Pháp luật về hộ tịch ở huyện Mê Linh, Hà Nội

Sangtran2010 183 views 108 slides May 31, 2022
Slide 1
Slide 1 of 108
Slide 1
1
Slide 2
2
Slide 3
3
Slide 4
4
Slide 5
5
Slide 6
6
Slide 7
7
Slide 8
8
Slide 9
9
Slide 10
10
Slide 11
11
Slide 12
12
Slide 13
13
Slide 14
14
Slide 15
15
Slide 16
16
Slide 17
17
Slide 18
18
Slide 19
19
Slide 20
20
Slide 21
21
Slide 22
22
Slide 23
23
Slide 24
24
Slide 25
25
Slide 26
26
Slide 27
27
Slide 28
28
Slide 29
29
Slide 30
30
Slide 31
31
Slide 32
32
Slide 33
33
Slide 34
34
Slide 35
35
Slide 36
36
Slide 37
37
Slide 38
38
Slide 39
39
Slide 40
40
Slide 41
41
Slide 42
42
Slide 43
43
Slide 44
44
Slide 45
45
Slide 46
46
Slide 47
47
Slide 48
48
Slide 49
49
Slide 50
50
Slide 51
51
Slide 52
52
Slide 53
53
Slide 54
54
Slide 55
55
Slide 56
56
Slide 57
57
Slide 58
58
Slide 59
59
Slide 60
60
Slide 61
61
Slide 62
62
Slide 63
63
Slide 64
64
Slide 65
65
Slide 66
66
Slide 67
67
Slide 68
68
Slide 69
69
Slide 70
70
Slide 71
71
Slide 72
72
Slide 73
73
Slide 74
74
Slide 75
75
Slide 76
76
Slide 77
77
Slide 78
78
Slide 79
79
Slide 80
80
Slide 81
81
Slide 82
82
Slide 83
83
Slide 84
84
Slide 85
85
Slide 86
86
Slide 87
87
Slide 88
88
Slide 89
89
Slide 90
90
Slide 91
91
Slide 92
92
Slide 93
93
Slide 94
94
Slide 95
95
Slide 96
96
Slide 97
97
Slide 98
98
Slide 99
99
Slide 100
100
Slide 101
101
Slide 102
102
Slide 103
103
Slide 104
104
Slide 105
105
Slide 106
106
Slide 107
107
Slide 108
108

About This Presentation

Pháp luật về hộ tịch ở huyện Mê Linh, Hà Nội. Đã chia sẻ đến cho các bạn những bài mẫu luận văn thạc sĩ về ngành luật hiến pháp hoàn toàn miễn phí nhé.


Slide Content

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA














THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỘ TỊCH

Ở HUYỆN MÊ LINH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI



Nhận viết thuê luận văn thạc sĩ chất lượng, điểm cao
Zalo : 0932.091.562


LUẬN VĂN THẠC SĨ

CHUYÊN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP





HÀ NỘI - NĂM 2022

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA














THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỘ TỊCH

Ở HUYỆN MÊ LINH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI









LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP




Chuyên ngành: Luật hiến pháp

Mã số:





NGƢỜI HƢỚNG DẪ N KHOA HỌC: PGS-TS LÊ THỊ HƢƠNG











HÀ NỘI - NĂM 2022

LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan

các thông tin được trình bày trong luận văn
là kết quả thu được từ quá trình nghiên cứu
và tìm hiểu thực tế của bản thân.




Tác giả luận văn







Hoàng Thị Bảo Trang

LỜI CẢM ƠN


Cùng với sự cố gắng, nỗ lực của bản thân trong việc nghiên cứu tham khảo
tài liệu, để hoàn thành được luận văn một cách tương đối hoàn chỉnh, tác giả luận
văn xin bày tỏ lời tri ân sâu sắc tới Ban Giám đốc, Khoa sau Đại học, các Thầy,
Cô giáo Học viện Hành chính quốc gia đã tận tình, chu đáo giảng dạy và truyền
đạt kiến thức trong thời gian tác giả học tập, nghiên cứu tại trường. Đặc biệt, xin
gửi lời cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS. Lê Thị Hương vì sự tận tình hướng dẫn, giúp
đỡ tác giả trong quá trình thực hiện luận văn.

Xin cảm ơn UBND huyện Mê Linh, phòng Tư pháp huyện Mê Linh, UBND
xã Liên Mạc đã cung cấp thông tin và số liệu phục vụ cho công tác nghiên cứu
của tác giả.

Tác giả cũng xin được gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè đã
có những chia sẻ thông tin và tài liệu quan trọng, động viên khích lệ tinh thần để
tác giả hoàn thành tốt luận văn này.

Trong quá trình nghiên cứu, tác giải đã cố gắng tìm hiểu tài liệu, học hỏi
kinh nghiệm, tiếp thu ý kiến của PGS.TS Lê Thị Hương để hoàn thành luận văn.
Tuy nhiên, do hiểu biết còn hạn chế, kinh nghiệm thực tế chưa nhiều nên luận
văn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự chỉ bảo
của các Thầy, Cô giáo trong Hội đồng chấm luận văn, sự đóng góp của bạn đọc
để bản thân được tiếp thu, học tập và nghiên cứu tốt hơn trong những công trình
tiếp theo.

Xin trân trọng cảm ơn!

Tác giả luận văn




Hoàng Thị Bảo Trang

MỤC LỤC


MỞ ĐẦU.......................................................................................................................................................................9

Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA THỰC HIỆN PHÁP

LUẬT VỀ HỘ TỊCH .......................................................................................................................................14

1.1. Quan niệm về hộ tịch và pháp luật về hộ tịch.......................................................................14

1.2. Quan niệm thực hiện pháp luật về hộ tịch ...............................................................................20

1.3. Yêu cầu và các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật về hộ tịch ...............................32

1.3.1. Yêu cầu thực hiện pháp luật về hộ tịch .................................................................................32

1.3.2. Các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật về hộ tịch ....................................................35

Kết luận chƣơng 1 ............................................................................................................................................42

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỘ TỊCH Ở

HUYỆN MÊ LINH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ............................................................................43

2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của huyện Mê Linh ................................................43

2.2. Phân tích thực trạng thực hiện pháp luật về hộ tịch .........................................................46

2.2.1. Tình hình triển khai thực hiện pháp luật về hộ tịch ở huyện Mê Linh ..........46

2.2.2. Những kết quả đã đạt được trong thực hiện pháp luật về hộ tịch ở huyện

Mê Linh ........................................................................................................................................................................50

2.2.3. Những hạn chế và nguyên nhân trong thực hiện pháp luật về hộ tịch ở

huyện Mê Linh ........................................................................................................................................................54

2.3. Bài học kinh nghiệm trong thực hiện pháp luật về hộ tịch ở huyện Mê Linh,

thành phố Hà Nội ..................................................................................................................................................70

Kết luận chƣơng 2 ............................................................................................................................................72

Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢ I PHÁP BẢO ĐẢM THỰC

HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỘ TỊCH Ở HUYỆN MÊ LINH, THÀNH PHỐ

HÀ NỘI.......................................................................................................................................................................73

3.1. Phương hướng thực hiện pháp luật về hộ tịch ở huyện Mê Linh, thành phố

Hà Nội ...........................................................................................................................................................................73

3.1.1. Đối với Ủy ban nhân dân huyện.................................................................................................73

3.1.2. Đối với phòng Tư pháp huyện......................................................................................................73

3.1.3. Đối với Ủy ban nhân cấp xã..........................................................................................................74

3.1.4. Đối với công chức Tư pháp – Hộ tịch....................................................................................74

3.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về hộ tịch ở huyện Mê Linh, thành

phố Hà Nội .................................................................................................................................................................74

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về hộ tịch .................................................................................................74

3.2.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý và nâng cao năng lực cho đội ngũ cán

bộ, công chức thực hiện đăng ký và quản lý hộ tịch..................................................................76

3.2.3. Nâng cao nhận thức thực hiện pháp luật về hộ tịch của các chủ thể, đồng

thời tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức của người dân trong việc thực hiện

đăng ký hộ tịch .......................................................................................................................................................81

3.2.4. Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật trong

việc thực hiện pháp luật về hộ tịch..........................................................................................................81

3.2.5. Áp dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin trong đăng ký và quản lý

hộ tịch............................................................................................................................................................................87

3.2.6. Cải cách thủ tục hành chính trong việc đăng ký hộ tịch .........................................89

Kết luận chƣơng 3 ............................................................................................................................................91

KẾT LUẬN .............................................................................................................................................................92

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................95

PHỤ LỤC..................................................................................................................................................................97

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
1. UBND Uỷ ban nhân dân
2. THADS Thi hành án dân sự
3. TP-HT Tư pháp – Hộ tịch
4. TLPL Tâm lý pháp luật
5. VBQPPL Văn bản quy phạm pháp luật

DANH MỤC BẢNG BIỂU


Bảng 1. KẾT QUẢ ĐĂNG KÝ NUÔI CON NUÔI TẠI UBND CẤP XÃ
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN [23, tr.2]

Bảng 2. KẾT QUẢ ĐĂNG KÝ KHAI SINH, KHAI TỬ, KẾT HÔN
TRONG NƯỚC TẠI UBND CẤP XÃ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN [23, tr3]
Bảng 3. KẾT QUẢ ĐĂNG KÝ KHAI SINH, KHAI TỬ, KẾT HÔN

TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN [23, tr4]

Bảng 4. KẾT QUẢ ĐĂNG KÝ CÁC VIỆC HỘ TỊCH KHÁC TRÊN ĐỊA
BÀN HUYỆN [23, tr5]

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Hộ tịch là những sự kiện cơ bản trong đời sống một con người như: Sinh,
tử, kết hôn, ly hôn, giám định, nuôi con nuôi, thay đổi họ, tên, quốc tịch... Một
trong những nội dung liên quan đến hoạt động quản lý con người là công tác
quản lý hộ tịch. Con người là nhân tố trung tâm của mọi quan hệ xã hội, là chủ
thể quan trọng và quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Chính
vì vậy, vấn đề đầu tiên của xã hội là quản lý con người.

Thực hiện pháp luật về hộ tịch là quyền và nghĩa vụ của mỗi người được
thực hiện theo trình tự, thủ tục do pháp luật về hộ tịch quy định. Những sự kiện
hộ tịch được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận bằng văn bản và ghi vào
sổ hộ tịch. Những giấy tờ, hộ tịch đã được xác nhận và được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền ghi nhận nhằm để cá biệt hoá một công dân, đây là những chứng
cứ pháp lý trong các trường hợp cần thiết. Mặt khác việc đăng ký hộ tịch giúp
cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc quản lý dân số, là cơ sở khoa
học để xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng và trật
tự, an toàn xã hội.

Trong quản lý nhà nước, thực hiện pháp luật về hộ tịch là một lĩnh vực hoạt
động được chú trọng và là nhiệm vụ của ngành Tư pháp.

Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác nhận tình trạng nhân thân của một con
người từ khi sinh ra đến khi chết. Thực hiện pháp luật về hộ tịch không những
liên quan đến nhân thân của con người mà còn liên quan đến chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ
cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước, thể chế hóa mối
quan hệ Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý.

Nhận thức được vị trí và vai trò quan trọng của việc thực hiện pháp luật về
hộ tịch nên trong những năm qua, kể từ khi thực hiện Nghị định 158/2005/NĐ-
CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch cũng như Luật
Hộ tịch năm 2014 và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số
điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch cùng với Thông tư số 15/2015/TT-BTP
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hộ tịch và Nghị định số

9

123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và
biện pháp thi hành Luật Hộ tịch... Đây chính là cơ sở pháp lý để công dân thực hiện
các quyền nhân thân và Nhà nước thực hiện sự quản lý đối với công dân.

Có thể nói, từ khi có các VBQPPL nói trên, công tác đăng ký và quản lý hộ
tịch đã đạt được một số kết quả bước đầu, từng bước ổn định và đi vào nề nếp.
Người dân đã nhận thức tầm quan trọng của giấy tờ hộ tịch nên không tùy tiện
sữa chữa, thêm, bớt, tự giác đi đăng ký các sự kiện hộ tịch theo quy định của
pháp luật. Không còn tình trạng "sinh không khai, tử không báo" như trước đây.

Thực tế cho thấy, cũng như nhiều địa phương khác trên cả nước, công tác
thực hiện pháp luật về hộ tịch ở huyện Mê Linh vẫn còn một số tồn tại, bất cập
chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách hành chính và cải cải cách tư pháp trong
giai đoạn mới. Tình trạng cơ quan, tổ chức, đoàn thể chưa xác định đúng giá trị
pháp lý của giấy tờ hộ tịch, về thẩm quyền giải quyết các yêu cầu về hộ tịch, còn
gây nhiều khó khăn cho công dân. Thực trạng trên có nguyên nhân xuất phát từ
nhận thức chưa đầy đủ quy định của pháp luật về đăng ký và quản lý hộ tịch của
một bộ phận cán bộ, công chức và nhân dân; sự phối hợp thiếu nhịp nhàng giữa
các cơ quan hữu quan trong việc giải quyết những sai sót trong hồ sơ, giấy tờ cá
nhân; công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý về
đăng ký và quản lý hộ tịch chưa thực sự sâu rộng; năng lực của một số công chức
còn hạn chế...

Nhằm khắc phục những hạn chế, tồn tại, vướng mắc trên và góp phần đề xuất
những phương hướng và giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về hộ tịch, tác
giả chọn đề tài “Thực hiện pháp luật về hộ tịch ở huyện Mê Linh, thành phố Hà
Nội” làm luận văn Thạc sỹ Luật chuyên ngành Luật Hiến pháp – Luật Hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu

Ở Việt Nam, vấn đề thực hiện pháp luật nói chung và thực hiện pháp luật
trên từng lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội (trong đó có lĩnh vực hộ tịch) đã
được Đảng, Nhà nước và đặc biệt là các nhà khoa học, những người làm công tác
lý luận nghiên cứu trên nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau như:

- Ths. Phạm Trọng Cường: Từ quản lý đinh đến quản lý hộ tịch, Nxb. Tư
Pháp, Hà Nội, 2007;

10

- Ths. Phạm Trọng Cường: Về quản lý hộ tịch, NXB. Chính trị quốc gia, 2004;

- Viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp: Bảo vệ quyền trẻ em
trong pháp luật về quốc tịch và đăng ký hộ tịch ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2000;

- Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp: Chuyên đề thông tin
khoa học pháp lý về hộ tịch, Hà Nội, 1995;

- Nguyễn Thị Hồng Liên: Quản lý hộ tịch ở thành phố Hồ Chí Minh, luận
văn thạc sĩ luật học, 1996;

- Lê Thị Hoàng Yến: Đăng ký hộ tịch thực tiễn và hướng hoàn thiện, Luận
văn thạc sĩ luật học, 2002;

- Tổng cục Thống kê: Một số kết quả về dự án cải tiến đăng ký hộ tịch và
thống kê dân số, NXB. Thống kê, 1989;

- Bài “Nâng cao năng lực đội ngũ công chức Tư pháp – hộ tịch trong giai
đoạn hiện nay”, Tác giả Trần Văn Quảng, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật tháng 9
năm 2006;

- Số chuyên đề về “Công chứng, hộ tịch và quốc tịch:, phần 2 hộ tịch và
quốc tịch", Bộ Tư pháp, Hà Nội, 2007;

- Bài “Tư pháp Hà Nội không khó khăn mà từ chối đăng ký khai sinh”, tác
giả Đàm Thị Kim Hạnh, tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tháng 03 năm 2008;

- “Hôn nhân biên giới và những vướng mắc trong thủ tục đăng ký kết hôn”,
tác giả Phạm Trọng Cường, Tập san Biên giới và lãnh thổ, số 9 (tháng 4-2001)...

Những công trình nghiên cứu nói trên đã nghiên cứu những vấn đề chung
của thực hiện pháp luật, thực hiện pháp luật trên một số lĩnh vực của đời sống xã
hội. Nhưng đến nay chưa có công trình nào dưới góc độ lý luận và thực trạng
thực hiện pháp luật, lý giải các nguyên nhân và đề ra phương hướng bảo đảm
thực hiện pháp luật về Hộ tịch nói chung và ở huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội
nói riêng.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích

Trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu và đánh giá đúng tình hình thực hiện pháp
luật về hộ tịch ở huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội trong những năm qua và hiện

11

nay, luận văn đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm bảo đảm thực
hiện pháp luật về hộ tịch ở huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ

- Nghiên cứu cơ sở lý luận của thực hiện pháp luật về hộ tịch.

- Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về hộ tịch tịch ở huyện Mê Linh,
thành phố Hà Nội trong thời gian qua.

- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về
hộ tịch ở huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Các quy định của pháp luật hộ tịch và các văn bản của UBND huyện Mê
Linh trong lĩnh vực hộ tịch.

Thực tiễn hoạt động đăng ký và quản lý hộ tịch ở cấp xã trên địa bàn huyện

Mê Linh.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về hộ tịch và hoạt
động thực hiện pháp luật về hộ tịch ở huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội từ năm
2014 (kể từ khi có Luật Hộ tịch) cho đến nay.

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng các quan điểm, phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta hiện nay
về thực hiện pháp luật về hộ tịch, bám sát tình hình thực tế và điều kiện tự nhiên,
xã hội ở huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội.

Ngoài ra, để đạt được mục đích nghiên cứu của luận văn tác giả sử dụng
một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:

- Trong Chương 1, để làm rõ những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật
về hộ tịch, luận văn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm làm rõ thêm
quan niệm, đặc điểm của thực hiện pháp luật về hộ tịch.

- Trong Chương 2, để minh họa về thực tiễn thực hiện pháp luật về hộ tịch ở
huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội, luận văn sử dụng phương pháp thống kê, phân
tích, so sánh, sơ đồ hóa… từ những phân tích về thuận lợi và khó khăn tác giả chỉ ra

12

nguyên nhân dẫn đến việc thực hiện pháp luật về hộ tịch chưa đạt hiệu quả cao từ
đó đề xuất một số phương hướng, giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật về hộ tịch ở huyện Mê Linh nói riêng và cả nước nói chung.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Luận văn góp phần nâng cao hiệu quả việc thực hiện pháp luật về hộ tịch

ở huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội.

- Luận văn đánh giá thực trạng, nâng cao nhận thức và trách nhiệm thực
hiện pháp luật về hộ tịch.

- Làm tài liệu tham khảo trong việc tổng kết thực tiễn, đề xuất giải pháp
bảo đảm thực hiện pháp luật về hộ tịch, cũng như nghiên cứu giảng dạy của các
cơ sở đào tạo luật.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 03 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận của thực hiện pháp luật về hộ tịch;

Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về hộ tịch ở huyện Mê Linh,
thành phố Hà Nội;

Chương 3: Phương hướng và giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về hộ
tịch ở huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội.





























13

Chƣơng 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỘ TỊCH

1.1. Quan niệm về hộ tịch và pháp luật về hộ tịch

1.1.1. Quan niệm về hộ tịch, đăng ký hộ tịch

- Hộ tịch

Từ trước đến nay, vẫn tồn tại khá nhiều quan niệm khác nhau về “Hộ tịch”.
Trong khoa học pháp lý một số nước trên thế giới, có thể nhận thấy khái niệm về
hộ tịch đã được đề cập, cụ thể như theo tiếng Anh, thuật ngữ “Civil registration”

được hiểu là việc đăng ký đúng thời hạn các sự kiện sinh, tử, kết hôn với chính
quyền trong thời hạn quy định. Hiện nay, trong Bộ luật Dân sự của Cộng hoà
Pháp không đưa ra khái niệm riêng về hộ tịch mà chỉ đưa ra khái niệm “Chứng
thư hộ tịch”; nhưng trong tiếng Pháp thì từ “registre d etat civil” cũng được hiểu
là việc đăng ký dân sự của cá nhân. Như vậy, cả hai khái niệm nêu trên đều có
thể hiểu nghĩa đó là việc “đăng ký tình trạng dân sự của cá nhân”.

Các nước có hệ thống pháp luật theo truyền thống là luật thành văn (còn gọi
là hệ thống luật lục địa) với đại diện tiêu biểu nhất là Pháp thì khái niệm này
thường gắn liền với khái niệm “Thân trạng” và được hiểu là “căn cước, tình
trạng dân sự của một cá nhân” (tiếng Pháp là état des personnes).

Còn hiện nay, theo các tài liệu và được Liên hiệp quốc công nhận và chính
thức sử dụng thường xuyên thì khái niệm “Civil registration” có nghĩa là: “Đăng
ký hộ tịch là việc ghi nhớ liên tục đặc điểm về sự tồn tại và tình trạng dân sự của
mỗi cá nhân liên quan đến dân số được quy định bởi sắc lệnh, luật hoặc điều lệ
phù hợp với yêu cầu của pháp luật mỗi quốc gia”.

Có thể nói, khái niệm hộ tịch được thể hiện rất rộng, các nước khu vực
Châu Âu như Cộng hoà Pháp, Cộng hoà liên bang Đức, Cộng hoà Áo… hay các
nước ở khu vực Châu Á như Lào, Nhật Bản, Đài Loan… đều có những khái
niệm riêng về hộ tịch.

Có quan niệm cho rằng: Hộ tịch là sổ biên chép các việc liên hệ đến các
người trong nhà. Hộ tịch gồm ba sổ để ghi chép các sự khai giá thú, khai sinh,


14

khai tử. Quan niệm thứ hai lại cho rằng, việc ghi chép vào sổ sách không phải là
hộ tịch mà bản thân các sự kiện liên quan đến tình trạng nhân thân của con người
mới là hộ tịch. Có thể xem cách hiểu thứ hai là cách hiểu khá thấu đáo và toàn
diện, được khoa học công nhận và được quy định khá rõ ràng trong văn bản quy
phạm pháp luật. Theo quy định tại Điều 1 Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày
10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch thì: Hộ tịch là những sự kiện cơ
bản xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết.

Có thể xem những sự kiện về hộ tịch rất đa dạng. Nếu theo quan niệm cũ
trước đây, hộ tịch chủ yếu bao gồm các sự kiện về sinh, tử, kết hôn thì theo quy
định hiện nay của pháp luật, hộ tịch bao gồm 9 sự kiện cơ bản như: sinh; tử; kết
hôn; nuôi con nuôi; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; thay đổi họ, tên, chữ đệm; cải
chính họ, tên, chữ đệm, ngày, tháng, năm sinh; xác định lại dân tộc. Các sự kiện
hộ tịch được xem là các sự kiện cơ bản, bởi các sự kiện này có thể làm phát sinh,
thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý của cá nhân.

Như vậy, có thể thấy về mặt ngôn ngữ học, từ "hộ tịch" đang được sử dụng
trong pháp luật Việt Nam hiện hành đều có sự tương đồng về ngữ nghĩa với các
khái niệm của pháp luật về hộ tịch của nước ngoài.

Theo điều 1, Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 (Nghị định này
thay thế cho NĐ số 83 ngày 10/10/1998) quy định: “Hộ tịch là những sự kiện cơ
bản xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết”.

Theo Điều 2 Luật Hộ tịch năm 2014: Hộ tịch là những sự kiện được quy
định tại Điều 3 của Luật này, xác định tình trạng nhân thân của cá nhân từ khi
sinh ra đến khi chết.

Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một
người từ khi sinh ra đến khi chết. Đây là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của
chính quyền các cấp, nhằm theo dõi thực trạng và biến động về hộ tịch, trên cơ
sở đó bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và gia đình, đồng thời góp
phần xây dựng các chính sách về kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và dân số,
kế hoạch hóa gia đình. Công tác quản lý hộ tịch là một tổng thể của nhiều công
việc như tuyên truyền giáo dục pháp luật về hộ tịch, tổ chức đăng ký hộ tịch, báo
cáo thống kê tăng, giảm dân số, kiểm tra, xử lý vi phạm về đăng ký hộ tịch. Các

15

công việc nêu trên phải được tiến hành thường xuyên tại cơ sở nhằm bảo đảm
kịp thời, chính xác đồng thời phải thuận tiện, tránh gây phiền hà cho dân.

Như vậy, hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác nhận tình trạng nhân thân
của một con người từ khi sinh ra đến khi chết. Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân và quyền nhân thân của con người được Hiến pháp năm 2013 và Bộ
luật Dân sự năm 2015 qui định để xác định sự kiện hộ tịch như: quyền thay đổi
họ tên; quyền xác định lại dân tộc; quyền được khai sinh; quyền được khai tử;
quyền được kết hôn; quyền ly hôn; quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con; quyền
đối với quốc tịch…

- Đăng ký hộ tịch

Đăng ký hộ tịch là việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác nhận, ghi
vào sổ các sự kiện hộ tịch của cá nhân nhằm xác định tình trạng nhân thân của cá
nhân, tạo cơ sở pháp lý để Nhà nước bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân
và thực hiện quản lý về dân cư, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Theo quan niệm truyền thống: Đăng ký hộ tịch là việc ghi chép vào sổ các
sự kiện về việc hộ tịch của các hộ lại nhằm quản lý việc biến động tự nhiên, biến
động xã hội của các sự kiện đó, trên cơ sở đó xác định nghĩa vụ đối với Nhà
nước như đóng thuế, nghĩa vụ nô dịch, quân dịch ...

