên bản của bộ luật nhà
Thanh, các quan hệ HN&GĐ xây dựng theo mô hình gia đình phụ quyền Trung Quốc.
Theo đó, vai trò của người đàn ông trong gia đình được tôn vinh, hạ thấp vai trò và vị
trí của người phụ nữ. Hậu quả pháp lý của ly hôn theo quy định của pháp luật thời kỳ
này, bao gồm:
Về quan hệ nhân thân: Sau khi ly hôn, quan hệ vợ chồng hoàn toàn chấm dứt,
không bên nào có quyền và nghĩa vụ với bên nào, vợ chồng đă ly hôn có thể tái hôn với
người khác: “người chồng không được ngăn cản người khác lấy vợ cũ của mình” .
Về quan hệ tài sản: Theo quy định tại Điều 401 BLHĐ thì “khi ly hôn tài sản
riêng của ai vẫn thuộc sở hữu của người đó và họ có quyền mang theo” [12] trừ trường
hợp ly hôn do lỗi của người vợ hoặc khi người vợ có hành vi đánh chồng, chồng thưa
kiện lại muốn ly hôn thì vợ mất quyền về tài sản (BLGL) hay điền sản của vợ để lại cho
chồng. Đối với tài sản chung, trong trường hợp cần chia tài sản chung thì tài sản chung
được chia đôi mỗi người một nửa. Đây là điểm tiến bộ của pháp luật thời kỳ này.
Về con cái: Việc giải quyết mối quan hệ giữa cha mẹ và con sau khi ly hôn
không được pháp luật ghi nhận nên nếu có vướng mắc về vấn đề nuôi dưỡng, chăm sóc
con,… thì quan lại địa phương sẽ xem xét tùy từng trường hợp cụ thể. Đối với con cái
thì con mang họ cha nên sau khi ly hôn con sẽ sống với cha nhưng nếu muốn giữ con
thì người vợ có quyền yêu cầu “chia” một nửa số con.
Mặc dù, pháp luật thời kỳ này có những điểm tiến bộ thể hiện quyền bình đẳng
trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng. Nhưng do ảnh hưởng của tư tưởng triết học,
nho giáo, phật giáo, phong tục tập quán,… Do vậy về cơ bản, các quy định của hai bộ
luật này không thoát khỏi những hạn chế của thời đại, với tư tưởng trọng nam khinh nữ,

12
bảo vệ quyền gia trưởng của người đàn ông nên quyền lợi của người phụ nữ và các con
không được đảm bảo.
Như vậy, các quy định về hậu quả pháp lý của ly hôn thời kỳ này mang sắc thái
Việt Nam thuần túy, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa đạo luật hướng Nho và phong
tục tập quán, đạo đức đã đi sâu vào tiềm thức, trở thành thói quen ứng xử của người dân
Việt Nam lúc bấy giờ.
- Thời kỳ Pháp thuộc:
Sang đến thời kỳ Pháp thuộc, chính quyền thực dân đã lần lượt ban hành các văn
bản pháp luật mới: DLBK 1931, DLTK 1936, Tập Dân luật Giản yếu 1883. Nên các
quan hệ HN&GĐ thời kỳ này cũng có sự thay đổi đáng kể. Nhìn chung, những quy định
về HN&GĐ trong các bộ luật này vẫn duy trì sự bất bình đẳng nam - nữ với việc thừa
nhận quyền gia trưởng của người đàn ông, tước đi nhiều quyền lợi cơ bản của người
phụ nữ. Vì vậy, các quy định về hậu quả pháp lý của ly hôn cũng tuân thủ triệt để
nguyên tắc củng cố địa vị của người gia trưởng, có sự phân biệt đối xử giữa các con, coi
rẻ quyền lợi của con cái, chú trọng tới việc giải quyết hậu quả về tài sản khi vợ chồng ly
hôn, trong đó người vợ được bảo đảm một phần về tài sản ngay cả khi ly hôn do lỗi của
vợ…
Về quan hệ nhân thân: Sau khi ly hôn, vợ chồng muốn đoàn tụ với nhau thì
“phải khai giá thú với hộ lại” nhưng sau khi đoàn tụ rồi mà lại xin ly hôn lần nữa thì
Tòa án không giải quyết.
Về quan hệ tài sản: Khi ly hôn vấn đề thanh toán tài sản giữa vợ, chồng được
đặt ra nhưng lại thiên về lỗi của người vợ để xem xét và quyết định phần dành cho
người vợ . Trường hợp vợ thứ ly hôn thì “không bao giờ được dự phần chung chỉ được
lấy lại tài sản riêng của mình. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 149 DLBK, Điều 147
DLTK, nếu ly hôn do lỗi của người vợ thì người vợ phải bồi thường lại những đồ vật,
sính lễ trước kia nhà chồng đã làm lễ đính ước trừ khi đồ vật đó đă tiêu dùng cho lễ
cưới.
Về cấp dưỡng giữa vợ, chồng khi ly hôn cũng được đặt ra “án xử ly hôn sẽ xử cả
về tiền cấp dưỡng cho người vợ về sự trông coi con cái và về quyền lợi tài sản của
người vợ” . Việc cấp dưỡng giữa vợ chồng sẽ chấm dứt nếu người vợ tái giá hoặc ăn ở
tư tình với người khác hoặc vô hạnh.

13
Về con cái: Việc chăm sóc, nuôi dưỡng con khi cha mẹ ly hôn được pháp luật
ghi nhận nhưng “vấn đề nuôi nấng con cái được giao cho người cha” trừ trường hợp vì
lợi ích của đứa trẻ ấy mà Toà án giao cho người mẹ thì người cha có nghĩa vụ cấp
dưỡng tiền nuôi con.
Như vậy, các quy định của pháp luật thời kì này chủ yếu dựa vào các phong tục
tập quán lạc hậu và BLDS Pháp năm 1804 với những quy định thuần túy coi hôn nhân
là chế định do dân luật điều chỉnh và là công cụ pháp lý bảo vệ quyền lợi cho giai cấp
thống trị. Tuy vậy các chế định HN&GĐ trong các bộ luật này có sự tiến bộ quan trọng,
bước đầu chú ý tới việc bảo đảm quyền lợi của người vợ và các con khi ly hôn như:
việc chia tài sản vợ chồng, nghĩa vụ cấp dưỡng của người chồng đối với người vợ, nuôi
dưỡng con,... Nhưng vẫn duy trì sự bất bình đẳng giữa vợ, chồng, củng cố quyền của
người gia trưởng làm ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống của gia đình và xã hội. Dù
chưa thật rõ ràng và công bằng, song các quy định về hậu quả pháp lý của ly hôn thời
kỳ này ít nhiều có những điểm tiến bộ mà khi xây dựng chế định ly hôn các đạo luật
HN&GĐ ở nước ta sau này đều ghi nhận và phát triển thêm như: vấn đề cấp dưỡng
nuôi con, sau khi ly hôn vợ chồng muốn quay trở về chung sống với nhau thì phải đăng
kí kết hôn, vấn đề cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn,…
1.2.2.2. Hậu quả pháp lý của ly hôn trong pháp luật ở Miền Nam nước ta từ năm
1945 đến năm 1975.
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, mở
ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc: Kỷ nguyên độc lập, tự chủ. Nhà nước mới ra đời đòi
hỏi phải có hệ thống pháp luật mới phù hợp với bản chất của nhà nước và là công cụ để
nhà nước thực hiện tốt chức năng kinh tế - xã hội của mình. Vì vậy, ngay từ khi ra đời,
Nhà nước ta đã chú trọng xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, trong đó có
Luật HN&GĐ. Có thể chia sự phát triển của Luật HN&GĐ sau cách mạng tháng Tám
đến nay theo các thời kỳ sau:
- Thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1954:

Năm 1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời,
đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử lập hiến ở nước ta. Hiến pháp 1946 đã ghi
nhận quyền bình đẳng giữa nam, nữ về mọi mặt tạo cơ sở pháp lý để nhà nước ta ban
hành các Sắc lệnh đầu tiên điều chỉnh các quan hệ HN&GĐ, từng bước xóa bỏ các hủ
tục lạc hậu của chế độ cũ. Sự ra đời của Sắc lệnh số 97/SL ngày 22-05-1950 (SL 97) và

14
Sắc lệnh số 159/SL ngày 17-11-1950 (SL 159) đánh dấu bước khởi điểm của Luật
HN&GĐ trong chế độ xã hội mới. SL 97 quy định thực hiện nam nữ bình đẳng trong
giai đoạn xã hội mới: “Chồng và vợ có địa vị bình đẳng trong gia đình” [21,Điều
5], “Người đàn bà có chồng có toàn bộ năng lực về mặt hộ” [21,Điều 6] và ghi
nhận: “Người đàn bà ly dị chồng có thể lấy chồng khác ngay sau khi có án tuyên ly dị
nếu dẫn chứng rằng mình không có thai hoặc đương có thai” [21,Điều4]. Có thể nói,
việc thừa nhận quyền bình đẳng của người phụ nữ trong gia đình và xã hội là điểm tiến
bộ của Luật HN&GĐ Việt Nam.
Tuy nhiên, SL 97 mới chỉ dừng lại ở việc ghi nhận sự bình đẳng trong quan hệ vợ
chồng mà chưa đề cập tới vấn đề ly hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn. Những hạn chế
này đã từng bước được khắc phục ở SL 159 với những quy định cụ thể thừa nhận
nguyên tắc tự do hôn nhân. Trong đó, có tự do giá thú và tự do ly hôn, xóa bỏ sự bất
bình đẳng về duyên cớ ly hôn, bảo vệ người phụ nữ có thai và thai nhi khi ly hôn, cũng
như quyền lợi của con chưa thành niên khi cha mẹ ly hôn. Theo đó, vợ chồng có thể xin
thuận tình ly hôn hoặc có thể được Tòa án cho phép ly hôn nếu thuộc một trong các
trường hợp: ngoại tình, một bên can án phạt giam, một bên mắc bệnh điên hoặc một
bệnh khó chữa khỏi, một bên bỏ nhà đi quá hai năm không có duyên cớ chính đáng, vợ
chồng tính tình không hợp nhau,… [22,Điều 2, Điều 3]; hay để bảo vệ quyền lợi của
con chưa thành niên: “Tòa án sẽ căn cứ vào quyền lợi của các con vị thành niên để ấn
định việc trông nom, nuôi nấng và dạy dỗ chúng” [22,Điều 6]. Các quy định này, đánh
dấu thêm một điểm mới của pháp luật HN&GĐ đối với vấn đề ly hôn và hậu quả pháp
lý của ly hôn. Qua đó, thể hiện sự quan tâm của nhà làm luật về bảo vệ quyền lợi của
phụ nữ và con chưa thành niên khi ly hôn nhưng chưa có quy định về việc bảo vệ quyền
lợi cho con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự. Đó là điểm hạn chế của
pháp luật thời kỳ này.
Có thể nói, các quy định về ly hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn giai đoạn này đã
góp phần xóa bỏ chế độ HN&GĐ phong kiến lạc hậu, giải phóng phụ nữ thoát khỏi sự
ràng buộc khắt khe, không tôn trọng quyền lợi chính đáng của họ; bước đầu quyền bình
đẳng nam nữ trong gia đình và ngoài xã hội được thực hiện; quyền lợi của người phụ nữ
và con chưa thành niên khi cha mẹ ly hôn được bảo vệ. Nhưng do ra đời trong hoàn
cảnh xã hội và điều kiện lịch sử lúc bấy giờ nên SL 97 và SL 159 vẫn còn những hạn
chế nhất định như: chưa xóa bỏ tận gốc chế độ HN&GĐ phong kiến, chưa ghi nhận chế

15
độ hôn nhân một vợ một chồng, duyên cớ ly hôn vẫn chưa dựa trên bản chất quan hệ
hôn nhân nên các quan hệ HN&GĐ phong kiến vẫn còn tồn tại.
- Thời kỳ từ năm 1954 đến năm 1975:
Năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, đất nước ta tạm thời bị chia
cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị khác biệt: miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ
xây dựng Chủ nghĩa xã hội (CNXH) và là hậu phương lớn chi viện cho miền Nam,
miền Nam tiếp tục cuộc Cách mạng dân tộc dân chủ, đấu tranh giải phóng dân tộc
thống nhất đất nước.
Ở miền Bắc: Bước vào công cuộc xây dựng CNXH, xóa bỏ chế độ HN&GĐ
phong kiến, SL 97 và SL 159 đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Mặc dù, có
những đóng góp lớn nhưng hai sắc lệnh này đã không đáp ứng được nhu cầu phát triển
của đất nước trong thời kỳ mới. Vì vậy, “việc ban hành một đạo luật mới về HN&GĐ
đã trở thành đòi hỏi cấp bách của toàn xã hội. Đó là tất yếu khách quan thúc đẩy sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta ” – Công báo số 1 năm 1960.
Hiến pháp năm 1959 ra đời, ghi nhận quyền bình đẳng nam nữ về mọi mặt: kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội và gia đình [23,Điều 24] tạo cơ sở pháp lý cho việc ban
hành một đạo luật mới về HN&GĐ. Luật HN&GĐ năm 1959 ban hành ngày
29/12/1959 trên nguyên tắc hôn nhân tự do tiến bộ, một vợ một chồng; nguyên tắc nam
nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trong gia đình và quyền lợi của con
cái nhằm xây dựng chế độ HN&GĐ mới theo tinh thần Hiến pháp năm 1959 và yêu cầu
của thực tiễn khách quan. Luật HN&GĐ năm 1959 dành một chương quy định về ly
hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn với những quy định khác hẳn với pháp luật trước kia.
Hậu quả pháp lý của ly hôn theo Luật HN&GĐ 1959 là giải quyết quan hệ vợ
chồng, thanh toán tài sản, vấn đề cấp dưỡng cho một bên túng thiếu và mối quan hệ
giữa cha mẹ và con khi ly hôn.
Về quan hệ nhân thân: Sau khi phán quyết ly hôn của Toà án có hiệu lực pháp
luật, quan hệ vợ chồng sẽ chấm dứt trước pháp luật [24,Điều 25, Điều 26].
Về quan hệ tài sản: Xuất phát từ nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ
em, Luật đã ghi nhận: “khi ly hôn việc chia tài sản sẽ căn cứ vào công sức đóng góp
của mỗi bên, vào tình hình tài sản và tình trạng cụ thể của gia đình. Lao động trong gia
đình được kể như lao động sản xuất. Khi chia phải bảo vệ quyền lợi của người vợ, của

16
con và lợi ích của việc sản xuất” [24,Điều 29]. Khác với quy định của DLBK 1931,
DLTK 1936, đưa ra nguyên tắc chia mà phần của người vợ sẽ ảnh hưởng nếu ly hôn do
lỗi của người vợ.
Giải quyết mối quan hệ giữa cha mẹ và con: Ghi nhận nguyên tắc bảo vệ quyền
lợi của con sau khi cha mẹ ly hôn, như: vợ chồng khi ly hôn vẫn có mọi nghĩa vụ và
quyền lợi đối với con chung; việc giao con cho ai trông nom, nuôi dưỡng và giáo dục
con chưa thành niên phải căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con hay việc đóng góp phí
tổn nuôi con,… [24, Điều 31, 32, 33].
Về cấp dưỡng giữa vợ, chồng: Pháp luật ghi nhận nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và
chồng khi ly hôn “nếu một bên gặp khó khăn túng thiếu, yêu cầu cấp dưỡng thì bên kia
phải cấp dưỡng tuỳ theo khả năng của mình” [24,Điều 30].
Như vậy, so với SL 97 và SL 159 thì những quy định về hậu quả pháp lý của ly
hôn theo Luật HN&GĐ năm 1959 đầy đủ và cụ thể hơn, thể hiện bước tiến rõ rệt nhưng
vẫn còn mang tính khái quát, chưa quy định cụ thể việc bảo vệ quyền lợi của con đã
thành niên không có khả năng lao động, chưa có sự phân biệt giữa tài sản chung và tài
sản riêng của vợ, chồng. Có thể nói, đây là bước phát triển của pháp luật HN&GĐ, là
cơ sở để từng bước xây dựng và phát triển ngành luật HN&GĐ trong hệ thống pháp luật
XHCN của Nhà nước ta.
Ở miền Nam: sau năm 1954, đế quốc Mỹ thay chân Pháp nhảy vào xâm lược,
tiến hành chính sách thực dân kiểu mới. Chế độ HN&GĐ được áp dụng ở
miền Nam trong giai đoạn này thể hiện qua ba văn bản: Luật Gia đình (Luật số 1/59),
Sắc luật số 15/64, Bộ luật Dân sự Sài Gòn năm 1972. Mặc dù, ra đời vào các thời điểm
khác nhau, hình thức quy định cũng có nét riêng, song nhìn chung các văn bản này đều
quy định về vấn đề ly thân và ly hôn. Trong đó, việc giải quyết hậu quả của ly hôn chủ
yếu dựa trên yếu tố lỗi của các bên vợ chồng như người có lỗi phải cấp dưỡng cho
người kia hay người không có lỗi đương nhiên được nuôi con dưới 16 tuổi,…
Dưới thời Ngô Đình Diệm, Luật số 1/59 có những quy định về quyền bình đẳng
của người phụ nữ, người vợ trong gia đình, bãi bỏ chế độ đa thê nhưng đạo luật này chỉ
quy định về ly thân còn vấn đề ly hôn: “Cấm chỉ vợ chồng ruồng bỏ nhau và sự ly
hôn” [17,Điều 55], trừ trường hợp đặc biệt do Tổng thống quyết định. Do đó, không đặt
ra vấn đề hậu quả của ly hôn.

17
Sau khi chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm bị lật đổ, Luật số 1/59 được thay thế
bằng Sắc luật số15/64. Sắc luật số 15/64 có quy định về vấn đề ly hôn giữa vợ và chồng
cũng như giải quyết ly hôn và hậu quả của nó. Theo quy định của Sắc luật số15/64,
quan hệ vợ chồng chấm dứt bằng ly hôn, vấn đề cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau khi ly
hôn được đặt ra nhưng người có lỗi phải cấp dưỡng cho người hôn phối không có lỗi;
hay việc giải quyết mối quan hệ giữa cha mẹ và con cũng căn cứ trên cơ sở lỗi của hai
vợ chồng nên người không có lỗi sẽ đương nhiên có quyền nuôi con dưới 16 tuổi,
quyền thăm nom cấp dưỡng cho con thuộc về người kia. Ngoài ra, việc giải quyết tài
sản của vợ chồng sau khi ly hôn căn cứ vào lỗi của các bên, nếu người hôn phối có lỗi
thì họ “mất hết quyền tài sản do hôn ước”, ngược lại “người hôn phối vô tội sẽ được giữ
những quyền lợi này đã được ưng thuận với điều kiện hỗ tương” [18,Điều 92]. Nhìn
chung, Sắc luật số 15/64 đã xóa bỏ những quy định không hợp lý của Luật số 1/59
nhưng cũng chưa quy định một cách rõ ràng việc bảo vệ quyền và nghĩa vụ của các bên
hôn phối và của con cái.
Ngay sau khi lên cầm quyền, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho soạn thảo, sửa
đổi và ban hành các văn bản pháp luật sao cho phù hợp với nhu cầu phát triển của xã
hội nhằm phục vụ cho sự cầm quyền của mình. Bộ Dân luật năm 1972 ra đời đã thay
thế Sắc luật số 15/64. Bộ luật Dân sự năm 1972 coi ly hôn là một chế định do dân luật
điều chỉnh nhưng về cơ bản vẫn dựa trên các quy định của Sắc luật số15/64. Theo đó, ly
hôn là chấm dứt mối liên hệ nhân thân giữa vợ chồng, chế độ hôn sản bị giải tán và
được thanh toán, mỗi người hôn phối sẽ lấy quyền quản trị và hưởng dụng đối với tài
sản riêng của mình, tài sản chung sẽ chia đôi, phần của người hôn phối có lỗi sẽ bị khấu
trừ số tiền cấp dưỡng…[19,Điều 201]; hay việc mất quyền lợi về tài sản của vợ chồng
khi ly hôn [19,Điều 200]. Vấn đề cấp dưỡng giữa vợ chồng cũng được đặt ra nhưng có
sự phân biệt giữa tiền cấp dưỡng mà người có lỗi phải trả cho người vô tội với tiền cấp
dưỡng được ấn định trong thời gian làm thủ tục ly hôn:“ Tiền này là phần tiền cho
người vợ hay người chồng biệt cư, không phân biệt người này có lỗi hay không có lỗi”
[19,Điều 178], và “Tòa án có thể buộc người hôn phối có lỗi trong việc ly hôn phải cấp
dưỡng cho người kia tùy theo tư lực của mình…” [19,Điều 197].
Tựu chung lại, pháp luật HN&GĐ áp dụng ở miền Nam thời kỳ này, ra đời trong
hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, các phong tục tập quán lạc hậu vẫn còn tồn tại, và
nó là công cụ để bảo vệ của chính quyền phản động tay sai. Vì vậy, các văn bản pháp

18
luật điều chỉnh quan hệ HN&GĐ do chính quyền ngụy Sài Gòn ban hành thời kỳ này
đều bảo vệ quyền lợi của người gia trưởng, thực hiện nguyên tắc bất bình đẳng giữa vợ
chồng, có sự phân biệt giữa các con nhằm bảo vệ nhà nước phản động mị dân, đi ngược
lại với lợi ích của nhân dân ta.
1.2.2.3. Hậu quả pháp lý của ly hôn theo hệ thống pháp luật hôn nhân và gia đình
của Nhà nước ta từ năm 1975 đến nay.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, giải phóng miền Nam thống nhất đất
nước. Cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn mới - giai đoạn cả nước giành độc lập,
thống nhất và tiến lên CNXH. Việc xây dựng CNXH trên phạm vi cả nước đòi hỏi phải
có hệ thống pháp luật áp dụng thống nhất chung trong cả nước. Trước yêu cầu đó, Hiến
pháp năm 1980 được ban hành ghi nhận các nguyên tắc về chế độ HN&GĐ [26, Điều
38, 47, 63 và Điều 64], trên cơ sở đó Nhà nước ta ban hành Luật NH&GĐ năm 1986.
Các quy định về hậu quả pháp lý của ly hôn của Luật NH&GĐ năm 1986 về cơ
bản vẫn dựa trên những quy định của Luật HN&GĐ năm1959 như bảo vệ quyền lợi của
phụ nữ và con chưa thành niên, cấp dưỡng giữa vợ chồng … nhưng có bổ sung thêm
nhiều quy định mới như: “việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thỏa thuận và phải
được Tòa án công nhận, nhưng có xem xét một cách hợp lý tình hình tài sản và tình
trạng cụ thể của gia đình, công sức đóng góp của mỗi bên” [25,Điều 42], về cấp dưỡng
giữa vợ chồng “ khi hoàn cảnh thay đổi người được cấp dưỡng hoặc người phải cấp
dưỡng có thể yêu cầu sửa đổi mức cấp dưỡng, thời gian cấp dưỡng” [25,Điều 43] và
lần đầu tiên đưa ra quy định bảo vệ quyền lợi của con đã thành niên nhưng không có
khả năng lao động [25, Điều 20],…
Với những quy định này, Luật HN&GĐ năm 1986 đã góp phần vào việc xây
dựng và củng cố quan hệ gia đình xã hội chủ nghĩa, giữ gìn và phát huy các phong tục
tập quán, truyền thống tốt đẹp về HN&GĐ của dân tộc nhưng còn mang tính định
hướng, khái quát. Do vậy, việc áp dụng các quy định này vào giải quyết các tranh chấp
phát sinh trên thực tế gặp nhiều khó khăn, vướng mắc đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung.
Trước những thay đổi về điều kiện kinh tế - xã hội, sau hơn 10 năm thực hiện Luật
HN&GĐ năm 1986, kì họp thứ VII Quốc hội khóa X đã thông qua Luật HN&GĐ năm
2000. Kế thừa các quy định, nguyên tắc dân chủ, tiến bộ về HN&GĐ trong lịch sử,
Luật HN&GĐ năm 2000 đã khắc phục những hạn chế của luật HN&GĐ năm 1986. Các
quy định về hậu quả pháp lý của ly hôn trong Luật này đã thể hiện một bước phát triển

19
cả về kỹ thuật lập pháp và nội dung tư tưởng góp phần vào việc xây dựng, củng cố chế
độ HN&GĐ XHCN, giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nâng cao
nhận thức của nhân dân, tạo cơ sở pháp lý cần thiết cho công tác xét xử của Tòa án.
1.3. Ý nghĩa của những quy định pháp luật về hậu quả của ly hôn.

