Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
4
Thứ năm, việc xây dựng và thực thi pháp luật kiểm soát TTKT
9
là để thực
hiện các mục tiêu của chính sách kiểm soát TTKT
10
. Trong chính sách công cũng
bao hàm cả chính sách về bảo đảm an ninh quốc gia, trong đó có an ninh kinh tế.
Hiện tại, mục tiêu cốt lõi của chính sách kiểm soát TTKT của Việt Nam mới chỉ
nhằm đảm bảo hoạt động TTKT không hoặc không tiềm ẩn nguy cơ gây ra tác động
tiêu cực tới hoạt động cạnh tranh trên thị trường, mục tiêu bảo đảm an ninh kinh tế
trong kiểm soát TTKT chưa được tính đến. Vì vậy cần nghiên cứu bổ sung các tiêu
chí xem xét các vụ TTKT nhằm hướng đến mục tiêu này.
Thứ sáu, vấn đề cơ cấu lại doanh nghiệp, bao gồm các hình thức TTKT đã được
quy định trong pháp luật về doanh nghiệp kể từ sau khi Việt Nam tiến hành đổi mới,
xây dựng những nền móng cho KTTT
11
và tiếp tục được đề cập, hoàn thiện bởi các đạo
luật về doanh nghiệp
12
. Kể từ sau khi LCT 2004 ra đời, đặc biệt khi Việt Nam chính
thức là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới, các hoạt động TTKT đã bắt đầu
khởi sắc, hoạt động TTKT tại Việt Nam tăng trưởng mạnh
13
. Xu thế chủ đạo vẫn là làn
9
Xem thêm: Hà Ngọc Anh (2011), Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế và an ninh kinh tế của Việt Nam,
Tạp chí Khoa học an ninh, Số 21.
10
Ở mỗi quốc gia, chính sách kiểm soát TTKT là một bộ phận trong tổng thể các chính sách của Chính phủ,
bao gồm chính sách công, chính sách kinh tế nói chung và chính sách cạnh tranh nói riêng. Xem: Cục Quản
lý cạnh tranh, Báo cáo tập trung kinh tế Việt Nam. Theo B. Guy Peter, “Chính sách công là toàn bộ các hoạt
động của Nhà nước có ảnh hưởng một cách trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công dân”. (Trích
theo: Đặng Ngọc Lợi (2008), Chính sách công ở Việt Nam: Lý luận và thực tiễn, Tạp chí Kinh tế và Dự báo,
Số 12). Rõ ràng pháp luật kiểm soát TTKT như công cụ của chính sách cạnh tranh, chính sách công trực tiếp
hay gián tiếp có ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống của mọi công dân.
11
Cụ thể là Luật Công ty năm 1990. Các đạo luật về chủ thể kinh doanh của Việt Nam giai đoạn này cũng đã
lần lượt ghi nhận các hình thức tổ chức lại doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 1995 tại Điều 20
có quy định việc sáp nhập là một trong những giải pháp tổ chức lại các doanh nghiệp nhà nước. Tương tự,
Luật Hợp tác xã năm 1997 tại Điều 44 đã ghi nhận quyền hợp nhất các hợp tác xã với nhau. Tuy nhiên, các
quy định kể trên mới chỉ đơn giản là việc ghi nhận các quyền cơ bản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc thành
viên của công ty trong việc thực hiện các hoạt động nhằm tái cơ cấu, cấu trúc lại doanh nghiệp và vấn đề này
được nhìn nhận thuần túy dưới góc độ pháp luật về doanh nghiệp mà không nhìn nhận vấn đề sáp nhập, hợp
nhất doanh nghiệp dưới góc độ PLCT. Ngoài ra, các quy định về trình tự, thủ tục để thực hiện việc sáp nhập,
hợp nhất cũng chưa được các luật này quy định cụ thể.
12
Luật Doanh nghiệp năm 1999 (thay thế Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty năm 1990) đã có những
bước phát triển mới trong việc ghi nhận khá đầy đủ về các giải pháp tổ chức lại công ty, trong đó có hai hình thức
cơ bản liên quan đến vấn đề TTKT là sáp nhập và hợp nhất công ty. Một điểm mới của Luật Doanh nghiệp năm
1999 là đã có các quy định về chuyển nhượng vốn, mua bán cổ phần, phát hành cổ phần, cổ phiếu đặt nền móng
cho việc hình thành khung pháp lý về TTKT, mặc dù vẫn đang được xem xét dưới góc độ pháp luật về doanh
nghiệp. Ngoài ra, Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng đã có quy định
cụ thể cũng như lộ trình, thủ tục thực hiện các biện pháp tổ chức lại, chuyển đổi sở hữu đối với công ty nhà nước.
Các quy định này gắn liền với hoạt động TTKT như sáp nhập, hợp nhất, khoán, cho thuê, bán toàn bộ hoặc một
phần công ty nhà nước (Chương VII, Chương VIII Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003).
13
Nếu như ở những giai đoạn đầu tiên, các giao dịch TTKT chủ yếu diễn ra tại thị trường nội địa thì ở giai đoạn
2012 – 2016, một số doanh nghiệp Việt Nam cũng bắt đầu thực hiện các thương vụ ở nước ngoài (ví dụ Vinamilk,
Viettel, FPT…). Tổng quy mô giao dịch giai đoạn 2009 - 2014 đạt khoảng 18 tỷ đô la Mỹ. Số thương vụ được công
bố trong các năm từ 2006 đến 2010 có xu hướng tăng ổn định, cụ thể năm 2006 (38 vụ), 2007 (108 vụ), 2008 (146
vụ), 2009 (295 vụ), 2010 (345 vụ). Giá trị các thương vụ cũng tăng mạnh kể từ năm 2005 và năm 2007