Theo quan niệm hiện tại: Đăng ký hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xác nhận sự kiện sinh, tử, kết hôn, ly hôn, giám hộ, nuôi con nuôi,
thay đổi họ, tên, quốc tịch, xác định dân tộc, cải chính hộ tịch và các sự kiện
khác theo quy định của pháp luật về hộ tịch. Khái niệm này được mở rộng phạm

vi đăng ký tại Điều 1 của Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của
Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch.

Khái niệm đăng ký hộ tịch được định nghĩa như sau: Đăng ký hộ tịch là
việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền: Xác nhận các sự kiện: sinh; kết hôn; tử;
nuôi con nuôi; giám hộ; nhận cha mẹ, con; thay đổi, cải chính, bổ sung, điều
chỉnh hộ tịch; xác định lại giới tính; xác định lại dân tộc;

Căn cứ vào quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, ghi vào Sổ
hộ tịch các việc: xác định cha, mẹ, con; thay đổi quốc tịch; ly hôn; huỷ việc kết
hôn trái pháp luật; chấm dứt nuôi con nuôi.

16

Trước khi có Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 thì trong Nghị
định 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 cũng đã đưa ra khái niệm đăng ký hộ tịch
tương đối giống với nội dung như trong Nghị định 158. Quay về thời điểm 1995,
khi Quốc hội ban hành Bộ luật dân sự, thì tại điều 54 của Bộ luật cũng có quy
phạm định nghĩa về khái niệm đăng ký hộ tịch: “Đăng ký hộ tịch là việc cơ quan
nhà nước có thẩm quyền xác nhận sự kiện sinh, tử, kết hôn, ly hôn, giám hộ, nuôi
con nuôi, thay đổi họ, tên, quốc tịch, xác định lại dân tộc, cải chính hộ tịch và
các sự kiện khác theo quy định của pháp luật về hộ tịch”

Như vậy, Nghị định 158/2005/NĐ-CP đã sử dụng phương pháp mô tả để
phán ánh đầy đủ, toàn diện khái niệm đăng ký hộ tịch. Tuy nhiên, về mặt kỹ
thuật, trong khái niệm đăng ký hộ tịch, chữ “tịch” đã có giá trị biểu đạt tương
đương với “đăng ký”. Chữ “tịch” có nghĩa là “sổ sách đăng ký quan hệ lệ
thuộc”. Điều này tạo nên sự trùng lặp về ý nghĩa khi giải thích khái niệm (tương
tự như cụm từ: Sông Hồng Hà, sông Trường Giang, đá thiên thạch..). Đây là một
nét đặc trưng của việc sử dụng ngôn ngữ Hán - Việt. Hạn chế có thể được khắc
phục nếu thay thế khái niệm đăng ký hộ tịch bằng khái niệm thuần Việt“đăng ký
tình trạng dân sự”. Tuy nhiên đây là khái niệm xa lạ với người dân, do đó, việc
sử dụng khái niệm thay thế “đăng ký tình trạng dân sự” mặc dù có thể đạt được
sự chặt chẽ về mặt học thuật những lại hoàn toàn không có tính đại chúng, hạn
chế khả năng phổ biến trong đời sống xã hội.

Như vậy, sự kết hợp giữa khái niệm “hộ tịch” (mà đúng hơn là sự kiện “hộ
tịch”) và “đăng ký hộ tịch” mới có thể mang lại cách hiểu đầy đủ về khái niệm “hộ
tịch”, vì khái niệm “hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân
của một người từ khi sinh ra đến khi chết” là một khái niệm “mở”, theo đó, chỉ có
thể hiểu “những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một người” là
những sự kiện nào khi viện dẫn tới định nghĩa về “đăng ký hộ tịch”.

Khi định nghĩa hành vi đăng ký hộ tịch, Nghị định 158/2005/NĐ-CP đồng
thời đã phân biệt thành 2 nhóm hành vi với tính chất khác nhau rõ ràng:

- Hành vi xác nhận các sự kiện sinh, kết hôn, tử, nuôi con nuôi, giám hộ;
nhận cha, mẹ, con; thay đổi họ tên, chữ đệm; cải chính họ tên, chữ đệm; ngày
tháng năm sinh; xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, xác định lại dân tộc.

17

Đối với các sự kiện hộ tịch trên, cơ quan đăng ký hộ tịch xác nhận bằng cách
đăng ký vào sổ dành riêng cho từng loại việc đồng thời cấp giấy chứng nhận về
việc đó cho đương sự (như Giấy khai sinh, giấy chứng nhận kết hôn). Hành vi
xác nhận của cơ quan đăng ký hộ tịch đã làm phát sinh hiệu lực pháp lý của các
sự kiện được đăng ký. Chỉ sau khi đăng ký, các sự kiện đó mới làm phát sinh,
thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của cá nhân.

- Hành vi ghi (ghi chú) vào sổ hộ tịch các việc về ly hôn, xác định cha,
mẹ, con; thay đổi quốc tịch; huỷ việc kết hôn trái pháp luật; chấm dứt nuôi con
nuôi. Khác với hành vi xác nhận, đối với các loại việc hộ tịch này, cơ quan đăng
ký hộ tịch chỉ đơn thuần căn cứ quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ghi chú việc đó vào sổ hộ tịch. Điểm phân biệt cơ bản giữa hành vi này với nhóm
hành vi thứ nhất là nó không làm phát sinh hiệu lực pháp lý, bởi vì bản thân các
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã đem lại hiệu lực pháp lý cho
các việc đó.

1.1.2. Pháp luật về hộ tịch

Ở nước ta, pháp luật về hộ tịch có lịch sử lâu đời từ thời phong kiến nhà
Trần và các triều đại phong kiến tiếp theo. Tuy nhiên, việc quản lý hộ tịch được
thực hiện một cách đầy đủ, khoa học chỉ được bắt đầu từ thời kỳ Pháp thuộc.
Điểm nổi bật trong hệ thống đăng ký và quản lý hộ tịch của thời kỳ Pháp thuộc là
có một đội ngũ hương chức chuyên làm công tác hộ tịch, gọi là Hộ lại. Hộ lại là
người nắm giữ sổ sách hộ tịch và trực tiếp đăng ký các việc hộ tịch trong địa bàn
cấp xã do mình phụ trách. Vì việc quản lý hộ tịch đòi hỏi phải nắm rất kỹ từng
người dân, từng gia đình nên chức danh Hộ lại được bổ nhiệm suốt đời (trừ phi
bị truất chức do vi phạm), thậm chí được khuyến khích “cha truyền con nối”.
Điểm nổi bật thứ hai trong quản lý hộ tịch thời Pháp thuộc là có hệ thống sổ sách
hộ tịch (gọi là “sổ bộ”) đầy đủ, khoa học và được bảo quản rất cẩn thận. Hiện
nay, một số sổ sách hộ tịch thời Pháp thuộc vẫn còn được lưu giữ tại các thành
phố: Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ.

Sau Cách mạng Tháng tám năm 1945, công tác đăng ký và quản lý hộ tịch
vẫn được Nhà nước ta tiếp tục duy trì và phát triển. Theo tinh thần của Sắc lệnh
số 47/SL ngày 10/10/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì các thể lệ đăng ký hộ

18

tịch đã được quy định trong Bộ Dân luật giản yếu được áp dụng ở Nam kỳ,
Hoàng Việt hộ luật được áp dụng ở Trung kỳ và Dân luật Bắc Kỳ vẫn được tiếp
tục áp dụng.

Ngày 08/5/1956, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 764/TTg
kèm theo Bản Điều lệ hộ tịch. Ngày 16/01/1961, Hội đồng Chính phủ ban hành
Nghị định số 04/CP, kèm theo Bản Điều lệ đăng ký hộ tịch mới thay thế Bản
điều lệ được ban hành kèm theo Nghị định số 764/TTg. Theo quy định tại hai
bản điều lệ nói trên, thì Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) là cơ quan được Hội
đồng Chính phủ giao nhiệm vụ thống nhất chỉ đạo, tổ chức quản lý hộ tịch, việc
đăng ký hộ tịch do Uỷ ban hành chính xã, thị trấn, thị xã, khu phố phụ trách.

Từ năm 1987, nhiệm vụ quản lý nhà nước về hộ tịch được chuyển giao từ
Bộ Nội vụ sang Bộ Tư pháp và Ủy ban nhân dân các cấp trên cơ sở Nghị định số
219/HĐBT ngày 20/11/1987 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ); từ thời
điểm này, Bộ Tư pháp được giao nhiệm vụ thống nhất quản lý Nhà nước về hộ
tịch trên phạm vi cả nước.

Đến năm 2005 việc đăng ký quản lý hộ tịch được thực hiện theo Nghị định
158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch,
nghị định 06/2012/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định về
hộ tịch, hôn nhân và gia đình và chứng thực. Nghị định số 06/2012/NĐ-CP đã
sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 158/2005/NĐ-CP theo hướng đơn
giản hoá các thủ tục khi đăng ký hộ tịch, quy định cụ thể các giấy tờ cần thiết đối
với từng sự kiện hộ tịch, bổ sung quy định đối với hồ sơ đăng ký hộ tịch, hồ sơ
xin cấp bản sao từ sổ gốc gửi qua hệ thống bưu chính. Đồng thời Nghị định
06/2012/NĐ-CP, đã rút ngắn thời hạn giải quyết một số thủ tục về hộ tịch.

Ngày 20/11/2014, Quốc Hội ban hành Luật Hộ tịch và bắt đầu từ năm 2016,
Luật hộ tịch chính thức có hiệu lực đã trở thành bước tiến lớn trong công tác
đăng ký hộ tịch.

Như vậy, pháp luật về hộ tịch là những quy tắc xử sự do Nhà nước ban
hành và đảm bảo thực hiện để điều chỉnh những quan hệ phát sinh giữa Nhà
nước với công dân nhằm đảm bảo cho công dân thực hiện quyền, nghĩa vụ của
mình trong lĩnh vực hộ tịch.

19

Pháp luật về hộ tịch có các đặc điểm sau đây:

- Pháp luật về hộ tịch là một giá trị nhân thân, gắn chặt với cá nhân con
người, bởi vì mỗi người chỉ có một thời điểm sinh, một thời điểm chết. Các dấu
hiệu về cha, mẹ đẻ, dân tộc, giới tính, là những dấu hiệu giúp người ta phân biệt
từng cá nhân con người.

- Có phạm vi và đối tượng điều chỉnh rộng, đa dạng, phức tạp, bao gồm các
quan hệ xã hội phát sinh của mỗi một con người từ khi sinh ra cho tới khi chết đi
bao gồm: khai sinh, kết hôn, nhận cha mẹ con, cải chính, bổ sung hộ tịch….

- Chứa đựng các loại quy phạm pháp luật thuộc nhiều ngành luật khác nhau
như: Luật hiến pháp, Luật Hành chính, Luật dân sự, Luật Hôn nhân và Gia đình….

- Có hình thức thể hiện phong phú, gồm các văn bản luật và các văn bản
dưới luật do các cơ quan có thẩm quyền ban hành: Luật hộ tịch năm 2014, Nghị
định số: 123/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành
Luật hộ tịch, thông tư số: 15/2015/TT-BTP quy định chi tiết thi hành một số điều
của Luật hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính
phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch…

1.2. Quan niệm thực hiện pháp luật về hộ tịch

1.2.1. Khái niệm và đặc điểm thực hiện pháp luật về hộ tịch

Nhà nước Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân. Pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm đảm bảo quyền làm chủ của
nhân dân và có vị trí tối cao trong cách ứng xử của cả công dân, các tổ chức và
Nhà nước. Song mục đích đó có đạt được hay không, pháp luật có triển khai thực
hiện trong thực tế cuộc sống hay không phụ thuộc vào hiệu quả thực hiện pháp
luật của các chủ thể.

Thực hiện pháp luật là hành vi (hành động hoặc không hành động) của con
người phù hợp với những quy định của pháp luật. Dưới góc độ của pháp lý thì
thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp. Thực hiện pháp luật là một quá trình
hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống,
trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật. Do vậy, có
thể hiểu: Thực hiện pháp luật về hộ tịch là hoạt động có mục đích làm cho những
quy định của pháp luật về thực hiện đăng ký, quản lý hộ tịch đi vào

20

cuộc sống nhằm phát huy cao độ quyền của công dân trong việc đăng ký các sự
kiện hộ tịch: khai sinh, khai tử, kết hôn,… nhằm theo dõi thực trạng và sự biến
động về hộ tịch đảm bảo cho các sự kiện hộ tịch được đăng ký kịp thời, đúng quy
định của pháp luật, trên cơ sở đó bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân và gia đình, đồng thời góp phần xây dựng các chính sách về kinh tế, xã hội,
an ninh quốc phòng và dân số, kế hoạch hóa gia đình.

Thực hiện pháp luật về hộ tịch có các đặc điểm sau đây:

- Thực hiện pháp luật về hộ tịch là thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân
đối với hoạt động đăng ký hộ tịch và là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước khi
đăng ký quản lý hộ tịch, khác với thực hiện pháp luật trong các lĩnh vực, các ngành
luật khác ở các chủ thể, phạm vi, nội dung và các hình thức thực hiện. Theo đó:

- Chủ thể thực hiện pháp luật về hộ tịch trước hết là các cơ quan: Chính
phủ, Bộ Tư pháp, Bộ ngoại giao, các cơ quan đại diện, Lãnh sự của Việt Nam

ở nước ngoài, UBND cấp tỉnh, Sở Tư pháp, UBND cấp huyện, phòng Tư pháp,
UBND cấp xã.

- Phạm vi thực hiện pháp luật về hộ tịch diễn ra giữa các chủ thể mà một
bên bao giờ cũng là công dân sống trong một đơn vị hành chính lãnh thổ hoặc
những đơn vị quần cư nhỏ nhất.

- Chế độ và trách nhiệm pháp lý của các chủ thể trong thực hiện pháp luật
về hộ tịch vừa mang tính chất quản lý hành chính vừa mang tính chất tự quản.

- Nội dung thực hiện pháp luật về hộ tịch rất rộng lớn, có liên quan trực
tiếp đến quyền và lợi ích của người dân nơi cư trú.

1.2.2. Các hình thức thực hiện pháp luật về hộ tịch

Hình thức thực hiện pháp luật là cách thức mà các chủ thể tiến hành các
hoạt động có mục đích làm cho các quy định của pháp luật đi vào cuộc sống. Các
quy phạm pháp luật rất phong phú nên hình thức thực hiện chúng cũng rất phong
phú và khác nhau. Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật, có thể
xác định thực hiện pháp luật bao gồm các hình thức tuân thủ pháp luật, thi hành
pháp luật, sử dụng pháp luật, áp dụng pháp luật. Trong đó, thi hành pháp luật là
một hình thức thực hiện pháp luật, các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp
lý của mình bằng hành động tích cực. Sử dụng pháp luật là hình thức trong đó

21

các chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình (thực hiện những hành

vi mà pháp luật cho phép), ở hình thức này các chủ thể pháp luật có thể thực hiện
hoặc không thực hiện quyền được pháp luật cho phép theo ý chí của mình. Thực
hiện pháp luật về hộ tịch được thực hiện chủ yếu ở hình thức sử dụng pháp luật
(đối với chủ thể là công dân) và áp dụng pháp luật (đối với chủ thể là chính
quyền và các tổ chức chính trị cơ sở). Nếu xem xét thực hiện pháp luật về hộ tịch
cơ sở chính là thực hiện việc đăng ký và quản lý hộ tịch.

Tuân thủ pháp luật về hộ tịch: Là hình thức thực hiện pháp luật về hộ tịch,
trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không thực hiện các quy định cấm của
pháp luật hộ tịch.

Để đảm bảo công tác đăng ký và quản lý hộ tịch được thực hiện kịp thời,
đầy đủ theo các quy định của pháp luật về hộ tịch, những yêu cầu chủ thể pháp
luật phải luôn luôn tự kiềm chế mình một cách chủ động và tự giác trong mọi
điều kiện, hoàn cảnh tình huống luật định mà bản thân mình đang gặp phải để
không thực hiện những hành vi pháp luật ngăn cấm trong lĩnh vực hộ tịch.

Ví dụ: Điều 12 Luật Hộ tịch năm 2014 có quy định Các hành vi bị nghiêm

cấm: Cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật; làm hoặc sử dụng giấy tờ giả, giấy
tờ của người khác để đăng ký hộ tịch; Đe dọa, cưỡng ép, cản trở việc thực hiện
quyền, nghĩa vụ đăng ký hộ tịch; Can thiệp trái pháp luật vào hoạt động đăng ký
hộ tịch; Cam đoan, làm chứng sai sự thật để đăng ký hộ tịch; Làm giả, sửa chữa,
làm sai lệch nội dung giấy tờ hộ tịch hoặc thông tin trong Cơ sở dữ liệu hộ tịch;
Đưa hối lộ, mua chuộc, hứa hẹn lợi ích vật chất, tinh thần để được đăng ký hộ
tịch; Lợi dụng việc đăng ký hộ tịch hoặc trốn tránh nghĩa vụ đăng ký hộ tịch
nhằm động cơ vụ lợi, hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước hoặc trục lợi dưới
bất kỳ hình thức nào…

Điều 74 Luật Hộ tịch năm 2014 cũng quy định những việc công chức làm
công tác hộ tịch không được làm gồm: Cửa quyền, hách dịch, sách nhiễu, trì
hoãn, gây khó khăn, phiền hà, nhận hối lộ khi đăng ký, quản lý hộ tịch. Thu lệ
phí hộ tịch cao hơn mức quy định hoặc đặt ra các khoản thu khi đăng ký hộ tịch.
Đặt ra thủ tục, giấy tờ, cố ý kéo dài thời hạn giải quyết đăng ký hộ tịch trái quy



22

định của Luật này. Tẩy xóa, sửa chữa, làm sai lệch nội dung thông tin trong Cơ
sở dữ liệu hộ tịch…

Với các quy định này đòi hỏi cả từ phía người dân và chủ thể thực hiện
đăng ký hộ tịch không được thực hiện các hành vi nêu trên. Việc các chủ thể đó
kiềm chế không thực hiện những hành vi trên là biểu hiện của việc thực hiện
pháp luật về Hộ tịch. Nếu trong trường hợp có những cơ quan, tổ chức, cá nhân,
công dân hoặc cán bộ, công chức vi phạm thì có thể bị xử phạt vi phạm hành
chính, bồi thường thiệt hại hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định
của pháp luật.

Thi hành (chấp hành pháp luật về hộ tịch): Là một hình thức thực hiện pháp
luật về Hộ tịch, trong đó các chủ thể pháp luật tự thực hiện nghĩa vụ pháp lý của
mình bằng hành động tích cực. Bên cạnh việc đề ra các quy định mang tính ngăn
cấm nhằm hạn chế những hành vi gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc đăng ký, quản lý
hộ tịch, pháp luật còn có những quy định mang tính bắt buộc thể hiện ở những nghĩa
vụ của các chủ thể trong quá trình đăng ký, quản lý hộ tịch.

Ví dụ: Điều 15 Luật Hộ tịch năm 2014 quy định về Trách nhiệm đăng ký
khai sinh:

Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày sinh con, cha hoặc mẹ có trách nhiệm
đăng ký khai sinh cho con; trường hợp cha, mẹ không thể đăng ký khai sinh cho
con thì ông hoặc bà hoặc người thân thích khác hoặc cá nhân, tổ chức đang nuôi
dưỡng trẻ em có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho trẻ em.

Công chức tư pháp - hộ tịch thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc đăng ký
khai sinh cho trẻ em trên địa bàn trong thời hạn quy định; trường hợp cần thiết
thì thực hiện đăng ký khai sinh lưu động.

Điều 33 quy định Thời hạn và trách nhiệm đăng ký khai tử:

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có người chết thì vợ, chồng hoặc con,
cha, mẹ hoặc người thân thích khác của người chết có trách nhiệm đi đăng ký
khai tử; trường hợp người chết không có người thân thích thì đại diện của cơ
quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm đi khai tử.

Công chức tư pháp - hộ tịch thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc khai tử
cho người chết; trường hợp không xác định được người có trách nhiệm đi khai tử

23

thì công chức tư pháp - hộ tịch thực hiện đăng ký khai tử.

Với các quy định đã nêu trên các chủ thể ở trong các trường hợp đó,
nghiêm chỉnh thực hiện nghĩa vụ của mình, đồng thời nộp phí theo quy định của
pháp luật. Như vậy, bằng hành động tích cực trong khi thực hiện các nghĩa vụ
của mình các chủ thể đã tích cực thực hiện các quy phạm pháp luật về Hộ tịch.

Sử dụng pháp luật về hộ tịch: là hình thức thực hiện pháp luật về hộ tịch,
trong đó các chủ thể sử dụng các quyền về đăng ký, quản lý hộ tịch để bảo vệ các
quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Hình thức này khác với hình thức tuân thủ
pháp luật và thi hành pháp luật ở chỗ có thể thực hiện hoặc không thực hiện
quyền được pháp luật cho phép theo ý chí. Ví dụ: Tổ chức, cá nhân có quyền
khiếu nại, tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật về hộ tịch, xâm phạm đến
quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Như vậy pháp luật cho phép các chủ thể pháp
luật có quyền khiếu nại, tố cáo với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về hành

vi vi phạm pháp luật về hộ tịch nhưng họ có thể không thực hiện các quyền này
của mình nếu họ cảm thấy không cần thiết.

Áp dụng pháp luật về hộ tịch: là một hình thức thực hiện pháp luật, đặc
biệt trong đó nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, hoặc các
tổ chức xã hội và các cá nhân được nhà nước trao quyền tổ chức cho các chủ thể
pháp luật để ban hành các quyết định làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt
những quan hệ pháp luật cụ về hộ tịch. Trong trường hợp này các chủ thể tham
gia thực hiện pháp luật, thực hiện các quy định của pháp luật có sự can thiệp của
Nhà nước.

1.2.3. Nội dung thực hiện pháp luật về hộ tịch

Các quy phạm pháp luật về hộ tịch của nước ta hiện nay được ghi nhận
trong nhiều văn bản pháp luật (Hiến pháp 2013, Luật Hộ tịch 2014, Bộ luật Dân
sự 2015, Luật Hôn nhân và gia đình.... cùng các Nghị định, Chỉ thị, Quyết định,
Thông tư…) của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, với nội dung rộng, liên
quan đến tất cả các lĩnh vực hộ tịch. Tuy vậy, có thể khái quát nội dung thực hiện
pháp luật hộ tịch bao gồm 2 vấn đề chủ yếu: đăng ký hộ tịch và quản lý hộ tịch.

1.2.3.1. Thực hiện pháp luật về đăng ký hộ tịch

Đăng ký hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận hoặc


24

ghi vào Sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch của cá nhân, tạo cơ sở pháp lý để Nhà
nước bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, thực hiện quản lý về dân cư.

Nội dung đăng ký hộ tịch bao gồm:

- Xác nhận vào Sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch: Khai sinh; Kết hôn; Giám
hộ; Nhận cha, mẹ, con; Thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, bổ sung
thông tin hộ tịch; Khai tử.

- Ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của cá nhân theo bản án, quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền: Thay đổi quốc tịch; Xác định cha,
mẹ, con; Xác định lại giới tính; Nuôi con nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi; Ly
hôn, hủy việc kết hôn trái pháp luật, công nhận việc kết hôn; Công nhận giám
hộ; Tuyên bố hoặc huỷ tuyên bố một người mất tích, đã chết, bị mất hoặc hạn
chế năng lực hành vi dân sự.

- Ghi vào Sổ hộ tịch sự kiện khai sinh; kết hôn; ly hôn; hủy việc kết hôn;
giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; thay đổi hộ
tịch; khai tử của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm
quyền của nước ngoài.

- Xác nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các việc hộ tịch khác theo quy định của
pháp luật.

Việc đăng ký hộ tịch cần đảm bảo các nguyên tắc sau đây:

- Tôn trọng và bảo đảm quyền nhân thân của cá nhân.

- Mọi sự kiện hộ tịch của cá nhân phải được đăng ký đầy đủ, kịp thời, trung
thực, khách quan và chính xác; trường hợp không đủ điều kiện đăng ký hộ tịch
theo quy định của pháp luật thì người đứng đầu cơ quan đăng ký hộ tịch từ chối
bằng văn bản và nêu rõ lý do.

- Đối với những việc hộ tịch mà Luật này không quy định thời hạn giải
quyết thì được giải quyết ngay trong ngày; trường hợp nhận hồ sơ sau 15 giờ mà
không giải quyết được ngay thì trả kết quả trong ngày làm việc tiếp theo.

- Mỗi sự kiện hộ tịch chỉ được đăng ký tại một cơ quan đăng ký hộ tịch có
thẩm quyền theo quy định của Luật này.

Cá nhân có thể được đăng ký hộ tịch tại cơ quan đăng ký hộ tịch nơi thường
trú, tạm trú hoặc nơi đang sinh sống. Trường hợp cá nhân không đăng

25

ký tại nơi thường trú thì Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã,
Cơ quan đại diện nơi đã đăng ký hộ tịch cho cá nhân có trách nhiệm thông báo
việc đăng ký hộ tịch đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cá nhân đó thường trú.

- Mọi sự kiện hộ tịch sau khi đăng ký vào Sổ hộ tịch phải được cập nhật kịp
thời, đầy đủ vào Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử.

- Nội dung khai sinh, kết hôn, ly hôn, khai tử, thay đổi, cải chính, bổ sung
hộ tịch, xác định lại giới tính, xác định lại dân tộc của cá nhân trong Cơ sở dữ
liệu hộ tịch là thông tin đầu vào của Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.