Ly hôn là hiện tượng xã hội phức tạp, bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của
vợ chồng, lợi ích của gia đình và xã hội. Hiện nay, tình trạng ly hôn ở nước ta ngày
càng gia tăng với những nguyên nhân và lý do rất đa dạng, phức tạp. Việc quy định
bằng pháp luật về hậu quả pháp lý của ly hôn góp phần giải quyết ly hôn một cách
chính xác, đảm bảo quyền tự do ly hôn chính đáng của vợ chồng cũng như lợi ích của
gia đình và xã hội.
Quyết định ly hôn của vợ chồng được pháp luật thừa nhận là một quyền tự do
của công dân. Theo đó, quan hệ nhân thân giữa vợ chồng chấm dứt nhưng việc giải
quyết mối quan hệ giữa cha mẹ và con, các tranh chấp liên quan đến tài sản, cấp dưỡng
giữa vợ chồng khi ly hôn là vấn đề vô cùng phức tạp cần phải được pháp luật quy định
cụ thể để hạn chế một cách thấp nhất các tranh chấp xảy ra, đảm bảo quyền và lợi ích
chính đáng của các bên, lợi ích của gia đình và xã hội. Hơn nữa, trách nhiệm chăm sóc,
nuôi dạy con cái không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ luật định của cha mẹ để ổn
định cuộc sống của con sau khi cha mẹ ly hôn. Các quy định về hậu quả pháp lý cuả ly
hôn trong Luật HN&GĐ thể hiện sự quan tâm của Nhà nước tới quyền lợi trẻ em khi
cha mẹ ly hôn. Bởi “trẻ em là hạnh phúc của gia đình, tương lai của đất nước, là người
kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Khi gia đình tan vỡ, hạnh phúc riêng tư
của cha mẹ không còn nhưng sợi dây tình cảm giữa cha mẹ và con cũng không vì thế
mất đi mà cha mẹ vẫn phải có nghĩa vụ, quyền nuôi dạy con cái. Ngược lại, con cái
cũng trở thành niềm động viên an ủi của cha mẹ và có bổn phận yêu thương, kính trọng,
chăm sóc, cấp dưỡng khi cha mẹ ốm đau già yếu.
Việc ghi nhận bằng pháp luật đối với hậu quả pháp lý của ly hôn là sự cụ thể hóa
nguyên tắc bảo vệ phụ nữ và trẻ em, đảm bảo sự bình giữa vợ và chồng ngay cả khi ly
hôn. Đồng thời, thể hiện tính chất công bằng, dân chủ và nhân đạo của pháp luật
XHCN. Có thể nói, kể từ khi pháp luật quy định giải quyết việc ly hôn phải dựa vào bản
chất, thực trạng của quan hệ hôn nhân cho đến việc chú trọng giải quyết hậu quả của ly
hôn. Pháp luật XHCN đã thật sự quan tâm tới vấn đề ly hôn và hạn chế tới mức tối đa
những ảnh hưởng tiêu cực của nó đối với gia đình, đặc biệt là con cái.

20
Xuất phát từ lợi ích của gia đình, quyền và lợi ích chính đáng của vợ chồng, các
con cũng như các thành viên khác, sự ổn định của các quan hệ HN&GĐ.Việc quy định
bằng pháp luật về hậu quả pháp lý của ly hôn giúp Toà án nhân dân các cấp có đủ cơ sở
pháp lý để điều tra, tìm hiểu kĩ nguyên nhân dẫn tới những mâu thuẫn vợ chồng, tâm tư
tình cảm của người trong cuộc, để có thể giải quyết ly hôn chính xác đảm bảo quyền lợi
của các bên, của gia đình và xã hội. Qua đó thể hiện sự quan tâm của các nhà làm luật
tới việc giải quyết các mối quan hệ liên quan tới vợ chồng và các thành viên khác trong
gia đình khi hôn nhân thực sự tan vỡ.
Như vậy, việc quy định trong pháp luật HN&GĐ về Hậu quả pháp lý của ly hôn
là cơ sở để vợ chồng thực hiện các quyền, nghĩa vụ pháp lý; đồng thời cũng là cơ sở,
căn cứ để Tòa án áp dụng giải quyết chính xác các vấn đề về quan hệ nhân thân, tài sản
của vợ chồng; vấn đề cấp dưỡng giữa vợ chồng và quyền lợi của các con khi vợ chồng
ly hôn.

21
Quan hệ pháp luật nhân thân giữa vợ và chồng bao gồm các quan hệ nhân thân
CHƯƠNG 2

HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA VIỆC LY HÔN
THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH N ĂM 2000
2.1. Về quan hệ hôn nhân (quan hệ nhân thân giữa vợ chồng sau khi ly hôn).
Quan hệ giữa vợ và chồng được quy định tại Chương III Luật HN&GĐ 2000 đã
mang tính khái quát cao, bởi quan hệ vợ, chồng không chỉ là quyền và nghĩa vụ đối với
nhau mà nó còn là tình cảm cao đẹp. Chương này gồm có 16 điều từ Điều 18 đến Điều
33, nhiều hơn 7 điều so với Luật HN&GĐ năm 1986 là một số quy định mới về quyền
nhân thân và tài sản nhằm cụ thể hóa hơn quan hệ nhân thân cũng như quan hệ tài sản
giữa vợ chồng, qua đó khẳng định sự bình đẳng, bình quyền trong quan hệ giữa vợ và


phi tài sản (không mang nội dung kinh tế). Đó là quyền và nghĩa vụ của vợ chồng về
lao động và học tập, hoạt động nghề nghiệp, nó còn bao hàm cả tình yêu, sự chung
thủy, hòa thuận và kính trọng lẫn nhau, những cư xử đúng đắn và cùng nhau dạy bảo
con cái... dựa trên những quy định của Luật HN&GĐ, các quy tắc tập quán của dân tộc
và đạo đức xã hội.
Luật HN&GĐ năm 1986 đã khẳng định quyền bình đẳng vợ chồng thể hiện ở
các quyền như: tự do lựa chọn chỗ ở, lựa chọn nghề nghiệp, nghĩa vụ chung thủy yêu
thương. Luật HN&GĐ 2000 một lần nữa khẳng định và mở rộng hơn các quyền đó như:
tôn trọng danh dự nhân phẩm, uy tín, tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ chồng,
vợ chồng giúp đỡ tạo điều kiện cho nhau phát triển, quyền đại diện cho nhau cũng như
trách nhiệm liên đới của vợ chồng đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một bên thực
hiện, nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình.
Quan hệ nhân thân giữa vợ chồng mang yếu tố tình cảm là nét đặc trưng gắn liền
với bản thân họ mà không thể chuyển giao cho người khác được. Bởi các quan hệ này
phát sinh từ lợi ích tinh thần của mỗi cá nhân, gắn liền với một chủ thể nhất định và
không mang nội dung kinh tế như quan hệ tài sản. Nó chiếm vị trí quan trọng trong đời
sống vợ chồng.
Theo nguyên tắc chung, khi phán quyết ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật,
quan hệ hôn nhân chấm dứt trước pháp luật. Kể từ thời điểm này, người vợ, người
chồng.

22
chồng đã ly hôn có quyền kết hôn với người khác mà không chịu bất kỳ sự ràng buộc
nào từ phía bên kia. Sau khi ly hôn, các quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ và
chồng sẽ đương nhiên chấm dứt mà không phụ thuộc vào sự thoả thuận của các bên.
Nghĩa là các quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng phát sinh từ khi kết hôn và
gắn bó trong suốt thời kỳ hôn nhân, như: nghĩa vụ yêu thương quý trọng, chăm sóc,
giúp đỡ nhau tiến bộ, nghĩa vụ chung thủy giữa vợ chồng… sẽ đương nhiên mất đi.
Nhưng một số quyền về nhân thân khác mà vợ chồng với tư cách là công dân thì vẫn
không thay đổi dù họ đã ly hôn, như: họ tên, quốc tịch, dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp…
sẽ do các bên tự quyết định. Như vậy, quan hệ nhân thân giữa vợ chồng chỉ tồn tại và
được pháp luật bảo vệ khi họ là vợ chồng hợp pháp của nhau. Nên sau khi ly hôn, các
quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng sẽ chấm dứt.
Sau khi phán quyết ly hôn của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng vì lý do
hay động cơ nào đó, mà vợ chồng quay trở về chung sống với nhau thì họ vẫn phải
đăng ký kết hôn theo luật định. Tuy nhiên, trên thực tế có không ít trường hợp vợ chồng
đã ly hôn sau đó trở về chung sống với nhau nhưng không đăng ký kết hôn, giữa họ lại
có con chung, tài sản chung và sau đó họ lại yêu cầu Toà án giải quyết ly hôn. Theo
Điều 57 BLDS năm 2005, khoản 1 Điều 11 Luật HN&GĐ năm 2000: “vợ chồng đã ly
hôn muốn kết hôn lại với nhau cũng phải đăng ký kết hôn”. Trong trường hợp này, nếu
có yêu cầu ly hôn thì Tòa án sẽ không giải quyết việc ly hôn nữa. Theo hướng dẫn tại
Nghị quyết 35/2000/QH ngày 9/6/2000 và Nghị quyết 02/2000/NQ - HĐTP thì: “nếu
có tranh chấp liên quan đến việc sống chung này, Tòa án tuyên bố không công nhận họ
là vợ chồng, nếu có tranh chấp liên quan đến tài sản và con thì giải quyết như trường
hợp hủy kết hôn trái pháp luật theo quy định tại Khoản 2, 3 Điều 17 Luật HN&GĐ”.
Việc không thừa nhận quan hệ hôn nhân trong trường hợp này là hợp lý, góp phần nâng
cao ý thức pháp luật nói chung và pháp luật về HN&GĐ nói riêng của người dân. Đồng
thời, bảo vệ quyền và lợi ích của các bên, bảo vệ lợi ích của gia đình và xã hội.
2.2. Chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
+ Nhận xét chung:
Việc giải quyết chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn sẽ căn cứ vào Điều 95:
“Việc chia tài sản do hai bên thoả thuận và phải được Toà án nhân dân công nhận.
Nếu hai bên không thoả thuận được với nhau thì Toà án nhân dân quyết định” [2]. Quy
định như vậy không có gì là mâu thuẫn với quyền tự định đoạt của công dân, bởi vì để

23
đảm bảo quyền lợi cho các bên đương sự nhất là phụ nữ và trẻ em khi ly hôn th́ ngay cả
trường hợp tự thoả thuận cũng phải được Toà án công nhận, nếu việc thoả thuận đó là
hợp pháp th́ không sao nhưng nếu không hợp pháp, quyền lợi của một trong hai bên bị
vi phạm thì Toà án cũng cần phải quyết định lại.
Về nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn phải theo quy định: “Tài sản riêng của bên
nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó. Tài sản chung về nguyên tắc được chia đôi,
nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của
mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này...”.
Tài sản chung và riêng chỉ chia trên cơ sở những thứ hiện có. Để chia tài sản
chung của vợ chồng cần phải xác định chính xác khối tài sản chung hiện có (gồm có cả
quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người khác...) khi chia phải căn cứ vào
tình hình tài sản tức là tài sản thực tế của vợ chồng hiện có kể cả những khoản cho vay,
mượn, tiền gửi tiết kiệm. Những thứ đã chi dùng cho gia đình mà chuyển sang một
dạng khác và sự chi dùng đó là bức thiết của gia đình thì phải coi tài sản đó là đang còn
để tính chia còn những thứ đã chi dùng cho gia đình mà không còn nữa thì không phải
thanh toán. Đồng thời khi chia cần phải xác định trong khối tài sản đó có những thứ gì
có thể chia bằng hiện vật, còn những cái gì không thể tách ra để chia được như: xe máy,
xe đạp, ti vi, tủ lạnh... thì để nguyên và người nào hưởng nếu có chênh lệch thì phải
thanh toán tiền chênh lệch cho người kia. Đối với tài sản bằng hiện vật thì phải kiểm kê,
định giá theo giá trị của thị trường một cách chính xác, công khai và đúng đắn. Đồng
thời còn phải xem xét đến tình trạng cụ thể của gia đình và công sức đóng góp của mỗi
bên. Có nghĩa là hiện tại vợ chồng, con cái sinh sống ở một nơi hay mỗi bên sinh hoạt ở
một chỗ khác nhau hoặc vẫn còn ở chung với gia đình, nắm sát tình trạng gia đình khi
vợ chồng ly hôn thì mới đảm bảo khi chia tài sản không bị sót, lọt. Thông thường thì tài
sản chung chia đôi, nhưng để đảm bảo sự công bằng, bình đẳng và hợp lý thì cần xét
đến công sức của mỗi bên bỏ ra để xây dựng khối tài sản chung đó. Công sức của mỗi
bên phải kể đến trách nhiệm thu vén, bảo vệ khối tài sản chung đó, bởi trong thực tế
không ít những gia đình tài sản chung chỉ có một bên bỏ sức lao động của mình để tạo
ra... Theo luật quy định, lao động trong gia đình được tính ngang với lao động sản xuất.
Tại Điều 95 quy định: “Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên
hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao
động và không có tài sản để tự nuôi mình” [2]. Vì trong xã hội cũ, người phụ nữ và con

24
cái bị coi rẻ, họ không có quyền hành gì trong gia đình và nhất là đối với tài sản, họ
hoàn toàn bị phụ thuộc vào người cha, người chồng. Cho nên luật quy định như vậy là
nhằm mục đích xoá bỏ sự bất công trong xã hội cũ và trong cuộc sống bao giờ người
phụ nữ cũng gặp khó khăn hơn nam giới, đặc biệt khi ly hôn. Do đó, cần phải đảm bảo
cho người phụ nữ và con chưa thành niên có một cuộc sống bình thường để họ yên tâm
công tác, học tập ngay cả khi quan hệ gia đình bị tan vỡ. Đồng thời cũng chỉ dưới chế
độ xã hội chủ nghĩa lợi ích của cá nhân mới được đảm bảo, lợi ích của cá nhân không
tách rời lợi ích của tập thể và của xã hội, các lợi ích đó phải kết hợp với nhau một cách
hài hoà. Cho nên, khi giải quyết ly hôn không chỉ đảm bảo quyền lợi của mỗi bên
đương sự và con cái; mà còn phải quan tâm bảo vệ lợi ích chính đáng của sản xuất và
nghề nghiệp.
Đối với trường hợp vợ chồng vẫn còn chung sống với gia đình bên vợ (chồng)
thì luật cũng quy định tại Điều 96. Nếu tài sản của họ không thể xác định được thì vợ
chồng được chia một phần trong khối tài sản đó, căn cứ vào công sức đóng góp, vào
việc duy trì và phát triển khối tài sản chung đó. Lao động trong gia đình được coi là lao
động sản xuất. Quy định đó hoàn toàn phù hợp với thực tế và bảo đảm cho bên làm
công việc nội trợ (thường là người vợ) không bị thiệt thòi.
Nhìn chung, việc giải quyết các hậu quả pháp lý của ly hôn về vấn đề chia tài sản
của vợ chồng khi ly hôn là điều cần thiết bảo đảm điều kiện sống cho mỗi bên sau ly
hôn. Tuy nhiên, vấn đề này cũng là vấn đề phức tạp nhất, chứng kiến sự tan rã của các
vấn đề tinh thần, đạo đức, vật chất của một gia đình với chức năng là một tế bào cấu
thành nên xã hội.
2.2.1. Các nguyên tắc và căn cứ chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.

Trên cơ sở xác định sở hữu chung, riêng của vợ chồng, việc chia tài sản chung
khi ly hôn phải đảm bảo theo pháp luật quy định: Luật, các văn bản dưới luật.
Cần quán triệt các nguyên tắc [2,Điều 95] và các căn cứ khi chia tài sản của vợ
chồng:

+ Nguyên tắc:

- Bình đẳng, tự nguyện, tự định đoạt.

- Bảo vệ quyền lợi chính đáng của người vợ và các con chua thành niên.

25
Như vậy, về nguyên tắc khi ly hôn, tài sản riêng của bên nào vẫn thuộc quyền sở
- Bảo vệ lợi ích chính đáng của sản xuất và nghề nghiệp.

+ Căn cứ:

- Tình hình tài sản; tình trạng cụ thể của gia đình; công sức đóng góp của mỗi bên.

Theo quy định của Điều 95, việc chia tài sản khi ly hôn theo nguyên tắc do các
bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Quy định này
thể hiện quyền tự định đoạt và tôn trọng nguyên tắc tự nguyện của vợ chồng. So với
Điều 42 Luật HN&GĐ năm 1986 “ việc chia tài sản do hai bên thỏa thuận và phải được
Tòa án nhân dân công nhận”, thì Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2000 đã đề cao hơn nữa ý
chí của các bên khi không cần sự công nhận của Tòa án. Điều này nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho việc thi hành án, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của cả vợ chồng.
Tuy nhiên, việc thỏa thuận của vợ chồng không được trái với nguyên tắc mà pháp luật
đã đề ra, với mục đích nhằm tẩu tán tài sản, lẩn tránh nghĩa vụ tài sản với Nhà nước
hoặc bên thứ ba.
hữu của bên đó, tài sản chung sẽ được chia đôi nhưng có xem xét đến công sức đóng
góp và hoàn cảnh của mỗi bên cũng như việc đảm bảo quyền lợi của vợ và các con. Mặt
khác, khi chia tài sản cũng phải chú ý tới việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của mỗi bên
trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để họ có điều kiện để tiếp tục lao động tạo
thu nhập, tránh tình trạng làm mất hoặc giảm giá trị, công dụng của tài sản như phá
hỏng tài sản, nhà cửa, tư liệu sản xuất làm ảnh hưởng tới sản xuất kinh doanh của các
bên.
Nếu vợ chồng không thỏa thuận được do mâu thuẫn trầm trọng và thiếu sự hợp
tác, lúc đó Luật quy định: “ nếu vợ chồng không thỏa thuận được với nhau thì yêu cầu
Tòa án giải quyết”. Tòa sẽ áp dụng Điều 95 của Luật HN&GĐ năm 2000 để chia, kết
hợp với từng trường hợp cụ thể được quy định tại các Điều 96, 97, 98 và 99 của Luật
HN&GĐ năm 2000 để bảo vệ quyền lợi chính đáng về tài sản của các bên. Khi ly hôn
tài sản của vợ chồng có thể được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị, nếu có sự chênh
lệch thì người nào được chia tài sản có giá trị lớn hơn phần mà mình được hưởng phải
thanh toán cho bên kia khoản tiền tương ứng với phần chênh lệch. Giá trị tài sản được
xác định theo giá thị trường tại thời điểm chia. Trên thực tế, Tòa án thường gặp rất
nhiều vướng mắc khi giải quyết hậu quả pháp lý về tài sản giữa vợ chồng. Để đảm bảo

26
tài sản được chia công bằng, hợp lý, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên,
nâng cao hiệu quả việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến tài sản vợ chồng. Tòa án
phải xác định rõ các chứng cứ mà đương sự cung cấp, vận dụng đúng đắn, linh hoạt các
nguyên tắc cơ bản của Luật HN&GĐ, nguyên tắc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
Qua đó, xác định rõ nguồn gốc, giá trị, số lượng tài sản, tình hình tài sản khi ly hôn,
tình trạng cụ thể của gia đình, công sức đóng góp của mỗi bên trong quá trình vợ chồng
chung sống như thế nào?… Có như thế mới có thể giải quyết vấn đề tài sản một cách
thấu tình đạt lý, bảo vệ được quyền lợi của các bên, lợi ích của gia đình và xã hội.
2.2.2. Đối với tài sản chung của vợ chồng.
+ Xác định khối tài sản chung của vợ chồng
Chế độ tài sản của vợ chồng là một trong những vấn đề quan trọng của Luật
HN&GĐ. Nó góp phần xây dựng gia đình hạnh phúc, dân chủ, hoà thuận và bình đẳng,
góp phần bảo vệ những quyền lợi chính đáng của công dân. Tài sản của vợ chồng
không chỉ là vấn đề sở hữu của cải vật chất liên quan đến lợi ích riêng của vợ chồng.
Gắn với tài sản của vợ chồng là những quan hệ xã hội cần giải quyết trong đời sống gia
đình có liên quan đến lợi ích của các thành viên khác. Chính vì vậy tài sản của vợ
chồng được Nhà nước quy định trong pháp luật thành chế độ pháp lý tài sản của vợ
chồng, đó là một quy định cần thiết nhằm điều chỉnh những quan hệ tài sản trong đời
sống gia đình.
Luật HN&GĐ năm 1959, Luật HN&GĐ năm 1986 và Luật HN&GĐ năm 2000
đều quy định chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ tài sản chung. Song phạm vi tài sản
chung của vợ chồng quy định trong Luật HN&GĐ cụ thể và hoàn thiện như sau:
+ Tài sản do vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân.