- Bảo đảm công khai, minh bạch thủ tục đăng ký hộ tịch.

Quản lý và đăng ký hộ tịch là một trong những lĩnh vực quan trọng của
quản lý nhà nước, có liên quan đến các quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi cá
nhân, do đó, các sự kiện hộ tịch của công dân Việt Nam, người không quốc tịch
thường trú tại Việt Nam, công dân nước ngoài thường trú tại Việt Nam đều phải
được cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc đăng ký hộ tịch.

Khi đăng ký hộ tịch, người dân phải được tiếp cận các thủ tục đăng ký một
cách công khai, minh bạch; phải thực hiện kê khai và nộp các hồ sơ, giấy tờ theo
quy định của pháp luật khi thực hiện một thủ tục hành chính, cơ quan đăng ký hộ
tịch phải có trách nhiệm ghi vào Sổ hộ tịch và cập nhật vào Cơ sở dữ liệu hộ tịch
điện tử đầy đủ các nội dung đăng ký hộ tịch; cá nhân có thể được đăng ký hộ tịch
tại cơ quan đăng ký hộ tịch nơi thường trú, tạm trú hoặc nơi đang sinh sống.
Trường hợp cá nhân không đăng ký tại nơi thường trú thì Ủy ban nhân dân cấp
huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã, Cơ quan đại diện nơi đã đăng ký hộ tịch cho cá
nhân có trách nhiệm thông báo việc đăng ký hộ tịch đến Ủy ban nhân dân cấp xã
nơi cá nhân đó thường trú. Cá nhân có yêu cầu đăng ký hộ tịch, cấp bản sao trích
lục hộ tịch có thể trực tiếp nộp hồ sơ, gửi hồ sơ qua hệ thống bưu chính và khi
điều kiện cho phép có thể gửi qua hệ thống đăng ký hộ tịch trực tuyến.

Ủy ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền đăng ký các việc hộ tịch trong nước
bao gồm: Đăng ký khai sinh; kết hôn; nhận cha, mẹ, con; giám hộ (bao gồm cả
đăng ký chấm dứt, thay đổi giám hộ); thay đổi, cải chính hộ tịch cho người chưa
đủ 14 tuổi; bổ sung thông tin hộ tịch cho công dân Việt Nam cư trú ở trong nước;
ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch theo bản án, quyết định của cơ

26

quan nhà nước có thẩm quyền (như: thay đổi quốc tịch; xác định cha, mẹ, con;
xác định lại giới tính; nuôi con nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi; ly hôn, hủy
việc kết hôn trái pháp luật, công nhận việc kết hôn; công nhận giám hộ; tuyên bố
hoặc huỷ tuyên bố một người mất tích, đã chết, bị mất hoặc hạn chế năng lực
hành vi dân sự; xác nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các việc hộ tịch khác và đăng
ký khai sinh, kết hôn, khai tử có yếu tố nước ngoài ở khu vực biên giới); đăng ký
khai tử.

Ủy ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền đăng ký các loại việc hộ tịch có
yếu tố nước ngoài và việc thay đổi, cải chính hộ tịch cho công dân Việt Nam cư
trú trong nước từ đủ 14 tuổi trở lên, xác định lại dân tộc.

Quán triệt quan điểm phân cấp mạnh cho chính quyền cơ sở, Luật quy định
Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết toàn bộ các việc đăng ký hộ tịch có yếu tố
nước ngoài; thay đổi, cải chính hộ tịch cho người từ đủ 14 tuổi trở lên cư trú
trong nước, xác định lại dân tộc. Ủy ban nhân dân cấp xã đăng ký các việc hộ
tịch còn lại. Quy định này nhằm phát huy tối đa năng lực, trách nhiệm của chính
quyền địa phương; bảo đảm tăng cường vai trò quản lý nhà nước của Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh, tiến tới mục tiêu lâu dài là phân cấp triệt để thẩm quyền đăng
ký hộ tịch cho chính quyền cơ sở khi điều kiện cho phép.

1.2.3.2. Thực hiện pháp luật về quản lý hộ tịch

Quản lý hộ tịch là một trong những hoạt động của quản lý nhà nước, thông
qua việc đăng ký hộ tịch, Nhà nước nắm được tình hình biến động dân cư và sự
biến động của xã hội giúp nhà nước có cơ sở khoa học để xây dựng kế hoạch
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng và trật tự an toàn xã hội và là cơ
sở để hoạch định chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình.

Quản lý hộ tịch là một lĩnh vực quản lý thân trạng của công dân và thực
trạng của từng gia đình với những nét chính yếu nhất. Mọi sự kiện hộ tịch phải
được đăng ký kịp thời, chính xác, mỗi sự kiện hộ tịch chỉ được đăng ký ở một
nơi theo đúng thẩm quyền quy định. Vì vậy hoạt động quản lý hộ tịch phải bảo
đảm kịp thời, tính nguyên tắc và tính khoa học.

Quản lý hộ tịch là một nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của chính quyền
các cấp, nhằm theo dõi thực trạng và sự biến động về hộ tịch, trên cơ sở đó bảo

27

hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và gia đình, đồng thời góp phần xây
dựng các chính sách về kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng và dân số, kế hoạch
hóa gia đình… Mọi quốc gia trên thế giới, dù ở bất kỳ chế độ chính trị với trình
độ phát triển như thế nào cũng đều quan tâm. Một nhà nước muốn hoạt động
hiệu quả cho việc quản lý nhà nước bằng pháp luật thì trước hết phải làm tốt vai
trò quản lý của mình bằng cách cập nhật thường xuyên các thông tin, dữ liệu về
dân cư (sinh, tử) có được từ hoạt động quản lý về hộ tịch. Vì một mặt, đó là
những dữ liệu cần thiết của mọi bài toán hoạch định chính sách phát triển kinh tế

- xã hội, an ninh quốc phòng… Mặt khác, nó là một hoạt động thể hiện tập trung,
sinh động mối quan hệ giữa nhà nước và công dân…

Quản lý hộ tịch là một nội dung quản lý nhà nước trong lĩnh vực hành chính tư
pháp. Các cơ quan có thẩm quyền quản lý hộ tịch gồm: Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ
ngoại giao, các cơ quan đại diện, Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, UBND cấp
tỉnh, Sở Tư pháp, UBND cấp huyện, phòng Tư pháp, UBND cấp xã.

Thủ tục đăng ký hộ tịch là cách thức, trình tự luật định mà các cơ quan có
thẩm quyền đăng ký hộ tịch và cá nhân, tổ chức có yêu cầu đăng ký hộ tịch phải
tuân thủ khi thực hiện việc đăng ký một sự kiện hộ tịch. Thủ tục đăng ký hộ tịch
được quy định chặt chẽ bởi các quy phạm pháp luật về thủ tục hành chính. Trong
hệ thống pháp luật hiện hành của nước ta, các quy phạm pháp luật về thủ tục
nằm rải rác trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau.

Công tác quản lý hộ tịch không chỉ là công tác quản lý hành chính đơn
thuần của Nhà nước là ghi vào sổ hộ tịch xác nhận những việc liên quan đến hộ
tịch (họ tên, chữ đệm, ngày, tháng, năm sinh, quốc tịch…), mà còn có ý nghĩa
quan trọng làm phát sinh những hậu quả về mặt pháp lý, liên quan đến một số
lĩnh vực pháp luật trong nước và cả trong tư pháp quốc tế.

1.2.4. Vai trò của thực hiện pháp luật về hộ tịch

Thực hiện pháp luật về hộ tịch là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của
chính quyền các cấp, nhằm theo dõi thực trạng và sự biến động về hộ tịch, trên
cơ sở đó bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và gia đình, đồng thời
góp phần xây dựng các chính sách về kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và dân
số, kế hoạch hóa gia đình. Giấy tờ hộ tịch do cơ quan nhà nước có thẩm quyền

28

cấp cho cá nhân theo quy định của pháp luật về hộ tịch là căn cứ pháp lý xác
nhận sự kiện hộ tịch của cá nhân đó.

Công tác đăng ký và quản lý hộ tịch không những liên quan đến nhân thân
của con người mà còn liên quan đến chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc
phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của cơ quan nhà nước, thể chế hóa mối quan hệ giữa Đảng
lãnh, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý.

Pháp luật về hộ tịch giữ vai trò quan trọng trong việc duy trì và thực hiện
các sự kiện hộ tịch. Pháp luật với tư cách là hệ thống các quy phạm điều chỉnh
cách xử sự của con người sẽ có tác dụng rất lớn trong việc thực hiện đăng ký,
quản lý hộ tịch. Pháp luật quy định các quy tắc xử sự mà con người phải thực
hiện khi đăng ký hộ tịch, quy định các chế tài hình sự, kinh tế, hành chính để
buộc các cá nhân, tổ chức phải thực hiện đầy đủ các đòi hỏi của pháp luật trong
lĩnh vực hộ tịch. Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, cá
nhân có thẩm quyền đăng ký, quản lý hộ tịch. Đồng thời pháp luật về hộ tịch quy
định quy trình, thủ tục, cách thức thực hiện các sự kiện hộ tịch từ phía người dân
cũng như từ phía cán bộ có thẩm quyền. Mọi quy trình, thủ tục đều được pháp
luật quy định chặt chẽ. Vai trò của thực hiện pháp luật về hộ tịch được thể hiện
rõ nét ở một số khía cạnh sau:

Một là, thông qua thực hiện pháp luật về hộ tịch Đảng và Nhà nước hoàn
thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về hộ tịch, thực hiện xây dựng
dữ liệu thông tin quốc gia.

Yêu cầu xây dựng Nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân và vì dân đặt ra đòi hỏi tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật. Nhà
nước được làm những gì mà pháp luật quy định còn công dân được làm những gì
mà pháp luật không cấm. Việc thực hiện pháp luật về hộ tịch trên tất cả các lĩnh
vực diễn ra ở cơ sở không chỉ giúp cho pháp luật thực sự đi vào cuộc sống, nhân
dân tự mình làm chủ trong quản lý xã hội mà còn giúp cho Đảng, Nhà nước ngày
càng có cơ sở thực tiễn hơn trong việc hoạch định đường lối chính sách, hoàn
thiện pháp luật, vì chỉ có thông qua thực tiễn, nhân dân mới thực sự là người
sáng tạo ra lịch sử.

29

Thông qua thực hiện pháp luật về hộ tịch giúp Đảng và Nhà nước hoàn
thiện đường lối, chính sách về hộ tịch nói chung.

Hai là, thực hiện pháp luật về hộ tịch có vai trò to lớn đối với hoạt động
của chính quyền cơ sở.

Việc thực hiện pháp luật về hộ tịch vừa là điều kiện, vừa là yêu cầu nhằm
kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở. Hệ
thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và hoạt động
nhân dân thực hiện đường lối chính sách của Đảng, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống
của cộng đồng dân cư. Pháp luật về hộ tịch quy định cụ thể trách nhiệm của các
tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở đối với việc quản lý và thực hiện đăng
ký hộ tịch. Với tư cách là chủ thể của hoạt động thực hiện pháp luật về hộ tịch ở
cơ sở, hệ thống chính trị ở cơ sở là khâu then chốt trong tổ chức thực hiện.

Thông qua việc thực hiện pháp luật về hộ tịch mà hệ thống chính trị ngày
càng nâng cao năng lực tổ chức triển khai nhiệm vụ, phát triển và bồi dưỡng
nguồn cán bộ kế cận cho đội ngũ cán bộ, công chức, đổi mới phương thức lãnh
đạo, tập hợp đoàn viên, hội viên, điều hòa và gắn kết các nhóm lợi ích, những
vấn đề nảy sinh được phát hiện kịp thời, các khó khăn được tháo gỡ và ngày
càng thu hút được sự tham gia rộng rãi của người dân vào các công việc quản lý
nhà nước, quản lý xã hội.

Ba là,thực hiện pháp luật về hộ tịch góp phần phát triển kinh tế, văn hóa –
xã hội; bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Thực hiện pháp luật về hộ tịch bảo đảm và góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội hơn. Nhà nước thực hiện chính sách quản lý và phát triển kinh tế

- xã hội thông qua chính sách vĩ mô và vi mô. Trong những năm qua hoạt động
quản lý kinh tế của các cấp chính quyền đã được tách bạch, rạch ròi với chức
năng quản lý sản xuất kinh doanh.

Thực hiện pháp luật về hộ tịch cũng là cơ sở để giữ vững an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội. Pháp luật về hộ tịch là một bộ phận của pháp luật thực
định, góp phần thực hiện chức năng duy trì trật tự xã hội. Các quy định pháp luật
đều có chế tài để răn đe, phòng ngừa và trừng trị nghiêm khắc những hành

30

vi vi phạm. Thực tế chứng minh, ở địa phương nào thực hiện tốt pháp luật về hộ
tịch thì ở đó tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, việc
quản lý tốt công tác đăng ký hộ tịch giúp chính quyền nắm được các thông tin về
tình trạng dân số qua đó xây dựng và hoạch định các chính sách phát triển kinh
tế - xã hội thích hợp.

Bốn là, thực hiện pháp luật về hộ tịch ở cơ sở góp phần xây dựng Nhà nước
trong sạch, vững mạnh, đấu tranh phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí
và các hiện tượng tiêu cực khác.

Việc công khai các quy định, quy trình thủ tục, mức lệ phí trong lĩnh vực hộ
tịch đã tạo cơ sở để dân được kiểm tra, giám sát, tài chính được công khai, minh
bạch hơn đã làm hạn chế rất nhiều các biểu hiện tha hóa của cán bộ, công chức,
làm thay đổi tác phong công tác của đa số cán bộ công chức theo hướng tích cực
hơn, trăn trở hơn với lợi ích của dân, sâu sát và tôn trọng quyền làm chủ của dân.
Điều này cũng đòi hỏi bộ máy nhà nước phải đẩy mạnh cải cách hành chính để
ngày càng phục vụ nhân dân tốt hơn.

Năm là, thực hiện pháp luật về hộ tịch khẳng định vị trí, vai trò và tầm
quan trọng của công tác hộ tịch đối với công tác quản lý nhà nước và bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân.

Vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác hộ tịch đối với công tác quản
lý nhà nước là vô cùng to lớn.

Công tác hộ tịch đã góp phần tích cực trong quản lý nhà nước, phục vụ
đắc lực cho các cấp, các ngành hữu quan trong hoạch định và xây dựng các chính
sách và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội phù hợp, sát với tình hình thực tế như
các chính sách về dân số, phân bổ dân cư, chia tách, sáp nhập địa giới hành
chính… Ngoài ra, bảo đảm chính xác thông tin đăng ký hộ tịch còn giúp cho việc
xác định độ tuổi (tuổi tham gia nghĩa vụ quân sự, tuổi chịu trách nhiệm hình sự,
tuổi vào các cấp học, tuổi công tác ...), nhóm tuổi, số con trong gia đình, khoảng
cách giữa các lần sinh, từ đó giúp cho việc thống kê số nhân khẩu, phổ cập giáo
dục; số liệu về đăng ký hộ tịch còn phục vụ cho an sinh xã hội như việc cấp thẻ
bảo hiểm y tế miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi; ngoài ra, số liệu đăng ký hộ tịch
cũng là cơ sở để các cấp chính quyền địa phương xây dựng kế hoạch đầu

31

tư kết cấu hạ tầng như xây dựng trường học, công trình phúc lợi...

Việc đăng ký hộ tịch đã tạo cơ sở pháp lý bảo đảm một số quyền nhân
thân cơ bản của cá nhân (như quyền đối với họ tên, quyền thay đổi họ tên, quyền
xác định dân tộc, quyền được khai sinh, quyền kết hôn… đã được ghi nhận trong
Bộ Luật Dân sự). Thông qua việc đăng ký khai sinh (khởi đầu việc đăng ký sự
kiện hộ tịch của mỗi cá nhân) đã bảo đảm quyền được khai sinh, một trong
những quyền quan trọng đầu tiên của trẻ em theo tuyên bố tại Công ước của Liên
Hợp quốc về quyền trẻ em: "Trẻ em phải được đăng ký ngay lập tức sau khi sinh
ra và có quyền ngay từ khi ra đời, có họ tên, có quốc tịch và trong chừng mực có
thể, quyền được biết cha mẹ mình là ai và được chính cha mẹ mình chăm sóc";
tại Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của Việt Nam cũng khẳng định:" trẻ
em có quyền được khai sinh và có quốc tịch". Tuy nhiên, quyền được khai sinh
không phải là quyền riêng có của trẻ em mà là quyền của bất cứ cá nhân nào;
theo quy định của Bộ Luật Dân sự thì việc bảo đảm quyền đăng ký hộ tịch cũng
đồng nghĩa với việc bảo đảm quyền nhân thân cơ bản của mỗi cá nhân.

1.3. Yêu cầu và các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật về hộ tịch

1.3.1. Yêu cầu thực hiện pháp luật về hộ tịch

Pháp luật về hộ tịch không chỉ thiết lập các nguyên tắc cơ bản của hoạt
động quản lý hộ tịch mà còn ấn định những cách thức, thủ tục để các cơ quan
hành chính phục vụ quyền đăng ký hộ tịch của người dân, bên cạnh đó, việc
pháp điển hoá Luật Hộ tịch sẽ nâng tầm công tác quản lý hộ tịch hiện nay theo
hướng hiện đại, chuyên nghiệp, góp phần giải quyết một cách toàn diện các vấn
đề cơ bản của hoạt động quản lý hộ tịch như: phương thức quản lý hộ tịch và
việc ứng dụng công nghệ thông tin, xác lập hệ thống dữ liệu thông tin hộ tịch; hệ
thống tổ chức quản lý hộ tịch; cơ chế quản lý, khai thác dữ liệu thông tin về hộ
tịch phục vụ cho hoạt động quản lý kinh tế - xã hội. Đồng thời, việc ban hành
Luật Hộ tịch sẽ là yếu tố quan trọng để nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ làm
công tác hộ tịch theo hướng chuyên nghiệp hoá.

Xét từ phương diện khoa học quản lý nhà nước thì quản lý hộ tịch có vị trí
trung tâm của hoạt động quản lý dân cư. Đây là lĩnh vực trọng yếu của nền hành
chính mà mọi quốc gia hiện đại, không phân biệt chế độ chính trị và trình

32

độ phát triển, đều phải quan tâm. Sự vững mạnh của một quốc gia liên quan mật
thiết với hiệu quả của hoạt động quản lý dân cư nói chung và quản lý hộ tịch nói
riêng. Có thể khẳng định rằng, các vấn đề pháp lý về quản lý hộ tịch có tầm quan
trọng tương tự như các vấn đề pháp lý về quốc tịch, về biên giới quốc gia, về tổ
chức bộ máy nhà nước… Vì vậy, quản lý hộ tịch phải được điều chỉnh bằng một
đạo luật do Quốc hội ban hành. Trên thế giới, nhiều nước như Đức, Nhật Bản,
Đài Loan… đều điều chỉnh vấn đề quản lý hộ tịch bằng văn bản pháp luật do cơ
quan lập pháp ban hành. Nhìn chung, mỗi nước có một mô hình đăng ký và quản
lý hộ tịch phù hợp với đặc thù văn hoá, kinh tế, xã hội của nước đó, nhằm đảm
bảo quản lý nhà nước về hộ tịch đạt hiệu quả cao nhất.

Đồng thời việc thực hiện pháp luật từ phía người dân góp phần nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật của người dân.

Thực hiện pháp luật về hộ tịch cần đảm bảo các yêu cầu về tính nguyên tắc
và khoa học, tính công bằng, chính xác khách quan, tính linh hoạt, kịp thời, tư
duy đổi mới, tính dân chủ công khai.

- Yêu cầu về tính nguyên tắc và khoa học

Thực hiện pháp luật về hộ tịch phải được tiến hành trên cơ sở các nguyên
tắc luật định có như vậy mới tạo được hiệu quả cao, đồng thời xác định rõ trách
nhiệm của cá nhân, tổ chức, công dân khi vi phạm đối với lĩnh vực hộ tịch.

- Yêu cầu về tính công bằng, chính xác, khách quan, kịp thời

Theo quy định của Luật Hộ tịch, có một số yêu cầu theo hướng đơn giản
hóa, tạo thuận lợi cho người dân, chắc chắn sẽ tạo sức ép hơn với người làm
công tác đăng ký hộ tịch cơ sở. Vì vậy trong quá trình thực hiện pháp luật về hộ
tịch yêu cầu tính công bằng, chính xác, khách quan và kịp thời.

Ví dụ đối với rất nhiều việc hộ tịch đơn giản (như đăng ký khai sinh, khai
tử…) luật quy định giải quyết ngay trong ngày. Vấn đề khai sinh, khai tử, nhiều
vấn đề đơn giản khác nữa phải được giải quyết ngay trong ngày. Đối với một số
việc hộ tịch quy định về thời hạn giải quyết, cán bộ tư pháp hộ tịch cấp xã cần
phải tập trung bảo đảm đúng tiến độ về thời gian nhưng đồng thời đảm bảo tính
chính xác của hồ sơ và đúng trình tự thủ tục quy định.

Thực tế, theo quy định của Luật thì công việc của cán bộ tư pháp hộ tịch


33

cấp xã sẽ thuận lợi hơn rất nhiều vì gần như UBND cấp xã toàn quyền trong
đăng ký hộ tịch theo quy định của Luật mà không cần phải phối hợp liên ngành
cũng như không cần phải xin ý kiến cấp trên. Ngay cả đăng ký hộ tịch có yếu tố
nước ngoài ở khu vực biên giới thì trong Luật cũng quy định theo hướng là
UBND cấp xã ở khu vực biên giới trực tiếp giải quyết luôn những việc về hộ tịch
như thế mà không cần xin ý kiến cấp huyện, cấp tỉnh…

- Yêu cầu về tư duy đổi mới, linh hoạt, chặt chẽ

Luật Hộ tịch 2014 là đạo luật quan trọng liên quan đến việc bảo đảm thực
hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã được ghi nhận
trong Hiến pháp năm 2013. So với quy định pháp luật hộ tịch hiện hành, Luật hộ
tịch 2014 có nhiều nội dung mới mang tính đột phá, cải cách mạnh mẽ công tác
đăng ký, quản lý hộ tịch nói riêng và quản lý dân cư nói chung, như: đơn giản
hóa và cắt giảm nhiều giấy tờ không cần thiết khi đăng ký hộ tịch; cải tiến
phương thức nộp hồ sơ để người dân lựa chọn – nộp trực tiếp, gửi qua bưu chính
hoặc qua hệ thống đăng ký hộ tịch trực tuyến khi điều kiện cho phép; giảm thời
hạn giải quyết đối với hầu hết các việc hộ tịch. Quy định cá nhân có quyền lựa
chọn cơ quan đăng ký hộ tịch cho mình mà không phải phụ thuộc vào nơi cư trú
như trước đây đòi hỏi cán bộ hộ tịch phải rất linh hoạt trong quá trình giải quyết
các yêu cầu về hộ tịch và phải có tư duy đổi mới để tạo thuận lợi cho người dân.
Bên cạnh đó, Luật cũng đã có quy định nhằm bảo đảm chặt chẽ, phòng ngừa
những sơ hở, vi phạm có thể xảy ra trong công tác đăng ký và quản lý hộ tịch
như đã nêu trên (quy định về việc trách nhiệm thông báo việc đăng ký hộ tịch
đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cá nhân đó thường trú; bổ sung những hành

vi bị nghiêm cấm trong đăng ký và quản lý hộ tịch) và quy định về trách nhiệm
của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp trong việc thường xuyên chỉ đạo, đôn đốc
việc khai sinh, khai tử; chịu trách nhiệm về công tác đăng ký, quản lý hộ tịch và
những vi phạm trong công tác đăng ký, quản lý hộ tịch do buông lỏng quản lý.

Như vậy, có thể khẳng định: việc thực hiện pháp luật hộ tịch yêu cầu người
thực hiện phải có tư duy đổi mới, linh hoạt trong việc thực hiện các quy định của
pháp luật hộ tịch và cũng bảo đảm sự chặt chẽ trong công tác quản lý.

- Yêu câu về tính dân chủ công khai


34

Tính dân chủ, công khai là yêu cầu thiết yếu khi thực hiện pháp luật về hộ
tịch. Các thủ tục hành chính về hộ tịch cần đuợc niêm yết công khai tại trụ sở
làm việc của cơ quan tiến hành đăng ký hộ tịch và phải được tuyên truyền phổ
biến rộng rãi trong toàn thể nhân dân để mọi tổ chức, cá nhân, công dân được
biết và thực hiện đúng quy định của pháp luật.

1.3.2. Các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật về hộ tịch

1.3.2.1. Hệ thống pháp luật về hộ tịch

Chất lượng của hệ thống pháp luật là yếu tố quan trọng đầu tiên ảnh hưởng
đến việc thực hiện pháp luật về hộ tịch. Muốn thực hiện tốt pháp luật về hộ tịch
đòi hỏi phải có một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về hộ tịch hoàn thiện,
đảm bảo được những thuộc tính: tính toàn diện, đồng bộ, tính phù hợp, tính
thống nhất và trình độ kỹ thuật lập pháp.

Một là, tính toàn diện và đồng bộ:

Tính toàn diện và đồng bộ có ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện pháp
luật về hộ tịch, nó đòi hỏi hệ thống pháp luật về hộ tịch phải đáp ứng đầy đủ nhu
cầu điều chỉnh của pháp luật trên những mối quan hệ xã hội nảy sinh trong lĩnh
vựa hộ tịch mà chủ yếu là mối quan hệ giữa công dân và cơ quan hành chính nhà
nước. Tính toàn diện và đồng bộ của hệ thống pháp luật về hộ tịch thể hiện ở chỗ
từng quy phạm pháp luật phải có cấu trúc logic, chặt chẽ; hệ thống pháp luật về
hộ tịch phải có đầy đủ các quy phạm, các chế định đáp ứng nhu cầu phát triển
của các quan hệ xã hội trong lĩnh vực hộ tịch.

Bất kỳ một quy phạm hay một văn bản pháp luật nào cũng có những mối
liên hệ nhất định. Việc thực hiện một quy phạm pháp luật hay một chế định
không tốt có thể sẽ làm việc thực hiện các quy định, chế định khác gặp nhiều khó
khăn, thậm chí không thể thực hiện được.

Do vậy, tính toàn diện và đồng bộ của hệ thống pháp luật về hộ tịch có ảnh
hưởng trực tiếp đến tính khả thi và hiệu quả của việc thực hiện pháp luật về hộ tịch.
Hai là, tính thống nhất của hệ thống pháp luật về hộ tịch:

Tính thống nhất của hệ thống pháp luật về hộ tịch thể hiện ở chỗ: giữa các
chế định trong hệ thống pháp luật về hộ tịch, giữa các quy phạm pháp luật trong
cùng một chế định phải thống nhất, không trùng lặp, chồng chéo, mâu thuẫn lẫn

35

nhau. Việc quy định không thống nhất, chồng chéo sẽ gây khó khăn, cản trở việc
thực hiện pháp luật.

Tính thống nhất có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của việc thực hiện pháp
luật về hộ tịch, muốn việc thực hiện pháp luật về hộ tịch được thống nhất thì hệ
thống pháp luật phải đảm bảo tính thống nhất.

Ba là, tính phù hợp của hệ thống pháp luật về hộ tịch:

Tính phù hợp của hệ thống pháp luật về hộ tịch thể hiện mối tương quan
giữa trình độ pháp luật với trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Hệ thống pháp luật
về hộ tịch phải phản ánh đúng trình độ phát triển của kinh tế - xã hội, không
được cao hơn hoặc thấp hơn. Sự phù hợp của hệ thống pháp luật với các quy luật
và điều kiện kinh tế - xã hội sẽ làm cho pháp luật dễ dàng được thực hiện đồng
thời tạo điều kiện cho sự phát triển của kinh tế - xã hội. Nếu trình độ của pháp
luật cao hơn hoặc thấp hơn trình độ phát triển kinh tế - xã hội thì pháp luật sẽ gặp
khó khăn trong việc thực hiện, thậm chí gây cản trở hoặc không thực hiện
được.Tính phù hợp của hệ thống pháp luật thể hiện ở nhiều mặt, song cần chú ý
hơn cả là sự phù hợp đối với kinh tế, chính trị và các thiết chế xã hội khác.

Sự phù hợp của pháp luật về hộ tịch với điều kiện chính trị:

Hệ thống pháp luật về hộ tịch phải phù hợp với chủ trương, chính sách của
Đảng. Hệ thống pháp luật Việt Nam phải phản ánh đầy đủ đường lối, chính sách
của Đảng cộng sản Việt Nam, thể chế hóa đường lối, chính sách thành những
quy định thống nhất.

Sự phù hợp giữa pháp luật về hộ tịch với các thiết chế xã hội khác:

Các thiết chế xã hội khác như: phong tục tập quán, tín điều tôn giáo,... ảnh
hưởng rất lớn đến việc thực hiện pháp luật.

Các thiết chế xã hội khác phù hợp với ý chí nhà nước được thừa nhận trong
pháp luật góp phần làm cho pháp luật được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, tự
giác hơn.

Sự phù hợp của pháp luật về hộ tịch quốc gia với với pháp luật quốc tế:

Trong xu thế hội nhập như hiện nay, hệ thống pháp luật quốc qia phải phù
hợp với các công ước, điều ước và thông lệ quốc tế mà quốc gia đã kí kết hoặc
tham gia. Đây là một yếu tố nhằm đảm bảo việc thực hiện pháp luật về hộ tịch

36

trong thời đại mới, nhất là những chế định liên quan đến yếu tố nuớc ngoài trong
lĩnh vực hộ tịch.

Bốn là, ngôn ngữ và kỹ thuật xây dựng văn bản:

Hệ thống pháp luật về hộ tịch cần phải được xây dựng có kết cấu, bố cục
chặt chẽ, lôgic. Thuật ngữ pháp lí phải được sử dụng chính xác, một nghĩa, câu
văn trong sáng, cô đọng, mạch lạc, dễ hiểu, phù hợp với khả năng nhận thức của
quảng đại quần chúng nhân dân.

Năm là, tính khả thi của hệ thống pháp luật:

Pháp luật muốn phát huy được vai trò và giá trị của mình trong quá trình
thực hiện thì phải đảm bảo tính khả thi. Nhiều quy định của pháp luật ban hành
không có tính khả thi nên không thực hiện được.

Như vậy, chất lượng của hệ thống pháp luật thực định về hộ tịch là yếu tố
quan trọng đầu tiên ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về hộ tịch. Hệ thống
pháp luật về hộ tịch đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, phù hợp…..sẽ tạo cơ sở cho
việc thực hiện pháp luật được dễ dàng, nghiêm minh và ngược lại.

1.3.2.2. Ý thức pháp luật của các chủ thể thực hiện pháp luật về hộ tịch

Ý thức pháp luật là hệ thống các quan điểm, quan niệm, tư tưởng thịnh
hành trong xã hội về pháp luật; là thái độ, tình cảm, sự đánh giá của con người
đối với pháp luật và hành vi pháp luật của các chủ thể.

Ý thức pháp luật được cấu thành bởi hai bộ phận là: hệ tư tưởng pháp luật
và tâm lí pháp luật. Mỗi bộ phận cấu thành có ảnh hưởng trực tiếp tới việc thực
hiện pháp luật, cụ thể như sau:

Một là, hệ tư tưởng pháp luật

Hệ tư tưởng pháp luật là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng. học thuyết,
trường phái lí luận về pháp luật.

Nếu hệ tư tưởng pháp lý khoa học, phản ánh sâu sắc, đúng đắn các mối
quan hệ vật chất và các quy luật phát triển khách quan của xã hội thì sẽ tạo tiền
đề cho việc thực hiện pháp luật được đúng đắn, tạo hành lang pháp lý để hiểu
đúng và bổ sung thêm kiến thức pháp luật.

Nếu hệ tư tưởng pháp lý phản khoa học, phản ánh sai lầm, xuyên tạc và
thiếu tính khách quan các quan hệ vật chất, các quy luật phát triển của xã hội sẽ

37

dẫn đến chủ thể thực hiện pháp luật hiểu sai lệch về kiến tức pháp luật, thực hiện
sai các quy định của pháp luật.

Hai là, tâm lí pháp luật

Tâm lí pháp luật là tổng thể những tình cảm, thói quen, thái độ đối với pháp
luật của các chủ thể dưới ảnh hưởng và sự điều chỉnh của pháp luật. Tâm lí pháp
luật của mỗi chủ thể là khác nhau và có ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện
pháp luật về hộ tịch.

Nếu chủ thể nhận thức được sự cần thiết của pháp luật về hộ tịch, tin tưởng
vào sự công bằng, công lý, lợi ích của việc điều chỉnh pháp luật về hộ tịch họ sẽ
tự giác thực hiện pháp luật. Ngược lại, chủ thể miễn cưỡng chấp hành thì hiệu
quả của việc thực hiện pháp luật sẽ không cao. Trong thực tế có những chủ thể
do thiếu hiểu biết về pháp luật, không tôn trọng, bất chấp pháp luật nên dẫn đến
vi phạm pháp luật.

Như vậy, để thực hiện pháp luật hiệu quả thì việc nâng cao ý thức phá luật
của chủ thể là điều vô cùng quan trọng.

1.3.2.3. Trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức đăng ký và quản
lý hộ tịch, trình độ hiểu biết pháp luật của người dân

Đây là yếu tố đảm bảo hiệu quả của việc thực hiện pháp luật. Khả năng thực
hiện pháp luật của nhân dân thể hiện ở khả năng thực hiện quyền và nghĩa vụ chính
xác, đầy đủ. Khả năng thực hiện pháp luật chủ thể áp dụng pháp luật thể hiện sự
thành thạo trong công việc, có tinh thần trách nhiệm cao, tránh hiện tượng quan liêu,
cửa quyền, sách nhiễu, giấy tờ hình thức. Thực tế cho thấy sự quan liêu, chậm trễ,
thiếu tinh thần trách nhiệm của một số cơ quan và cán bộ trong giải quyết đơn thư
khiếu nại của nhân dân dẫn đến nhiều vụ việc đơn giản trở nên phức tạp, nhiều sự
oan ức, bất bình trong nhân dân không được giải quyết.

1.3.2.4. Điều kiện vật chất - kỹ thuật đảm bảo cho việc thực hiện pháp luật
về hộ tịch

Đảm bảo thực hiện pháp luật về hộ tịch còn đòi hỏi điều kiện trang thiết bị
vật chất - kỹ thuật. Vì thế, kinh phí, cơ sở vật chất trang thiết bị cho hoạt động
thực hiện và áp dụng pháp luật là một trong những điều kiện cần thiết để thực
hiện pháp luật hộ tịch được hiệu quả. Trong điều kiện hiện nay việc hoàn thiện

38

hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia, nhanh chóng áp dụng chính phủ điện tử là một
yêu cầu cấp thiết để đảm bảo việc thực hiện pháp luật hộ tịch.

1.3.2.5. Các yếu tố bảo đảm khác

- Yếu tố chính trị, kinh tế - xã hội

Yếu tố chính trị là một trong những yêu tố đảm bảo cho việc thực hiện pháp
luật hộ tịch của các chủ thể pháp luật, đặc biệt là cá nhân, cơ quan nhà nuớc có
thẩm quyền áp dụng pháp luật. một đất nuớc có môi truờng chính trị ổn định là
điều kiện thuận lợi đối với việc thực hiện pháp luật hộ tịch và nguợc lại. Ngoài
ra, tính chất, mức độ của nền dân chủ xã hội cũng là một yếu tố đảm bảo cho
việc thực hiện pháp luật hộ tịch. Trong điều kiện xã hội có nền dân chủ rộng rãi,
các tầng lớp xã hội có quyền thẳng thắn tham gia, bày tỏ nguyện vọng ý kiến
quan điểm đối với các vấn đề trong hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống
pháp luật hộ tịch nói riêng.

Sự phát triển kinh tế xã hội cũng là một yếu tố đảm bảo việc thực hiện pháp
luật vềư hộ tịch. Nước ta là một nuớc đang phát triển, trình độ phát triển kinh tế
xã hội ở mỗi vùng miền là khác nhau nên hiệu quả thực hiện pháp luật ở mỗi
vùng miền cũng khác nhau. Kinh tế có phát triển, đời sống vật chất được nâng
cao thì pháp luật mới có điều kiện, khả năng được thực hiện. Điều kiện kinh tế
phát triển kéo theo sự phát triển về trình độ văn hoá, trình độ dân trí được cải
thiện và nâng cao trong đó có tư duy pháp lý. Người dân có điều kiện tiếp xúc
với các nguồn thông tin về pháp luật hộ tịch, được giải thích và nắm rõ các văn
bản quy phạm pháp luật về hộ tịch thì việc thực hiện pháp luật sẽ có hiệu quả
cao, chất lượng.

Ngoài ra, thực hiện pháp luật về hộ tịch còn phụ thuộc vào môi trường mà
trong đó pháp luật hộ tịch được thực hiện như chất lượng, đặc điểm dân cư, sự tham
gia của các tổ chức đoàn thể, hoạt động kiểm tra, giám sát thực hiện pháp luật…

Như vậy, việc thực hiện pháp luật chịu sự ảnh hưởng của rất nhiều các yếu
tố, mỗi yếu tố có tầm ảnh hưởng khác nhau đối với quá trình thực hiện pháp luật.
Kết quả của việc thực hiện pháp luật về hộ tịch có đạt được như mong muốn, quá
trình thực hiện có đầy đủ, nghiêm minh hay gặp nhiều khó khăn vướng mắc phụ
thuộc rất nhiều vào các nhân tố này. Vì vậy, trong quá trình thực hiện pháp luật,

39

Đảng và Nhà nước cần có những biện pháp phát huy những yếu tố có lợi, khắc
phục khó khăn làm cho việc thực hiện ngày càng có hiệu quả hơn.

- Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật hộ tịch

Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật có ảnh hưởng rất lớn
đối với việc thực hiện pháp luật hộ tịch. Thông qua công tác tuyên truyền, giáo
dục pháp luật người dân có thể nắm được các quy định của pháp luật, tự giác
thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật. Ngược lại nếu không làm tốt công tác này
người dân sẽ bị hạn chế kiến thức pháp luật, hiểu sai, hiểu không đầy đủ các quy
định của pháp luật. Vì vậy mà có nhiều trường hợp người vi phạm pháp luật mà
không hề biết hành vi của mình là vi phạm. Do vậy, nhà nước ta cần đẩy mạnh
công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật hộ tịch dưới nhiều hình thức
nhằm nâng cao kiến thức pháp luật cho người dân để từ đó họ có những hành vi
pháp luật tích cực.

- Hoạt động giải thích pháp luật

Giải thích pháp luật cũng có ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện pháp luật về
hộ tịch. Giải thích pháp luật giúp cho chủ thể hiểu đúng đắn, đầy đủ về các quy
định, thực hiện pháp luật được dễ dàng. Nếu thiếu đi công tác giải thích pháp
luật, người dân sẽ không hiểu hoặc hiểu không đầy đủ các quy định của pháp
luật, gặp nhiều khó khăn vướng mắc trong thực hiện pháp luật. Khoản 3 điều 91
Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001 quy định Ủy ban thường vụ Quốc hội
“giải thích Hiến pháp, luật, nghị quyết” còn các văn bản pháp lý khác thì không
quy định ai có thẩm quyền giải thích. Để nhận thức đúng đắn, đầy đủ đòi hỏi
phải giải thích tất cả các văn bản pháp luật, đồng thời nên đưa việc giải thích các
thuật ngữ pháp lý vào nội dung của văn bản nhằm tạo sự nhận thức đúng đắn,
tránh hiện tượng giải thích tùy tiện gây khó khăn cho việc thực hiện pháp luật.

- Sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan tổ chức thực hiện và áp dụng
pháp luật về hộ tịch

Đây cũng là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến quá trình thực hiện pháp luật, đặc
biệt là áp dụng pháp luật về hộ tịch. Để việc thực hiện pháp luật có hiệu quả thì các
cơ quan áp dụng pháp luật phải được tổ chức một cách khoa học, có sự phân công
rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, tránh hiện tượng chồng chéo, mâu thuẫn, cản trở

40

lẫn nhau. Sự không thống nhất, không phân định rõ ràng phạm vi, lĩnh vực hoạt
động giữa các cơ quan dẫn đến tình trạng có nhiều vụ việc thì nhiều cơ quan
tranh nhau giải quyết nhưng lại có những vụ việc thì đùn đẩy không cơ quan nào
chịu giải quyết. Vì vậy, phải đảm bảo sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng, giữa các
cơ quan, đồng thời vẫn phải đảm bảo tính chủ động, sáng tạo.


























































41

Kết luận chƣơng 1

Trong chương 1, luận văn đã làm rõ khái quát được những vấn đề lý luận
của thực hiện pháp luật về hộ tịch; Quan niệm pháp luật về hộ tịch và thực hiện
pháp luật về hộ tịch; Yêu cầu và các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật về hộ
tịch.

Trên cơ sở phân tích có căn cứ khoa học những vấn đề lý luận của thực
hiện pháp luật về hộ tịch. Mặt khác để tiếp tục hoàn thiện hơn nữa hệ thống lý
luận về hoạt động này, đảm bảo tính nhất quán phù hợp với các văn bản pháp
luật và những vấn đề lý luận nghiệp vụ khác của ngành, đã tập trung nghiên cứu
phân tích chỉ ra một số vấn đề về yêu cầu và các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp
luật về hộ tịch cần được bổ sung, hoàn thiện. Nhằm làm cơ sở và tạo điều kiện
thuận lợi cho cán bộ, công chức trong quá trình công tác. Đây chính là những
căn cứ khoa học để đưa ra giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống lý luận thực hiện
pháp luật về hộ tịch trong những năm tới.

Để từ đó làm cơ sở lý luận, là những tiêu chi để phân tích thực trạng của
chương 2.


































42

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỘ TỊCH

Ở HUYỆN MÊ LINH, THÀNH P HỐ HÀ NỘI

2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của huyện Mê Linh

Mê Linh là huyện nằm ở phía Bắc của thành phố Hà Nội. Huyện có diện tích
đất tự nhiên 14.251 ha, dân số xấp xỉ 193.727 người, có 16 xã và 2 thị trấn. Huyện
đang trong quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá nhanh. Mê Linh cũng là huyện đầu
tiên được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt định hướng chung quy hoạch đô thị Mê
Linh đến năm 2020 (tại Quyết định số 208/2004/QĐ-TTg ngày 13/12/2004). Đây là
điều kiện cơ bản để huyện Mê Linh phát triển kinh tế - xã hội.

Trong những năm qua, Đảng bộ, chính quyền và các tầng lớp nhân dân
trong huyện đã nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi toàn diện các nhiệm vụ chính
trị của địa phương. Tốc độ phát triển kinh tế hàng năm tăng 20,8%, trong đó:
Công nghiệp - xây dựng tăng 25,1%/năm, dịch vụ tăng trên 15,6%/năm, nông
nghiệp tăng 1,7%/năm. Cơ cấu các ngành kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo
hướng công nghiệp - xây dựng - nông nghiệp - dịch vụ. Thu ngân sách tăng cao
(bình quân tăng 42,9%/năm). Chi ngân sách tăng bình quân mỗi năm 33%, trong
đó thực hiện chi ngân sách tiết kiệm, ưu tiên chi đầu tư phát triển, có trọng tâm,
trọng điểm, đúng chương trình mục tiêu. Huyện đã thu hút được 339 dự án, tổng
diện tích đất được phê duyệt là 2.334 ha, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt trên 39
nghìn tỷ đồng, trên 363 triệu USD. Đến nay, huyện đã thu hồi được 627 ha đất,
giao cho 203 dự án, hầu hết các dự án được giao đất đã đi vào sản xuất.

Lĩnh vực văn hoá – xã hội được huyện quan tâm, đầu tư. Các trường học được
đầu tư xây dựng theo hướng kiên cố hoá, xây dựng trường đạt chuẩn Quốc gia; chất
lượng giáo dục mũi nhọn và giáo dục toàn diện có tiến bộ. Công tác y tế, chăm sóc
sức khoẻ nhân dân, chất lượng khám chữa bệnh được nâng cao (có 15 Trạm xá xã,
thị trấn đạt chuẩn Quốc gia). Thực hiện tốt các chính sách xã hội, giải quyết việc
làm, xóa đói, giảm nghèo: Bình quân hàng năm giải quyết việc làm cho 2.000 lao
động; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân hàng năm 1,27%. Toàn huyện đã xây dựng
được được 499 nhà Đại đoàn kết và nhà cho hộ nghèo, sửa chữa và xây


43

mới 175 nhà tình nghĩa với kinh phí trên 6,1 tỷ đồng. Hệ thống các thiết chế văn
hoá từ huyện đến cơ sở từng bước được quan tâm đầu tư. Năm 2010, 80% gia
đình đạt tiêu chuẩn Gia đình văn hoá, tăng 7% so với năm 2005; số làng, tổ dân
số văn hoá ước đạt 67%, tăng 16% so với năm 2005.

Công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân được
quan tâm, chỉ đạo. Tỷ lệ giải quyết đơn thư của công dân cấp huyện và cấp xã
đạt trên 80%. Các vụ việc phức tạp, đông người đã được xử lý kịp thời vì vậy
không tạo thành các "điểm nóng". An ninh chính trị được giữ vững, trật tự an
toàn xã hội được đảm bảo, an ninh nông thôn cơ bản ổn định.

Để phát triển kinh tế - xã hội của huyện trong những năm tới, Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ IX (nhiệm kỳ 2010 – 2015) đã thông qua 5 nhiệm
vụ trọng tâm và 2 khâu đột phá.

Với truyền thống đoàn kết, thống nhất, với phương châm “Đổi mới và
trách nhiệm”, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Mê Linh quyết tâm phấn
đấu, hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội đề ra.

Xuất phát từ các đặc điểm kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục… ở huyện Mê
Linh đã có tác động không nhỏ tới việc thực hiện pháp luật nói chung và thực
hiện pháp luật về hộ tịch nói riêng.

Nhìn chung, công tác đăng ký, quản lý hộ tịch được quan tâm, đầu tư thích
đáng. Trình độ dân trí ngày một nâng cao, do đó các quy định của pháp luật được
người dân thực hiện khá nghiêm túc.

Thực hiện pháp luật của công dân cùng một lúc chịu sự tác động theo
những mức độ, tần suất khác nhau của rất nhiều yếu tố chủ quan và khách quan,
các nhân tố kinh tế và phi kinh tế. Xã hội không chỉ là sự vận hành của hệ thống
kinh tế mà còn là một tổng thể phức hợp của các mối quan hệ đa dạng, sự tương
tác lẫn nhau của các nhân tố kinh tế và nhân tố phi kinh tế, kinh tế và văn hóa.
Các nhân tố phi kinh tế tác động đến pháp luật trong một chỉnh hợp thống nhất
và đa dạng, đan xen nhau. Mỗi một hành vi của cá nhân có thể cùng lúc chịu sự
điều chỉnh của các yếu tố đạo đức, pháp luật, phong tục, tập quán, lối sống, tâm
lý; tôn giáo, tín ngưỡng, đoàn thể mà cá nhân đó là thành viên. Các yếu tố tác
động đến THPL của công dân rất đa dạng, bao gồm: các yếu tố cơ bản như: điều

44

kiện kinh tế, chính trị, văn hoá; đạo đức; phong tục, tập quán, nghệ thuật, các
loại quy tắc xã hội khác; yếu tố lợi ích; thói quen, nếp nghĩ, lối sống; hệ thống
chính sách, pháp luật; thái độ, cách thức phục vụ, thực thi pháp luật của các cơ
quan và cá nhân công quyền; khả năng tiếp cận pháp luật, tiếp cận công lý; điều
kiện và môi trường tự nhiên; địa lý; khí hậu, đất đai, thổ nhưỡng; kỹ thuật, khoa
học và công nghệ; tâm sinh lý; tính cách; lối sống, lối tư duy... Do địa bàn huyện
Mê Linh đang trong quá trình phát triển công nghiệp hóa đan xen giữa tư duy
nông nghiệp và công nghiệp mà phần lớn là nông nghiệp nên trình độ văn hóa
của người dân còn thấp, Ý thức chấp hành pháp luật chưa cao, nhất là đối với
lĩnh vực hộ tịch người dân chưa hiểu được tầm quan trọng của các giấy tờ hộ tịch
nên hay làm mất các loại giấy tờ này, đến khi cần đến thì không đáp ứng được
các quy định của pháp luật để cấp lại thì lại gây rối mất trật tự và cho rằng cán bộ
gây khó dễ. Bên cạnh đó, địa bàn huyện Mê Linh đang trong quá trình công
nghiệp hóa, phần lớn thanh niên trong độ tuổi lao động đều đi làm công nhân tại
các khu công nghiệp, do vậy, các thủ tục hành chính được ủy quyền cho ông bà
đi làm. Những người này do lớn tuổi nhận thức và hiểu biết của họ không đáp
ứng được yêu cầu, thậm chí một số người đi làm thủ tục khai sinh cho cháu
không thể viết được tờ khai vì ít chữ, mắt kém… cán bộ hướng dẫn nhiều lần
vẫn không làm được gây tâm lý khó chịu và mất thời gian, ảnh hưởng đến việc
giải quyết các hồ sơ cho công dân khác.

Để cho các quy định, các nguyên tắc của pháp luật được thực hiện, được
tôn trọng trong cuộc sống cần phải áp dụng hàng loạt biện pháp cần thiết. Nhưng
để đưa ra những giải pháp cần thiết thì cần phải nhận diện được các yếu tố tác
động đến thực hiện pháp luật của mỗi cá nhân, đến những hành vi hợp pháp,
hành vi vi phạm pháp luật của họ. Quy định pháp luật không thể tự động hóa
thực hiện theo kiểu "mệnh lệnh - phục tùng" hay chỉ đơn thuần dựa vào sự áp
chế của các chế tài pháp luật.

Con người ta không thể nhớ hết, biết hết các quy định pháp luật song nếu
hiểu được sự cần thiết của chúng cùng với lối sống phù hợp đạo đức, ý thức
trách nhiệm đối với bản thân và cộng đồng, họ sẽ tự kiềm chế gây ra những hành

vi vi phạm pháp luật. Điều quan trọng trong giáo dục, phổ biến pháp luật do vậy


45

chính là việc làm sao nâng cao được khả năng nhận thức pháp lý và gây dựng
được tình cảm, niềm tin pháp lý ở mỗi cá nhân. Nếu để người dân thờ ơ trước
pháp luật thì khó lòng tạo dựng một tình cảm, thái độ đúng đắn đối với pháp luật
và việc thực hiện các hành vi hợp pháp. Giáo dục để hình thành sự tôn trọng
pháp luật ở mọi nơi, mọi lúc.