+ Thu nhập về nghề nghiệp và những thu nhập hợp pháp khác hoặc không chứng
minh được là tài sản riêng. .
+ Tài sản của vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung hoặc cả hai
thỏa thuận đó là tài sản chung.
Tài sản chung của vợ chồng bao gồm các khoản sau:

+ Tiền lương, tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền hưu trí, các thu nhập về sản xuất ở gia
đình và các thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng, không phân biệt thu nhập của mỗi
bên.

27
+ Các tài sản mà vợ chồng mua sắm được bằng những thu nhập nói trên.

+ Tài sản mà vợ chồng được tặng cho hoặc thừa kế chung.

+ Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của
vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa
kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.
Để xác định chế độ tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân phải căn
cứ vào nguồn gốc phát sinh và thời điểm hình thành tài sản. Theo quy định tại khoản 1
Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 thì tài sản chung vợ chồng bao gồm: “ Tài sản do vợ,
chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập
hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kì hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế
chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài
sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của
vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa
kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận” [2].
Ngoài ra, tài sản chung vợ chồng còn bao gồm các tài sản mà vợ chồng mua sắm
được bằng thu nhập nói trên, tiền tiết kiệm là tài sản chung vợ chồng gửi ở ngân hàng,
những khoản nợ mà vợ chồng đã vay trước đó sử dụng vào đời sống chung cần phải trả,
những khoản nợ mà vợ chồng cho người khác vay có quyền đòi,…Các tài sản chung
của vợ chồng phải là tài sản đó phải hiện còn trong gia đình tại thời điểm Toà án giải
quyết cho vợ chồng ly hôn.
Riêng đối với các tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy
định phải đăng kí quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận phải ghi tên sở hữu của cả
hai bên vợ chồng .Tài sản đó có thể là Quyền sử dụng đất (QSDĐ), ôtô, xe máy, tàu
biển, … Như vậy, đây là quy định mới, tiến bộ hơn so với Luật HN&GĐ năm 1986.
Quy định này, giúp Toà án tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn khi giải quyết các
tranh chấp về tài sản góp phần bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên vợ chồng
khi ly hôn. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi để vợ, chồng chứng minh đâu là tài sản
chung, đâu là tài sản riêng của mình.
Trong các loại tài sản trên thì Quyền sử dụng đất, nhà ở là loại tài sản mang nét
đặc thù riêng. Nó thường là tài sản có giá trị lớn hoặc đem lại thu nhập chính cho vợ

28
chồng nên khi ly hôn thường xảy ra tranh chấp. Vì vậy Toà án cần phải xác định rõ nó
là tài sản riêng hay tài sản chung vợ chồng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên.
+ Chia tài sản chung vợ chồng:

Theo quy định tại Điều 219 Bộ luật Dân sự năm 2005 và khoản 1 Điều 27 Luật
HN&GĐ thì “tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất” Do vậy, tài
sản chung của vợ chồng không nhất thiết phải do hai bên cùng tạo ra một cách trực tiếp,
không phụ thuộc vào công sức đóng góp giữa vợ chồng nhiều hay ít… Mà do tính chất
đặc biệt của quan hệ hôn nhân nên pháp luật luôn ghi nhận công sức đóng góp để xác
định tài sản chung của vợ chồng là “ như nhau”, vợ chồng có toàn quyền chiếm hữu, sử
dụng và định đoạt tài sản một cách bình đẳng. Vì vậy, khi ly hôn về nguyên tắc pháp
luật tôn trọng sự thoả thuận của các bên, nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án
giải quyết. Quy định này, là điểm mới so với trước kia thể hiện sự tôn trọng và đề cao
quyền tự định đoạt của vợ chồng đối với tài sản chung. Nhưng họ không được lạm dụng
quyền này nhằm “trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ về tài sản” gây hậu quả xấu, xâm
phạm lợi ích hợp pháp khác được pháp luật bảo vệ. Như vậy, về nguyên tắc: phần của
vợ chồng trong khối tài sản chung là bằng nhau, không phân biệt công sức đóng góp
nhiều hay ít của mỗi bên
Khi đã xác định rõ ràng về tài sản chung, Tòa án áp dụng Khoản 2 Điều 95 Luật
HN&GĐ năm 2000 để chia. Tại điểm a khoản 2 Điều 95 quy định: “ Tài sản chung của
vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình
trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài
sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập”
[2]. Tòa án cũng xem xét nguyên tắc chế độ tài sản chung của vợ chồng theo Điều 27
Luật HN&GĐ và Điều 233 Bộ luật Dân sự năm 2005 để chia. Để đảm bảo tính công
bằng, không phải trường hợp nào Tòa án cũng chia đôi tài sản vì còn phải xem xét vào
công sức đóng góp của mỗi bên. Có nghĩa là phải xem xét tài sản chung của vợ chồng
bao gồm những tài sản gì, nguồn gốc phát sinh tài sản, tài sản có thể chia đựơc bằng
hiện vật hay không? Vợ chồng kết hôn và chung sống với nhau trong thời gian bao lâu?
Vợ chồng cùng cư trú hay cư trú ở những nơi khác nhau? Ai là người có công sức đóng
góp nhiều hơn, ai là lao động chủ yếu trong gia đình, tài sản có công sức đóng góp của
người thứ ba không? Xác định rõ các khoản nợ mà vợ chồng nợ người khác hoặc người

29
khác nợ vợ chồng, các nghĩa vụ tài sản chung mà vợ chồng cần phải thanh toán trước
khi ly hôn,…
Luật còn xem xét đến việc “ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa
thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả
năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình”. Nguyên tắc này nhằm xóa bỏ triệt
để quan niệm của chế độ HN&GĐ phong kiến trước đây, coi rẻ quyền và lợi ích hợp
pháp của người vợ và con. Việc bảo vệ này cũng phải dựa trên cơ sở pháp luật, không
tùy tiện. Ví dụ: Khi chia tài sản chung là nhà ở, xét thấy cả vợ và chồng đều có nhu cầu
cấp bách về nhà ở, người vợ lại được giao nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chưa
thành niên... thì có thể chia ngôi nhà cho người vợ sở hữu, người chồng sẽ được chia
những tài sản khác theo công sức đóng góp của họ.
Việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn còn phải “ bảo vệ lợi ích chính
đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện
tiếp tục lao động có thu nhập”, vấn đề này được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 95.
Tùy theo tính chất nghề nghiệp chuyên môn của vợ chồng, khi chia tài sản của vợ
chồng phải bảo đảm được giá trị, công dụng của tài sản, phù hợp với nghề nghiệp của
họ nhằm phát huy tính năng của tài sản trong sản xuất kinh doanh. Cần tránh việc chia
tài sản của vợ chồng làm mất đi công dụng và giá trị của tài sản, ví dụ: Giết thịt trâu bò,
phá dỡ nhà cửa...
Tài sản chung của vợ chồng còn được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị. Bên nào
nhận được phần tài sản có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán
cho bên kia trị giá chênh lệch [2, điểm d khoản 2 Điều 95].
Ngoài ra trên thực tế, trong thời kỳ hôn nhân vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng vay nợ
người khác nhằm bảo đảm các nhu cầu thiết yếu cho gia đình (Điều 25, 27 ) thì được
xác định là nợ chung và khi ly hôn, tài sản chung của hai vợ chồng được bảo đảm để
thanh toán khoản nợ chung đó. Trên thực tế sau khi ly hôn, vợ chồng ly tán thường gây
khó khăn cho việc thanh toán các nghĩa vụ chung, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của
người thứ ba. Do vậy khoản 3 Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2000 đã xác định khi ly hôn
vợ chồng thỏa thuận thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản, nếu không thỏa thuận được
thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Đây là một quy định mới của Luật HN&HĐ năm 2000 so
với Luật HN&GĐ năm 1986. Điều này nhằm hạn chế những hậu quả tiêu cực do sự
kiện ly hôn gây ra nhằm bảo đảm quyền lợi của người thứ ba. Trường hợp vợ chồng

30
thỏa thuận với nhau thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ tài
sản hoặc tẩu tán tài sản thì sự thỏa thuận đó vô hiệu.
Như vậy, để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên và các thành viên khác
trong gia đình khi chia tài sản chung vợ chồng khi ly hôn cần quán triệt các nguyên tắc
theo quy định Điều 95 Luật HN&GĐ và trên cơ sở những tài sản hiện có để chia kết
hợp với từng trường hợp cụ thể theo quy định tại Điều 96 đến Điều 99 Luật HN&GĐ
năm 2000.
Trên thực tế, việc chia tài sản chung vợ chồng khi ly hôn hiện nay cho thấy: đối
với những tài sản là bất động sản như nhà ở, Quyền sử dụng đất hoặc các tài sản khi vợ
chồng chung sống cùng gia đình thường gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Bởi nó đụng
chạm tới quyền lợi của các bên về tiền bạc, tài sản. Khi mà tình cảm yêu thương, gắn bó
giữa vợ chồng không còn, giữa họ thường nảy sinh những tranh chấp về tài sản rất gay
gắt, dẫn đến nhiều khiếu kiện kéo dài. Vì vậy, trên cơ sở các quy định của Luật
HN&GĐ, Nghị định số 70/2001/ NĐ-CP đã quy định khá chi tiết, cụ thể về chia tài sản
là nhà ở hoặc Quyền sử dụng đất,… Đối với từng trường hợp cụ thể, Tòa án áp dụng
các quy định của pháp luật để có thể giải quyết một cách đúng đắn, hợp tình, hợp lý.
2.2.3. Đối với tài sản riêng của vợ, chồng.
2.2.3.1. Xác định tài sản riêng của vợ, chồng.
Việc quy định trong gia đình, vợ chồng đều có quyền có tài sản riêng là hoàn
toàn hợp lý, phù hợp với tâm lý và nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với nguyên tắc
về quyền sở hữu, về quyền tự định đoạt của nhân dân. Việc xác định tài sản chung, tài
sản riêng của vợ chồng có ý nghĩa thực tế khi xảy ra tranh chấp về tài sản hoặc khi cần
chia tài sản chung không chỉ cần thiết khi có sự kiện ly hôn mà còn quan trọng ngay cả
đối với trường hợp hôn nhân còn tồn tại mà một bên yêu cầu có lý do chính đáng hoặc
khi một bên chết trước nếu cần chia thì cũng được chia theo quy định của pháp luật.
Vợ, chồng với tư cách là công dân, họ có toàn quyền sở hữu riêng đối với những tài sản
mà họ có được từ trước khi kết hôn, hoặc được thừa kế riêng, tặng cho riêng trong thời
kỳ hôn nhân. Ngoài tài sản chung của vợ chồng thì luật còn quy định tại Điều 32 Luật
HN&GĐ năm 2000, vợ hoặc chồng có quyền có tài sản riêng; tài sản riêng bao gồm:
+ Tài sản mà vợ, chồng có trước khi kết hôn.
+ Tài sản được tặng cho riêng hoặc được thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân. Tài
sản được chia riêng cho vợ, chồng từ tài sản chung.

31
+ Tài sản được phía bên kia thừa nhận hoặc các giấy tờ sở hữu xác định là tài sản
riêng của vợ, chồng.
Do những tài sản này, không phải do vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân,
không chịu sự tác động của chế độ cộng đồng về tài sản của quan hệ hôn nhân; nên khi
ly hôn những tài sản đó vẫn thuộc sở hữu riêng của mỗi bên. Việc quy định quyền sở
hữu riêng của vợ, chồng về tài sản là sự cụ thể hóa quy định quyền sở hữu riêng về tài
sản của công dân theo Hiến pháp năm 1992 [1, Điều 58]. Quy định này, hoàn toàn phù
hợp với nguyên tắc tự định đoạt về tài sản của công dân, góp phần ngăn chặn hiện
tượng kết hôn vì mục đích kinh tế và đảm bảo cho vợ chồng thực hiện các nghĩa vụ về
tài sản một cách độc lập.
Ngoài ra, pháp luật còn ghi nhận “vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài
sản riêng vào khối tài sản chung” [2, Điều 32]. Như vậy, nếu vợ chồng tự nguyện nhập
tài sản riêng vào khối tài sản chung thì pháp luật sẽ thừa nhận sự tự nguyện đó. Khi
nhập tài sản riêng vào tài sản chung thì tài sản riêng đó sẽ thuộc sở hữu chung hợp nhất
của vợ chồng, theo đó họ có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng và định
đoạt tài sản đó. Nhưng khi có tranh chấp về việc có hay không có việc nhập tài sản
riêng vào tài sản chung của vợ chồng xảy ra thì về nguyên tắc bên có yêu cầu có nghĩa
vụ chứng minh. Nghĩa là, nếu người có tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung vợ
chồng khi có tranh chấp xảy ra lại cho rằng mình chưa nhập tài sản riêng vào tài sản
chung thì họ phải chứng minh tài sản đó thuộc sở hữu riêng của mình như đưa ra giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, di chúc,… Trong trường hợp, họ không có đủ chứng cứ
chứng minh đó là tài sản riêng thì tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng. Vì vậy, khi
nhập tài sản riêng là quyền sử dụng đất, nhà ở và những tài sản khác có giá trị lớn vào
tài sản chung vợ chồng thì phải lập thành văn bản, có chữ kí của cả hai bên vợ chồng,
có công chứng, chứng thực. Đó sẽ là chứng cứ để các bên chứng minh cho yêu cầu của
mình khi có tranh chấp xảy ra.
2.2.3.2. Chia tài sản riêng của vợ, chồng khi ly hôn.
Về nguyên tắc, khi vợ chồng ly hôn “Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên
thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Tài sản riêng của
bên nào vẫn thuộc quyền sở hữu của bên đó” [2,Điều 95]. Như vậy, khi ly hôn, tài sản
riêng của bên nào vẫn thuộc quyền sở hữu của bên đó và có quyền lấy về. Nhưng tài
sản đó phải hiện còn, nếu đã chi dùng cho gia đình thì người có tài sản không được đòi

32
lại nữa. Tuy nhiên, người có tài sản riêng phải chứng minh tài sản đó thuộc quyền sở
hữu riêng của mình dựa trên cơ sở các quy định về tài sản riêng (Điều 32 Luật HN&GĐ
năm 2000) hoặc thông qua sự thừa nhận của bên kia, hoặc bằng các giấy tờ xác nhận
quyền sở hữu của vợ chồng như: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà, di chúc, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền… Nếu người có tài sản
riêng không chứng minh được đó là tài sản riêng của mình thì xác định đó là tài sản
chung của vợ chồng để chia .Trường hợp, vợ chồng đã tự nguyện nhập tài sản riêng vào
tài sản chung của vợ chồng hoặc tài sản riêng đã chi dùng cho gia đình mà không còn
nữa thì người có tài sản riêng không có quyền đòi lại hoặc đền bù. Khi ly hôn, những tài
sản đó được xác định là tài sản thuộc khối tài sản chung của vợ chồng để chia. Riêng
đối với tài sản thuộc sở hữu riêng của một bên đã được tu sửa bằng tài sản chung làm
tăng giá trị tài sản lên nhiều lần thì khi ly hôn, Tòa án cần xác định phần giá trị tăng lên
để nhập vào tài sản chung để chia. Trường hợp con đã thành niên có công sức đóng góp
đáng kể vào việc tạo lập và phát triển tài sản của cha mẹ thì khi cha mẹ ly hôn, nếu có
yêu cầu Tòa án sẽ trích một phần tài sản của gia đình chia theo công sức đóng góp của
người con. Con chưa thành niên hoặc con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự
mà có tài sản thì Tòa án không chia mà sẽ giao cho người nào trực tiếp nuôi con sẽ
quản lý tài sản của con.
Đối với nghĩa vụ dân sự riêng mà người vợ hoặc người chồng đã vay mượn tiền
hoặc tài sản của người khác để chi dùng cho nhu cầu, mục đích riêng của mình thì họ
phải có nghĩa vụ thanh toán bằng tài sản riêng của mình [2, khoản 3 Điều 33]. Nếu tài
sản riêng không có hoặc không đủ để thanh toán thì phải thanh toán bằng phần tài sản
của người đó trong khối tài sản chung của vợ chồng hoặc vợ chồng có thể thỏa thuận
với nhau để thanh toán bằng tài sản chung của vợ chồng.
Thực tế hiện nay, khi ly hôn, vợ chồng thường có tranh chấp gay gắt về tài sản.
Việc xác định tài sản đang có tranh chấp là tài sản chung hay tài sản riêng để chia gặp
rất nhiều khó khăn và phức tạp vì tài sản đã được sử dụng trong thời kỳ hôn nhân nhiều
khi đã qua vài chục năm hoặc đã qua nhiều lần luân chuyển, biến đổi hoặc có sự trộn
lẫn, ẩn chứa các loại tài sản chung và tài sản riêng, hoặc tài sản mua được từ thu nhập
do lao động của mình nhưng họ lại nói rằng tài sản đó họ mua được là do bố, mẹ, anh,
chị, em tặng cho riêng một khoản tiền, nhất là đối với những tài sản có giá trị như:
quyền sử dụng đất, nhà ở, ô tô, xe máy, … Vì thế, Tòa án gặp rất nhiều khó khăn khi

33
Đối với trường hợp con đã thành niên có công sức đóng góp vào khối tài sản
giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc xác định đâu là tài sản riêng, tài sản chung
của vợ chồng. Để xác định một cách chính xác tài sản đó là tài sản chung hay tài sản
riêng của một bên, Tòa án phải tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ, căn cứ vào tình
hình thực tế hoặc thu nhập thực tế của mỗi bên. Có như vậy mới giải quyết thấu tình,
đạt lý các tranh chấp phát sinh, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng về tài sản của vợ
chồng và các thành viên khác trong gia đình.
Theo quy định về chế độ tài sản của vợ chồng : Điều 27, 28, 29, 30, 31, 32, 33
Luật HN&GĐ năm 2000, thì khi chia tài sản là tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng mà
có tranh chấp, cần lưu ý đã có sự trộn lẫn, ẩn chứa các loại tài sản chung và tài sản riêng
trong quá trình sử dụng ở thời kỳ hôn nhân. Đối với trường hợp đồ trang sức như quà
cưới, nếu vợ chồng được cho riêng thì đó là tài sản riêng; nếu cho với mục đích để tạo
dựng cuộc sống chung thì đó là tài sản chung.
Đối với trường hợp vay mượn tiền bạc của người thứ ba với mục đích chi dùng
riêng, thì vợ hoặc chồng phải có nghĩa vụ thanh toán bằng tài sản riêng [2, khoản 3
Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2000]. Nếu tài sản riêng không có hay không đủ thanh toán
thì phải thanh toán bằng phần tài sản của người đó trong khối tài sản chung của vợ
chồng. Hoặc vợ chồng có thể thỏa thuận với nhau thanh toán bằng tài sản chung của vợ


chung và làm khối tài sản đó phát triển, nếu người con có yêu cầu thì được trích một
phần theo công sức đã đóng góp. Nếu con chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng
mất năng lực hành vi dân sự mà có tài sản riêng (được thừa kế, tặng cho riêng...) thì
Tòa án không chia; Tòa án sẽ quyết định giao cho người nào nuôi giữ, chăm sóc, giáo
dục con, quản lý tài sản của con.
2.3. Một số trường hợp cụ thể.
2.3.1. Nhà ở; Quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ, chồng.
+ Nhà ở và Quyền sử dụng đất là loại tài sản đặc biệt cả về giá trị vật chất cũng
như đảm bảo về chỗ ở, quyền sản xuất, kinh doanh của vợ chồng và các thành viên
khác trong gia đình. Vì vậy, những năm gần đây trong các án kiện về HN&GĐ thì các
tranh chấp liên quan đến nhà ở và Quyền sử dụng đất là loại tranh chấp phức tạp nhất.
Để giải quyết có hiệu quả loại tranh chấp này, Luật HN&GĐ có quy định cụ thể về các
chồng.

34
nguyên tắc chia nhà ở và quyền sử dụng đất khi ly hôn tại các Điều 97, Điều 98, Điều
99 và được hướng dẫn chi tiết tại Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001.
Khi chia nhà ở và Quyền sử dụng đất phải đảm bảo để các bên đều có quyền có
nhà ở, được lao động, sản xuất, kinh doanh. Trong bất kỳ trường hợp nào cũng không
được để một bên vợ hoặc chồng nhất là vợ và các con ra khỏi nhà hoặc không còn đất
để lao động sản xuất khi họ chưa có chỗ ở và đất để sản xuất. Đồng thời phải xác định
rõ nhà ở và Quyền sử dụng đất đang có tranh chấp có thuộc quyền sở hữu hoặc sử dụng
hợp pháp của vợ chồng hay không?
Đối với nhà ở của vợ, chồng khi ly hôn là nhà thuê của Nhà nước do vợ hoặc
chồng thuê trước hoặc sau khi kết hôn thì quyền lợi của vợ chồng được giải quyết theo
quy định tại Điều 28 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP như sau:
“ 1. Trong trường hợp hợp đồng thuê nhà vẫn còn thời hạn, thì các bên thỏa
thuận về việc tiếp tục thuê nhà đó; nếu các bên không thỏa thuận được và cả hai bên
đều có nhu cầu sử dụng, thì được Tòa án giải quyết theo quy định tại Điều 95 Luật
HN&GĐ……
2. Trong trường hợp vợ chồng đã được Nhà nước chuyển quyền sở hữu đố với
nhà ở đó, thì việc chia nhà khi ly hôn được thực hiện theo quy định tại Điều 95 Luật
HN&GĐ.” [6, Điều 28].
Đối với nhà ở là nhà thuê của tư nhân, khi ly hôn mà có tranh chấp thì giải quyết
theo quy định tại Điều 29 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP. Cụ thể là:
“ 1. Trường hợp thời hạn thuê đang còn thì các bên thỏa thuận với nhau về phần
diện tích mà mỗi bên được thuê và làm lại hợp đồng với chủ sở hữu nhà.
2. Trong trường hợp thời hạn hợp đồng đang còn mà chủ sở hữu nhà chỉ đồng ý
cho một bên được tiếp tục thuê nhà, thì các bên thỏa thuận về việc một bên được tiếp
tục thuê.
3. Trong trường hợp nhà ở thuê đã nâng cấp, sửa chữa cải tạo, xây dựng thêm
diện tích gắn liền với nhà thuê và được sự đồng ý của chủ sở hữu nhà, thì bên tiếp tục ở
phải thanh toán cho bên kia phần giá trị nhà đã nâng cấp, sửa chữa, cải tạo, xây dựng
thêm mà bên đó được hưởng vào thời điểm chia tài sản khi ly hôn.