2.2. Phân tích thực trạng thực hiện pháp luật về hộ tịch

2.2.1. Tình hình triển khai thực hiện pháp luật về hộ tịch ở huyện Mê Linh

Đăng ký và quản lý hộ tịch là lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội, có

ý nghĩa thiết thực đối với đời sống của nhân dân. Trong thời gian vừa qua, với sự
phân cấp thẩm quyền mạnh mẽ, cùng với cải cách hành chính và cải cách tư pháp
đã làm cho công tác hộ tịch ở huyện Mê Linh đạt kết quả cao. Điều đó góp phần
làm tốt công tác quản lý nhà nước về dân số, phản ánh được thực trạng dân số.
Từ đó cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền có thể đưa ra những chính sách
đúng đắn và hợp lý về dân số.

Trong thời gian vừa qua, công tác hộ tịch của huyện Mê Linh luôn nhận
được sự quan tâm, chỉ đạo của lãnh đạo Ủy ban nhân dân huyện Mê Linh và sự
hướng dẫn về chuyên môn của Sở Tư pháp, thành phố Hà Nội. Nhìn chung, công
tác hộ tịch được thực hiện tốt, hiệu quả đăng ký hộ tịch ngày càng đáp ứng được
yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân. Ủy ban nhân dân huyện Mê Linh đã tích
cực cải cách thủ tục hành chính và thực hiện cơ chế “một cửa” trong lĩnh vực
đăng ký và quản lý hộ tịch, huyện đã tổ chức triển khai đưa Luật Hộ tịch năm
2014, Nghị định số 123/2015/NĐ-CP và Thông tư 15/2015/TT-BTP vào cuộc
sống, với những quy định mang tính cải cách mạnh mẽ, sâu rộng và khá triệt để
về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời gian giải quyết đăng ký hộ tịch, tạo điều
kiện thuận lợi hơn trong việc giải quyết đăng ký hộ tịch cho người dân, đồng thời
đảm bảo hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác hộ tịch tại địa phương.
Trên cơ sở đó, công tác đăng ký hộ tịch của huyện Mê Linh dần đi vào nề nếp.

Về thủ tục giấy tờ trong đăng ký hộ tịch đã được đơn giản hóa phù hợp với
chủ trương loại bỏ cơ chế xin cho, chuyển một số hoạt động tư pháp sang cơ chế
dịch vụ công. Về hình thức các biểu mẫu hộ tịch có sự thay đổi, các biểu mẫu
trước đây có tên là “Đơn” nay đổi thành “Tờ khai” thể hiện sự bình đẳng giữa

46

người có yêu cầu đăng ký và cơ quan có thẩm quyền đăng ký hộ tịch. Các thủ
tục, biểu mẫu hộ tịch, thời hạn và lệ phí giải quyết được Ủy ban nhân dân các xã,
thị trấn trên địa bàn huyện niêm yết công khai, minh bạch, rõ ràng tại địa điểm
tiếp công dân của bộ phận một cửa tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong
việc đăng ký hộ tịch.

Ví dụ như trước đây một bộ hồ sơ đăng ký khai sinh cho trẻ mới sinh gồm
có: tờ khai đăng ký khai sinh, giấy chứng sinh, sổ hộ khẩu, giấy chứng nhận kết
hôn thì nay thủ tục và giấy tờ được đơn giản đi rất nhiều cụ thể:

Thủ tục đăng ký khai sinh

Trình tự thực hiện

- Người có yêu cầu đăng ký khai sinh nộp hồ sơ tại Ủy ban nhân dân cấp xã
có thẩm quyền.

- Người tiếp nhận có trách nhiệm kiểm tra ngay toàn bộ hồ sơ, đối chiếu
thông tin trong Tờ khai và tính hợp lệ của giấy tờ trong hồ sơ do người yêu cầu
nộp, xuất trình.

- Nếu hồ sơ đầy đủ, hợp lệ, người tiếp nhận hồ sơ viết giấy tiếp nhận, trong đó
ghi rõ ngày, giờ trả kết quả; nếu hồ sơ chưa đầy đủ, hoàn thiện thì hướng dẫn người
nộp hồ sơ bổ sung, hoàn thiện theo quy định; trường hợp không thể bổ sung, hoàn
thiện hồ sơ ngay thì phải lập thành văn bản hướng dẫn, trong đó nêu rõ loại giấy tờ,
nội dung cần bổ sung, hoàn thiện, ký, ghi rõ họ, chữ đệm, tên của người tiếp nhận.

- Nếu hồ sơ sau khi đã được hướng dẫn mà không được bổ sung đầy đủ,
hoàn thiện thì người tiếp nhận từ chối tiếp nhận hồ sơ và lập văn bản từ chối tiếp
nhận hồ sơ, trong đó ghi rõ lý do từ chối, ký, ghi rõ họ, chữ đệm, tên của người
tiếp nhận.

- Ngay sau khi nhận đủ giấy tờ theo quy định, nếu thấy thông tin khai sinh
đầy đủ và phù hợp, công chức Tư pháp - Hộ tịch báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp xã. Trường hợp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã đồng ý giải quyết thì
công chức Tư pháp - Hộ tịch cập nhật thông tin khai sinh theo hướng dẫn để lấy
Số định danh cá nhân (đối với các địa phương đã triển khai cấp Số định danh cá
nhân khi đăng ký khai sinh), ghi nội dung khai sinh vào Sổ đăng ký khai sinh,



47

cùng người đi đăng ký khai sinh ký tên vào Sổ. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã
ký Giấy khai sinh cấp cho người được đăng ký khai sinh.

* Lƣu ý:

+ Trường hợp người yêu cầu nộp giấy tờ là bản sao được cấp từ sổ gốc
hoặc bản sao được chứng thực từ bản chính thì người tiếp nhận hồ sơ không
được yêu cầu xuất trình bản chính; nếu người yêu cầu chỉ nộp bản chụp và xuất
trình bản chính thì người tiếp nhận hồ sơ kiểm tra, đối chiếu bản chụp với bản
chính và ký vào bản chụp xác nhận về việc đã đối chiếu nội dung giấy tờ đó,
không được yêu cầu người đi đăng ký nộp bản sao có chứng thực giấy tờ đó.

+ Trường hợp pháp luật quy định xuất trình giấy tờ khi đăng ký hộ tịch,
người tiếp nhận có trách nhiệm kiểm tra giấy tờ xuất trình, đối chiếu với thông
tin trong Tờ khai và trả lại cho người xuất trình, không được yêu cầu người đăng
ký hộ tịch nộp thêm bản sao giấy tờ đó. Người tiếp nhận có thể chụp 01 bản giấy
tờ xuất trình hoặc ghi lại thông tin của giấy tờ xuất trình để lưu hồ sơ.

+ Người tiếp nhận có trách nhiệm tiếp nhận đúng, đủ hồ sơ đăng ký hộ tịch
theo quy định của pháp luật hộ tịch, không được yêu cầu người đăng ký hộ tịch
nộp thêm giấy tờ mà pháp luật hộ tịch không quy định phải nộp.

Cách thức thực hiện:

- Người có yêu cầu đăng ký khai sinh trực tiếp thực hiện hoặc ủy quyền cho
người khác thực hiện việc đăng ký khai sinh;

- Người thực hiện việc đăng ký khai sinh có thể trực tiếp nộp hồ sơ tại Ủy
ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền hoặc gửi hồ sơ qua hệ thống bưu chính.

Thành phần hồ sơ:

* Giấy tờ phải xuất trình:

- Hộ chiếu hoặc chứng minh nhân dân hoặc thẻ căn cước công dân hoặc các
giấy tờ khác có dán ảnh và thông tin cá nhân do cơ quan có thẩm quyền cấp, còn giá
trị sử dụng để chứng minh về nhân thân của người có yêu cầu đăng ký khai sinh;

- Giấy tờ chứng minh nơi cư trú để chứng minh thẩm quyền đăng ký khai
sinh; trường hợp cha, mẹ của trẻ đã đăng ký kết hôn thì phải xuất trình Giấy
chứng nhận kết hôn (trong giai đoạn Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và Cơ sở



48

dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc chưa được xây dựng xong và thực hiện thống
nhất trên toàn quốc).

Trường hợp gửi hồ sơ qua hệ thống bưu chính thì phải gửi kèm theo bản
sao có chứng thực các giấy tờ phải xuất trình nêu trên.

* Giấy tờ phải nộp:

- Tờ khai đăng ký khai sinh theo mẫu.

- Bản chính Giấy chứng sinh; trường hợp không có Giấy chứng sinh thì nộp
văn bản của người làm chứng xác nhận về việc sinh; nếu không có người làm
chứng thì phải có giấy cam đoan về việc sinh;

- Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi thì phải có biên bản về việc trẻ bị bỏ rơi do
cơ quan có thẩm quyền lập.

- Trường hợp khai sinh cho trẻ em sinh ra do mang thai hộ phải có văn bản
xác nhận của cơ sở y tế đã thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản cho việc mang thai hộ.

- Văn bản ủy quyền theo quy định của pháp luật trong trường hợp ủy quyền
thực hiện việc đăng ký khai sinh.

Số lƣợng hồ sơ: 01 bộ

Thời hạn giải quyết: Ngay trong ngày tiếp nhận yêu cầu, trường hợp nhận
hồ sơ sau 15 giờ mà không giải quyết được ngay thì trả kết quả trong ngày làm
việc tiếp theo.

Đối tƣợng thực hiện thủ tục hành chính: Cá
nhân Cơ quan thực hiện thủ tục hành chính:

- Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người cha hoặc người mẹ thực hiện
đăng ký khai sinh cho trẻ em;

- Ủy ban nhân dân cấp xã nơi lập biên bản về việc trẻ bị bỏ rơi đối với
trường hợp đăng ký khai sinh cho trẻ bị bỏ rơi.

Cơ quan phối hợp: Không.

Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Giấy khai sinh

Lệ phí:

- Không quá 8.000 đồng.

- Miễn lệ phí đối với trường hợp khai sinh đúng hạn, người thuộc gia đình
có công với cách mạng; người thuộc hộ nghèo; người khuyết tật.

49

Mẫu đơn, mẫu tờ khai: Tờ khai đăng ký khai sinh

Căn cứ pháp lý:

- Luật hộ tịch năm 2014;

- Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định
chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch;

- Thông tư số 15/2015/TT-BTP ngày 16/11/2015 của Bộ Tư pháp hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP
ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi
hành Luật hộ tịch;

- Thông tư số 179/2015/TT-BTC ngày 13/11/2015 của Bộ Tài chính sửa
đổi, bổ sung Thông tư số 02/2014/TT-BTC ngày 02/01/2014 của Bộ Tài chính
hướng dẫn về phí và lệ phí thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

2.2.2. Những kết quả đã đạt được trong thực hiện pháp luật về hộ tịch ở
huyện Mê Linh

Cấp ủy, chính quyền các xã đã triển khai thực hiện tương đối tốt các quy
định của pháp luật trong lĩnh vực hộ tịch đáp ứng được các nhu cầu của nhân
dân, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Hiện tại, cả huyện Mê Linh có 33 công chức Tư pháp – Hộ tịch cấp xã,
Phòng Tư pháp huyện là 03 chuyên môn và 03 lãnh đạo. Công chức Tư pháp -
Hộ tịch từng bước được đào tạo chuẩn hóa về công tác chuyên môn nghiệp vụ,
đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch phần lớn được ổn định, tham mưu tích cực
cho Lãnh đạo UBND cấp xã, đáp ứng được nhu cầu chính đáng của công dân.
Nhiều địa phương được sự quan tâm đúng mức của cấp ủy đảng và chính quyền,
tạo điều kiện thuận lợi cho công chức Tư pháp - Hộ tịch thực hiện tốt vai trò,
trách nhiệm, từ đó công tác tư pháp cấp xã ngày càng đi vào nề nếp, đảm bảo
tính chính xác và thực hiện đúng các quy định của pháp luật.

Về đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch: Hiện nay UBND các xã đã bố trí
02 công chức Tư pháp có trình độ từ trung cấp luật trở lên, cơ sở vật chất, kỹ
thuật, phương tiện làm việc tương đối đầy đủ đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ
được giao.

50

Về hoạt động chứng thực, hộ tịch: Qua việc trực tiếp kiểm tra hồ sơ, sổ sách
lưu tại các xã được thanh tra cho thấy, UBND đã triển khai thực hiện đúng thẩm
quyền, trong các việc: đăng ký khai sinh, kết hôn, khai tử, nhận nuôi con nuôi,
thay đổi, cải chính hộ tịch xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, cấp giấy
xác nhận tình trạng hôn nhân và trong việc chứng thực các hợp đồng giao dịch
dân sự liên quan đến quyền của người sử dụng đất. Về trình tự thủ tục cơ bản đã
được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho
nhân dân, đã góp phần đưa chính sách pháp luật vào cuộc sống, nhằm ổn định
tình hình an ninh, chính trị tại địa phương, phục vụ và đáp ứng các nhu cầu hợp
pháp, chính đáng của nhân dân.

Về hồ sơ, sổ sách được lưu đầy đủ và được bảo bảo quản cẩn thật, sắp xếp
khoa học: một số xã đã lập các danh mục giấy tờ cần thiết để lưu trong hồ sơ,tạo
điều kiện thuận lợi cho việc tra cứu, thống kê, tổng hợp số liệu, công tác báo cáo,
luôn được thực hiện đúng quy định, đảm bảo thời hạn, chất lượng theo yêu
cầu.Nhìn chung công tác đăng ký, quản lý hộ tịch tại một số địa phương về cơ
bản đã triển khai thực hiện tốt Luật Hộ tịch năm 2014, Nghị định 123/2015/NĐ-
CP của Chính phủ và Thông tư số 05/2015/TT- BTP của Bộ Tư pháp hướng dẫn
thực hiện một số quy định của Luật hộ tịch. Việc đăng ký khai sinh (đúng hạn,
quá hạn, đăng ký lại); thay đổi, cải chính hộ tịch cơ bản được thực hiện đúng quy
trình, thủ tục chặt chẽ, đảm bảo cơ sở pháp lý theo quy định; việc lưu trữ đầy đủ,
ngăn nắp.

Một số địa phương có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đầu tư về cơ sở vật
chất, trang thiết bị, ứng dụng công nghệ thông tin vào lĩnh vực đăng ký, quản lý
hộ tịch, cũng như tăng cường cán bộ cho công tác Tư pháp từ cấp huyện đến cấp
xã (nhất là cấp xã) như Tam Đồng, Liên Mạc, Thanh Lâm… làm cho công tác
đăng ký, quản lý hộ tịch ở địa phương được kịp thời, chặt chẽ, thuận lợi, khoa
học và đạt hiệu quả.

Việc bố trí, đào tạo cán bộ Tư pháp - Hộ tịch (nhất là cấp xã) có trình độ
chuyên môn từ Trung cấp Luật trở lên, kinh qua công tác Tư pháp nhiều năm, có
nhiều kinh nghiệm trong thực tiễn, kịp thời nắm bắt các quy định của pháp luật,



51

cùng với việc trang bị cơ sở vật chất đầy đủ tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ
Tư pháp hộ tịch làm việc có hiệu quả.

Trong sáu tháng đầu năm 2016 thực hiện Luật hộ tịch và phần mềm đăng
ký khai sinh, huyện Mê Linh đã đạt được một số kết quả cụ thể sau:

Kết quả đăng ký nuôi con nuôi tổng số trên địa bàn huyện là: 01 trường hợp

Kết quả đăng ký khai mới tổng số trên địa bàn huyện là: 1592 trường hợp,
trong đó có 888 Nam và 704 Nữ, dăng ký đúng hạn là 1563 trường hợp, quá hạn
29 trường hợp.

Kết quả đăng ký khai sinh lại là: 714 trường hợp.

Đăng ký khai tử mới 423 trường hợp, trong đó 358 trường hợp khai tử
đúng hạn, 65 trường hợp quá hạn.

Đăng ký lại khai tử là 20 trường hợp.

Đăng ký kết hôn mới tổng số là 712 cặp trong đó kết hôn lần đầu là 647 cặp.

Đăng ký lại kết hôn là 33 cặp.

Kết quả đăng ký khai sinh, khai tử có yếu tố nước ngoài tại UBND cấp
huyện là 0 trường hợp.

Kết quả đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài tại UBND cấp huyện là 03 cặp.
Các việc hộ tịch khác được thực hiện tại UBND cấp huyện tổng số là: 06 trường
hợp, trong đó thay đổi hộ tịch là 01 trường hợp, cải chính hộ tịch là 05

trường hợp.

Các việc hộ tịch khác được thực hiện tại UBND cấp xã trên địa bàn huyện
là 43 trường hợp, trong đó: 14 trường hợp thay đổi hộ tịch, 15 trường hợp cải
chính hộ tịch, 11 trường hợp điều chỉnh hộ tịch, 03 trường hợp bổ sung hộ tịch.

Kết quả ghi vào sổ các thay đổi hộ tịch khác là 61 trường hợp, trong đó:
đăng ký nhận cha, mẹ, con là 15 trường hợp, đăng ký giám hộ 06 trường hợp,
chấm dứt thay đối việc giám hộ là 07 trường hợp, xác định cha mẹ con là 09
trường hợp, thay đổi quốc tịch 09 trường hợp, ly hôn 20 trường hợp, hủy hôn
nhân trái pháp luật 11 trường hợp, chấm dứt việc nuôi con nuôi 12 trường hợp.

Cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân để kết hôn với người Việt Nam ở
trong nước là 423 trường hợp, để kết hôn với người nước ngoài tại cơ quan có
thẩm quyền của Việt Nam là 03 trường hợp, để kết hôn với người nước ngoài tại

52

cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài là 05 trường hợp, để sử dụng vào mục
đích khác là 177 trường hợp [23].

Các kết quả trên đã phản ánh được rõ nét thực trạng thực hiện pháp luật về
hộ tịch ở huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội. Thủ tục được thực hiện nhiều nhất
vẫn là các sự kiện hộ tịch cơ bản: sinh, tử, kết hôn. Các thủ tục mang tính phức
tạp hơn như nuôi con nuôi, giám hộ… hầu như là không có hoặc có rất ít. Điều
này cũng phản ánh được phần nào đặc thù của huyện Mê Linh chủ yếu là làm
nông nghiệp, nhu cầu, hiểu biết của người dân thực hiện pháp luật về hộ tịch còn
hạn chế. Tỉ lệ đăng ký hộ tịch quá hạn khá nhiều. Điều này gây ảnh hưởng không
nhỏ đến hiệu quả công tác thực hiện pháp luật về hộ tịch, nhất là các trường hợp
đăng ký khai tử quá hạn, thông thường người dân không đi đăng ký khai tử ngay
và có thói quen đốt các giấy tờ của người đã chết, đến khi cần làm thủ tục gì liên
quan đến người đã chết thì mới đi khai tử, lúc này hồ sơ, giấy tờ không còn nên
việc đăng ký khai tử gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, đặc thù thứ hai trong thực
hiện pháp luật về hộ tịch ở huyện Mê Linh đó là tính chất mùa vụ đặc thù của
vùng nông nghiệp cùng với sự dịch chuyển lao động trẻ sang các ngành nông
nghiệp nên trừ các sự kiện hộ tịch yêu cầu đúng người đăng ký như kết hôn,
nhận cha mẹ con… theo quy định của pháp luật thì hầu hết các sự kiện hộ tịch
khác đềuu được ủy quyền cho ông, bà, thậm chí là cụ nội, cụ ngoại thực hiện, do
đó tình trạng sai sót thông tin trong tờ khai khiến cán bộ Tư pháp hộ tịch phải
hướng dẫn và kiểm tra cụ thể, việc này cũng phần nào ảnh hưởng đến thời gian
giải quyết hồ sơ của người dân, cùng với đó việc hướng dẫn tuyên truyền các
quy định của pháp luật về hộ tịch, và tuyên truyền đăng ký khai sinh, khai tử trực
tuyến cho các đối tượng này không đạt hiệu quả. Nhưng về cơ bản ý thức chấp
hành pháp luật của người dân cao, không có vấn đề phát sinh nổi cộm.

Đội ngũ cán bộ, công chức Tư pháp – Hộ tịch ở huyện Mê Linh ngày càng
được củng cố, nâng cao cả về số lượng và chất lượng. UBND huyện Mê Linh
thường xuyên mở các lớp tập huấn, hội nghị trao đổi các khó khăn, vướng mắc
trong công tác hộ tịch. Điều này góp phần quan trọng nâng cao chất lượng hiệu
quả công tác thực hiện pháp luật về hộ tịch ở huyện Mê Linh. Đảm bảo các sự
kiện hộ tịch được đăng ký kịp thời, đúng quy định của pháp luật, không còn tình

53

trạng cấp tùy tiện các giấy tờ hộ tịch hoặc cấp sai thẩm quyền như trước đây.
Tuy nhiên, mặt bằng chung ở huyện Mê Linh hiện nay đội ngũ Công chức Tư
pháp – Hộ tịch đa số là người lớn tuổi, năng lực, trình độ chuyên môn nhất là
trình độ tin học còn nhiều hạn chế, ngại cập nhật các quy định của pháp luật, hay
làm việc theo cảm tính… điều này cũng gây ảnh hưởng lớn tới tiến độ, hiệu quả
thực hiện pháp luật về hộ tịch.

Bên cạnh đó, việc lưu trữ sổ hộ tịch những năm về trước khi có Luật Hộ
tịch chưa được quan tâm, nên dữ liệu hộ tịch của người dân không được lưu giữ.
Như xã Liên Mạc hiện nay chỉ lưu được sổ hộ tịch từ năm 2000 trở về đây. Mà
hiện tại Luật Hộ tịch quy điịnh không cấp lại bản chính giấy khai sinh, trong khi
các lĩnh vực khác như cấp chứng minh thư, căn cước công dân, thủ tục về thừa
kế đất đai… đều đòi hòi giấy khai sinh, mà bản thân người dân cũng không giữ
được các giấy tờ hộ tịch của mình, nên các thủ tục đăng ký lại khai sinh tăng đột
biến, mà thủ tục này đòi hỏi phải có các giấy tờ chứng minh về họ tên, ngày
tháng năm sinh, quan hệ cha mẹ con như, sổ hộ khẩu, chứng minh nhân dân, học
bạ, bằng cấp… việc này là rất khó khăn vì người dân thường là không còn giấy
tờ gì. Vì vậy, cán bộ tư pháp gặp nhiều khó khăn trong việc xác minh để làm hồ
sơ đăng ký lại khai sinh.

Tuy nhiên, nhìn chung công tác tác thực hiện pháp luật về hộ tịch ở huyện
Mê Linh ngày càng được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp, cơ sở vật chất kỹ
thuật, trang thiết bị phục vụ cho công tác hộ tịch cũng được đầu tư thỏa đáng. Đó
là yếu tố tiên quyết để nâng cao hiệu quả thực hiện công tác này.

2.2.3. Những hạn chế và nguyên nhân trong thực hiện pháp luật về hộ
tịch ở huyện Mê Linh

2.2.3.1. Hạn chế

Hiện tại công tác đăng ký và quản lý hộ tịch vẫn còn những hạn chế, yếu kém
nên đã ảnh hưởng đến chất lượng công tác đăng ký và quản lý hộ tịch từ đó ảnh
hưởng đến hiệu quả công tác quản lý dân cư, quản lý xã hội; cũng vì vậy mà công
tác hộ tịch chưa đóng góp được nhiều cho việc dự báo để hoạch định, xây dựng và
thực thi chính sách về kinh tế, xã hội và an ninh quốc phòng của đất nước.



54

Những hạn chế, yếu kém trong công tác hộ tịch thể hiện trên những mặt sau
đây:

Những vi phạm về ghi chép sổ Hộ tịch theo quy định tại Điều 58 Luật Hộ
tịch năm 2014, điều 11, 12 của Nghị định 123/2015/NĐ-CP:

Do thiếu nghiên cứu các quy định về ghi chép sổ hộ tịch của Công chức Tư
pháp - Hộ tịch một số cấp xã thuộc huyện đã vi phạm các quy định tại điều 58 đó là:

Theo quy định, vào ngày 31/12 hàng năm đều phải khóa sổ và việc khóa sổ
phải do Công chức Tư pháp - Hộ tịch ghi rõ vào cuối trang, tổng số sự kiện hộ
tịch đã đăng ký. Chủ tịch UBND cấp xã ký xác nhận và đóng dấu nhưng một số
cấp xã chưa thực hiện nghiêm túc, thậm chí có một số đơn vị có thực hiện việc
khóa sổ nhưng do công chức Tư pháp - Hộ tịch ký xác nhận là sai từ đó dẫn đến
việc lấy số thứ tự từ năm trước sang năm sau, không lấy số thứ tự theo từng năm
và không đóng giáp lai giữa các trang từ trang đầu đến trang cuối của các năm.

Do một số công chức Tư pháp - Hộ tịch thiếu cẩn thận, cẩu thả nên khi tiếp
nhận, giải quyết các việc đăng ký hộ tịch không vào sổ ngay, để nhiều trường
hợp mới vào sổ dẫn đến tình trạng ngày đăng ký trước thì vào sổ sau, ngày đăng
ký sau lại vào số trước. Ví dụ trường hợp đăng ký khai sinh số thứ tự 310, đăng
ký ngày 27/7/2016 nhưng vào sổ trước các số thứ tự 208, 209 đăng ký khai sinh
ngày 25/7/2016, cũng chính nguyên nhân này dẫn đến việc chủ quan khi chừa
trang trống để vào sổ các trường hợp tồn đọng chưa vào do đó tại sổ hộ tịch các
loại còn bỏ trống nhiều trang liên tiếp.

Công chức Tư pháp - Hộ tịch thực hiện chưa đúng theo quy định việc sửa
chữa sai sót do ghi chép vào sổ hộ tịch, phải gạch bỏ sai sót, viết lại xuống dòng
và phải thể hiện ở cột ghi chú rõ nội dung sửa chữa, họ tên, chữ ký người sửa
chữa, ngày, tháng, năm sửa chữa, đóng dấu của UBND xã vào phần đã sửa chữa.

Kết quả kiểm tra sổ hộ tịch năm 2015 của các xã, thị trấn thuộc huyện Mê
Linh như sau:

*UBND xã Tiến Thịnh [22, tr2]

Sổ đăng ký khai sinh: Đúng

Sổ Kết hôn: Đúng

*UBND xã Chu Phan


55

Sổ đăng ký khai sinh quyển 1, 2:

- Số 30: Phần Ngày sinh bằng chữ và số không khớp nhau: Mục ngày sinh
bằng số là 25/12/2014 trong khi đó ngày sinh bằng chữ lại ghi: Ngày hai mươi
lăm, tháng mười hai, năm hai nghìn không trăm mười lăm.

- Số 42: Phần Họ tên cha ghi không rõ Diễn hay Diễm.

- Số 119: Phần Ngày đăng ký khai sinh không khớp.

- Số 125, 168, 191, 199, 241, 249, 257, 276, 287: Thiếu mục năm sinh cha,
mẹ (Các trường hợp đăng ký lại việc sinh lưu ý bổ sung năm sinh bố, mẹ).

- Số 176, 177: Thông tin khai sinh bị bỏ trống.

- Số 235: Sai họ tên của mẹ.


- Số 5: Mục Ngày tháng đăng ký là ngày 12/01/2014 trong khi sổ lại là sổ
của năm 2015.

- Số 41: Sửa đổi tên người chồng chưa đóng dấu xác nhận.


- Lưu ý: Từ năm 2016 sổ được sử dụng trong năm. Không sử dụng năm
tiếp theo.

* UBND xã Tam Đồng [22, tr3]


- Số 01: Phần Ngày sinh bằng chữ và số không khớp nhau: Mục ngày sinh
bằng chữ là 26/01/1974 trong khi đó ngày sinh bằng chữ lại ghi: Ngày hai mươi
sáu, tháng năm, năm một nghìn chín trăm bảy mươi tư.

- Số 02: Người đi đăng ký Khai sinh và người ký khác nhau.

- Số 03: Thiếu phần thông tin cha.

- Số 17: Thiếu quốc tịch cha.

- Số 26: Ngày đăng ký khai sinh là ngày 03/02/2005 trong khi đây là sổ
năm 2015.

- Số 85: Ngày sinh số và chữ không khớp nhau 26/6/1986 – 26/6/1987.

- Số 132: Thiếu họ tên mẹ.

- 178: Ngày sinh bằng số và chữ không khớp nhau: 28/10/1979 –

28/10/1955.


56

- 189: Họ tên mẹ: Bùi Thị Hằng – Bùi Thị Thu Hằng; Người đi khai sinh và
ký khác nhau.

Sổ đăng ký khai sinh quyển 02

- Số 207: Họ tên cha: Nguyễn Văn Bằng – Nguyễn Văn Cống.

- Số 245: Me: Nguyễn Thị Tuyết Loan – Lan.

- Số 270: Cha: Nguyễn Chung Chưởng – Nguyễn Chưởng.

- Số 271: Đăng ký đúng hạn – đăng ký quá hạn.

- Số 287: Họ tên người đi khai sinh: Kiều Thị Hương – Kiều Thị Thúy Hương.

- Số 297: Họ tên cha: Phạm Như Quỹ - Phạm Như Lũy.

- Số 309: Ghi sai năm sinh của cha mẹ.

- Số 312: Ngày tháng năm sinh số và chữ không khớp: 13/3/2015 –

13/3/1988.

- Số 317: Ngày tháng năm đăng ký: 29/9/2015 – 29/8/2015.

- Số 339: Họ tên mẹ: Nguyễn Thị Hoa – Nguyễn Thị Hoa Hậu.

- Số 341: Ngày tháng năm sinh số và chữ: 23/8/2015 – 23/8/1979.

- Số 362: Thiếu ghi ngày sinh bằng chữ.

- Số 394: Họ tên mẹ (chữ quá xấu khó dịch).


- Số 403: Ngày tháng năm sinh số và chữ không khớp: 26/11/2015 –

26/12/2015.

- Số 405: Họ tên mẹ, chỉnh lại và xác nhận.

- Số 409: Họ và tên mẹ : Bùi – Nguyễn. Điều chỉnh và xác nhận.

- Số 416: Ngày tháng năm sinh bằng số và chữ không khớp nhau:
03/12/2015 – 09/12/2015.

Sổ đăng ký kết hôn, khai tử: Đúng.
* UBND xã Liên Mạc [22, tr4]
- Đề nghị chốt tất cả các loại sổ hộ tịch theo quy định.

- Không sử dụng nhiều màu mực trong sổ.


- Số 02: Thiếu năm sinh bố, mẹ .

- Số 11: Thiếu năm sinh mẹ.


57

- Không có số đăng ký khai sinh số 26 (25 rồi đến 27).

- Số 35: Ngày tháng năm đăng ký: 06/02/2015 – 07/02/2015.

- Số 49: Thiếu ngày tháng năm sinh bằng chữ.

- Số 58: Thiếu họ tên mẹ.

- Số 69, 77: Thiếu năm sinh cha.

- Số70, 72: Gạch phần ghi thông tin người cha (con ngoài giá thú???) =>
sai quy định pháp luật.

- Số 82: Họ tên cha: Nguyễn Văn Nhâm – Nguyễn Văn Nhân.

- Số 85: Thiếu năm sinh bố mẹ.

- Số 92: Thiếu họ tên mẹ.

- Số 98: Họ tên mẹ: Nguyễn Thị Thảo – Kiều Văn Chung.

- số 102: Thiếu năm sinh mẹ.

- Số 110: Ngày tháng năm sinh số và chữ lệch: 17/4/2015 – 17/10/2015.

Sổ đăng ký khai sinh quyển 02

Đề nghị bổ sung nơi đăng ký ở tất cả các trang thành: UBND xã Liên Mạc.

- Số 226: Ngày đăng ký: 14/9/2015 – 14/2/2014.

- Số 229: Họ tên mẹ: Kiều Thị Cao – Kiều Thị Cao (Huệ).

- Số 235: Họ tên mẹ: Đoàn Thị Phương – Phượng.

- Số 240: Chưa Xác nhận phần sửa họ tên mẹ.

- Số 251, 325: Thiếu năm sinh mẹ.

- Số 381: Chỉ có ở 1 sổ, Khai sinh năm 2006 đã đăng ký lại???

Sổ đăng ký kết hôn, khai tử: Xã nộp 1 quyển trả lại đề nghị chốt sổ.

*UBND xã Tiến Thắng

Sổ đăng ký khai sinh quyển 01

- Số 83: Phần Họ và tên ghi không rõ Đỗ Việt Tiến hay Đỗ Viết Tiến.

- Số142: Ngày sinh bằng số và chữ không khớp nhau: 20/4/2015 –

24/4/2015.

- 200: Họ và tên bố: Nguyễn Văn Lợi – Đỗ Văn Lợi; Người đi khai sinh và
người ký: Đỗ Văn Lợi – Lê Hữu Trí.

- Số 12, 85, 162, 173, 181, 193, 195, 196, 197, 200: Người đi đăng ký khai
sinh và người ký khác nhau.

58

Sổ đăng ký khai sinh quyển 02

- Số 229,256, 367: Thiếu chữ ký người đi khai sinh.

- Số 240, 245, 263, 269, 292, 298, 306, 310, 334, 335, 357, 359, 373:
Người đi đăng ký Khai sinh và người ký khác nhau.

- Số 257: Bổ sung năm sinh mẹ.

- Số 265: Bổ sung năm sinh bố mẹ.

- Số 313: Họ tên khai sinh ghi không rõ: Nguyễn Danh Anh Tuấn – Nguyễn
Dan Anh Tuấn.

- số 346: Ngày tháng năm sinh bằng số và chữ không khớp: 29/7/2015 –

29/9/2015.

Những vi phạm về trình tự, thủ tục đăng ký các việc hộ tịch

- Vi phạm về đăng ký khai sinh theo quy định tại điều 16 Luật hộ tịch

Theo quy định tại điều 16 luật hộ tịch thì người đi khai sinh phải nộp giấy
chứng sinh do cơ sở y tế nơi trẻ em sinh ra cấp. Nếu trẻ em sinh ra ngoài cơ sở y
tế thì được thay bằng văn bản xác nhận của người làm chứng. Trường hợp không
có người làm chứng thì người đi khai sinh phải cam đoan về việc sinh là có thật.
Tuy nhiên khi làm cam đoan việc sinh là có thật thì người cam đoan nêu lý do là
trẻ em sinh ra tại Trung tâm y tế của huyện hoặc Trạm y tế của xã, nhưng giấy
chứng sinh bị thất lạc, công chức Tư pháp - Hộ tịch vẫn tiếp nhận, đăng ký khai
sinh, không yêu cầu người đi khai sinh đến Trung tâm y tế, Trạm y tế nơi cấp
giấy chứng sinh để xin cấp lần 2 hoặc tiến hành thẩm tra xác minh tại nơi sinh để
xác định việc sinh, ngày tháng sinh chính xác của đứa trẻ. Việc làm này đã dẫn
đến tình trạng đăng ký khai sinh sai ngày, tháng sinh của đứa trẻ, thậm chí tạo
điều kiện cho việc cố tình làm sai lệch các sự kiện trên của người đi khai sinh.
Nhiều trường hợp chỉ lưu bản phô tô giấy chứng sinh mà không lưu bản chính
theo quy định.

Một số vi phạm do thiếu cẩn thận không đối chiếu với giấy chứng sinh nên
đã đăng ký về ngày, tháng, sinh của đứa trẻ sai với ngày tháng sinh tại giấy
chứng sinh (ví dụ: cháu Trần Thị Yên Linh - sinh ngày 22/10/2008 tại giấy
chứng sinh nhưng tại sổ đăng ký khai sinh thì sinh ngày 28/10/2008, trường hợp



59

cháu Bùi Kim Ngân sinh ngày 26/5/2009 tại sổ đăng ký khai sinh lại là ngày
26/4/2009).

Một số trường hợp giấy chứng sinh đã bị tẩy xóa, sửa chữa tên của người
mẹ hoặc ngày tháng năm sinh của trẻ nhưng vẫn cho đăng ký khai sinh, không
yêu cầu người đi khai phải cung cấp giấy chứng sinh không bị tẩy xóa, sửa chữa
hay tiến hành thẩm tra xác minh tại cơ sở y tế nơi đã cấp giấy chứng sinh đó
trước khi cho đăng ký khai sinh.

Rất nhiều trường hợp đăng ký khai sinh cho trẻ em nhưng không lưu một
giấy tờ nào, chỉ thể hiện tại sổ đăng ký khai sinh.

Theo quy định tại điều 24 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP quy định về đăng
ký lại việc sinh thì những trường hợp đã đăng ký nhưng sổ bộ hộ tịch và bản
chính giấy khai sinh đã mất, bị hư hỏng không sử dụng được thì mới cho đăng ký
lại, trường hợp đăng ký lại tại cấp xã không phải nơi đương sự đã đăng ký khai
sinh trước đây thì tờ khai phải có xác nhận của UBND cấp xã đã đăng ký còn sổ
hộ tịch không (trừ trường hợp đương sự xuất trình được bản sao đã cấp hợp lệ
trước đây). Trong quá trình thực hiện đối với một số trường hợp như đăng ký lại
việc sinh của “Đặng Duy Vũ, sinh ngày 01/02/2004, Đặng Oanh, sinh ngày
28/3/2002 trước đây đã đăng ký tại UBND xã Liên Mạc. Cả 2 trường hợp độ tuổi
còn nhỏ sinh năm 2002, 2004 thì việc mất sổ đăng ký tại xã Liên Mạc không thể
xảy ra, nhưng do cán bộ Tư pháp – Hộ tịch không cập nhật các quy định của
pháp luật mà cho rằng cứ mất bản gốc giấy khai sinh là đăng ký lại được nên vẫn
cho đương sự đăng ký lại khai sinh.

Trường hợp đăng ký lại khai sinh của UBND xã Tự Lập thiếu chặt chẽ, tại
giấy CMND, hộ khẩu do đương sự cung cấp chỉ có năm sinh, không theo nguyên
tắc nếu không có giấy tờ chứng minh ngày, tháng, năm sinh thì lấy theo ngày 01
tháng 01 chứ không tùy tiện lấy theo một ngày tháng sinh bất kỳ mà không có
căn cứ để xác định ngày, tháng sinh như trên là đúng.

Riêng đối với các xã được thanh tra thuộc huyện Mê Linh nhận thấy công
chức Tư pháp - Hộ tịch trình độ chuyên môn, nghiệp vụ yếu, thiếu nghiên cứu
văn bản pháp luật, giải quyết rất tùy tiện. Đa số giải quyết hồ sơ đăng ký hộ tịch
chỉ ghi vào sổ, không lưu trữ hồ sơ. Giải quyết đăng ký khai sinh quá hạn cho

60

nhiều trường hợp mà trước đây đã đăng ký khai sinh tại xã và sổ hộ tịch vẫn còn
lưu (nếu theo quy định chỉ cấp bản sao từ sổ khai sinh).

Một số cấp xã giải quyết cho đăng ký lại việc sinh chỉ lưu 1 tờ khai, ngoài
ra không lưu loại giấy tờ nào khác. Có trường hợp lại có lưu thêm bản chính giấy
khai sinh trước đây vào hồ sơ nhưng cấp giấy khai sinh sai với ngày, tháng sinh
theo giấy khai sinh trước (ví dụ trường hợp ông Nguyễn Ngọc Hoàng được
UBND xã cấp giấy khai sinh ngày 05/4/1990 thể hiện ngày, tháng, sinh của ông
Hoàng là ngày 19/02/1979 nay cấp lại giấy khai sinh thì sinh ngày 15/5/1979).
Trường hợp này đáng ra phải yêu cầu ông Nguyễn Ngọc Hoàng đến phòng Tư
pháp huyện Phong Điền để xin cải chính ngày,tháng, sinh nếu ngày tháng sinh
đó sai với ngày, tháng sinh thực tế.

Vi phạm về thủ tục, trình tự, thẩm quyền đăng ký kết hôn theo quy định tại
điều 17 và điều 18 Luật Hộ tịch

Khi đăng ký kết hôn bên nam nữ nộp tờ khai (theo mẫu quy định) và xuất
trình giấy CMND, nhưng trong quá trình giải quyết, UBND một số xã lại yêu
cầu đương sự làm thêm đơn xin đăng ký kết hôn, nếu không làm đơn thì làm
theo mẫu Tờ khai xác nhận tình trạng hôn nhân. Việc yêu cầu này là thừa thủ tục
không cần thiết đã gây phiền hà cho nhân dân.

Một số đơn vị thiếu thận trọng đã sử dụng giấy xác nhận tình trạng hôn
nhân quá thời hạn, thậm chí có trường hợp cấp giấy chứng nhận kết hôn cho
những trường hợp thường trú khác địa phương nhưng không lưu giấy xác nhận
tình trạng hôn nhân của địa phương nơi thường trú của người đó. Cũng có trường
hợp cấp Giấy chứng nhận kết hôn cho đương sự trước ngày mà địa phương khác
xác nhận tình trạng hôn nhân cho người ở địa phương họ (ví dụ trường hợp của
bà Liểu, ông Bôn, ngày xác nhận độc thân của bà Liểu là 08/5/2008, ngày cấp
chứng nhận kết hôn cho bà Liểu và ông Bôn là ngày 04/5/2008).

Hoặc có trường hợp đăng ký kết hôn, không có giấy xác nhận tình trạng
hôn nhân của 2 người theo quy định đối với cán bộ, chiến sĩ đang công tác trong
lực lượng vũ trang. Tuy nhiên, UBND xã vẫn cấp giấy chứng nhận kết hôn cho
hai trường hợp trên.

- Vi phạm về đăng ký khai tử theo quy định tại điều 32, 33, 34 Luật Hộ tịch


61

Theo quy định tại điều 32 về thẩm quyền đăng ký khai tử là UBND xã nơi cư
trú cuối cùng của người chết thực hiện việc đăng ký khai tử. Nếu không xác định
được nơi cư trú cuối cùng thì UBND cấp xã nơi người đó chết thực hiện việc đăng
ký khai tử. Tuy nhiên, một số cấp xã vẫn đăng ký khai tử cho những trường hợp
người chết trước đây có đăng ký thường trú tại địa phương đã chuyển đến địa
phương khác sinh sống và chết tại địa phương nơi người đó đang cư trú.

Thời hạn đi khai tử là 15 ngày thế nhưng có rất nhiều trường hợp chết đã
lâu, có trường hợp chết từ những năm 1973 về trước nhưng vẫn cấp giấy chứng
tử đúng hạn và rất cụ thể phút, giờ, ngày, tháng, năm chết mà đáng ra những
trường hợp này chỉ cần xác nhận đã chết, những trường hợp này thì phải cho
đăng ký khai tử quá hạn mới đúng quy định.

Đa số cấp xã cấp giấy chứng tử không lưu loại giấy tờ nào theo quy định
nên không thể kiểm tra việc giải quyết đúng hay sai được.

- Vi phạm về thay đổi, cải chính hộ tịch theo quy định

Theo quy định tại Điều 26 Luật Hộ tịch, phạm vi thay đổi hộ tịch gồm:

+ Thay đổi họ, chữ đệm và tên của cá nhân trong nội dung khai sinh đã
đăng ký khi có căn cứ theo quy định của pháp luật dân sự.

+ Thay đổi thông tin về cha, mẹ trong nội dung khai sinh đã đăng ký sau
khi được nhận làm con nuôi theo quy định của Luật nuôi con nuôi.

Điều 27. Thẩm quyền đăng ký thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch

Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đã đăng ký hộ tịch trước đây hoặc nơi cư trú
của cá nhân có thẩm quyền giải quyết việc thay đổi, cải chính hộ tịch cho người
chưa đủ 14 tuổi; bổ sung hộ tịch cho công dân Việt Nam cư trú ở trong nước.

Quy định của Luật Hộ tịch rất rõ ràng như thế song trong quá trình thực
hiện còn xảy ra sai sót rất lớn, nhất là các xã. Việc thực hiện thay đổi, cải chính
rất tùy tiện, thiếu chính xác. Thiết lập hồ sơ đơn giản, thu thập chứng cứ sơ sài,
thậm chí không có cơ sở chứng cứ để chứng minh việc thay đổi, cải chính là
đúng. Quá trình giải quyết thiếu phối hợp với các cơ quan có liên quan như Công
an, ngành giáo dục các cấp dẫn đến tình trạng sau khi ban hành quyết định cho
phép thay đổi, cải chính hộ tịch, các cơ quan liên quan không đồng tình, phản
ứng quyết liệt, không thực hiện theo quyết định đó.

62

Ngoài những trường hợp đã giải quyết trên, còn tồn tại một số vi phạm cụ
thể như: Nhiều cấp xã giải quyết cho thay đổi cải chính hộ tịch sai thẩm quyền
(ví dụ UBND xã cho phép thay đổi cải chính đối với bà Nguyễn Thị Chi sinh
năm 1973); ban hành quyết định cho phép thay đổi cải chính hộ tịch nhưng thiếu
ghi số, ngày, tháng, năm ban hành; hồ sơ lưu trữ thiếu thủ tục, thậm chí không
lưu hồ sơ, không lưu quyết định cho phép thay đổi, cải chính hộ tịch vào hồ sơ,
không lưu bản phô tô giấy khai sinh đã được cho phép thay đổi cải chính và thiếu
ghi chú vào cột ghi chú của sổ đăng ký khai sinh. Theo quy định khi giải quyết
cho phép thay đổi cải chính hộ tịch phải gửi thông báo đến cấp huyện nếu cấp xã
thực hiện và ngược lại gửi cấp xã nếu cấp huyện thực hiện nhưng nhiều đơn vị
không gửi.

Ngoài ra trong quá trình thực hiện pháp luật về hộ tịch ở huyện Mê Linh
còn tồn tại một số hạn chế sau:

Việc triển khai, xây dựng thực hiện pháp luật về hộ tịch ở một số xã chưa
nghiêm túc thực hiện dẫn đến tình trạng một số cán bộ tự đề cao quyền hạn của
mình, buông lỏng quản lý Nhà nước, còn biểu hiện quan liêu, mệnh lệnh, xa rời
dân, không chịu lắng nghe ý kiến của nhân dân, chưa thực hiện tốt những nội
dung của pháp luật về hộ tịch, có tư tưởng cục bộ gây mất đoàn kết trong nội bộ
nhân dân.

Một bộ phận nhân dân chưa nhận thức đúng đắn vấn đề đăng ký hộ tịch gắn
với kỷ cương, quyền lợi, gắn với trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, chưa chủ động,
kịp thời đăng ký các sự kiện hộ tịch nhất là việc khai tử, đến khi có chế độ mới
đi đăng ký, hoặc việc công dân không có ý thức bảo quản, giữ gìn các giấy tờ hộ
tịch như giấy khai sinh, giấy chứng nhận kết hôn… khi làm lại không đáp ứng
được các quy định của pháp luật, cán bộ không đăng ký cho thì gây mất trật tự an
ninh nơi công sở, làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, chính quyền.

Vai trò quản lý Nhà nước của một số cấp chính quyền cơ sở yếu, bên cạnh
đó một bộ phận nhân dân cố tình không chịu hiểu chủ trương, chính sách pháp
luật dẫn đến tình trạng vi phạm luật.

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về hộ tịch còn phức tạp. Mặc dù
công tác hộ tịch có vị trí, vai trò quan trọng đối với quản lý nhà nước và bảo đảm

63

quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân nhưng cho đến nay, ngoại trừ các quy
định mang tính nguyên tắc trong Bộ Luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình...,
văn bản điều chỉnh trực tiếp trong lĩnh vực hộ tịch quá nhiều nên gây khó khăn
cho cơ quan hộ tịch khi áp dụng (khó nhớ, khó áp dụng), người dân cũng khó
phân biệt hộ tịch của mình sẽ được áp dụng theo văn bản nào.

Việc phân cấp thẩm quyền đăng ký hộ tịch chưa triệt để. Chính vì vậy, đã
dẫn đến chồng chéo chức năng quản lý và đăng ký; cũng do việc phân cấp chưa
triệt để nên từng cấp chủ yếu lo việc đăng ký, ít quan tâm đến nhiệm vụ quản lý,
đặc biệt là công tác kiểm tra, chỉ đạo đối với cấp dưới, từ đó không kịp thời uốn
nắn những sai sót (nếu có), đồng thời dẫn đến đùn đẩy nhiệm vụ hướng dẫn, chỉ
đạo chuyên môn lên cấp trên.

Sự quan tâm và đầu tư cho công tác hộ tịch chưa đồng đều ở các địa phương.
Một số địa phương vẫn còn coi nhẹ công tác tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ

chuyên môn, có địa phương chỉ tổ chức triển khai khi có những văn bản mới mà
không định kỳ tổ chức bồi dưỡng về nghiệp vụ hộ tịch; chính vì không được kịp
thời bồi dưỡng nghiệp vụ nên số công chức mới thay không đáp ứng được yêu
cầu công việc.

Chưa tạo điều kiện tốt nhất để bảo đảm quyền đăng ký hộ tịch của công dân
cụ thể là:

+ Quy định về thủ tục đăng ký các loại việc hộ tịch còn quá nhiều loại giấy
tờ khác nhau, lệ thuộc vào nơi cư trú đã dẫn đến trường hợp công dân không đáp
ứng đủ thì không được đăng ký;

+ Cán bộ trực tiếp giải quyết công việc hộ tịch tự đặt thêm thủ tục giấy tờ
khi người dân có yêu cầu đăng ký hộ tịch khi hồ sơ đăng ký hộ tịch chưa đầy đủ,
cán bộ hộ tịch không hướng dẫn một lần mà mỗi lần chỉ hướng dẫn một nội dung
nên người dân phải đi lại nhiều lần mới được giải quyết…

+ Áp dụng quy định của pháp luật để giải quyết yêu cầu đăng ký hộ tịch
của người dân một cách máy móc nên một số trường hợp quyền lợi của người
dân giải quyết sai quy định, thậm chí có trường hợp không được giải quyết.

+ Tùy tiện trong việc đăng ký hộ tịch cho công dân; chưa bảo đảm độ chính
xác khi cấp giấy tờ hộ tịch.

64

Tình trạng đăng ký không kịp thời, chưa đầy đủ và thiếu chính xác trong đăng ký
hộ tịch vẫn còn tồn tại ở một số địa phương. Sự tùy tiện trong việc đăng ký, cấp
giấy tờ hộ tịch được thể hiện như đăng ký sai thẩm quyền, có nhiều trường hợp
một người được đăng ký khai sinh 2 lần hoặc đăng ký khai tử 2 lần… Quy định
về lưu sổ hộ tịch chưa được thực hiện nghiêm túc - Hạn chế trong

cải cách thủ tục hành chính.