35
4. Trong trường hợp xây dựng thêm diện tích nhà độc lập với diện tích thuê và
được sự đồng ý của chủ nhà, các bên đã thanh toán quyền sử dụng đất cho chủ nhà, thì
việc chia nhà ở đó thực hiện theo quy định tại Điều 95 Luật HN&GĐ”, [6, Điều 29].
Nếu nhà ở thuộc sở hữu riêng của một bên thì khi ly hôn sẽ được giải quyết theo
quy định tại Điều 99 Luật HN&GĐ và Điều 30 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP:
“ 1. Trường hợp nhà ở thuộc sở hữu riêng của một bên vợ hoặc chồng đã đưa
vào sử dụng chung, thì khi ly hôn, nhà ở đó vẫn thuộc sở hữu riêng của chủ sở hữu nhà,
trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Bên vợ hoặc chồng sở hữu nhà có nghĩa vụ
hỗ trợ cho bên kia tìm chỗ ở mới, nếu bên kia có khó khăn và không thể tự tìm được chỗ
ở mới. Bên chưa có chỗ ở được lưu cư trong thời hạn 06 tháng để tìm chỗ ở khác.
2. Trong trường hợp nhà ở đó được xây dựng mới, nâng cấp, sửa chữa, cải tạo
thì chủ sở hữu nhà phải thanh toán cho bên kia phần giá trị nhà đã xây mới, nâng cấp,
sửa chữa, cải tạo mà bên đó được hưởng vào thời điểm chia tài sản khi ly hôn”, [6,
Điều 30].
Như vậy, nếu nhà ở thuộc sở hữu của một bên thì sau khi ly hôn vẫn thuộc quyền
sở hữu của bên đó. Bên có nhà phải thanh toán cho bên kia phần giá trị nhà ở, căn cứ
vào công sức bảo dưỡng, nâng cấp, cải tạo, tu sửa tài sản tại thời điểm ly hôn. Nhưng
việc xác định công sức đóng góp của bên không phải là chủ sở hữu gặp rất nhiều khó
khăn. Vì vậy, cần có hướng dẫn cụ thể hơn để Tòa án có thể giải quyết các trường hợp
cụ thể một cách khách quan hơn. Trường hợp, giao nhà cho bên có quyền sở hữu riêng
mà gây khó khăn cho bên kia về chỗ ở thì Tòa án có thể yêu cầu bên có nhà ở có nghĩa
vụ hỗ trợ bên kia tìm chỗ ở mới. Nếu không tìm được chỗ ở mới thì họ được lưu cư
trong thời hạn 06 tháng để tìm chỗ ở khác. Quy định này hoàn toàn phù hợp với thực tế,
góp phần bảo vệ quyền lợi của bên không phải là là chủ sở hữu nhà.
Nhà ở thuộc sở hữu chung của vợ chồng là tài sản chung của vợ chồng, vì thế,
khi vợ chồng ly hôn thì áp dụng các nguyên tắc của việc chia tài sản chung của vợ
chồng để chia. Tuy nhiên, nếu diện tích nhà quá nhỏ hoặc vì đặc điểm nào đó mà nhà
không thể chia cho cả hai bên sử dụng, thì một bên sẽ sử dụng và bên kia không trực
tiếp sử dụng sẽ được thanh toán phần giá trị mà họ được hưởng căn cứ vào giá giao
dịch thực tế tại địa phương vào thời điểm Tòa án xét xử ( Điều 98 Luật HN&GĐ năm
2000 và Nghị quyết số 02/NQ-HĐTP ngày 23-12-2000 ).

36
Hiện nay, các tranh chấp về nhà ở, thường là nhà ở gắn liền với quyền sử dụng
đất hoặc nhà ở là tài sản chung nhưng được xây dựng trên đất thuộc quyền sở hữu của
một bên vợ hoặc chồng hay của gia đình bên vợ (hoặc chồng), hoặc có nhiều nhà, nhiều
đất khác nhau,… Mặc dù các quy định của pháp luật hiện hành về việc giải quyết tài
sản là nhà ở khi vợ chồng ly hôn khá đầy đủ và hoàn thiện nên nhìn chung các phán
quyết của Tòa án là ‘thấu tình, đạt lý”. Nhưng khi giải quyết vấn đề này còn có nhiều
vướng mắc như khi vợ chồng cưới nhau được bố mẹ một bên cho đất và xây dựng nhà
ở hoặc cho nhà ở mà không lập thành văn bản. Khi ly hôn họ thường nói là chỉ cho vợ
chồng ở trong thời gian chưa tự lập nên đã không đảm bảo quyền lợi chính đáng của
các bên đương sự. Vì vậy, khi giải quyết Tòa án cần chú ý điều tra, nghiên cứu để xác
định xem nhà đó có phải là tài sản chung của vợ chồng hay không, nguồn gốc xây
dựng, tu sửa, công sức đóng góp, hoàn cảnh cụ thể của mỗi bên.
+ Quyền sử dụng đất chung của vợ chồng được chia như sau:

- Đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản; nếu cả hai vợ
chồng đều có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng thì được chia theo sự thỏa thuận
của vợ chồng, nếu vợ chồng không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết, Tòa
án căn cứ vào các nguyên tắc chia tài sản tại Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2000 để chia.
Nếu chỉ có một bên có nhu cầu và điều kiện trực tiếp để sử dụng đất thì bên đó được
tiếp tục dử dụng và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chuyển nhượng đất mà họ
được hưởng ( Điều 97 khoản 2 mục a Luật HN&GĐ năm 2000 ).

- Đối với trường hợp vợ chồng có quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng cây hàng
năm, nuôi trồng thủy sản chung với hộ gia đình thì khi ly hôn phần quyền sử dụng đất
của vợ chồng sẽ được tách ra để chia và cũng căn cứ vào nhu cầu và điều kiện trực tiếp
sử dụng đất của các bên. Bên không có nhu cầu và điều kiện trực tiếp sử dụng đất sẽ
được thanh toán phần giá trị quyền sử dụng đất mà họ được hưởng. Thực tế việc chia
tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn rất phức tạp. Đặc
biệt đối với trường hợp một bên không có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì việc giải
quyết quyền lợi cho các bên rất khó khăn. Trên thực tế bên có điều kiện trực tiếp sử
dụng đất muốn được tiếp tục sử dụng đất nhưng lại không muốn thanh toán phần giá trị
quyền sử dụng đất cho bên kia hoặc không có điều kiện để thanh toán phần giá trị
quyền sử dụng đất cho bên, ảnh hưởng đến quyền lợi của bên không có nhu cầu sử
dụng đất. Vì vậy, kinh nghiệm của Tòa án la nếu thấy bên có nhu cầu sử dụng mà

37
không có thiện chí với bên kia thì Tòa án vẫn chia cho bên kia, nhằm tạo điều kiện cho
họ có thể chuyển nhượng quyền sử dụng đất đó cho người khác. Tuy vậy biện pháp này
đôi khi không hiệu quả vì sự gây cản trở của bên còn lại.
Quyền sử dụng đất là loại tài sản có giá trị lớn, có ý nghĩa quan trọng trong đời
sống gia đình nên Tòa án phải chia thế nào cho hợp lý và đảm bảo quyền lợi cho cả hai
bên khi ly hôn là vấn đề không đơn giản. Do đó, khi giải quyết vấn đề ly hôn, Tòa án
phải tùy theo điều kiện, hoàn cảnh của mỗi bên và từng loại đất để chia cho công bằng,
hợp lý.
Là loại tài sản có giá trị lớn và có ý nghĩa về nhiều mặt, Quyền sử dụng đất trở
thành đối tượng điều chỉnh của nhiều ngành luật như Luật Đất đai năm 2003, Bộ luật
Dân sự năm 2005. Tuy nhiên, việc giải thích, hướng dẫn của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền về đường lối giải quyết các tranh chấp đất đai chưa kịp thời, đầy đủ. Nên
tình hình giải quyết các tranh chấp này trong những năm gần đây của Tòa án nhân dân
các cấp còn chậm trễ và chưa thống nhất về đường lối giải quyết, nhiều vụ phải xử đi,
xử lại nhiều lần. Để cụ thể hóa việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến Quyền sử
dụng đất của vợ chồng khi ly hôn, Luật HN&GĐ năm 2000 [2, Điều 97] và Nghị định
số 70/2001/NĐ-CP, quy định như sau:
Về nguyên tắc, khi ly hôn Quyền sử dụng đất của bên nào vẫn thuộc về bên đó
[2, khoản 1 Điều 95]. Việc chia Quyền sử dụng đất chung của vợ chồng, tùy theo từng
trường hợp cụ thể, căn cứ vào từng loại đất, điều kiện thực tế của các bên để xác định
và giải quyết:
Đối với Quyền sử dụng đất mà vợ chồng được nhà nước giao trong thời kì hôn
nhân kể cả giao khoán là tài sản chung vợ chồng. Khi ly hôn, việc chia Quyền sử dụng
đất đó căn cứ theo quy định của Luật HN&GĐ và Điều 24 Nghị định số 70/2001/NĐ-
CP:
“ 1. Đối với Quyền sử dụng đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, đất nuôi
trồng thủy sản, đất làm muối:
a. Trong trường hợp cả vợ và chồng đều có nhu cầu sử dụng đất và có điều kiện
trực tiếp sử dụng thì Quyền sử dụng đất được chia theo thỏa thuận của các bên, nếu
không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định tại Điểu 95 Luật
HN& GĐ.

38
b. Trong trường hợp chỉ có một bên có nhu cầu và điều kiện trực tiếp sử dụng
đất thì người đó có quyền tiếp tục sử dụng toàn bộ đất đó sau khi đã thỏa thuận với bên
kia; …. trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
2. Việc chia quyền sử dựng đất đối với đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm,
đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở được Nhà nước giao, đất chuyên dùng là tài sản
chung của vợ chồng khi ly hôn được thực hiện theo quy định tại Điều 95 Luật
HN&GĐ.” [6,Điều 24].
Như vậy, đối với loại đất này nếu cả hai bên đều có nhu cầu sử dụng và có điều
kiện trực tiếp sử dụng thì chia theo thỏa thuận của các bên nếu không thỏa thuận được
thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Trường hợp chỉ có một bên có nhu cầu và có điều kiện
trực tiếp sử dụng thì người đó có quyền trực tiếp sử dụng toàn bộ đất đó sau khi thỏa
thuận với bên kia và phải thanh toán phần giá trị Quyền sử dụng đất mà bên đó được
hưởng, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Nếu bên có nhu cầu
sử dụng mà không có khả năng thanh toán cho bên kia phần giá trị Quyền sử dụng đất
thì bên kia có quyền chuyển nhượng phần Quyền sử dụng đất của mình cho người thứ
3, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Trường hợp chia Quyền sử dụng đất mà vợ chồng được Nhà nước cho thuê. Sau
khi kết hôn, Quyền sử dụng đất mà vợ và chồng hoặc chỉ một bên vợ hoặc chồng được
Nhà nước cho thuê là tài sản chung của vợ chồng; khi ly hôn việc chia Quyền sử dụng
đất đó được giải quyết theo Điều 25 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP như sau:
“ 1. Trong trường hợp vợ chồng đã trả tiền thuê đất hàng năm mà khi ly hôn,
nếu cả hai bên đều có nhu cầu và điều kiện trực tiếp sử dụng đất đó, thì việc chia
Quyền sử dụng đất được thực hiện theo quy định tại Điều 95 Luật HN&GĐ; các bên
phải kí hợp đồng thuê đất với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
2. Trong trường hợp vợ chồng đã trả tiền thuê đất hàng năm, mà khi ly hôn nếu
chỉ có một bên có nhu cầu và điều kiện trực tiếp sử dụng đất, thì bên đó được tiếp tục
sử dụng và phải kí hợp đồng thuê đất với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nếu hợp
đồng thuê đất trước đây do bên kia hoặc cả hai bên đứng tên; nếu các bên đã đầu tư
vào tài sản trên đất thì phải thanh toán cho bên kia một phần giá trị tài sản đã đầu tư
trên đất mà người đó được hưởng vào thời điểm chia tài sản khi ly hôn, căn cứ vào tài
sản, công sức đầu tư của bên kia, trừ trương hợp có thỏa thuận khác.

39
3. Trong trường hợp vợ, chồng đã trả tiền thuê đất cho cả thời gian thuê, thì khi
ly hôn các bên thỏa thuận về việc chia đất đó và thanh toán cho nhau phần tiền thuê đất
đã nộp trong thời gian thuê còn lại.
Trong trường hợp một bên được trực tiếp sử dụng toàn bộ diện tích, thì phải
thanh toán cho bên kia một nửa số tiền thuê đất tương ứng với thời gian thuê đất còn
lại, kể từ thời điểm chia tài sản khi ly hôn, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Nếu các
bên đã đầu tư vào tài sản trên đất thì bên tiếp tục thuê đất phải thanh toán cho bên kia
một phần giá trị tài sản đã đầu tư trên đất vào thời điểm chia tài sản khi ly hôn, căn cứ
vào tài sản và công sức đầu tư của bên kia, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận
khác.” [6, Điều 25]
Riêng đối với trường hợp, Quyền sử dụng đất mà vợ chồng được chuyển đổi,
chuyển nhượng, thừa kế chung, nhận thế chấp hoặc Quyền sử dụng đất của vợ chồng
được giao chung với hộ gia đình thì khi ly hôn giải quyết theo quy định tại Điều 26,
Điều 27 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP.
Như vậy, các quy định của pháp luật về chia tài sản là Quyền sử dụng đất khi vợ
chồng ly hôn khá cụ thể và rõ ràng nhưng việc áp dụng các quy định đó trên thực tế gặp
rất nhiều khó khăn. Đặc biệt là đối với trường hợp, một bên vợ chồng không có nhu cầu
trực tiếp sử dụng thì việc giải quyết như thế nào để bảo vệ quyền lợi cho họ là việc
không đơn giản. Bởi có nhiều trường hợp bên có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử
dụng đất không có khả năng thanh toán hoặc cố tình không thanh toán cho bên kia giá
trị Quyền sử dụng đất mà họ được hưởng làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của họ.
Vì vậy, theo chúng tôi cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể để Tòa án nhân
dân các cấp có thể thống nhất về đường lối giải quyết trong trường hợp này nhằm bảo
vệ quyền lợi chính đáng của các bên.
Ngoài ra, khi vợ chồng ly hôn thì việc chia tài sản trong trường hợp vợ chồng
sống cùng với gia đình bên nhà chồng (hoặc nhà vợ), hoặc việc thanh toán nghĩa vụ
chung về tài sản của vợ chồng khi ly hôn cũng được đặt ra. Bởi thực tế hiện nay, có rất
nhiều trường hợp vợ chồng sống cùng với gia đình hoặc có nhiều trường hợp vợ chồng
đang nợ người khác hoặc người khác đang nợ vợ chồng,… Do vậy, khi giải quyết vấn
đề ly hôn Tòa án cần áp dụng đúng đắn các quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của các bên và lợi ích hợp pháp của người khác.

40
Có thể nói, các quy định của pháp luật HN&GĐ về việc chia tài sản của vợ
chồng khi ly hôn tương đối đầy đủ và cụ thể. Tạo cở sở pháp lý để giải quyết thỏa đáng
các tranh chấp phát sinh khi vợ chồng ly hôn, bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên
và các thành viên trong gia đình, hạn chế thấp nhất những tiêu cực xảy ra góp phần ổn
định các quan hệ xã hội.
2.3.2. Nhà ở, quyền sử dụng đất là tài sản riêng của vợ, chồng.

+ Nhà ở: Nhà ở là tài sản riêng của vợ hoặc chồng có thể được tặng cho riêng,
được thừa kế riêng hoặc mua trước khi kết hôn. Khi kết hôn, vợ chồng cùng sống chung
trong ngôi nhà tức “ sử dụng chung” nhưng không đồng nghĩa là đã “nhập” vào khối tài
sản chung vợ chồng. Do vậy, khi vợ chồng ly hôn, nếu nhà ở thuộc sở hữu riêng của
một bên mà ðã được đưa vào sử dụng chung thì nguyên tắc nhà ðó vẫn thuộc sở hữu
riêng của chủ sở hữu nhà nên không chia.

Tuy nhiên, nếu bên kia có công sức bảo dưỡng, nâng cấp, cải tạo, sửa chữa nhà thì
sẽ được bên chủ sở hữu thanh toán một phần giá trị nhà tương xứng với đóng góp của
họ [2, Điều 99]. Tuy vậy để xác định công sức của bên không phải là chủ sở hữu nhà
trong việc nâng cấp, cải tạo, sửa chữa nhà là hết sức khó khăn và phức tạp, đồng thời
xác định phần giá trị nhà mà họ được hưởng cũng là công việc khó khăn. Cần phải có
những hướng dẫn chi tiết và cụ thể hơn nữa để giúp Tòa án giải quyết tốt những vướng
mắc trên.

Ngoài ra, xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt tài sản của đương sự,
khoản 1 Điều 30 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP quy định “ trừ trường hợp các bên có
thỏa thuận khác”. Thỏa thuận khác ở đây là theo hướng có lợi cho bên không phải là
chủ sở hữu nhà. Tức là, về nguyên tắc nhà vẫn là tài sản riêng của chủ sở hữu, trừ khi
chủ sở hữu nhà đã thỏa thuận nhập nhà ở đó vào tài sản chung thì nhà đó là tài sản
chung.

Trên thực tế, sau khi ly hôn, việc tìm chỗ ở khác đối với bên không phải là chủ sở
hữu nhà gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là với người vợ và con chưa thành niên. Vì
vậy Nghị định số 70/2001/NĐ-CP quy định “ Bên chưa có chỗ ở được lưu cư trong thời
hạn sáu tháng để tìm chỗ ở khác”. Thời điểm để tính thời hạn lưu cư tuy chưa quy định
rõ ràng nhưng có thể được hiểu là tính từ khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật. Với

41
Quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng là quy kết của quan hệ hôn nhân
những quy định trên cũng như việc ghi nhận quyền lưu cư đã tạo ra cơ sở pháp lý trong
việc bảo vệ quyền lợi cho các bên đương sự khi ly hôn.
+ Quyền sử dụng đất: Theo nguyên tắc Quyền sử dụng đất riêng của bên nào thì khi
ly hôn vẫn thuộc về bên ấy. Theo Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2000 thì các bên tự thỏa
thuận, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Do tính chất đặc biệt
của Quyền sử dụng đất là phải có giấy tờ đứng tên chủ quyền sử dụng đất. Dựa trên
nguyên tắc tài sản riêng của bên nào thì vẫn thuộc quyền sở hữu của bên đấy, sau khi ly
hôn thi tài sản đó sẽ được người đứng tên tài sản riêng lấy về. Tuy nhiên, đối với Quyền
sử dụng đất nếu có tranh chấp, thì người có tài sản riêng là Quyền sử dụng đất phải
chứng minh được đó là tài sản riêng của mình; việc chứng minh dựa trên giấy tờ đứng
tên sở hữu Quyền sử dụng đất đó.
Quyền sử dụng đất là tài sản riêng ở đây là Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có
được trước khi kết hôn, đươc thừa kế riêng, tặng cho riêng, hoặc được chia từ khối tài
sản chung và có giấy tờ đăng ký đứng tên chủ sở hữu.
2.4. Giải quyết vấn đề cấp dưỡng vợ chồng khi ly hôn.
2.4.1. Cơ sở của việc quy định về quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng khi
ly hôn.
hợp pháp, phát sinh kể từ khi kết hôn và được thực hiện trong thời kỳ hôn nhân hoặc
ngay cả khi vợ chồng ly hôn khi đáp ứng được các điều kiện theo quy định của pháp
luật.
Khi hôn nhân còn tồn tại, vợ chồng có nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc lẫn nhau.
Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng được đặt ra trong trường hợp vì lý do nào đó nên
họ không cùng chung sống mà một trong hai bên ốm đau, tàn tật, có khó khăn túng
thiếu cần được chăm sóc nhưng bên kia không quan tâm chăm sóc. Nếu người có khó
khăn túng thiếu yêu cầu được cấp dưỡng thì nghĩa vụ giữa vợ và chồng trong thời kỳ
hôn nhân mới được đạt ra. Vì vậy, để đảm bảo cho người có khó khăn, túng thiếu ổn
định cuộc sống, pháp luật quy định bên có khó khăn, túng thiếu có quyền được yêu cầu
bên kia cấp dưỡng và bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình. Cũng vì
lý do đạo đức và nhân văn cao cả của pháp luật Việt nam; tinh thần tương thân tương ái,
lá lành đùm lá rách nên pháp luật đã quy định rõ, vợ chồng phải thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng cho nhau khi ly hôn [2, Điều 60]. Như vậy, cơ sở pháp lý của việc quy định

42
nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn được xác định trên cơ sở quyền và nghĩa
vụ giữa vợ chồng. Tức là, nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn là nghĩa vụ của
những người đã từng là vợ chồng của nhau nhằm đảm bảo cho bên có khó khăn, túng
thiếu có thể ổn định cuộc sống sau khi ly hôn. Quy định này thể hiện đạo lý, truyền
thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam và hoàn toàn phù hợp với thực tế cuộc sống hiện
nay.
2.4.2. Điều kiện cần và đủ để giải quyết cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn.