Mặc dù, việc cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh hộ tịch bước đầu đã
phát huy hiệu quả; tuy nhiên, việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông
trong đăng ký hộ tịch đôi khi lại có tác động ngược lại, đặc biệt là tiến độ xử lý
hồ sơ.

Sự phối hợp giữa các ngành, các cấp chưa đồng bộ. Sự phối hợp giữa các
ngành, các cấp chưa đồng bộ đã dẫn đến tình trạng cùng một tiêu chí, nhưng mỗi
ngành có một số liệu thống kê báo cáo khác nhau, điều này đã gây khó khăn cho
Nhà nước trong việc hoạch định chính sách. Cơ chế thông báo những thay đổi
liên quan đến hộ tịch của từng cá nhân cũng chưa được thực hiện một cách
nghiêm túc, nhiều trường hợp không thông báo nên không kịp thời cập nhật
những thay đổi về hộ tịch liên quan trong sổ hộ tịch.

Phương thức đăng ký hộ tịch còn mang tính chất thủ công, mức độ áp dụng
công nghệ thông tin còn hạn chế.

Việc vừa phải nhập thông tin vào sổ đăng ký hộ tịch giấy sau đó lại nhập
vào phần mềm là rườm rà, chưa khoa học, cần có biện pháp để chỉ nhập 01 lần
vào phần mềm sau đó in luôn thành sổ để lưu như vậy sẽ không phải mất thời
gian nhập 02 lần như hiện nay.

Mặc dù việc đăng ký hộ tịch bằng điện tử đã được triển khai ở một số địa
phương, nhưng mức độ còn rất hạn chế. Phương thức đăng ký hộ tịch hiện nay
chủ yếu vẫn thực hiện theo phương pháp thủ công (ghi bằng tay, lưu bằng sổ
giấy). Do chưa có Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, nên việc lưu sổ giấy dễ dẫn đến
bị hỏng, bị mất, từ đó không đáp ứng được yêu cầu thống kê số liệu cũng như
yêu cầu cấp giấy tờ hộ tịch cho người dân. Hơn nữa, phương thức đăng ký hộ
tịch này không phù hợp với định hướng xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp,
hiện đại.

65

Công tác thống kê số liệu đăng ký hộ tịch còn yếu, chưa bảo đảm độ chính
xác của số liệu.

Nhận thức của người dân đối với quyền và nghĩa vụ đăng ký hộ tịch còn
hạn chế nên việc đăng ký quá hạn còn chiếm tỷ lệ tương đối cao. Nhất là đối với
khai tử, ý thức của người dân còn thấp, chỉ khi nào được hưởng chế độ phải
dùng đến Trích lục khai tử thì người dân mới đi khai tử, nhiều trường hợp không
khai tử, ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về hộ tịch.

2.2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong thực hiện pháp luật về hộ
tịch ở huyện Mê Linh

Mê Linh là huyện giáp nội thành Hà Nội, tuy nhiên, mặt bằng chung là
nông nghiệp vẫn chiếm tỉ trọng lớn. Bên cạnh đó việc xây dựng một số khu công
nghiệp như Khu công nghiệp Quang Minh cũng góp phần tạo cơ hội việc làm
cho người dân, nhưng đây cũng chính là một nguyên nhân gây khó khăn trong
việc tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về hộ tịch nói riêng và
các quy định pháp luật nói chung, bởi phần lớn thanh niên trong độ tuổi lao động
đi làm ăn xa, các thủ tục hành chính chủ yếu do ông bà, cha, mẹ… những người
lớn tuổi thực hiện nên việc tiếp thu các hướng dẫn từ phía cán bộ là rất hạn chế.

Các văn bản quy định của pháp luật thường xuyên thay đổi, nhiệm vụ tư
pháp cấp xã ngày càng tăng, càng phức tạp, đòi hỏi công chức Tư pháp - Hộ tịch
(TP – HT) phải đầu tư rất nhiều thời gian để nghiên cứu văn bản pháp luật mới
đáp ứng được yêu cầu về chuyên môn nghiệp vụ.

Những hạn chế trong công tác đăng ký, quản lý hộ tịch đã nêu trên do một
số nguyên nhân cơ bản sau đây:

Một là, sự quan tâm của các cấp lãnh đạo chưa đồng bộ

Một số địa phương, lãnh đạo Ủy ban nhân dân chưa thực nhận thức được tầm
quan trọng của công tác hộ tịch nên không quan tâm, đầu tư cho công tác này (kể cả
về cơ sở vật chất, con người, phương tiện làm việc, kinh phí triển khai…). Đăng ký
hộ tịch là trách nhiệm của UBND, nhưng có nơi còn phó mặc, khoán trắng cho Tư
pháp, không quan tâm, đầu tư cũng như không có sự chỉ đạo kiểm tra.
Hai là, chưa có bước đột phá trong xây dựng thể chế




66

Việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về hộ tịch trong thời gian qua
chỉ mang tính chắp vá bằng cách sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế những văn bản
cũ. Chỉ đến năm 2016, Luật Hộ tịch chính thức có hiệu lực mới tạo được sự đồng
bộ tuy nhiên do mới triển khai nên nhiều nội dung, biểu mẫu hộ tịch chưa được
điều chỉnh thống nhất trong lĩnh vực hộ tịch.

Ba là, đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch phải kiêm nhiệm nhiều công
việc khác nhau và không ổn định

Hiện nay, ở các xã, phường, thị trấn, công chức Tư pháp - Hộ tịch ngoài việc
tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Ủy ban
nhân dân cấp xã) phải đảm nhiệm hơn 45 đầu việc, trong đó có việc đăng ký và
quản lý hộ tịch. Trong khi đó, trên thực tế, tính chất chuyên môn của công tác hộ
tịch và các công tác tư pháp khác (công tác văn bản, tuyên truyền pháp luật, hòa
giải…) rất khác nhau, không phù hợp với việc ghép chung một cách cơ học hai loại
nhiệm vụ này trong cùng một chức danh Tư pháp - Hộ tịch. Cũng chính vì phải
kiêm nhiệm nhiều công việc khác nhau, nên công chức Tư pháp - Hộ tịch không có
thời gian đầu tư cho việc nghiên cứu, nâng cao trình độ chuyên môn cũng như cập
nhật kịp thời những văn bản mới; cũng từ nguyên nhân này mà đội ngũ công chức
Tư pháp – Hộ tịch không được chuyên nghiệp. Mặt khác, công chức Tư pháp - Hộ
tịch là vị trí dễ bị thay đổi theo nhiệm kỳ của Ủy ban nhân dân nên chuyên môn bị
hạn chế do không được bồi dưỡng nghiệp vụ kịp thời. Đây chính là nguyên nhân
làm giảm hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực hộ tịch.

Bốn là, việc phân cấp thẩm quyền đăng ký hộ tịch chưa triệt để (vẫn còn
nhiều cấp có thẩm quyền đăng ký hộ tịch); việc quy định về ghi sổ và cấp giấy tờ
hộ tịch chưa khoa học (không có sổ hộ tịch chung và cũng không có một loại
giấy tờ hộ tịch chung cấp cho cá nhân trong đó tích hợp mọi thông tin về hộ tịch
của cá nhân).

Những tồn tại, hạn chế trên đây, một số có nguyên nhân từ cơ chế chính sách
về hộ tịch chưa rõ ràng, thiếu đồng bộ nên việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật
về hộ tịch vào thực tiễn chưa có sự thống nhất, dẫn đến việc giải quyết các vấn đề
về đăng ký, quản lý hộ tịch ở một số địa phương còn nhiều lúng túng, sai sót. Nhất
là theo khoản 3, Điều 48 Nghị định 158/2005/NĐ-CP, quy định “Trường

67

hợp đăng ký lại việc sinh cho người không có bản sao Giấy khai sinh đã cấp trước
đây, nhưng đã có hồ sơ, giấy tờ cá nhân như: Sổ hộ khẩu, Giấy chứng minh nhân
dân, học bạ, bằng tốt nghiệp, lý lịch cán bộ, lý lịch đảng viên, mà trong các hồ sơ
giấy tờ đó đã có sự thống nhất về họ, tên, chữ đệm; ngày, tháng, năm sinh; dân tộc;
quốc tịch; quê quán, thì đăng ký đúng theo nội dung đó. Trường hợp họ, tên, chữ
đệm; ngày, tháng, năm sinh; dân tộc; quốc tịch; quê quán trong các hồ sơ, giấy tờ
nói trên của người đó không thống nhất thì đăng ký theo hồ sơ, giấy tờ được lập
đầu tiên...” hoặc tại điểm h khoản 5 mục II Thông tư 01/2008/TT-BTP về thay đổi,
cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, bổ sung hộ tịch, điều
chỉnh hộ tịch cũng nêu “Đối với những người đã có hồ sơ, giấy tờ cá nhân như: Sổ
hộ khẩu, Chứng minh nhân dân, học bạ, bằng tốt nghiệp, lý lịch cán bộ, lý lịch đảng
viên mà trong các hồ sơ, giấy tờ đã ghi thống nhất về ngày, tháng sinh, thì xác định
theo ngày, tháng sinh đó. Trường hợp ngày, tháng sinh ghi trong các hồ sơ, giấy tờ
nói trên của người đó không thống nhất, thì xác định theo ngày, tháng sinh trong hồ
sơ, giấy tờ được lập đầu tiên”.

“Vận dụng” các quy định nêu trên, hầu hết công chức tham mưu giải quyết
các vấn đề về hộ tịch từ cấp xã đến cấp huyện (nhất là cấp xã) đều xem những
giấy tờ như Thẻ căn cước thời Mỹ ngụy, các giấy tờ liên quan đến chế độ chính
sách của nhà nước như Giấy chứng nhận người hưởng chính sách như thương
binh, chứng nhận Gia đình Liệt sĩ, các giấy tờ liên quan của cá nhân về hưởng
chế độ chính sách của nhà nước do cơ quan có thẩm quyền cấp trước đây… là
loại “giấy tờ được lập đầu tiên”. Tuy nhiên, qua tham khảo ý kiến của phòng
chức năng Sở Tư pháp thì những loại giấy tờ liên quan nêu trên chỉ là những loại
giấy tờ dùng để tham khảo, bổ sung, củng cố hồ sơ chứ không được xem đó là
loại “giấy tờ được lập đầu tiên” để làm căn cứ giải quyết các vấn đề về hộ tịch
cho cá nhân. Do vậy, việc hiểu loại“giấy tờ được lập đầu tiên” là chưa rõ ràng,
thống nhất nên dẫn đến việc giải quyết các vấn đề hộ tịch ở một số địa phương,
cơ sở sai nguyên tắc, thiếu chặt chẽ và không đúng quy định.

Năm là, yêu cầu cải cách thủ tục hành chính chưa gắn với đặc thù của công
việc hộ tịch, chưa ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin trong đăng ký và quản
lý hộ tịch.

68

Chưa có cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử kết nối giữa các cơ quan hộ tịch ở
trong nước với nhau, cũng như với các Cơ quan đại diện để chia sẻ và kết nối
thông tin phục vụ cho việc tra cứu, xác minh thông tin về hộ tịch của cá nhân là
nguyên nhân gây tốn kém về kinh phí, không bảo đảm độ chính xác về thông tin,
kéo dài thời hạn giải quyết yêu cầu đăng ký hộ tịch của công dân Việt Nam.

Sáu là, quá tải về công việc, chưa có cơ chế chính sách phù hợp là những
nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong thực hiện yêu cầu quản lý Nhà nước về hộ
tịch cũng như giải quyết đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài ở Sở Tư pháp.

Hiện tại, trung bình mỗi xã có 02 công chức Tư pháp – Hộ tịch; trong khi
đó chức năng của Công chức Tư pháp – Hộ tịch cũng như khối lượng công việc
là rất lớn, đặc biệt ở các xã đông dân, công chức Tư pháp – Hộ tịch quản lý
nhiều mảng công việc khác nhau như: hộ tịch (khai sinh, khai tử, kết hôn, giám
hộ, nuôi con nuôi, thay đổi, cải chính hộ tịch…), công chứng, chứng thực, bồi
thường Nhà nước, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại tố cáo, kiểm soát thủ tục
hành chính, kiểm tra, rà soát các văn bản quy phạm pháp luật, tuyên truyền phổ
biến pháp luật…; để làm tốt nhiệm vụ quản lý, thì riêng các việc thực hiện nhiệm
vụ hướng dẫn, chỉ đạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, tuyên tuyền, kiểm tra… đối với
từng lĩnh vực đã chiếm khá nhiều thời gian, trong khi đó còn phải đảm nhiệm
yêu cầu trực tiếp giải quyết hồ sơ đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài nên đã
xao nhãng nhiệm vụ quản lý (khi cơ sở vướng mắc không chỉ đạo mà chuyển hồ
sơ lên xin ý kiến Bộ Tư pháp, cũng vì tập trung giải quyết những vụ việc cụ thể
mà Bộ Tư pháp không tập trung, đáp ứng yêu cầu quản lý vĩ mô như việc xây
dựng và hoàn thiện thể chế…). Bên cạnh đó, các tổ chức đoàn thể (Đoàn thanh
niên, Hội phụ nữ…) chưa phát huy được vai trò của mình trong việc tuyên
truyền, nâng cao nhận thức của chị em, nên vẫn còn nhiều chị em mong muốn
lấy chồng nước ngoài để được “đổi đời”. Ủy ban nhân dân các cấp chưa có
chương trình, chính sách xã hội cụ thể trong việc tạo công ăn, việc làm, thu nhập
ổn định để chị em yên tâm với cuộc sống hiện tại cũng là nguyên nhân dẫn đến
sự gia tăng số lượng chị em kết hôn với công dân nước ngoài.





69

2.3. Bài học kinh nghiệm trong thực hiện pháp luật về hộ tịch ở huyện
Mê Linh, thành phố Hà Nội

Qua quá trình thực hiện pháp luật về hộ tịch trên địa bàn huyện Mê Linh
có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:

Một là: Phải đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của các cấp uỷ Đảng.
Đây là nhân tố quyết định và đảm bảo cho thắng lợi việc thực hiện Luật hộ tịch.
Qua tổng kết đã cho thấy ở địa phương, đơn vị nào cấp uỷ Đảng nhận thức đúng
vai trò lãnh đạo trực tiếp toàn diện và thực hiện nghiêm túc các Nghị định của
Chính phủ, Thông tư các văn bản hướng dẫn thực hiện pháp luật về hộ tịch thì ở
đó đạt được kết quả tốt. Còn ở đơn vị nào, địa phương nào chưa thực hiện tốt vai
trò lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của cấp uỷ Đảng thì ở đó kết quả thấp.

Hai là: Phải xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn
ngang tầm nhiệm vụ, có tâm. Cán bộ phải thực sự gần dân, trọng dân, hiểu dân
và có trách nhiệm với dân thì công việc mới đạt hiệu quả vì cán bộ là “cái gốc
của mọi công việc”. Cán bộ đảng phải có năng lực lãnh đạo, tầm bao quát và tư
duy chính trị sắc bén, là trung tâm đoàn kêt của đội ngũ cán bộ; công chức chính
quyền phải có năng lực quản lý và điều hành với chuyên môn vững vàng, cán bộ
MTTQ và các đoàn thể phải có năng lực vận động, lôi cuốn, thu hút quần chúng,
biết khơi dậy tìêm năng và điều hoà lợi ích của tất cả các tầng lớp nhân dân trên
địa bàn. Phải thấm nhuần quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cán bộ là công
bộc của dân”. Cán bộ công chức phải công tâm, khách quan, biết lắng nghe ý
kiến của dân, giải quyết công việc thấu tình đạt lý, mọi công việc phải được giải
quyết triệt để, tận gốc không để dân phải thắc mắc, khiếu kiện. Không để vụ việc
từ chỗ dễ giải quyết phải trở thành “điểm nóng”.

Ba là: Phải đổi mới và nâng cao công tác tuyên truyền, giáo dục quy định của
pháp luật về hộ tịch, về quyền và trách nhiệm, nghĩa vụ công dân. Thông qua tuyên
truyền làm chuyển biến tư tưởng, nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân từ
đó thống nhất trong hành động. Công tác tuyên truyền phải được duy trì thường
xuyên, liên tục vớí nhiều hình thức phong phú, coi trọng biểu dương điển hình tiên
tiến, nội dung ngắn gọn, dễ nhớ, dễ làm, từ đó thu hút sự quan tâm, kích thích tính



70

tự giác, tích cực của người dân vào các công việc chung của cộng đồng, tôn trọng
pháp luật và có ý thức tham gia xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị.

Bốn là: Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, củng cố an ninh quốc phòng
nâng cao đời sống nhân dân vì kinh tế phát triển mới đảm bảo cho các hoạt động
khác, đảm bảo cho các quyền của dân về văn hoá, xã hội, trật tự trị an được thực
hiện. Kinh tế phát triển mới có điều kiện nâng cao chất lượng giáo dục, nâng cao
dân trí. Thực tế chứng minh ở xã, thị trấn nào mà điều kiện kinh tế xã hội phát
triển, tỷ lệ hộ nghèo thấp, trình độ dân trí cao thì xã, thị trấn đó thực tốt hơn các
quy định của pháp luật, nhất là trong quá trình cải cách thủ tục hành chính trong
lĩnh vực hộ tịch tiến tới đăng ký khai sinh trực tuyến thì càng đòi hỏi nhân dân
có trình độ và có phương tiện như máy ảnh, điện thoại, máy vi tính để truy cập
và thực hiện việc đăng ký các thủ tục trực tuyến.










































71

Kết luận chƣơng 2

Từ phân tích trên, trong chương 2 luận văn đã khái quát hóa tình hình thực
hiện pháp luật về hộ tịch ở huyện Mê Linh. Phân tích thực trạng; Tổng hợp và
phân tích được số liệu về kết quả đăng ký hộ tịch, tình hình đăng ký khai sinh,
khai tử, kết hôn.... Qua đó, luận văn đã phân tích thực trạng đảm bảo thực hiện

pháp luật về hộ tịch ở huyện Mê Linh. Từ việc phân tích thực trạng trên, luận
văn đã đưa ra được các nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong tổ chức
thực hiện pháp luật về hộ tịch và đánh giá được các nguyên nhân của những tồn
tại, yếu kém đó. Từ thực trạng và những hạn chế, tồn tại ở chương 2, luận văn
đưa ra những giải pháp và một số kiến nghị ở chương 3.















































72

Chƣơng 3

PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP

LUẬT VỀ HỘ TỊCH Ở HUYỆN MÊ LINH,

THÀNH PHỐ HÀ NỘI

3.1. Phƣơng hƣớng thực hiện pháp luật về hộ tịch ở huyện Mê Linh,
thành phố Hà Nội

3.1.1. Đối với Ủy ban nhân dân huyện

Về công tác tổ chức: Cần chú trọng đến đội ngũ Công chức TP – HT cấp
xã, bố trí công chức Tư pháp – Hộ tịch phải có bằng Trung cấp luật trở lên, có
kinh nghiệm, nhiệt tình trong công việc, chịu khó nghiên cứu văn bản pháp luật
khi đó mới tham mưu tốt cho lãnh đạo chính quyền địa phương.

Tạo điều kiện bố trí kinh phí để Phòng Tư pháp cấp huyện thường xuyên tổ
chức tập huấn các văn bản pháp luật mới, nhất là các văn bản phục vụ cho công tác
tư pháp đối với đội ngũ Lãnh đạo và Công chức Tư pháp – Hộ tịch cấp xã.

Sau khi có Kết luận thanh tra ban hành phải chỉ đạo Phòng Tư pháp cấp
huyện kiểm tra việc khắc phục, sửa chữa những thiếu sót tại kết luận đã nêu và
phải có báo cáo bằng văn bản để theo dõi.

3.1.2. Đối với phòng Tư pháp huyện

Hằng năm phải xây dựng kế hoạch kiểm tra các xã thuộc huyện mình quản
lý trừ những đơn vị đã được Sở Tư pháp thanh tra để kịp thời uốn nắn, chấn
chỉnh những vi phạm. Quá trình thực hiện việc thực hiện việc kiểm tra phải
nghiên cứu kỹ các quy định của pháp luật để chỉ ra được những vi phạm và yêu
cầu khắc phục nghiêm túc.

Nâng cao chất lượng các cuộc họp giao ban, thông qua các cuộc họp nêu
lên những vi phạm, thiếu sót qua kiểm tra của Phòng, thanh tra của Sở để bàn
biện pháp khắc phục, hướng dẫn thêm nghiệp vụ có như thế công tác tư pháp cấp
xã mới hạn chế được những vi phạm các quy định của pháp luật.

Chủ trì, phối hợp với các đơn vị được thanh tra thực hiện nghiêm túc các
Kết luận thanh tra, tìm biện pháp khắc phục, bổ sung những hồ sơ vi phạm.




73

3.1.3. Đối với Ủy ban nhân cấp xã

Quan tâm hơn, chú trọng hơn nữa đến công tác tư pháp địa phượng, đầu tư
trang thiết bị, phương tiện làm việc nhằm tạo điều kiện cho công chức Tư pháp -
Hộ tịch hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Bố trí công chức Tư pháp - Hộ tịch đúng tiêu chuẩn, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, nhiệt tình, chịu khó nghiên cứu để thực hiện tốt công tác tư pháp địa
phương, không vì tình cảm riêng tư mà bố trí những công chức Tư pháp - Hộ
tịch chưa có bằng cấp, không đủ tài, đức thực hiện công tác này.

Thường xuyên nhắc nhở công chức Tư pháp - Hộ tịch quá trình tiếp nhận,
giải quyết hồ sơ đăng ký hộ tịch, chứng thực phải căn cứ vào văn bản pháp luật
để tham mưu. Kiểm tra kỹ và đối chiếu các văn bản có liên quan đến các loại hồ
do công chức Tư pháp - Hộ tịch trình trước khi ký.

Nghiêm túc rút kinh nghiệm, chỉ đạo công chức Tư pháp - Hộ tịch sửa
chữa những vi phạm, thiếu sót tại các kết luận thanh tra, kiểm tra do Sở Tư pháp,
Phòng Tư pháp ban hành và phải có báo cáo bằng văn bản về việc sửa chữa đó.

3.1.4. Đối với công chức Tư pháp – Hộ tịch

Luôn cập nhật, nghiên cứu các văn bản thuộc lĩnh vực mình tham mưu như:
Luật đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành; Bộ luật dân sự năm
2005; Luật hộ tịch năm 2014 ; Nghị định 123/2015/NĐ-CP; Thông tư số
15/2015/TT-BTP và các văn bản hướng dẫn thi hành các Nghị định, Thông tư trên.

Tiếp nhận, giải quyết hồ sơ các loại phải căn cứ vào quy định của pháp
luật để nghiên cứu, vận dụng cho đúng trước khi tham mưu lãnh đạo giải quyết.
Cập nhật hồ sơ trước khi đưa vào lưu trữ phải cẩn thận rà soát lại từng hồ sơ,
từng loại việc và phải lưu theo thời gian giải quyết.

Phải ghi chép vào sổ ngay những sự kiện mình đã giải quyết theo từng
loại việc, từng loại sổ, nhằm hạn chế tình trạng bị thất lạc hồ sơ, nhầm lẫn các sự
kiện, hồ sơ giải quyết trước vào sổ sau và ngược lại, bỏ trống nhiều khoản, nhiều
trang trong sổ hộ tịch.

3.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về hộ tịch ở huyện Mê
Linh, thành phố Hà Nội

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về hộ tịch

Đất nước ta đang trong quá trình cải cách đổi mới và hội nhập quốc tế sâu


74

rộng. Về đối nội tiếp tục thực hiện cải cách bộ máy nhà nước và dân chủ hóa
trong toàn xã hội, trong đó hệ thống pháp luật nói chung và hộ tịch nói riêng
từng bước được xây dựng theo hướng mở rộng dân chủ về quyền nhân thân của
mọi công dân, bởi vì đăng ký hộ tịch phát sinh từ quyền cơ bản của công dân
được quy định trong Hiến pháp. Giải pháp này không chỉ góp phần nâng cao
hiệu quả thực hiện pháp luật về hộ tịch ở huyện Mê Linh mà còn là giải pháp cho
áp dụng trong phạm vi cả nước nói chung.

Việc ban hành Luật Hộ tịch năm 2014 cùng với hệ thống các văn bản pháp
luật quy định về đăng ký hộ tịch đã đáp ứng được các đòi hỏi sau:

Thứ nhất,quán triệt sâu sắc chủ trương của Đảng và Nhà nước trong tiến
trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Đây chính là sự thể hiện một bước quan trọng tinh thần chỉ đạo đã được nêu tại
Nghị quyết số 48-NQ/TW và Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ chính trị về cải
cách pháp luật và cải cách tư pháp.

Thứ hai, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước trong việc thực thi và
bảo vệ quyền cơ bản của công dân (theo hướng các vấn đề liên quan đến quyền
công dân đều phải được luật hóa).

Thứ ba, tạo hành lang pháp lý quan trọng để cơ quan quản lý nhà nước thực
thi một cách có hiệu quả, nhất là trong lĩnh vực hộ tịch, tạo tiền đề tăng cường và
củng cố hệ thống các cơ quan thực hiện pháp luật về hộ tịch, đồng thời cũng là
tiền đề xây dựng chức danh hộ tịch viên, hướng tới coi việc thực hiện đăng ký hộ
tịch như là một nghề.