Theo Điều 60 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và
chồng khi ly hôn được thực hiện khi thỏa mãn hai điều kiện sau:
- Một bên khó khăn, túng thiếu, có yêu cầu được cấp dưỡng và có lý do chính
đáng.


- Bên kia có khả năng cấp dưỡng.

Đây là hai điều kiện cần và đủ để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, nếu thiếu một
trong hai điều kiện trên thì nghĩa vụ cấp dưỡng không thực hiện được. Bên túng thiếu
yêu cầu được cấp dưỡng phải là trường hợp do ốm đau, già yếu, không có khả năng lao
động và cũng không có tài sản để sinh sống. Đối với những trường hợp có khó khăn
túng thiếu nhưng do lười lao động, nghiện ngập, cờ bạc... thì không được cấp dưỡng.
Người có khả năng để cấp dưỡng là người có khả năng về kinh tế, là người có
sức khỏe, có việc làm ổn định và có thu nhập vừa bảo đảm cuộc sống, vừa thực hiện
được nghĩa vụ cấp dưỡng. Nếu người phải cấp dưỡng có khó khăn hoặc nếu phải cấp
dưỡng sẽ có khả năng đe dọa đến đời sống của chinh họ thì lúc đó nghĩa vụ cấp dưỡng
không được đặt ra.
+ Bên có khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng:
Theo quy định của pháp luật thì người có yêu cầu được cấp dưỡng khi ly hôn
phải có khó khăn, túng thiếu và có lý do chính đáng. Nhưng pháp luật lại không quy
định cụ thể việc đánh giá sự “khó khăn, túng thiếu” của người có yêu cầu cấp dưỡng
dựa vào tiêu chí nào và khi nào thì sự “ khó khăn, túng thiếu” của họ được coi là có “lý
do chính đáng” ? Vì thực tế, có nhiều trường hợp người có yêu cầu cấp dưỡng nhưng
cuộc sống không khó khăn đến mức được cấp dưỡng; lại có trường hợp bên yêu cầu cấp
dưỡng thực sự gặp khó khăn trong cuộc sống và cần được cấp dưỡng nhưng khi xem

43
xét khả năng cấp dưỡng của bên kia, Toà án cho rằng họ không có khả năng để thực
hiện nghĩa vụ cấp dưỡng,… do vậy, yêu cầu của họ không được chấp nhận.
Theo chúng tôi, việc xác định bên có yêu cầu cấp dưỡng có khó khăn, túng thiếu
khi ly hôn để xác định họ có được cấp dưỡng hay không, có thể căn cứ vào: khả năng
lao động của người có yêu cầu cấp dưỡng, thu nhập thực tế, khả năng tài sản và nhu cầu
thiết yếu của người có yêu cầu cấp dưỡng, tài sản mà họ đã được chia từ khối tài sản
chung vợ chồng,… Mặt khác, pháp luật đòi hỏi sự khó khăn, túng thiếu này phải có lý
do chính đáng. Vậy lý do chính đáng là gì? Luật HN&GĐ năm 2000 và các văn bản
hướng dẫn thi hành không quy định cụ thể khi nào thì “khó khăn, túng thiếu” được coi
là có lý do chính đáng. Nếu một người có khả năng và điều kiện lao động nhưng do lười
lao động, nghiện ngập, cờ bạc,… mà gặp khó khăn, túng thiếu thì có coi đó là lý do
chính đáng hay không? Trước đây, Nghị quyết số 01/NQ – HĐTP ngày 20/01/1988 quy
định: “trường hợp túng thiếu phải do ốm đau, già yếu không đủ sức lao động hoặc
không còn khả năng lao động để sinh sống” [47].
Thực tế hiện nay cho thấy, nếu chỉ coi các trường hợp này là có lý do chính đáng
để giải quyết yêu cầu cấp dưỡng là chưa thoả đáng. Vì có rất nhiều trường hợp bên có
yêu cầu được cấp dưỡng không thuộc các trường hợp trên nhưng lý do mà họ đưa ra là
chính đáng như: bên trực tiếp nuôi con chung phải dành toàn bộ thời gian chăm sóc con
nên họ không thể tham gia lao động dù họ có đủ sức khoẻ để lao động; hoặc họ có khả
năng lao động, có công việc ổn định nhưng họ nghỉ việc theo yêu cầu của bên kia để
chăm sóc gia đình, khi ly hôn họ không có cơ hội tìm việc làm nữa,…Tôi cho rằng,
người có yêu cầu cấp dưỡng có khó khăn, túng thiếu và có lý do chính đáng nếu thuộc
một trong các trường hợp sau:
- Do phụ nữ mang thai, sinh đẻ hoặc một bên phải chăm sóc, nuôi dưỡng con
chung nên ảnh hưởng tới hiệu quả lao động hoặc không thể tham gia quá trình lao động.
- Do tuổi cao, do ốm đau, tàn tật nên không thể lao động để có thu nhập.

- Đã có đóng góp đáng kể công sức vào việc xác lập tài sản trong thời kì hôn
nhân và nay cuộc sống thực sự có khó khăn.
- Trước đây có việc làm nhưng do yêu cầu của gia đình nên đã nghỉ việc, khi ly
hôn không còn cơ hội có việc làm.

44
Thiết nghĩ, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần ban hành văn bản hướng dẫn
xác định thế nào là tình trạng “khó khăn túng thiếu”, lý do chính đáng là những lý do
gì,… tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng giải quyết các trường hợp cụ thể.
+ Bên được yêu cầu cấp dưỡng có khả năng kinh tế để thực hiện nghĩa vụ
cấp dưỡng:
Yêu cầu cấp dưỡng của một bên chỉ được đáp ứng khi bên kia có khả năng để
cấp dưỡng. Theo quy định tại Điều 16, Nghị định số 70/2001/NĐ-CP thì người có khả
năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng là người “có thu nhập thường xuyên hoặc tuy không
có thu nhập thường xuyên nhưng còn tài sản sau khi đã trừ đi chi phí thông thường, cần
thiết cho cuộc sống của người đó” [6]. Người có khả năng cấp dưỡng phải là người
ngoài việc đảm bảo nhu cầu sinh hoạt bình thường của mình còn phải giúp đỡ bên có
yêu cầu cấp dưỡng những nhu cầu thiết yếu nhất trong cuộc sống. Tuy nhiên, việc xác
định tài sản hoặc thu nhập của người có nghĩa vụ cấp dưỡng là một vấn đề nan giải,
nhất là đối với những người làm nghề tự do, buôn bán nhỏ,… Thực tế, đã có rất nhiều
trường hợp, khi có yêu cầu cấp dưỡng của vợ chồng thì bên kia từ chối với lý do không
có khả năng cấp dưỡng do không có thu nhập hoặc thu nhập không ổn định. Việc xác
định khả năng cấp dưỡng của người phải cấp dưỡng qua sự chứng minh của người có
yêu cầu cấp dưỡng hoặc sự chứng minh về khả năng tài sản và thu nhập của chính
người cấp dưỡng.
2.4.3. Các quy định cụ thể về cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn.
2.4.3.1. Mức cấp dưỡng.
Trước hết, mức cấp dưỡng sẽ do vợ chồng tự thỏa thuận, nếu không thỏa thuận
được, khi có yêu cầu thì Tòa án sẽ giải quyết. Tòa án quyết định mức cấp dưỡng giữa
vợ chồng khi ly hôn, căn cứ vào tình hình thực tế của cả hai vợ chồng: Bên túng thiếu
có yêu cầu cấp dưỡng cần một khoản tiền cấp dưỡng là bao nhiêu? Bên có nghĩa vụ cấp
dưỡng thì khả năng thực hiện cấp dưỡng như thế nào? Tòa án cần xem xét vợ, chồng
làm nghề gì? Thu nhập thực tế như thế nào?... từ đó quyết định mức cấp dưỡng cho hợp
lý. Mức cấp dưỡng tối thiểu bao gồm các chi phí cần thiết, thiết yếu của người được cấp
dưỡng. Khi quyết định mức cấp dưỡng, Tòa án cũng cần xem xét đến cuộc sống sinh
hoạt theo từng vùng, miền để quyết định mức cấp dưỡng hợp lý. Khoản cấp dưỡng có
thể là tiền hoặc tài sản khác để thực hiện nhiệm vụ cấp dưỡng.

45
Do vậy theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000, mức cấp dưỡng sẽ do vợ
chồng thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp
dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng. Khi có lý do chính đáng, mức
cấp dưỡng có thể thay đổi theo sự thỏa thuận của các bên hoặc do Tòa án quyết định
nếu các bên không thỏa thuận được [2, Điều 53].
Như vậy, theo quy định của pháp luật thì khi ly hôn vợ chồng có nghĩa vụ cấp
dưỡng cho nhau nhưng trên thực tế vấn đề này rất ít xảy ra, thường chiếm tỷ lệ rất nhỏ
so với tỷ lệ ly hôn nhất là đối với vùng nông thôn, miền núi. Có nhiều nguyên nhân
khiến vợ chồng không yêu cầu cấp dưỡng khi ly hôn như do tự ái, sĩ diện, hoặc do bên
có khó khăn không muốn thừa nhận mình có khó khăn vì sợ mình không được nuôi
con,…. Hiện nay, phổ biến là các trường hợp một bên vợ hoặc chồng tự nguyện cấp
dưỡng cho bên kia, thường là cấp dưỡng một lần và được bên kia chấp nhận. Những
hành vi này, xuất phát từ truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam “vợ chồng một ngày
cũng nên nghĩa”, pháp luật nên khuyến khích và chấp nhận sự tự nguyện đó của các
bên. Mặc dù, bên có khó khăn, túng thiếu không có yêu cầu cấp dưỡng nhưng bên kia
tự nguyện đề nghị việc cấp dưỡng và được người đó chập nhận thì Tòa án có thể công
nhận sự tự nguyện đó. Ví dụ: Sau khi ly hôn, do có điều kiện kinh tế anh A đã tự
nguyện cấp dưỡng cho chị K ( chị K là vợ anh A ) là 10 triệu đồng để giúp chị K ổn
định cuộc sống và chị K đồng ý. Yêu cầu này của anh được Tòa án chấp nhận.
2.4.3.2. Về thời hạn cấp dưỡng.

Thời hạn cấp dưỡng được hiểu là khoảng thời gian thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
giữa vợ chồng khi ly hôn theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của Tòa án.
Cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn thông thường được thực hiện theo hàng
tháng hoặc theo thời vụ. Trong trường hợp cụ thể, nếu các bên thỏa thuận được thì có
thể thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng một lần. Xét trên thực tế, nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ
và chồng khi ly hôn thực hiện một lần là hàn toàn phù hợp với đặc điểm tâm lý của vợ,
chồng khi đã ly hôn.
Luật HN&GĐ năm 2000 không quy định về thời gian cấp dưỡng giữa vợ và
chồng khi ly hôn mà tùy theo từng trường hợp, các bên có thể thỏa thuận hoặc Tòa án
quyết định thời hạn cấp dưỡng, theo Điều 61 Luật HN&GĐ 2000. Trong trường hợp
chưa hết thời hạn cấp dưỡng mà các bên thỏa thuận hoặc Tòa án quyết định nhưng nếu

46
bên được cấp dưỡng sau khi li hôn đã kết hôn với người khác hoặc người được cấp
dưỡng có thu nhập hoặc có tài sản để tự nuôi mình thì nghĩa vụ cấp dưỡng được chấm
dứt. Tòa án có thể ra quyết định tạm ngừng hoặc chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng khi có
yêu cầu.
2.4.3.3. Về phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.

Về phương thức thực hiện cấp dưỡng có thể theo định kì hàng tháng, hàng quý,
nửa năm, hàng năm và một lần. Trường hợp vợ chồng không thỏa thuận được thì Tòa
án sẽ quyết định phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn
theo hàng tháng.
Các bên có thể thỏa thuận thay đổi phương thức cấp dưỡng, tạm ngừng cấp
dưỡng nếu người có nghĩa vụ cấp dưỡng gặp khó khăn về kinh tế không có khả năng
thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Hoặc có thể yêu cầu Tòa án giải quyết việc thay đổi
phương thức cấp dưỡng, tạm ngừng việc cấp dưỡng nếu họ không thỏa thuận được. Khi
xem xét vấn đề này, Tòa án phải tìm hiểu thật kỹ và chỉ cho phép tạm ngừng cấp dưỡng
khi khó khăn kinh tế là có thật và ví lý do chính đáng như ốm đau, thiên tai, tai nạn,…
Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng sau khi ly hôn sẽ chấm dứt nếu bên được cấp dưỡng
đã kết hôn với người khác.
Cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn thông thường được thực hiện theo hàng
tháng hoặc theo thời vụ. Trong trường hợp cụ thể, nếu các bên thỏa thuận được thì có
thể thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng một lần. Trên thực tế, việc cấp dưỡng một lần rất phù
hợp với các đặc điểm tâm lý của cả hai vợ chồng khi ly hôn. Phương thức cấp dưỡng
một lần cũng nhằm đảm bảo lợi ích của người được cấp dưỡng, việc cấp dưỡng một lần
chỉ có thể thực hiện được trong các trường hợp sau:
+ Do người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận với
người có nghĩa vụ cấp dưỡng.
+ Theo yêu cầu của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và Tòa án chấp thuận.

+ Theo yêu cầu của người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó và
được Tòa án chấp nhận khi người có nghĩa vụ cấp dưỡng có hành vi tẩu tán tài sản hoặc
cố tình trốn tránh nghĩa vụ mà hiện thời có tài sản để thực hiện việc cấp dưỡng một lần.
+ Theo yêu cầu của người trực tiếp nuôi con khi vợ chồng ly hôn mà có thể trích từ
phần tài sản được chia của bên có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

47
Do khoản cấp dưỡng một lần thường là tương đối lớn, vì thế khoản cấp dưỡng
này cần phải quản lý chu đáo nhằm tránh mất mát, thất thoát đẫn tới quyền lợi của
người được cấp dưỡng không được bảo đảm.
2.4.3.4. Thay đổi vấn đề cấp dưỡng giữa vợ chồng sau khi ly hôn.

Cũng chính vì nghĩa vụ cấp dưỡng là nghĩa vụ nhân thân có tính tài sản, việc
thực hiện xong nghĩa vụ cấp dưỡng một lần không hoàn toàn đồng nghĩa với việc chấm
dứt nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các bên với nhau. Ở đây muốn nói đến việc cấp dưỡng bổ
sung cho người được cấp dưỡng. Điều này xảy ra khi người được cấp dưỡng một lần
lâm vào tình trạng khó khăn trầm trọng do bị tai nạn hặc mắc bệnh hiểm nghèo mà
người đã thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng có khả năng để cấp dưỡng ở mức cao hơn, thì
phải cấp dưỡng bổ sung theo yêu cầu của người được cấp dưỡng.
Nghị định số 70/2001/NĐ-CP cũng đã quy định khá cụ thể và chi tiết việc thay
đổi vấn đề cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau khi ly hôn. Xuất phát từ quan điểm và lối
sống của người Việt nam là tình nghĩa và tinh thần đùm bọc nhau lúc khó khăn. Do vậy
việc thay đổi vấn đề cấp dưỡng được quy định, mà ở đây là việc bổ sung cấp dưỡng khi
người được cấp dưỡng có khó khăn trầm trọng xảy ra. Tuy nhiên, về mặt nguyên lý thì
nếu việc bổ sung cấp dưỡng được thực hiện thì việc “ cấp dưỡng một lần” sẽ không có
ý nghĩa. “ Cấp dưỡng một lần” được hiểu là sau khi hoàn thành việc cấp dưỡng thì sẽ
chấm dứt hoàn toàn nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng. Đây là một vấn đề theo cá
nhân tôi là còn tồn tại và chưa hợp lý. Cần loại bỏ thuật ngữ “ Cấp dưỡng một lần” nếu
vẫn tiếp tục thực hiện việc bổ sung cấp dưỡng.
2.4.3.5. Chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau khi ly hôn.

Chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng là việc người phải cấp dưỡng ngừng việc đóng
góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng.
Theo khoản 5,6,7 Điều 61 Luật HN&GĐ năm 2000, nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và
chồng chấm dứt trong các trường hợp sau:
+ Người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng chết.

Nghĩa vụ cấp dưỡng có đặc điểm là gắn với nhân thân của mỗi người ( người
được cấp dưỡng và người phải cấp dưỡng ) mà không thể chuyển giao cho người khác.
Vì vậy khi người được cấp dưỡng hoặc người phải cấp dưỡng chết thì nghĩa vụ cấp
dưỡng đương nhiên chấm dứt.

48
+ Bên được cấp dưỡng sau khi ly hôn đã kết hôn với người khác.

Trường hợp người được cấp dưỡng sau khi ly hôn kết hôn với người khác thì
nghĩa vụ cấp dưỡng cũng được chấm dứt. Bởi vì khi người được cấp dưỡng đã kết hôn
với người khác thì vợ hoặc chồng mới của họ có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng họ chứ
không phải người vợ hoặc chồng đã ly hôn. Do vậy, việc cấp dưỡng trong trường hợp
này chấm dứt.
+ Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.

Ngoài các trường hợp trên, nghĩa vụ cấp dưỡng còn có thể được chấm dứt khi
người phải cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế và không thể có khả năng
thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Xác định tình trạng khó khăn về sức khỏe của người
phải cấp dưỡng dựa vào tình trạng sức khỏe, khả năng lao động và mức thu nhập của
người đó. Nếu một người trước đây có sức khỏe, có khả năng lao động và có thu nhập
nên được xác định là có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, nhưng nay tình trạng
sức khỏe của họ giảm sút, nếu họ tiếp tục phải cấp dưỡng thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
đời sống của chinh họ. Đối với những trường hợp này, nghĩa vụ cấp dưỡng của họ bị
chấm dứt hoặc có thể tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Vì vấn đề cấp dưỡng
giữa vợ chồng được thực hiện theo khả năng thực tế của các bên, nên khi không đáp
ứng được các điều kiện theo quyết định của pháp luật thì nghĩa vụ cấp dưỡng sẽ được
chấm dứt.
Ví dụ: Người được cấp dưỡng đã có khả năng lao động, có công việc tạo thu
nhập ổn định cuộc sống hoặc người có nghĩa vụ cấp dưỡng đau ốm, tai nạn, mất việc
làm, không có hoặc không còn khả năng thực hiện nghĩa cụ cấp dưỡng nữa...
2.5. Quan hệ giữa cha mẹ và con khi vợ chồng (với tư cách là cha mẹ của con) ly
hôn.
2.5.1. Nguyên tắc chung để giải quyết hậu quả pháp lý đối với con khi cha mẹ (vợ
chồng) ly hôn theo Điều 92, 93, 94 Luật HN&GĐ năm 2000.
Có thể nói việc giải quyết mối quan hệ giữa cha mẹ và con sau khi ly hôn là mối
quan tâm hàng đầu của các nhà làm luật cũng như toàn xã hội. Bởi khi cha mẹ ly hôn
thì con cái là người chịu nhiều ảnh hưởng và thiệt thòi về mặt tâm lý, tình cảm cũng
như sự phát triển bình thường của đứa trẻ dẫn đến tình trạng trẻ em bỏ học đi lang
thang, trẻ em phạm tội, … mà nguyên nhân chính là do cha mẹ ly hôn không quan tâm
tới việc chăm sóc, giáo dục con đã trở thành vấn đề nhức nhối của toàn xã hội. Để hạn

49
chế tình trạng này, Luật HN&GĐ năm 2000 ghi nhận các quy định về việc giải quyết
mối quan hệ giữa cha mẹ và con khi ly hôn tại Điều 92, 93 và Điều 94 nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của con.
Nguyên tắc để giải quyết hậu quả pháp lý đối với con khi cha mẹ ly hôn như sau:
Do sự kiện ly hôn nên vợ chồng không còn chung sống và cùng chăm sóc, trông nom,
giáo dục, nuôi dưỡng con chung. Vì vậy, vợ chồng tự thỏa thuận về người trực tiếp nuôi
con và quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng sau khi ly hôn với con. Nếu vợ chồng không tự
thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bản án và quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật là sự thừa nhận
chính thức sự tan vỡ của một gia đình, cho dù trước đó gia đình đó đã tan vỡ thực sự.
Theo đó các mối quan hệ hậu ly hôn như cha mẹ và con cái, quan hệ tài sản, cấp
dưỡng... cần được giải quyết. Nếu vợ chồng thỏa thuận được với nhau về việc giải
quyết các vấn đề trên, bảo đảm quyền lợi chính đáng của người phụ nữ và con, thì Tòa
án công nhận sự thỏa thuận đó. Nếu vợ chồng không thỏa thuận được với nhau hoặc có
thỏa thuận nhưng quyền lợi của người vợ hoặc các con không được đảm bảo thì Tòa án
sẽ quyết định.
2.5.2. Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục con.
Quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con phát sinh dựa trên sự kiện sinh đẻ và nuôi
dưỡng. Theo đó, cha mẹ có quyền và nghĩa vụ yêu thương, nuôi dưỡng chăm sóc, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con, chăm lo việc học hành và giáo dục con phát triển
lành mạnh, tạo điều kiện cho con được sống trong môi trường gia đình đầm ấm, hòa
thuận,…Ngược lại con có bổn phận yêu quý, kính trọng, biết ơn cha mẹ, chăm sóc nuôi
dưỡng cha mẹ khi cha mẹ già yếu, ốm đau [2, Điều 34, 35, 36, 37 Luật HN&GĐ năm
2000]. Việc quan hệ hôn nhân giữa vợ và chồng tồn tại hay không tồn tại không ảnh
hưởng tới quan hệ giữa cha mẹ và con cũng như các nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đối
với con. Dù đã ly hôn nhưng vợ chồng đều bình đẳng về nghĩa vụ và quyền yêu thương,
chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng các con, bởi đây không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ
luật định. Việc giải quyết mối quan hệ giữa cha mẹ và con khi vợ chồng ly hôn như vấn
đề xác định người trực tiếp nuôi con, thay đổi người trực tiếp nuôi con, phương thức
cấp dưỡng nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con, … luôn là nội dung quan trọng khi giải
quyết các vụ việc ly hôn.

50
Khi ly hôn, bên cạnh những thỏa thuận về việc phân chia tài sản, vợ chồng cũng
phải thỏa thuận với nhau về vấn đề nuôi dạy con cái trong trường hợp con chưa thành
niên, con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao
động và không có tài sản tự nuôi mình. Trước hết, pháp luật ghi nhận sự thỏa thuận ý
chí của các bên vợ chồng và không ai được phép tự cho mình quyền nuôi con cũng như
trốn tránh nghĩa vụ ấy. Vì con cái là kết quả của sự dung hòa giữa cha và mẹ nên họ
phải có trách nhiệm với sự sống do chính mình tạo ra. Hiện nay, khi ly hôn rất nhiều
trường hợp cả cha và mẹ đều muốn nhận nuôi con để bù đắp cho con những mất mát,
nỗi bất hạnh do chính mình gây ra nhưng pháp luật quy định chỉ dành cho một người có
quyền trực tiếp nuôi con. Nên, nếu vợ chồng không thỏa thuận được vấn đề này thì Tòa
án sẽ là người đưa ra quyết định cuối cùng căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con và
hoàn cảnh thực tế, về tư cách đạo đức, điều kiện công tác, khả năng kinh tế của các bên
vợ chồng. Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP quy định: “Trong trường hợp vợ chồng
không thỏa thuận được về người trực tiếp nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho
một bên trực tiếp nuôi con căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con, đặc biệt là các điều
kiện cho sự phát triển về thể chất, đảm bảo việc học hành và phát triển tốt về tinh thần”
[5].
Theo đó, người trực tiếp nuôi con sẽ là người đáp ứng tốt nhất các điều kiện đảm
bảo cho sự phát triển về thể chất và trí tuệ của con. Trong trường hợp đặc biệt, để đảm
bảo quyền lợi và sự phát triển bình thường của đứa trẻ, nếu cả cha và mẹ đều không có
đủ tư cách đạo đức và điều kiện thực tế để nuôi con thì Tòa án có thể giao cho ông bà
hoặc người thân thích khác trực tiếp nuôi con. Các quy định đó, thể hiện sự quan tâm
đặc biệt của các nhà làm luật đối với việc đảm bảo quyền lợi cho con, nó mang ý nghĩa
nhân văn vô cùng sâu sắc.
Điều 92 Luật HN&GĐ quy định: “Về nguyên tắc con dưới ba tuổi giao cho mẹ
trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thỏa thuận khác”. Quy định này, là sự cụ thể hóa
các quy định của Luật HN&GĐ năm 1986: “… con còn bú giao cho mẹ trực tiếp nuôi
…”. Đối với con “từ đủ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”. Như
vậy, các quy định này đã chú trọng đến việc bảo đảm quyền lợi của các con, bảo đảm
cho ý chí của con cũng được thể hiện để đứa trẻ có điều kiện tốt khi chung sống cùng
bố hoặc mẹ. Mục đích của việc giao con cho ai nuôi thực chất là nhằm bảo đảm tối đa
quyền lợi của các con nên trường hợp con đã có đủ nhận thức về điều đó th́ pháp luật

51
cũng tạo điều kiện cho con được thể hiện ý chí, nguyện vọng của mình. Mặc dù, nguyện
vọng của con được thể hiện trước Tòa nhưng đó không phải là căn cứ duy nhất để xem
xét và quyết định giao người con đó cho ai trực tiếp nuôi dưỡng. Bởi đó chỉ là lựa chọn
thiên về cảm tính của đứa trẻ. Chính vì vậy, trước khi đưa ra quyết định Tòa án chỉ nên
coi đó là nguồn tham khảo mà phải xem xét một cách toàn diện mọi mặt. Đây là điểm
mới so với các quy định trong Luật HN&GĐ năm 1959 và năm 1986 về xác định người
trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn thể hiện sự tiến bộ và hợp lý, bổ sung cho những thiếu
sót trước kia.
Người trực tiếp nuôi con sẽ cùng sống chung với con trong một mái nhà, là chỗ
dựa cho con cả về vật chất lẫn tinh thần và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ và quyền theo
quy định của pháp luật đối với con như nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con cái, quyền
đại diện cho con,… Do cùng sống chung với con nên việc thực hiện các quyền và nghĩa
vụ này của người trực tiếp nuôi con diễn ra liên tục và không bị hạn chế về không gian
và thời gian. Nên việc họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ đối với con cũng giống như
khi chưa ly hôn.
Người trực tiếp nuôi con luôn là chỗ dựa cho con, giúp con phát triển về thể chất
và trưởng thành về trí tuệ và là người song hành với con trong suốt quá trình trưởng
thành nên họ có vai trò vô cùng quan trong, ảnh hưởng rất lớn tới nhận thức và tương
lai của con sau này. Vì thế, quy định về việc xác định người trực tiếp nuôi con có ý
nghĩa vô cùng quan trọng nhằm đảm bảo một cách tốt nhất quyền lợi về mọi mặt của
con.
2.5.3. Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ là người không trực tiếp chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục con.
Bên cạnh việc quy định giao con cho ai nuôi, Luật HN&GĐ năm 2000 còn ghi
nhận quyền thăm nom con của cha mẹ sau khi ly hôn [2, Điều 94], nghĩa vụ cấp dưỡng
nuôi con của người không trực tiếp nuôi con [2, Điều 92]. Quyền thăm nom con là một
quyền cơ bản và hợp lý của người không trực tiếp nuôi con: “người không trực tiếp
nuôi con có quyền thăm nom con; không ai được cản trở người đó thực hiện quyền
này”. Bởi họ là người không có điều kiện để trực tiếp chăm sóc con nhưng vẫn có trách
nhiệm và tình thương yêu đối với con. Nên việc ghi nhận bằng pháp luật quyền thăm
nom con của người không trực tiếp nuôi con, tạo điều kiện cho con được hưởng sự yêu
thương, chăm sóc của cả cha và mẹ, bù đắp phần nào những thiếu hụt về tình cảm cho

52
con khi cha mẹ ly hôn. Tuy nhiên, quyền thăm nom chỉ có thể được duy trì và tôn trọng
nếu nó xuất phát từ lợi ích của con cái. Vì vậy, nếu người không trực tiếp nuôi con lợi
dụng quyền này để cản trở người trực tiếp nuôi con hoặc gây ảnh hưởng xấu tới việc
trông nom, nuôi dưỡng con hoặc làm phương hại tới quyền lợi của con thì họ có thể bị
hạn chế việc thực hiện quyền này theo yêu cầu của người trực tiếp nuôi con.
Cấp dưỡng nuôi con được pháp luật ghi nhận là nghĩa vụ của người không trực
tiếp nuôi con nhằm đảm bảo cuộc sống cho con sau khi cha mẹ ly hôn: “người không
trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.” [2, Điều 92]. Nghĩa vụ cấp dưỡng
nuôi con trong trường hợp này không phụ thuộc vào khả năng kinh tế của người trực
tiếp nuôi con, dù họ có khả năng kinh tế để nuôi con thì bên kia vẫn phải thực hiện
nghĩa vụ cấp dưỡng. Trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không yêu cầu cấp
dưỡng là hoàn toàn tự nguyện và họ có đầy đủ khả năng, điều kiện để nuôi dưỡng con
thì Tòa án không buộc bên kia phải cấp dưỡng nuôi con.
2.5.4. Các quy định cụ thể về cấp dưỡng nuôi con khi vợ chồng khi ly hôn.
2.5.4.1. Về đối tượng (Con) được cấp dưỡng.
Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con, Tòa án có trách nhiệm giải quyết phù hợp với
các quy định về điều kiện cấp dưỡng, mức cấp dưỡng và phương thức thực hiện nghĩa
vụ cấp dưỡng được quy định tại Chương VI của Luật HN&GĐ năm 2000. Nghĩa vụ cấp
dưỡng của cha mẹ đối với con thường xảy ra khi cha mẹ ly hôn, một bên trực tiếp nuôi
con, bên không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Hoặc trong trường
hợp người cha phải cấp dưỡng cho con ngoài giá thú khi người con đó sống cùng người
mẹ. Trong trường hợp cha, mẹ trốn tránh thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng con thì cũng
phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con..
Theo nguyên tắc chung, cha mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho đến khi con
đã thành niên ( đủ 18 tuổi ). Trường hợp con đã thành niên mà bị tàn tật, bị mất năng
lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi sống bản
thân mình, thì cha mẹ vẫn phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho đến khi con
khỏi bệnh, phục hồi sức khỏe và có thể lao động tự nuôi sống bản thân được.
Pháp luật quy định các con đều có quyền bình đẳng như nhau trong việc được
cha, mẹ cấp dưỡng. Do đó, con trai, con gái, con đẻ, con nuôi, con trong hôn nhân, con
ngoài hôn nhân được cha, mẹ cấp dưỡng như nhau. Quy định này xuất phát từ nguyên
tắc cơ bản của chế độ HN&GĐ là Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối

53
xử giữa các con; thể hiện tính tiến bộ của chế độ HN&GĐ xã hội chủ nghĩa so với chế
độ HN&GĐ phong kiến trước đây.
2.5.4.2. Về mức cấp dưỡng nuôi con, giáo dục con.

Về mức cấp dưỡng nuôi con phải đảm bảo các chi phí tối thiểu về ăn mặc học
hành, chữa bệnh và các khoản phí tổn khác cho đời sống bình thường của người con.
Khi quyết định, Tòa án căn cứ vào hoàn cảnh điều kiện thực tế, khả năng kinh tế của
hai bên vợ chồng và nhu cầu của con để ấn định mức cấp dưỡng hợp lý.
Đã có ý kiến cho rằng nên quy định mức cấp dưỡng cụ thể trong luật để thuận
tiện cho việc áp dụng, tránh tùy tiện và cảm tính khi xét xử. Tuy nhiên, trên thực tế thì
nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình nói chung, trong đó có nghĩa vụ
cấp dưỡng của cha mẹ đối với con sau khi cha mẹ ly hôn phải dựa trên khả năng thực tế
của các đương sự; nhất là phải dựa trên khả năng của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Sự
phát triển kinh tế giữa các vùng miền ở nước ta cũng rất khác nhau, rất khó có thể dự
liệu một mức cấp dưỡng cụ thể để áp dụng chung cho các trường hợp. Nếu giữa các
đương sự không thỏa thuận được với nhau, khi giải quyết Tòa án có toàn quyền quyết
định căn cứ vào khả năng thực tế của các bên và nhu cầu của người con được cấp
dưỡng, phù hợp với tình hình kinh tế ở địa phương là hợp lý, bảo đảm được quyền lợi
của các bên có liên quan.
Theo Mục 11, Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23-12-2000 của Tòa án
nhân dân tối cao hướng dẫn cụ thể như sau:
“ + Theo quy định tại khoản 1 Điều 92 thì người không trực tiếp nuôi con có nghĩa
vụ cấp dưỡng nuôi con. Đây là nghĩa vụ của cha mẹ; do đó, không phân biệt người trực
tiếp nuôi con có khả năng kinh tế hay không, người không trực tiếp nuôi con vẫn phải
có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không yêu
cầu người không trực tiếp nuôi con cấp dưỡng vì lý do nào đó thì Tòa án cần giải thích
cho họ hiểu rằng việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là quyền lợi của con để họ hiểu,
nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con. Nếu xét thấy việc họ không yêu cầu cấp
dưỡng là tự nguyện, họ có đầy đủ khả năng và điều kiện nuôi dưỡng con thì Tòa án
không buộc bên kia phải cấp dưỡng nuôi con.
+ Tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm những chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và
học hành của con và do các bên thỏa thuận...” [5]

54
Hướng dẫn trên của Tòa án tối cao là hết sức hợp lý với điều kiện kinh tế - xã
hội hiện nay và đặc điểm của quan hệ cấp dưỡng. Tuy nhiên để hiểu rõ hơn bản chất
của việc hưỡng dẫn trên, ta cần hiểu đây không phải là cơ sở để chấm dứt nghĩa vụ cấp
dưỡng của cha mẹ đối với con, kể cả trường hợp đã công nhận việc cấp dưỡng nuôi con
một lần. Vì lợi ích của con, nếu sau này người được giao nuôi con trực tiếp có yêu cầu
thì vẫn có thể quyết định bên kia phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Không
có sự thỏa thuận nào có thể khước từ nghĩa vụ đối với con.

2.5.4.3. Về thời hạn và phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Theo nguyên tắc chung tại Chương VI Luật HN&GD năm 2000, cha mẹ có
nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho đến khi con đã thành niên (đủ 18 tuổi) và có khả năng
lao động. Trường hợp con đã thành niên mà bị tàn tật, bị mất nãng lực hành vi dân sự,
không có khả nãng lao dộng và không có tài sản tự nuôi mình, thì cha mẹ vẫn phải thực
hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con khỏi bệnh, phục hồi sức khỏe và có thể lao động tự
túc được.

+ Phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con:

Theo Điều 54 Luật HN&GĐ năm 2000 và hướng dẫn thi hành tại Nghị quyết số
02/2000/NQ-HĐTP ngày 23-12-2000 thì: “Phương thức cấp dưỡng do các bên thỏa
thuận định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần. Trong trường
hợp các bên không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định phương thức cấp dưỡng định
kỳ hàng tháng...” [5]

Việc thỏa thuận phương thức cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn xuất phát từ
quyền lợi của con. Nếu việc cấp dưỡng nuôi con một lần vẫn đảm bảo quyền lợi của
con thì các bên vẫn có thể tự thỏa thuận phương thức cấp dưỡng này. Khi cần thiết vì
lợi ích của con, có thể thay đổi mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng nuôi con.
Việc thay đổi mức cấp dưỡng có thể tự thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết.

Như vậy, theo quy định của pháp luật về HN&GĐ thì khi vợ chồng đã ly hôn,
mỗi bên vẫn phải thực hiện nghĩa vụ và quyền của mình đối với con chung, nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con, cũng chính là bảo vệ thế hệ trẻ - tương lai của đất
nước.

2.5.4.4. Vấn đề thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con (Điều 93 Luật
HN&GĐ năm 2000).

55
Thực tế xét xử trong những năm gần đây cho thấy xảy ra khá nhiều trường hợp
thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn theo yêu cầu của đương sự. Dựa trên
nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của cha mẹ và con, đặc biệt là bảo vệ quyền lợi của người
phụ nữ và các con khi cha mẹ ly hôn. Pháp luật quy định việc thay đổi người trực tiếp
nuôi con sau khi ly hôn vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên. Theo
Điều 93, việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện trong
trường hợp người trực tiếp nuôi con không đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con. Có
nhiều lý do để đương sự yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly
hôn:

+ Người trực tiếp nuôi con không còn khả năng thực tế việc bảo đảm trông nom,
chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con mà bên kia có điều kiện hơn; người trực tiếp nuôi
con sau khi ly hôn đi công tác xa nhà nhiều năm, bị bệnh tật lâu ngày; hoặc có hành vi
xâm hại lợi ích của con, ngược đãi con chưa thành niên hoặc phải thi hành án phạt tù
hay bị mất năng lực hành vi dân sự...

+ Trường hợp người không trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con hoặc cả
hai bên có yêu cầu thay đổi việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục; nếu xét thấy hợp lý và
quyền lợi của con được đảm bảo, Tòa án sẽ chấp nhận và quyết định việc thay đổi
người trực tiếp nuôi con ( Nếu con từ đủ chín tuổi trở lên thì Tòa án sẽ hỏi trực tiếp con
xem con có đồng ý với việc thay đổi đó hay không ). Đồng thời Tòa án sẽ giúp các
đương sự thỏa thuận việc cấp dưỡng nuôi con; nếu hai bên không thỏa thuận được thì
Tòa án sẽ căn cứ vào điều kiện, khả năng thực tế của hai bên để quyết định việc cấp
dưỡng nuôi con.

+ Trường hợp bên không được giao trực tiếp nuôi con khi ly hôn có yêu cầu thay
đổi người trực tiếp nuôi con, nếu xét thấy quyền lợi của con không được đảm bảo, việc
có yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con xuất phát từ mục đích, động cơ không
chính đáng; hoặc nhằm gây khó khăn cho bên kia; mặt khác, nguyện vọng của con ( Từ
đủ chín tuổi trở lên ) cũng không đồng ý thay đổi người trực tiếp nuôi con thì Tòa án
không chấp nhận yêu cầu của đương sự.

56
CHƯƠNG 3

THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIÉN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA LY HÔN
3.1. Thực tiễn áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về hậu quả pháp lý
của ly hôn
3.1.1. Nhận xét chung.
Trong lịch sử phát triển Luật HN&GĐ Việt Nam, Luật HN&GĐ năm 2000 được coi
là đạo luật hoàn thiện nhất cả về nội dung và kỹ thuật lập pháp. Có thể nói, các quy định của
Luật HN&GĐ năm 2000 đã kịp thời bổ sung những thiếu sót và cụ thể hóa các quy định của
pháp luật HN&GĐ trước đây để điều chỉnh các quan hệ mới phát sinh trong lĩnh vực này.
Các quy định về việc giải quyết hậu quả pháp lý của ly hôn đã góp phần bảo vệ tốt các quyền
và nghĩa vụ của các bên cũng như các thành viên khác trong gia đình.
Qua công tác tổng kết hoạt động xét xử của ngành Tòa án, có thể thấy trong
những năm gần đây, tình trạng ly hôn ở nước ta ngày càng gia tăng về số lượng, phức
tạp về tính chất tranh chấp.
Theo thống kê của ngành Tòa án thì đến năm 2011: Thực tiễn xét xử các vụ án
về HN&GĐ cho thấy, số lượng các vụ án phải xem xét lại theo trình tự phúc thẩm,
giám đốc thẩm vẫn còn nhiều, tỷ lệ án phải cải sửa vẫn còn.
Theo báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án năm tính từ năm 2006 đến năm
2010, cụ thể:
Bảng 1: Tổng số án ly hôn được giải quyết qua các năm 2006 đến năm 2012.

Năm 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
Sơ thẩm 65.317 61.231 69.485 84.305 94.106 115.331 130.860
Phúc thẩm 2544 2544 2529 2380 2264 2666 2663


Bảng 2: Tổng số án ly hôn có tranh chấp về tài sản.

Năm 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
Sơ thẩm 404 452 449 538 404 564 625
Phúc thẩm 129 148 181 169 129 200 218

57
Bảng3: Tổng số án ly hôn có tranh chấp về cấp dưỡng.

Năm 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
Sơ thẩm 501 403 494 506 501 560 578
Phúc thẩm 46 42 56 53 46 74 68


Bảng4: Tổng số án ly hôn có tranh chấp về quyền nuôi con.

Năm 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
Sơ thẩm 1033 794 796 814 800 1245 1178
Phúc thẩm 67 70 74 41 55 128 112
Nguồn: Theo báo cáo Tổng kết công tác và đề ra nhiệm vụ trọng tâm qua các
năm từ năm 2006 đến năm 2012 của Tòa án nhân dân Tối cao.
Nhìn chung, Toà án nhân dân các cấp khi xét xử các vụ án về HN&GĐ đều cố
gắng bám sát các quy định của Bộ luật Dân sự, Luật HN&GĐ và vận dụng đúng đắn
các văn bản hướng dẫn có liên quan trong việc giải quyết các vụ án cụ thể. Vì vậy, đã
hoàn thành tốt công tác xét xử trong năm, chất lượng xét xử các vụ án ngày càng nâng
cao. Tuy nhiên, qua báo cáo tổng kết công tác xét xử của Toà án Nhân dân Tối cao cho
thấy, việc giải quyết hậu quả pháp lý của ly hôn vẫn còn nhiều vướng mắc và bất cập.
Nguyên nhân chủ yếu là do việc điều tra, xác minh nguồn gốc của tài sản, định
giá tài sản còn nhiều thiếu sót, các phán quyết của Toà án trong nhiều trường hợp chưa
đủ căn cứ xác thực về nguồn gốc tài sản, quyền lợi của các bên chưa được giải quyết
một cách thoả đáng, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em.
Ngoài ra, còn một số nguyên nhân quan trọng khác là do Luật HN&GĐ hiện
hành- cơ sở pháp lý cơ bản cho việc giải quyết các tranh chấp phát sinh còn quy định
một cách chung chung hoặc do trình độ xét xử của đội ngũ Thẩm phán chưa đồng đều
hoặc do đương sự cố tình không khai hết các loại tài sản, các nghĩa vụ dân sự chung
nhằm trốn tránh án phí. Nên nhiều vụ án phải xử đi, xử lại nhiều lần, hoặc phán quyết
của Toà án chưa đủ sức thuyết phục, chất lượng xét xử chưa cao.

58
Từ thực tế trên, có thể nêu một số vướng mắc trong việc áp dụng các quy định
của Luật HN&GĐ hiện hành trong việc giải quyết hậu quả pháp lý của ly hôn.
3.1.2. Một số trường hợp cụ thể.

Công tác xét xử các vụ án HN&GĐ một mặt phụ thuộc vào việc vận dụng một
cách linh hoạt, hợp lý và đúng đắn các quy định của pháp luật, một mặt phụ thuộc vào
kinh nghiệm xét xử, trách nhiệm của Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án. Nên
trong cùng một vụ án nhưng ở mỗi Toà án lại có cách giải quyết khác nhau, kết qủa xét
xử không đủ sức thuyết phục, gây mất lòng tin trong dân.
Qua thực tiễn xét xử của Toà án nhân dân các cấp cho thấy, việc áp dụng các
quy định của pháp luật vào giải quyết hậu quả pháp lý của ly hôn còn tồn tại nhiều bất
cập.Cụ thể:
3.1.2.1. Về quan hệ nhân thân giữa vợ chồng khi ly hôn.

Kể từ khi phán quyết ly hôn của Tòa án có hiệu lực, quan hệ vợ chồng chấm dứt,
vợ chồng đã ly hôn có quyền kết hôn với người khác. Trường hợp, vợ chồng đã ly hôn
nhưng vì lý do nào đó họ trở về sống chung với nhau thì phải tiến hành đăng kí kết hôn
theo quy định của pháp luật. Thực tế có không ít trường hợp vợ chồng đã ly hôn sau đó
trở về chung sống với nhau nhưng không đăng kí kết hôn, khi có tranh chấp xảy ra thì
việc bảo vệ quyền lợi của họ gặp rất nhiều khó khăn.
Ví dụ: Chị T và anh P được Tòa án nhân dân quận B, thành phố H quyết định
cho ly hôn ngày 10 tháng 6/2008. Đến tháng 12/2008, họ trở về chung sống với nhau
nhưng không đăng kí kết hôn và giữa họ có thêm một khối tài sản trị giá 120.000.000
đồng. Tháng 3/2010 anh P bị tai nạn chết, cha mẹ anh P cho rằng chị T không phải vợ
anh, số tài sản 120.000.000 đồng do anh P kinh doanh mà có nên đó là tài sản riêng của
anh. Do vậy, chị T khởi kiện yêu cầu Toà án công nhận chị và anh P là vợ chồng nên
chị được thừa kế tài sản của anh P và yêu cầu Toà án xác định khối tài sản trên là tài
sản chung của vợ chồng chị. Toà án nhân dân quận B đã bác yêu cầu của chị T vì cho
rằng chị và anh P đã được Toà án giải quyết cho ly hôn, khi trở về chung sống với nhau
không đăng kí kết hôn lại. Do đó, chị và anh P không phải là vợ chồng nên chị không
được thừa kế tài sản của anh P và khối tài sản trị giá 120.000.000 đồng đúng là tài sản
do anh kinh doanh mà có, chị T không tham gia vào việc làm ăn của anh, nên Toà án
xác định chị không có công sức đóng góp vào việc tạo ra tài sản, do vậy chị không được

59
chia tài sản đó.Như vậy, nếu chị T và anh P đăng kí kết hôn lại với nhau thì đương
nhiên chị T sẽ được thừa kế tài sản do anh P để lại và khối tài sản trị giá 120.000.000
đồng sẽ được xác định là tài sản chung vợ chồng dù chị không có công sức đóng góp
vào việc tạo lập tài sản đó thì chị vẫn được hưởng một phần trong khối tài sản chung
đó. Nên quyền lợi của chị không được pháp luật bảo vệ.
Ví dụ trên cho thấy, việc pháp luật quy định vợ chồng đã ly hôn sau đó lại về
chung sống với nhau phải đăng kí kết hôn là hoàn toàn phù hợp với thực tế hiện nay,
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, lợi ích của gia đình và xã hội.
3.1.2.2. Về chia tài sản chung của vợ chồng sau khi ly hôn.

Mặc dù Luật HN&GĐ hiện hành, đã quy định chi tiết, cụ thể hơn Luật HN&GĐ
1986 về việc xác định đâu là tài sản riêng, đâu là tài sản chung vợ chồng, quyền và lợi
ích chính đáng của các bên về vấn đề tài sản đã được đảm bảo. Nhưng trên thực tế, việc
áp dụng các quy định này vào giải quyết các vụ án cụ thể còn nhiều khó khăn.
Đối với chia tài sản chung vợ chồng khi ly hôn: Theo quy định của pháp luật, thì
về nguyên tắc khi ly hôn, tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, khi chia phải xem
xét công sức đóng góp của các bên vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản
chung, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em. Tuy nhiên, trên thực tế không phải Toà
án nào cũng vận dụng đúng đắn, linh hoạt các nguyên tắc này khi chia tài sản của vợ
chồng làm ảnh hưởng tới quyền lợi của họ.
Ví dụ: Anh Nguyễn Minh Tuấn và chị Nguyễn Minh Yến tự nguyện kết hôn năm
1991 tại Sài Đồng - Gia Lâm - Hà Nội. Do quan điểm sống bất đồng, vợ chồng thường
xuyên mâu thuẫn, anh Tuấn đã có quan hệ với người phụ nữ khác nên họ đã chính thức
ly thân từ nhiều tháng nay. Ngày 01/11/2007, anh Tuấn gửi đơn xin ly hôn và đề nghị
Toà án giải quyết cho ly hôn còn vấn đề tài sản sẽ giải quyết sau. Chị Yến không chấp
nhận yêu cầu này và yêu cầu Toà án giải quyết toàn bộ vấn đề liên quan đến vụ án ly
hôn theo quy định của pháp luật.
Về con: họ có 01 con chung là cháu Nguyễn Thị Bích Ngọc, sinh năm 1992.
Về tài sản gồm: 01 xe máy HONDA 82- BKS 29F6- 4221, 01 xe máy Spacy
BKS 29V7- 9374, 01 tivi, nhà đất tại số 01 Yên Thế - Ba Đình - Hà Nội, căn hộ 107A
số 4B Yên Thế - Ba Đình, nhà đất tại số 707 Nguyễn Văn Linh - Gia Lâm. Tài sản của
công ty TNHH Tuấn Yến và các tài sản khác.

60
Tại bản án số 73/QĐST-HNGĐ ngày 21/08/2008, căn cứ theo quy định tại Điều
89, 90, 92, 94 và Điều 95 Luật HN&GĐ 2000, Toà án nhân dân quận Long Biên, công
nhận sự thuận tình ly hôn giữa anh Tuấn và chị Yến, công nhận sự thoả thuận của các
bên về việc:
Giao con chung là cháu Nguyễn Thị Bích Ngọc, sinh năm 1992 cho chị Yến trực
tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, anh Tuấn có trách nhiệm đóng góp phí tổn nuôi con
2.100.000 đồng/tháng, không ai được cản trở quyền gặp gõ, chăm sóc con chung.

Về tài sản: anh Tuấn sở hữu 01 xe Honda 82, 01 tivi, nhà đất tại số 01 Yên Thế
và căn hộ số 107A nhà số 4B Yên Thế. Chị Yến sở hữu 01 xe Spacy, nhà đất tại 707
Nguyễn Văn Linh - Gia Lâm và thanh toán tiền chênh lệch về tài sản cho anh Tuấn là
1.084.000.000đồng. Các tài sản khác và công ty TNHH Tuấn Yến do các bên tự thoả
thuận.
Ngày 02/09/2008, không đồng ý với quyết định trên của Toà án, chị Yến làm
đơn kháng cáo lên Toà án nhân dân thành phố Hà Nội yêu cầu Toà án giải quyết việc
chia tài sản chung.
Sau khi xác minh, thu thập chứng cứ, xem xét yêu cầu của các bên, tại bản án số
06/HNPT ngày 23/11/2008, Toà án nhân dân thành phố Hà Nội đã sửa một phần bản án
sơ thẩm. Theo đó, anh Tuấn được sở hữu 01 xe Honda 82, 01 tivi, nhà đất tại số 01 Yên
Thế, căn hộ số 107A nhà số 4B Yên Thế. Chị Yến sở hữu 01 xe Spacy, nhà đất tại 707
Nguyễn Văn Linh - Gia Lâm và thanh toán tiền chênh lệch về tài sản cho anh Tuấn là
684.000.000đồng. Với lý do, dù chị Yến chỉ là nội trợ trong gia đình nhưng chị được
quyền nuôi con và phải chăm sóc mẹ anh Tuấn đang chạy thận nhân tạo nên cần có tài
sản để đảm bảo cuộc sống và nuôi dạy con cái.
Như vậy, trong quá trình xét xử, Toà án nhân dân thành phố Hà Nội đã vận dụng
đúng đắn các quy định của pháp luật và đưa ra phán quyết phù hợp, đảm bảo quyền và
lợi ích hợp pháp của các bên.Mặt khác, khi chia tài sản chung vợ chồng ngoài việc xác
định công sức đóng góp của các bên, cần quán triệt nguyên tắc bảo vệ quyền lợi chính
đáng của các bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để họ có điều kiện tiếp tục
lao động có thu nhập.
Ví dụ: Chị Lê Thị Thu và anh Nguyễn Văn Kiên kết hôn năm 1998. Sau khi kết
hôn họ có mua 180m
2
đất để làm nhà. Anh Kiên là bộ đội đóng quân xa nhà nên việc

61
mua đất, xây dựng nhà cửa do chị Thu thực hiện còn anh chỉ đóng góp tiền bạc. Sau đó
chị Thu mở cửa hàng tạp hoá tại nhà. Do cuộc sống chung không hoà hợp nên tháng
12/2006, chị Thu làm đơn yêu cầu xin ly hôn với anh Kiên. Cả hai vợ chồng chị đều có
yêu cầu chia diện tích đất có ngôi nhà trên đó.
Sau khi điều tra, Toà án nhân dân huyện YK xác định ngôi nhà 60m
2
/180m
2
đất
là tài sản chung vợ chồng. Tại bản án số 02/HNST ngày 20/2/2007, Toà án nhân dân
huyện YK quyết định chia cho mỗi bên một nửa diện tích đất trên, trong đó chị Thu
được sở hữu 90m
2
đất trên đó có ngôi nhà. Với lý do, chị Thu có công sức đóng góp
nhiều hơn trong việc mua đất, xây nhà và nuôi dạy con cái, hơn nữa thu nhập từ việc
bán hàng là nguồn sống duy nhất của mẹ con chị, chị lại là người trực tiếp nuôi dạy các
con. Còn anh Kiên sở hữu 90m
2
đất phía trong ngôi nhà.
Như vậy, bản án của Toà án nhân dân huyện YK là hoàn toàn hợp lý, giải quyết
theo đúng nguyên tắc chia tài sản chung, bảo vệ lợi ích của vợ, con chưa thành niên, lợi
ích của sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, trên thực tế cũng có những bản án chưa quán
triệt các nguyên tắc này nên đưa ra các phán quyết không phù hợp.
Ông Đỗ Quốc Việt và Bà Trần Thị Quyết kết hôn với nhau năm 1984 tại xã X -
Từ Liêm - Hà Nội. Sau khi kết hôn chị Quyết tiếp tục làm công nhân tại Công ty S còn
anh Việt ở nhà làm nông nghiệp. Năm 1997 chị Quyết xin nghỉ việc hưởng trợ cấp 1 lần
và ở nhà làm nông nghiệp cùng chồng. Tháng 5/2006 anh Việt xin ly hôn, và yêu cầu
chia tài sản chung vợ chồng.
Tại bản án số 85/2006/QĐST - LH ngày 10/11/2006, Toà án nhân dân huyện Từ
Liêm công nhận sự thuận tình ly hôn và thoả thuận về nuôi con của anh Việt, chị Quyết.
Về tài sản, xác định ngôi nhà cấp 4 là của ông Đ (bố anh Việt), giao toàn bộ diện tích
đất nông nghiệp cho anh Việt quản lý và anh Việt có trách nhiệm thanh toán phần tài
sản chênh lệch và công sức đóng góp của chị Quyết. Vì cho rằng, diện tích đất là tiêu
chuẩn của bố con anh Việt, chị Quyết trước đây là công nhân nên không được giao
quyền sử dụng đất. Bản án này đã không quán triệt nguyên tắc bảo vệ lợi ích của các
bên trong sản xuất, kinh doanh để họ ổn định cuộc sống sau khi ly hôn. Vì thực tế, chị
Quyết đã nghỉ việc từ lâu và hiện tại đang làm nông nghiệp cùng chồng mà không có
công ăn, việc làm gì khác để tạo thu nhập.
3.1.2.3. Về tài sản riêng của vợ, chồng khi ly hôn.

62
Mặc dù Luật HN&GĐ năm 2000 quy định rất cụ thể căn cứ để xác định tài sản
riêng, tài sản chung vợ chồng, nhưng trên thực tế việc áp dụng các quy định này để xác
định tài sản riêng, tài sản chung không phải lúc nào cũng dễ dàng. Vì tài sản của vợ
chồng có từ nhiều nguồn khác nhau, hoặc khi chung sống hòa thuận thường không có
sự phân biệt rạch ròi giữa tài sản riêng và tài sản chung,… Nếu các bên đã có sự thoả
thuận về việc xác định tài sản riêng thì Tòa án tôn trọng và ghi nhận sự thỏa thuận đó.
Tuy nhiên, trên thực tế sự thoả thuận này rất ít khi xảy ra vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến
quyền lợi của các bên nên họ không thừa nhận hoặc nếu thừa nhận đó là tài sản riêng
của bên kia thì lại cho rằng họ đã nhập tài sản đó vào khối tài sản chung của gia đình.
Trong khi đó, các quy định về việc nhập hay không nhập tài sản riêng vào tài sản chung
chưa rõ ràng nên trong quá trình xét xử, ở mỗi cấp Toà án lại đưa ra các phán quyết
khác nhau.
Ví dụ: Anh Nguyễn Đăng Minh được chị gái cho 35.000.000 đồng, anh đã mua
xe máy và 01 máy tính xách tay để thuận tiện cho việc đi lại của gia đình cũng như
công việc của mình. Khi ly hôn, chị Đỗ Thị Thanh không thừa nhận đó là tài sản riêng
của anh Minh mà nói đó là tài sản chung vợ chồng và anh Minh đã không chứng minh
được các tài sản sản đó có nguồn gốc từ tài sản được tặng cho riêng . Vì thế, tại bản án
số 07/LHST ngày 05/08/2007, Tòa án huyện YK (Ninh Bình) xác định đó là tài sản
chung của vợ chồng nên quyền và lợi ích của anh không được đảm bảo.
Ngoài ra, trường hợp vợ chồng không tự nguyện nhập tài sản riêng vào tài sản
chung nhưng trong quá trình chung sống, giá trị tài sản riêng đã tăng lên nhiều lần do
họ dùng tài sản chung để tu sửa thì Tòa án xác định phần giá trị tăng thêm và nhập vào
tài sản chung để chia. Hoặc tài sản riêng ở trong tình trạng hư hỏng nặng, gần như
không còn giá trị sử dụng và người có tài sản riêng đã dùng tài sản chung để khôi phục
lại giá trị của tài sản thì khi ly hôn Tòa án cần xác định đó là tài sản chung của vợ
chồng để chia. Hoặc trường hợp tài sản riêng có thể chuyển đổi thành tài sản khác có
giá trị tương đương mà vợ (hoặc chồng) không đồng ý nhập vào khối tài sản chung thì
khi ly hôn về nguyên tắc đó là tài sản riêng.
Hiện nay, có nhiều trường hợp vợ (hoặc chồng) vay mượn tiền bạc, tài sản của
người khác để chi dùng cho mục đích riêng hoặc thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng thì
phải thanh toán các khoản nợ đó bằng tài sản riêng của mình. Nhưng trong quá trình xét
xử, Tòa án thường gặp vướng mắc trong việc xác định các khoản nợ mà một bên vay

63
trong thời kì hôn nhân để phục vụ cho mục đích riêng của mình là nợ riêng hay nợ
chung của vợ chồng. Đã có rất nhiều trường hợp Tòa án xác định đó là nghĩa vụ chung
và được thanh toán bằng tài sản chung.
Ví dụ: Anh Nguyễn Anh Tuấn và Lê Thị Nga kết hôn năm 1989. Trong quá trình
chung sống, giữa họ thường xảy ra xô sát, cuối năm 2003 họ xin ly hôn. Tại bản án số
08/LHST năm 2004, Tòa án nhân dân huyện Mỹ Hào tỉnh Hưng Yên quyết định, công
nhận sự thuận tình ly hôn và thỏa thuận về nuôi con, chia tài sản chung. Nhưng giữa họ
lại xảy ra tranh chấp về các khoản nợ mà vợ, chồng vay trong thời kì hôn nhân là: năm
1992 vợ chồng anh vay của anh Lương 5 triệu đồng sau đó đã trả được 3 triệu đồng,
năm 1996 anh Tuấn có vay của bố mẹ anh 5 triệu đồng để mua xe máy đến nay vẫn
chưa trả được, năm 2001 anh Tuấn vay của anh trai 9 triệu đồng, anh dùng để trả khoản
nợ riêng hết 6.700.000 đồng, số còn lại chi dùng cho nhu cầu gia đình. Khi ly hôn, anh
Tuấn đề nghị Toà án giải quyết khoản nợ chung mỗi người một nửa nhưng chị Nga lại
cho rằng các khoản vay trên anh Tuấn tự chi trả cho nhu cầu cá nhân nên không đồng ý
với yêu cầu của anh Tuấn.
Tại bản án số 08/HNST năm 2004, Toà án nhân dân huyện Mỹ Hào tỉnh Hưng
Yên xác định, đây là khoản nợ chung trong thời kỳ hôn nhân với lý do là ngoài việc trả
nợ thì số tiền còn lại chi dùng cho nhu cầu gia đình và chiếc xe máy là phương tiện đi
lại của cả hai vợ chồng. Không đồng ý với quyết định của Toà án, chị Nga làm đơn
kháng cáo. Tại phiên Toà phúc thẩm, Toà án nhân dân tỉnh Hưng Yên, sau khi xem xét
nội dung vụ kiện đã xác định khoản nợ trên là nợ riêng của anh Tuấn nên anh Tuấn có
nghĩa vụ phải trả bằng tài sản riêng của mình.
3.1.2.4. Về cấp dưỡng giữa vợ chồng với nhau khi ly hôn.

Pháp luật đã quy định vợ chồng có nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau khi ly hôn
nhưng trên thực tế vấn đề này rất ít khi xảy ra. Theo quy định của Luật HN&GĐ năm
2000 thì vấn đề cấp dưỡng được đặt ra khi một bên có khó khăn túng thiếu, có yêu cầu
cấp dưỡng và có lý do chính đáng. Tuy nhiên, việc xác định thế nào là “ khó khăn, túng
thiếu” và khi nào thì sự khó khăn, túng thiếu đó được coi là “có lý do chính đáng” thì
Luật HN&GĐ năm 2000 và các văn bản hướng dẫn thi hành không quy định cụ thể. Vì
thế, việc áp dụng các quy định này trên thực tế gặp rất nhiều khó khăn.

64
Phổ biến hiện nay, là trường hợp một bên vợ hoặc chồng tự nguyện cấp dưỡng
cho bên kia, thường là cấp dưỡng một lần hoặc có trường hợp bên yêu cầu được cấp
dưỡng thực sự gặp khó khăn túng thiếu nhưng không có lý do chính đáng:
Ví dụ: Chị Nguyễn Thị Thu và anh Trần Văn Cường kết hôn tháng 11/1992 tại
UBND xã Tân Thành. Sau khi kết hôn, họ chung sống hạnh phúc đến năm 2005 thì phát
sinh mâu thuẫn, tháng 4/2007 chị Thu làm đơn xin ly hôn, yêu cầu chia tài sản chung và
giải quyết vấn đề con cái. Theo bản án số 04/2007/HNGĐ-ST, Toà án nhân dân huyện
Kim Sơn (Ninh Bình), quyết định giao cháu Trần Thị Ngân, sinh năm 1993 cho chị Thu
trực tiếp nuôi dưỡng, anh Cường có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 230.000đồng/tháng,
có quyền được thăm nom, chăm sóc con, yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con. Khi
ly hôn, anh Cường tự nguyện cấp dưỡng một lần 5.000.000đồng để giúp mẹ con chị
Thu ổn định cuộc sống và được Toà án chấp nhận.
Toà án nhân dân huyện Yên Khánh (Ninh Bình) khi giải quyết vụ ly hôn giữa
anh Nguyễn Văn Tám và chị Vũ Thị Kim xác định, anh chị kết hôn năm 1995 và chung
sống được 5 năm thì phát sinh mâu thuẫn do anh Tám thường xuyên uống rượu và đánh
đập vợ con. Khi ly hôn anh Tám yêu cầu Toà án buộc chị Kim phải cấp dưỡng cho anh
180.000đồng/tháng, định kỳ 6 tháng/lần. Xét thấy yêu cầu cấp dưỡng của anh Tám là
không có lý do chính đáng, tình trạng khó khăn, túng thiếu của anh là do nghiện ngập,
lười lao động nên Toà án bác yêu cầu cấp dưỡng của anh Tám.
3.1.2.5. Về quan hệ giữa cha mẹ và con khi ly hôn.

Khi giải quyết vấn đề ly hôn, Toà án cần phải cân nhắc kỹ lưỡng việc giao con
cho ai nuôi, cấp dưỡng nuôi con sao cho quyền lợi về mọi mặt của con được đảm bảo
và phù hợp với hoàn cảnh thực tế của cha mẹ sau khi ly hôn.
Trong thực tiễn xét xử, khi giải quyết vấn đề này, Toà án gặp phải một số vấn đề
bất cập như: việc quyết định thời điểm cấp dưỡng, mức cấp dưỡng nuôi con, giao con
cho ai trực tiếp nuôi để bảo đảm tốt nhất quyền lợi của con,… Đặc biệt là việc xác định
mức cấp dưỡng thường gặp nhiều vướng mắc vì mức cấp dưỡng phụ thuộc vào mức
sinh hoạt và thu nhập bình quân của người dân trong các khu vực dân cư. Có trường
hợp, Toà án căn cứ vào thu nhập của cha mẹ quá thấp nên mức cấp dưỡng nuôi con
không đảm bảo hoặc có trường hợp do bảo vệ quyền lợi của con mà quyết đinh mức
cấp dưỡng quá cao so với thu nhập của cha mẹ, hoặc vợ chồng tự thoả thuận về mức

65
cấp dưỡng nhưng không phù hợp, thậm chí không thể coi là cấp dưỡng được. Vì thế,
việc thi hành các bản án về cấp dưỡng nuôi con trên thực tế nhiều khi chỉ mang tính
hình thức. Do đó, khi giải quyết vấn đề này Toà án cần phải cân nhắc thận trọng để đưa
ra quyết định đúng đắn đảm bảo tốt nhất quyền lợi cho con, hạn chế những ảnh hưởng
tiêu cực của việc ly hôn tới sự phát triển bình thường của đứa trẻ. Có thể thấy trên thực
tế xét xử, rất nhiều Toà án đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa cha mẹ và con khi cha mẹ
ly hôn.
Ví dụ: Anh Dương Văn Hà và chị Nguyễn Thị Oanh kết hôn năm 1995 đến năm
2002 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Tháng 11/2006 anh Hà làm đơn xin ly hôn yêu
cầu chia tài sản chung, giải quyết vấn đề con cái.
Theo bản án số 01/2007/HNST, Toà án nhân dân huyện Yên Khánh chấp nhận
yêu cầu xin ly hôn của anh Hà và giao cho anh Hà trực tiếp nuôi cháu Dương Thuỳ
Linh, sinh năm 1996 và chị Oanh nuôi cháu Dương Khánh Ly, sinh năm 2003. Hai bên
không phải đóng góp phí tổn nuôi con chung cho nhau và có quyền thăm nom con
chung, không ai được ngăn cản.
Tuy nhiên, ngày 29/1/2007, chị Oanh làm đơn kháng cáo đề nghị được trực tiếp
nuôi con chung, do anh Hà thường xuyên đi công tác xa không có điều kiện chăm sóc,
nuôi dưỡng con. Bản án phúc thẩm số 03/HNPT của Toà án nhân dân tỉnh Ninh Bình
nhận định: Tại bản án sơ thẩm hai bên đã thoả thuận về việc nuôi con, song tại phiên
toà phúc thẩm cháu Linh có nguyện vọng được sống cùng mẹ, điều kiện và hoàn cảnh
của anh Hà thường xuyên đi công tác xa nên không thể chăm lo mọi mặt cho con. Chị
Oanh có công ăn việc làm ổn định, có đủ điều kiện để nuôi dưỡng, chăm sóc các con,
anh Hà cũng nhất trí với yêu cầu của chị. Vì vậy, để đảm bảo tốt nhất quyền lợi về mọi
mặt của các con, Toà án quyết định giao hai cháu Linh và cháu Ly cho chị Oanh trực
tiếp nuôi dưỡng còn anh Hà có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 350.000đồng/tháng và có
quyền thăm nom con mà không ai được ngăn cản.
Nhìn chung, khi giải quyết các vụ ly hôn, Toà án nhân dân các cấp đều đưa ra
quyết định khá chính xác và giảm thiểu được đáng kể việc xét xử lại nhiều lần gây lãng
phí về thời gian công sức. Việc áp dụng Luật HN&GĐ năm 2000 đã đảm bảo việc giải
quyết thoả đáng, hợp lý các tranh chấp phát sinh, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
của các bên, nâng cao hiệu quả công tác xét xử.

66
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về hậu quả pháp lý
của ly hôn.
Mặc dù, Luật HN&GĐ năm 2000 đã có nhiều quy định mới, tiến bộ hơn trong
việc xác định tài sản chung, tài sản riêng vợ chồng khi ly hôn,vấn đề cấp dưỡng giữa vợ
chồng, việc giải quyết mối quan hệ giữa cha mẹ và con. Nhưng, như đã phân tích ở
trên, trong thực tiễn xét xử việc áp dụng các quy định này vào giải quyết các vụ việc cụ
thể còn gặp phải những khó khăn nhất định. Do các quy định của pháp luật chưa cụ thể,
rõ ràng còn mang tính chung chung nên chưa có sự thống nhất trong xét xử giữa các
cấp Toà án.
Sau hơn 12 năm áp dụng các quy định của Luật HN&GĐ hiện hành, công tác xét
xử của Toà án nhân dân các cấp còn gặp nhiều khó khăn vướng mắc, các bản án, quyết
định của Toà án bị kháng cáo, kháng nghị còn nhiều, nhất là các tranh chấp về tài sản.
Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu đề tài “Một số vấn đề về hậu quả pháp lý của ly
hôn theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000”, cũng như những vướng mắc còn tồn
tại trong công tác xét xử đã được phân tích trên đây, tôi xin mạnh dạn đề xuất một số
kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của Luật HN&GĐ nói chung, hậu quả pháp lý
của ly hôn nói riêng.
3.2.1. Vấn đề xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng khi ly hôn (nếu có
tranh chấp ).
Trong việc giải quyết các hậu quả pháp lý của ly hôn, vấn đề chia tài sản của vợ
chồng khi ly hôn là điều cần thiết bảo đảm điều kiện sống cho mỗi bên sau ly hôn. Tuy
nhiên, vấn đề này cũng là hậu quả pháp lý phức tạp nhất, chứng kiến sự tan rã của các
vấn đề tinh thần, đạo đức, vật chất của một gia đình với chức năng là một tế bào cấu
thành nên xã hội. Trong các vụ án ly hôn, hậu quả pháp lý này thường là tranh chấp
nhiều và gay gắt nhất, việc giải quyết của Tòa án gặp nhiều khó khăn nhất.
Để tạo điều kiện cho Toà án giải quyết tốt hơn các tranh chấp về tài sản của vợ
chồng khi ly hôn, pháp luật cần quy định rõ hơn:
- Việc phân biệt nhập hay không nhập tài sản riêng vào tài sản sản chung để Toà
án có căn cứ xác định ranh giới giữa việc nhập hay không nhập tài sản riêng vào tài sản
chung để chia tài sản vợ chồng khi ly hôn được hợp lý và chính xác.

67
Việc phân biệt rõ ràng được việc nhập tài sản riêng vào tài sản chung rất quan
trọng, vì khi tình cảm vợ chồng đã không còn thì khi đó việc tranh chấp tài sản sẽ xảy
và việc chứng minh có “nhập vào tài sản chung” hay không là rất phức tạp.
- Cần dự liệu các biện pháp nhằm bảo đảm tài sản chung của vợ chồng để chia
khi ly hôn như niêm phong tài sản, hạn chế hành vi của vợ chồng sử dụng tài sản chung
trong các giao dịch với người khác, kể từ ngày Tòa án thụ lý vụ việc ly hôn.
Việ dự liệu các biện pháp nằm đảm bảo tài sản chung này cũng nhằm mục đích
vợ hoặc chồng tẩu tán tài sản làm của riêng hoặc lẩn tránh việc thực hiện nghĩa vụ
thanh toán với người thứ ba bằng tài sản.
- Cần có văn bản hướng dẫn cụ thể việc xác định “công sức đóng góp, hoàn cảnh
của mỗi bên trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung” để có sự thống
nhất trong xét xử giữa các cấp Toà án về chia tài sản chung vợ chồng khi ly hôn.
Việc xác định “công sức đóng góp” của mỗi bên cũng rất khó khăn khi Tòa án
xét xử: Đóng góp như thế nào?, đóng góp từ khi nào?, đóng góp bằng vật chất hay phi
vật chất?, đóng góp nhiều hay ít??....
3.2.2. Vấn đề cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn.

Theo quy định của pháp luật thì vấn đề cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn
được đặt ra nếu một bên có “khó khăn, túng thiếu, có yêu cầu cấp dưỡng và có lý do
chính đáng” và bên kia có khả năng cấp dưỡng. Tuy nhiên, Luật HN&GĐ 2000 và các
văn bản hướng dẫn thi hành không quy định cụ thể thế nào là “ khó khăn, túng thiếu” và
khi nào “khó khăn, túng thiếu” đó được coi là “có lý do chính đáng”. Vì vậy, Toà án
nhân dân Tối cao cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về vấn đề này để Toà án các cấp áp
dụng một cách triệt để các tranh chấp phát sinh, bảo vệ quyền lợi của các bên.
Hơn nữa theo Luật HN&GĐ năm 2000 có quy định rõ vấn đề cấp dưỡng một
lần. Cũng xét trên thực tế, việc cấp dưỡng một lần giữa vợ và chồng là hoàn toàn phù
hợp với đặc điểm tâm lý của vợ, chồng khi đã ly hôn. “Cấp dưỡng một lần” được hiểu
như “mua đứt bán đoạn”, sau khi thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thì nghĩa vụ cấp dưỡng
cho nhau sẽ chấm dứt hoàn toàn.
Tuy nhiên, cũng theo Luật HN&GĐ năm 2000 và Nghị định số 70/2001/NĐ-CP
cũng quy định rõ vấn đề “ cấp dưỡng bổ sung”. Điều 19 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP
quy định “ Trong trường hợp người được cấp dưỡng một lần lâm vào tình trạng khó

quyền chăm sóc, thăm nom con của người không được giao nuôi con sau ly hôn. Nên
68
khăn trầm trọng do bị tai nạn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo mà người đã thực hiện nghĩa
vụ cấp dưỡng có khả năng thực tế để cấp dưỡng ở mức cao hơn, thì phải cấp dưỡng bổ
sung theo yêu cầu của người được cấp dưỡng” [6]. Theo tôi đây là một vấn đề bất cập
và mâu thuẫn của việc quy định pháp luật về vấn đề cấp dưỡng, và cần phải đưa vào
sửa đổi bổ sung Luật HN&GĐ năm 2000 sắp tới. Nếu vẫn giữ vấn đề “cấp dưỡng bổ
sung” thì cần loại bỏ vấn đề “cấp dưỡng một lần” cho phù hợp với yêu cầu của thực tế
xã hội.
3.2.3. Vấn đề thời điểm cấp dưỡng và mức cấp dưỡng giữa cha mẹ và con khi vợ
chồng ly hôn.
Trong thực tiễn xét xử, việc xác định mối quan hệ giữa cha mẹ và con khi vợ
chồng ly hôn, Toà án các cấp thường gặp phải khó khăn khi xác định thời điểm cấp
dưỡng nuôi con khi cha mẹ ly hôn. Vấn đề này chưa được đề cập trong Luật HN&GĐ
nên khi thực hiện, tuỳ từng quan điểm mà các Toà án khác nhau có đường lối xử lý
khác nhau như: có Toà án quyết định thời điểm cấp dưỡng nuôi con tính từ ngày Toà án
cho vợ chồng ly hôn, có nơi lại tính từ ngày Toà án thụ lý đơn yêu cầu ly hôn của vợ
chồng… Vì vậy, cần có những quy định cụ thể về việc xác định thời điểm cấp dưỡng
tạo điều kiện thuận lợi cho công tác xét xử và bảo vệ tốt nhất quyền lợi của trẻ em khi
cha mẹ ly hôn.
+ Về mức cấp dưỡng. Cần nâng quy định mức cấp dưỡng linh hoạt hơn nữa để
bảo vệ các quyền cho con. Trên nguyên tắc là các bên tự thỏa thuận hay Tòa án quyết
định. Căn cứ vào mức thu nhập của bên phải cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của bên
được cấp dưỡng.
Nhưng trên thực tế, việc quy định mức cấp dưỡng giữa cha mẹ và con vẫn còn
nhiều bất cập và hình thức, chưa thực sự linh hoạt và bám sát được với mức sống vùng
miền, chưa bảo đảm được các quyền và lợi ích về sinh hoạt, học tập, khám chữa bệnh
và phát triển của con.
3.2.4. Về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con khi ly hôn.

Thực tế thi hành các bản án về cấp dưỡng nuôi con nhiều khi chỉ mang tính hình
thức, do bản án xác định trách nhiệm, mức cấp dưỡng không phù hợp với khả năng cấp
dưỡng của người chồng hay vợ.
Một thực tế khác là các bản án thường không tuyên các biện pháp để bảo đảm

69
thực tế sau khi ly hôn, các bên vẫn còn tranh chấp về quyền này khi một bên cố tình
không cho bên kia thăm hỏi, chăm sóc con, nhưng chưa có cơ chế để giải quyết.
Do đó, khi giải quyết vấn đề này Toà án cần phải cân nhắc thận trọng để đưa ra
quyết định đúng đắn đảm bảo tốt nhất quyền lợi cho con, hạn chế những ảnh hưởng tiêu
cực của việc ly hôn tới sự phát triển bình thýờng của ðứa trẻ.
Mặt khác, Luật HN&GÐ năm 2000 cũng cần sửa đổi để đưa ra các biện pháp
nhằm bảo đảm quyền của một bên hay trẻ em sau khi ly hôn, như : người không được
giao nuôi con được quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con vì lợi ích của đứa trẻ
hay vì một bên ngãn cản bên kia thực hiện các quyền hợp pháp của mình.
3.2.5. Giải quyết hậu quả pháp lý của ly hôn cần được xem xét trên cơ sở “lỗi” của
vợ, chồng.
Pháp luật hiện nay quy định căn cứ giải quyết ly hôn không dựa vào lỗi của vợ,
chồng như: một bên ngoại tình, nghiện ngập, cờ bạc, rượu chè... Nhưng để giải quyết
hậu quả pháp lý của ly hôn cần xem xét trên cơ sở lỗi của vợ, chồng.
Ví dụ: Nếu vợ, chồng bên nào có lỗi dẫn đến ly mâu thuẫn và ly hôn giữa vợ chồng thì
không được chia tài sản chung ngang bằng hoặc nhiều hơn, mặc dù có công sức, thu
nhập cao hơn so với bên kia; không được giao nuôi con chưa thành niên; nếu túng thiếu
có yêu cầu cấp dưỡng thì Tòa án cũng không chấp nhận yêu cầu đó.
Việc quy định như vậy là hợp lý, bảo đảm được sự công bằng về quyền và lợi
ích hợp pháp của vợ chồng... Cũng qua việc quy định căn cứ giải quyết ly hôn dựa vào
“lỗi” của vợ, chồng thì cũng là một biện pháp răn đe cho các bên, tránh vướng vào các
tệ nạn để dẫn đến nguy cơ đổ vỡ hạnh phúc gia đình.
3.2.6. Công tác xét xử và tổng kết công tác xét xử của Tòa án.

Trong quá trình xét xử, do không vận dụng đúng tinh thần các quy định của pháp
luật hoặc do trình độ chuyên môn nghiệp vụ của các Thẩm phán chưa đồng đều nên các
phán quyết của Toà án còn nhiều sai sót. Vì vậy, bên cạnh việc hoàn thiện các quy định
của pháp luật cần chú ý tới việc nâng cao chất lượng đào tạo, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ cho cán bộ Toà án để phục vụ tốt cho công tác xét xử.
Mặt khác, việc tổng kết công tác xét xử hàng năm để rút ra các bài học kinh
nghiệm, làm rõ các vấn đề pháp lý còn vướng mắc sẽ góp phần tích cực trong việc sửa
đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật về HN&GĐ nói chung, hậu quả pháp lý của ly hôn

70
nói riêng. Qua đó, việc xét xử các vụ án ly hôn của Tòa án sẽ ngày càng minh bạch, phù
hợp với thực tế, hạn chế việc xét xử kéo dài, tiết kiệm thời gian, công sức, kinh phí cho
Nhà nước, xã hội và bản thân các bên đương sự.

71
KẾT LUẬN

Ngày nay, vấn đề ly hôn đã được nhìn nhận theo chiều hướng tích cực hơn
nhưng những ảnh hưởng tiêu cực mà nó để lại cho gia đình và xã hội là không nhỏ.
Việc giải quyết hậu quả pháp lý của ly hôn là một vấn đề mang ý nghĩa xã hội sâu sắc.
Bởi hậu quả của ly hôn không chỉ là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật
mà còn làm phát sinh hàng loạt các vấn đề liên quan tới tài sản vợ chồng, nghĩa vụ cấp
dưỡng giữa vợ chồng, đặc biệt là việc giải quyết mối quan hệ giữa cha mẹ và con khi ly
hôn.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển các quy định của Luật HN&GĐ trước đây, Luật
HN&GĐ năm 2000 đã quy định khá đầy đủ và cụ thể về hậu quả pháp lý của ly hôn.
Những quy định này tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết các tranh chấp phát sinh, bảo
vệ được lợi ích chính đáng của các bên đặc biệt là quyền lợi của phụ nữ và trẻ em. Tuy
nhiên, việc áp dụng các quy định này trong thực tiễn xét xử của Toà án nhân dân các
cấp còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc do các tranh chấp nảy sinh trong lĩnh vực
HN&GĐ ngày càng phức tạp, trong khi đó một số quy định của Luật HN&GĐ 2000
chưa thực sự cụ thể, rõ ràng. Trên thực tế, có rất nhiều vụ án ly hôn phải kéo dài qua
nhiều cấp xét xử, hoặc có trường hợp trong cùng một nội dung vụ việc nhưng ở các cấp
xét xử khác nhau lại có cách giải quyết khác nhau. Vì vậy, cần phải hoàn thiện các quy
định của pháp luật kết hợp với việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho
người dân, thực hiện tốt việc nâng cao chất lượng công tác xét xử của Tòa án.
Trong nội dung luận văn tác giả đã đưa ra một số hướng tiếp cận vấn đề khá mới, đó
là việc pháp luật cần quy định rõ ràng, đồng nhất hơn nữa về vấn đề “ cấp dưỡng một
lần” và “ bổ sung cấp dưỡng” giữa vợ, chồng khi ly hôn; vấn đề giải quyết hậu quả
pháp lý của ly hôn cần được xem xét trên cơ sở “lỗi” của vợ, chồng... Chính những vấn
đề còn tồn tại trên đã dẫn đến việc áp dụng và hoạt động xét xử của Tòa án rất phức tạp
và khó khăn. Việc nghiên cứu và xem xét toàn diện các vấn đề về hậu quả pháp lý của
ly hôn sẽ góp phần hoàn thiện pháp luật về hôn nhân và gia đình Việt nam trong thời kỳ
mới.

DANH MỤC VĂN BẢN PHÁP LUẬT VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Các văn bản pháp luật hiện hành

1. Hiến pháp năm 1992.

2. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.

3. Nghị quyết của Quốc hội số 35/2000/NQ- QH10 ngày 9/6/2000 “về việc thi
hành Luật Hôn nhân và gia đình”.
4.Thông tư liên tịch của TANDTC, VKSNDTC, Bộ Tư pháp số 01/2001/TTLT-
TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 3/1/2001 hướng dẫn thi hành Nghị quyết của
Quốc hội số 35/2000/NQ- QH10 ngày 9/6/2000 “về việc thi hành Luật Hôn nhân
và gia đình”.
5. Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao số 02/NQ-HĐTP ngày
23/12/2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình
năm 2000.
6. Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 quy định chi tiết thi hành Luật
Hôn nhân và Gia đình.
7. Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao số 01/2003/NQ-HĐTP
ngày 16/4/2003 hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại
tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình.
8. Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao số 02/2004/NQ-HĐTP
ngày 10/8/2004 hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân
sự, hôn nhân và gia đình.
9. Bộ luật Dân sự năm 2005.

10. Luật Đất đai năm 2003.

11. Luật Nhà ở năm 2005.

II. Các văn bản pháp luật tham khảo

12. Bộ luật Hồng Đức.

13. Bộ luật Gia Long.

14. Tập Giản yếu năm 1883 áp dụng ở Nam Kỳ.

15. Dân luật Bắc kỳ năm 1931 áp dụng ở Bắc Kỳ.

16. Dân luật Trung kỳ năm 1936 áp dụng ở Trung kỳ.

17. Luật gia đình (Luật số 1/59).

18. Sắc luật số 15/64 ngày 23-7-1964 dưới chế độ ngụy quyền Sài Gòn.

19. Bộ luật Dân sự Sài Gòn năm 1972 .

20. Hiến pháp năm 1946.

21. Sắc lệnh số 97 ngày 22-05-1950 về Sửa đổi một số quy lệ và chế định trong
dân luật.
22. Sắc lệnh 159 ngày17-11-1950 về Ly hôn.

23. Hiến pháp năm 1959.

24. Luật HN&GĐ năm 1959.

25. Luật HN&GĐ năm 1986.

26. Hiến pháp năm 1980.

III. Các tài liệu tham khảo liên quan.

27. C.Mác – Ph.Ăngghen, toàn tập “ Nguồn gốc của gia đình , của chế độ tư hữu
và Nhà nước”, NXB Sự thật, Hà nội năm 2000.
28. “ Căn cứ ly hôn trong cổ luật Việt nam” TS Nguyễn Thị Thu Vân, tạp chí
Nhà nước và Pháp Luật, Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật số 08/2005.
29. Về việc xem xét nguyện vọng của con khi giải quyết vấn đề giao con cho ai
nuôi trong các vụ án ly hôn. Ths Bùi Thị Mừng, Tạp chí luật học Trường Đại học Luật
Hà nội, số 30 năm 2004.
30. Nguyễn Văn Cừ (2003), “ Quyền bình đẳng của vợ chồng đối với tài sản
thuộc sở hữu chung hợp nhất theo Luật HN&GĐ Việt nam năm 2000”, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, số 64 năm 2006 .
31. Ths Nguyễn Văn Cừ - Ths Ngô Thị Hường (2002), “ Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn về Luật HN&GĐ năm 2000”, NXB Chính trị Quốc gia.
32. Bình luận khoa học Luật HN&GĐ Việt nam năm 2000, NXB Chính trị Quốc
gia (2004).

33. Tòa án nhân dân tối cao, Báo cáo tổng kết ngành tòa án năm 2006

34. Tòa án nhân dân tối cao, Báo cáo tổng kết ngành tòa án năm 2007

35. Tòa án nhân dân tối cao, Báo cáo tổng kết ngành tòa án năm 2008

36. Tòa án nhân dân tối cao, Báo cáo tổng kết ngành tòa án năm 2009

37. Tòa án nhân dân tối cao, Báo cáo tổng kết ngành tòa án năm 2010

38. Tòa án nhân dân tối cao, Báo cáo tổng kết ngành tòa án năm 2011

39. Tòa án nhân dân tối cao, Báo cáo tổng kết ngành tòa án năm 2012

40. Quyết định Giám đốc thẩm số 227/2011/DS-GĐT ngày 23.3.2011 của Tòa
án nhân dân tối cao, Tòa Dân sự về việc : “Chia tài sản sau ly hôn”.
41. Giáo trình Luật HN&GĐ của Trường ĐH Luật Hà nội, NXB Công an nhân
dân năm 2008.
42. Bình luận khoa học Luật HN&GD Việt nam của TS. Nguyễn Ngọc Điện,
NXB TP. Hồ Chí Minh năm 2002.
43 Ly hôn – nghiên cứu trường hợp Hà nội, Nguyễn Thanh Tâm ( Chủ biên )
NXB Khoa học xã hội, năm 2002.
44. Những vấn đề đã được sửa đổi, bổ sung trong Luật HN&GĐ năm 2000,
Nguyễn Đức Lương, Tạp chí Kiểm sát số 3/2000.
45. Một số ý kiến về Dự thảo Luật HN&GĐ ( sửa đổi ) Ngô Minh Tuấn, Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật số 3/2000.
46. “Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 với việc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ”,
Ths Trần Thị Huệ, Đặc san luật học trường Đại học Luật Hà nội số 03/2004.
47. Nghị quyết số 01 ngày 01.01.1988 Hướng dẫn áp dụng một số quy định của
Luật HN&GĐ năm 1986.
Tags