Thứ tư, tạo cơ sở pháp lý cao để từng bước ứng dụng công nghệ tin học
trong lĩnh vực hộ tịch, xây dựngphần mềm quản lý hộ tịch thống nhất trong
phạm vi cả nước và cùng với hệ cơ sở dữ liệu dân cư tạo nên sự kết nối, từ đó
đáp ứng các yêu cầu cao nhất các yêu cầu của việc thực hiện pháp luật về hộ
tịch, cung cấp kịp thời, đầy đủ chính xác các dữ liệu hộ tịch, góp phần tích cực
vào sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh quốc
phòng cũng như yêu cầu hội nhập quốc tế.

Luật Hộ tịch là đạo luật trực tiếp liên quan đến phạm trù quyền con người,
quyền công dân, thể hiện tập trung và sinh động mối quan hệ giữa nhà nước và

75

công dân. Thông qua hoạt động thực hiện pháp luật về hộ tịch có thể đánh giá
được việc thực hiện chức năng và bản chất của nhà nước, đánh giá được năng
lực, trình độ chuyên môn của cán bộ. Quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền
Việt Nam xã hội chủ nghĩa càng đặt ra yêu cầu quản lý xã hội bằng pháp luật thể
hiện ý chí chung và bảo đảm đầy đủ các quyền của công dân. Luật Hộ tịch được
triển khai thực hiện đã tạo bước tiến quan trọng góp phần làm rõ bản chất dân
chủ của nhà nước và pháp luật Việt Nam.

Mặt khác quan hệ pháp luật về hộ tịch đã phát triển tương đối ổn định trong
60 năm qua và hiện nay trong thể chế kinh tế thị trường, nhiều vấn đề phức tạp
về hộ tịch đã phát sinh vượt ra ngoài sự điều chỉnh của văn bản dưới luật. Trong
đó, Bộ luật dân sự năm 2005 không còn mục quy định về hộ tịch của cá nhân
như trong Bộ luật dân sự năm 1995 nữa. Vì vậy, cùng với Bộ luật dân sự năm
2005, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, sự ra đời của Luật Hộ tịch năm 2014
đã tập trung điều chỉnh các vấn đề pháp lý về thủ tục đăng ký hộ tịch, tổ chức
quản lý hộ tịch... đảm bảo tính đồng bộ cuả hệ thống pháp luật. Luật Hộ tịch ra
đời còn có ý nghĩa nhân văn sâu sắc ở chỗ, nó tạo cho mọi người dân những cơ
hội ngang nhau trong việc thụ hưởng tốt nhất dịch vụ đăng ký hộ tịch trong một
nền hành chính phục vụ.

Luật Hộ tịch không chỉ thiết lập các nguyên tắc cơ bản của hoạt động
quản lý hộ tịch mà còn ấn định những cách thức, thủ tục để các cơ quan hành
chính phục vụ quyền đăng ký hộ tịch của người dân, sẽ là biểu hiện cao độ của
việc chăm lo chu đáo đến quyền lợi của người dân, sẽ loại trừ được những nhũng
nhiễu mang tính ban phát, tiêu cực trong đăng ký hộ tịch.

3.2.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý và nâng cao năng lực cho đội
ngũ cán bộ, công chức thực hiện đăng ký và quản lý hộ tịch

Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức bộ máy quản lý hộ tịch
trong hệ thống quản lý nhà nước ở cơ sở, đồng thời xây dựng mối quan hệ đoàn
kết, phối hợp giữa các tổ chức dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, chi bộ cơ sở, đổi
mới nội dung và phương thức hoạt động hướng vào phục vụ dân, sát dân, được
dân tin cậy.

Thực hành dân chủ thực sự trong các tổ chức quản lý hộ tịch của hệ thống


76

hành chính ở địa phương, theo nguyên tắc tập trung dân chủ và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân trên cơ sở thực hiện dân chủ trực tiếp, phát huy quyền dân
chủ đại diện.

Quy định cụ thể việc thực hiện quyền của dân giám sát tổ chức và cán bộ
công chức Tư pháp – Hộ tịch ở cơ sở.

Cùng với việc kiện toàn tổ chức bộ máy thì xây dựng và nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức và viên chức là một trong những mục tiêu quan
trọng trong công tác cải cách hành chính nói chung và trong lĩnh vực hộ tịch nói
riêng của huyện Mê Linh.

Ý thức được điều đó, nhiều năm qua, ngành Tư pháp đã tích cực tham mưu
giúp Thành ủy, UBND thành phố hoàn thiện thể chế liên quan đến đội ngũ cán
bộ, công chức Tư pháp hộ tịch; thường xuyên quan tâm thực hiện các giải pháp
nhằm ngày càng nâng cao chất lượng, trách nhiệm của đội ngũ này, nhất là trong
điều kiện hiện nay, khi mà công chức Tư pháp - Hộ tịch được giao phụ trách tới
hơn 40 thủ tục hành chính, nhưng theo biên chế mỗi xã chỉ có từ một đến hai
công chức nên thường xuyên bị quá tải công việc. Theo đó, ở nhiều xã, phường,
thị trấn biên chế đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch đã được bổ sung; được
đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao trình độ để vừa đáp ứng yêu cầu đăng ký
“kịp thời, đầy đủ, chính xác” các sự kiện hộ tịch, vừa thực hiện các nhiệm vụ
khác được phân công, đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương.

Nhờ vậy, thời gian qua, công tác đăng ký và quản lý hộ tịch trên địa bàn
huyện Mê Linh đã đáp ứng tốt nhu cầu đăng ký các sự kiện hộ tịch của cá nhân.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực kể trên, so với yêu cầu nhiệm
vụ thì lực lượng công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã, phường, thị trấn trên địa
bàn huyện Mê Linh vẫn còn nhiều hạn chế như:

Đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch còn mỏng, chuyên môn nghiệp vụ
chưa đồng đều, một số ít cán bộ chưa đạt chuẩn về trình độ, chủ yếu mới qua tập
huấn đào tạo, chế độ chính sách cho đội ngũ cán bộ tư pháp hộ tịch cấp xã,
phường, thị trấn còn thấp. Bên cạnh đó, cán bộ Tư pháp - Hộ tịch hiện còn phải
kiêm nhiệm cùng lúc rất nhiều hoạt động, tác nghiệp thuộc nhiều lĩnh vực khác

77

như lao động thương binh xã hội, địa chính – xây dựng…, đặc biệt gần đây công
chức Tư pháp hộ tịch còn phải thực hiện đăng ký bảo hiểm và hộ khẩu cho trẻ
em dưới 06 tuổi theo Thông tư 05/2015/TTLT-BTP-BCA-BHYT Thông tư liên
tịch hướng dẫn thực hiện liên thông các thủ tục hành chính về đăng ký khai sinh,
đăng ký thường trú, cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 06 tuổi. Do quá tải
công việc, công chức Tư pháp - Hộ tịch không có thời gian nghiên cứu, nâng cao
trình độ chuyên môn. Việc thực thi công vụ do đó vừa thiếu tính chuyên nghiệp,
vừa không đáp ứng kịp thời yêu cầu của người dân. Chẳng hạn, khi giải quyết
các việc về hộ tịch chỉ dựa vào giấy tờ mà không có xác minh, đặc biệt là việc
giải quyết yêu cầu về thay đổi, cải chính hộ tịch, đăng ký lại khai sinh cho cán
bộ, công chức không có xác minh tại cơ quan người đó công tác nên đã dẫn đến
sai sót trong nội dung đăng ký. Vẫn còn tình trạng nhầm lẫn giữa cải chính và
thay đổi hộ tịch. Nhiều hồ sơ thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch chưa đủ căn
cứ… Việc đăng ký hộ tịch không đúng thẩm quyền cũng như dễ dãi trong việc
cấp giấy tờ hộ tịch nhất là việc cấp bản sao không căn cứ vào sổ gốc vẫn còn
diễn ra ở một số địa phương. Nhiều trường hợp nội dung trong bản chính Giấy
khai sinh khác với nội dung đã ghi trong sổ gốc; thậm chí có những trường hợp
một người được cấp 2 bản chính Giấy khai sinh với nội dung khác nhau, hoặc có
trường hợp đã đăng ký lại khai sinh vẫn tiếp tục đăng ký lại do không có dữ liệu
đăng ký hộ tịch để kiểm soát… Do đó, để nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ,
công chức Tư pháp - Hộ tịch trên địa huyện Mê Linh, trong thời gian tới cần phải
thực hiện các giải pháp sau:

Thứ nhất, để đảm bảo ổn định và nâng cao năng lực của đội ngũ công chức
Tư pháp - Hộ tịch thì trên cơ sở tách riêng công tác hộ tịch khỏi công tác Tư
pháp khác, theo hướng chuyên nghiệp hóa chức danh Hộ tịch viên để bảo đảm
nâng cao chất lượng và trách nhiệm đăng ký hộ tịch, đáp ứng được mô hình đăng
ký hộ tịch ở cấp xã, đảm bảo thực hiện kịp thời, đúng quy định các hoạt động
đăng ký hộ tịch.

Thứ hai, tiếp tục củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức Tư pháp - Hộ
tịch các cấp, đủ về số lượng và tiêu chuẩn nghiệp vụ tạo bước chuyển biến mạnh mẽ
về tổ chức, cán bộ; chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao năng

78

lực, chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, tư pháp hộ tịch; tăng cường cơ sở vật chất, tạo
điều kiện cho đội ngũ cán bộ, công chức Tư pháp - Hộ tịch xã, phường, thị trấn,
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính trị,
phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, cải
cách tư pháp, xây dựng chính quyền cơ sở vững mạnh.

Thứ ba, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng nghiệp
vụ công chức Tư pháp - Hộ tịch. Tăng cường giáo dục, rèn luyện chính trị, tư
tưởng, thái độ phục vụ nhân dân, tuân thủ đạo đức nghề nghiệp. Công chức Tư
pháp - Hộ tịch và những người có thẩm quyền giải quyết công việc của dân phải
là những người gương mẫu, tự giác trong chấp hành pháp luật, phải thực sự là
những người công tâm, chuẩn xác, làm việc khoa học, mang tính chuyên nghiệp
cao. Đối với những vùng điều kiện đi lại khó khăn hoặc vì lý do khách quan
khác, công chức Tư pháp - Hộ tịch phải tìm đến dân chứ không phải ngồi chờ
dân đến. Phải biết lắng nghe ý kiến góp ý, trao đổi của dân. Phải tạo điều kiện
thuận lợi cho người dân khi thực hiện quyền của mình nói chung và trong lĩnh
vực đăng ký, quản lý hộ tịch nói riêng, phải thực sự là “công bộc” của dân. Có
như vậy mới thực sự làm cho dân tin, thu hút đông đảo nhân dân tham gia quản
lý hộ tịch, hiệu quả quản lý Nhà nước về hộ tịch mới được nâng cao.

Thứ tư, chú trọng công tác tuyển dụng cán bộ, từng bước bố trí, sắp xếp để
tiến tới 100% công chức Tư pháp – Hộ tịch đạt chuẩn, trong đó 80-90 % cán bộ,
công chức tư pháp hộ tịch ở các xã, phường, thị trấn có trình độ đại học. Nội
dung thi tuyển ngoài hiểu biết pháp luật nói chung, cần coi trọng kiểm tra, sát
hạch về kỹ năng xử lý tình huống. Mặc dù hướng đến tin học hóa quản lý hộ tịch
nhưng cũng cần xem xét chữ viết đẹp, rõ ràng cũng là một trong những tiêu
chuẩn của người dự tuyển. Việc tuyển dụng phải đảm bảo nguyên tắc bình đẳng,
khách quan, công khai, khuyến khích nhưng cần đảm bảo cạnh tranh lành mạnh.

Trẻ hóa đội ngũ công chức Tư pháp, hiện nay trên địa bàn huyện Mê Linh,
công chức Tư pháp – Hộ tịch đa số là lớn tuổi, trình độ tin học kém, do đó gặp
nhiều khó khăn khi thực hiện phần mềm đăng ký hộ tịch và sắp tới sẽ thực hiện
đăng ký hộ tịch trực tuyến thì sẽ càng gặp khó khăn. Bởi vậy, cần tuyển dụng đội
ngũ cán bộ trẻ có trình độ tin học là rất quan trọng.

79

Thứ năm, tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, phấn đấu 100%
công chức Tư pháp - Hộ tịch xã, phường thị trấn có máy tính nối mạng để thực
hiện thống nhất quản lý chuyên ngành bằng công nghệ thông tin.

Thứ sáu, để kịp thời động viên, khuyến khích công chức Tư pháp - Hộ tịch

ở cơ sở phát huy được khả năng và trí tuệ phục vụ công việc được giao, Nhà
nước cần có những chính sách đãi ngộ cho phù hợp, bảo đảm quyền lợi cho cán
bộ làm công tác Tư pháp - Hộ tịch. Hiện nay, đầu việc mà công chức Tư pháp –
Hộ tịch phải đảm nhiệm là rất nhiều, cộng thêm thủ tục đăng ký bảo hiểm và
nhập sinh cho trẻ em dưới 06 tuổi là rất vất, tuy nhiên chế độ để công chức phục
vụ hoạt động này chưa rõ ràng, một số địa phương có, một số khác lại không.

Thứ bảy, hàng năm UBND huyện cần tiến hành đánh giá, phân loại cán bộ
Tư pháp - Hộ tịch; kiên quyết đưa ra khỏi vị trí công tác những cán bộ, công
chức Tư pháp - Hộ tịch có năng lực chuyên môn yếu, thiếu tinh thần trách
nhiệm, phục vụ nhân dân kém, vi phạm đạo đức nghề nghiệp.

Cần đổi mới quan điểm đánh giá cán bộ, tránh hình thức, chỉ căn cứ vào
quá trình công tác, tuổi tác, bằng cấp, không hẹp hòi, kỳ thị, định kiến về lý lịch
gia đình và thành phần xuất thân của cán bộ, phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ
phát triển kinh tế xã hội của địa phương, lấy kết quả thực hiện nhiệm vụ được
giao của từng chức danh làm căn cứ nhận xét, đánh giá và lấy tiêu chuẩn của cán
bộ làm chuẩn mực. Có như vậy mới hạn chế được tình trạng “thích” hay “không
thích” của một số cá nhân có thẩm quyền đánh giá, nhận xét cán bộ, mới hạn chế
được tình trạng “yêu nên tốt, ghét nên xấu” vẫn thường xảy ra trước đây.

Hiện nay, toàn TP Hà Nội có 861 cán bộ Tư pháp cấp xã trên tổng số 577
xã, phường, thị trấn, trong đó 542 công chức Tư pháp - Hộ tịch xã có trình độ cử
nhân Luật (chiếm 62,7%), 185 cán bộ có trình độ trung cấp Luật (chiếm 21,5%),
134 cán bộ có trình độ chuyên môn khác. Cán bộ chuyên trách thực hiện công
tác đăng ký và quản lý hộ tịch ở cấp xã có thời gian công tác từ 5 năm trở lên là
554 cán bộ (chiếm 4,3%), 307 cán bộ (chiếm 35,7%) cán bộ tư pháp đã làm công
tác tư pháp hộ tịch dưới 5 năm.

Ở huyện Mê Linh hiện nay có 33 công chức Tư pháp – Hộ tịch cấp xã, trong
đó cán bộ có trình độ Cử nhân Luật chiếm 43%, cán bộ từ 45 tuổi trở lên chiểm

80

60%. Từ đó cho thấy việc nâng cao trình độ cho đội ngũ này là rất cần thiết.

Như vậy, để nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ Tư pháp - Hộ tịch trên
địa bàn huyện Mê Linh trong thời gian tới, thiết nghĩ phải thực hiện đồng bộ các
giải pháp nêu trên thì chắc chắn công tác đăng ký hộ tịch sẽ đạt hiệu quả cao.


3.2.3. Nâng cao nhận thức thực hiện pháp luật về hộ tịch của các chủ
thể, đồng thời tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức của người dân trong
việc thực hiện đăng ký hộ tịch

Trong điều kiện xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng văn minh thì một
trong những điều kiện quan trọng là làm sao để người dân được tham gia tích
cực vào hoạt động quản lý xã hội bằng pháp luật. Phổ biến, giáo dục pháp luật
góp phần quan trọng trong việc thức đẩy sự lớn mạnh tích cực, bảo đảm hành
trang kiến thức pháp lý cần thiết cho sự tham gia vào hoạt động xây dựng và
thực thi pháp luật về hộ tịch trong cả nước nói chung và huyện Mê Linh nói
riêng.

Do vậy, cần bảo đảm kinh phí và cơ sở vật chất cho công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật và hoạt động tư pháp cấp xã.

Đổi mới công tác phổ biến, giáo dục pháp luật theo hướng mở rộng quy mô,
phối kết hợp với nhiều cấp, nhiều ngành, sử dụng nhiều hình thức phổ biến sinh
động, phong phú, thiết thực, liên tục và bền bỉ như thông qua hình thức tuyên truyền
miệng, tuyên truyền qua đài truyền thanh xã, các hội thi, cuộc thi, các buổi nói
chuyện chuyên đề pháp luật, thông qua tủ sách pháp luật, pa nô, áp phích….

Tiếp tục triển khai thực hiện tuyên truyền phổ biến Luật hộ tịch năm 2014
và các văn bản pháp luật có liên quan, chủ động phối hợp cùng Đoàn thanh niên
tuyên truyền người dân sử dụng dịch vụ công mức độ 3 trong việc đăng ký khai
sinh, khai tử và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân xã,
phường thị trấn.

3.2.4. Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật
trong việc thực hiện pháp luật về hộ tịch

Thanh tra là công tác không thể thiếu trong quản lý nhà nước, qua thanh tra
nhằm phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị

81

với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện
và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng
quy định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu
quả hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Do đó, để quản lý nhà nước trong lĩnh vực hộ
tịch, công tác thanh tra cũng là một công tác không thể thiếu.

Đối với Thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ cần nâng cao trách nhiệm trong
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, tích cực, chủ động giải quyết các vụ việc
thuộc thẩm quyền theo đúng quy định của pháp luật; Chủ động phối hợp với
Thanh tra Bộ trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo bảo đảm các khiếu nại,
tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ Tư pháp được giải quyết triệt để, dứt
điểm ngay từ khi phát sinh. Thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật về
phòng chống tham nhũng qua việc tổ chức thực hiện kê khai, minh bạch tài sản,
thu nhập của công chức, viên chức; chuyển đổi vị trí công tác; thực hiện quy chế
dân chủ; thực hiện công khai, minh bạch trong các hoạt động của đơn vị.

Đối với Giám đốc các Sở Tư pháp: chỉ đạo Thanh tra các Sở triển khai
đúng tiến độ, có chất lượng Kế hoạch công tác thanh tra năm 2016, nhằm nâng
cao hơn nữa hiệu quả công tác thanh tra, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ quản
lý nhà nước trong phạm vi thẩm quyền được giao. Nâng cao hiệu quả công tác
tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng theo quy
định của pháp luật. Tiếp tục kiện toàn cơ cấu tổ chức và biên chế của Thanh tra
Sở để đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ thanh tra năm 2016.

Riêng công tác thanh tra, kiểm tra năm 2016 cần chú ý một số điểm sau: chỉ
đạo Thanh tra Sở tiến hành thanh tra hoạt động luật sư, công chứng trong Quý
II/2016 theo kế hoạch thanh tra năm 2016 đã được phê duyệt. Trường hợp các Sở
Tư pháp đã xây dựng Kế hoạch thanh tra nhưng chưa có nội dung thanh tra về
hoạt động luật sư, công chứng thì tùy tình hình thực tế ở địa phương, có thể tiến
hành kiểm tra về các hoạt động trên. Công tác thanh tra, kiểm tra chuyên ngành
năm 2016, cần đổi mới mạnh mẽ cách làm, theo hướng: tăng cường phối hợp với
các cơ quan, đơn vị liên quan trong công tác thanh tra, kiểm tra; tăng cường chỉ
đạo công tác tự kiểm tra của các cơ quan chuyên môn quản lý Nhà

82

nước về từng lĩnh vực, bảo đảm thống nhất và đạt kết quả cao; chú trọng thanh
tra, kiểm tra các cơ quan, tổ chức có dấu hiệu vi phạm pháp luật và các vấn đề
bức xúc trong các lĩnh vực do Bộ/ngành Tư pháp quản lý mà xã hội quan tâm; xử
lý kịp thời, nghiêm minh, đúng pháp luật các hành vi vi phạm pháp luật; không
cần thiết thanh tra lĩnh vực thấy cơ bản đã đi vào nề nếp; chọn điểm yếu để thanh
tra; tránh chồng chéo, trùng lặp trong công tác thanh tra. Khi thanh tra lĩnh vực
hộ tịch, quan tâm thống kê việc bố trí cán bộ Tư pháp – Hộ tịch xã, phường. Tiếp
tục triển khai thực hiện Nghị định số 33/2015/NĐ-CP ngày 27/3/2015 của Chính
phủ quy định việc thực hiện Kết luận thanh tra, từ đó đề xuất những biện pháp
phù hợp, góp phần tăng cường hiệu quả của các cuộc thanh tra.


Đối với các cơ quan thi hành án dân sự:

Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự: Tích cực, chủ động giải
quyết các khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền theo đúng quy định của pháp luật;
Phối hợp với Thanh tra Bộ tham mưu cho Lãnh đạo Bộ giải quyết dứt điểm các
vụ việc khiếu nại, tố cáo tồn đọng, kéo dài; Chỉ đạo Cục Thi hành án dân sự các
địa phương chủ động báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo, hướng dẫn của Tổng cục
THADS đối với các vụ việc phức tạp; đồng thời kịp thời hướng dẫn, chỉ đạo cơ
quan THADS địa phương để giải quyết các vụ việc thi hành án phức tạp, các
khiếu nại, tố cáo tồn đọng, kéo dài.

Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự: Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu
quả công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư; nâng cao tinh thần trách nhiệm trong
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, tích cực, chủ động giải quyết các vụ việc
thuộc thẩm quyền, không để đơn thư khiếu nại, tố cáo tồn đọng, vượt cấp; thực
hiện nghiêm các quy định của pháp luật về phòng chống tham nhũng trong hoạt
động của đơn vị. Tăng cường chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn giải quyết
những vụ việc khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Chi cục Thi hành án dân
sự trong phạm vi quản lý của mình. Chủ động phối hợp với Đoàn Thanh tra của
Bộ và Thanh tra Bộ trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo khi có quyết định
thanh tra đột xuất; Thực hiện nghiêm túc và triệt để các Kết luận thanh tra, Quyết
định giải quyết khiếu nại, Quyết định xử lý tố cáo (nếu có), đồng thời đôn

83

đốc các Chi cục Thi hành án dân sự của mình thực hiện các Kết luận thanh tra,
Quyết định giải quyết khiếu nại, Quyết định xử lý tố cáo (nếu có).

Ngoài ra, Thanh tra Bộ cũng đề nghị các đơn vị được dự kiến thanh tra,
kiểm tra năm 2016 chủ động, chuẩn bị đầy đủ các báo cáo, tài liệu có liên quan
khi Đoàn thanh tra yêu cầu, phối hợp với Thanh tra Bộ và các cơ quan được giao
thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc Bộ thực hiện Kế hoạch công
tác thanh tra năm 2016.

Qua công tác thanh tra nắm bắt được những kết quả đã đạt được, đồng thời
phát hiện những vướng mắc, khó khăn, những sai phạm của đơn vị, để có biện
pháp hữu hiệu trong quá trình quản lý với mục đích không ngừng nâng cao hiệu
quả trong việc thực thi pháp luật của tổ chức và công dân.

Để thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước trong lĩnh vực tư pháp, căn
cứ nhiệm vụ được giao và tình hình thực tế của địa phương, hàng năm Thanh tra
sở đều xây dựng kế hoạch trình Giám đốc sở phê duyệt. Trong Kế hoạch luôn
chú trọng tập trung đến các cuộc thanh tra thuộc lĩnh vực chứng thực và đăng ký
hộ tịch của UBND các xã.

Vì vậy, để khắc phục những tồn tại, thiếu sót trong công tác đăng ký, quản lý
hộ tịch tại địa phương, cơ sở trong thời gian đến thì cần có những giải pháp sau:

- Các cấp chính quyền từ tỉnh đến huyện cần tăng cường tổ chức các lớp tập
huấn, bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ cho cán bộ Tư pháp cấp huyện và công chức
Tư pháp – Hộ tịch cấp xã; cần quan tâm tăng cường cán bộ cho tư pháp xã, đầu
tư trang bị cơ sở vật chất, các trang thiết bị thiết yếu để phục vụ cho công tác
đăng ký, quản lý hộ tịch tại địa phương.

- Cần bố trí những cán bộ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có đạo đức
công vụ, không nên bố trí trái ngành hoặc những người chưa qua đào tạo thực
hiện nhiệm vụ này.

- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra để kịp thời chấn chỉnh những sai
sót trong công tác đăng ký, quản lý hộ tịch tại địa phương, nhất là các quy trình,
thủ tục phải chặt chẽ, đảm bảo đúng theo quy định, tránh tình trạng “vị nễ, cảm
tình” trong việc giải quyết các vấn đề về hộ tịch để khỏi gây hậu quả pháp lý sau
này.

84

Trong những năm vừa qua, công tác thanh tra đối với lĩnh vực đăng ký và
quản lý hộ tịch luôn được Thanh tra ngành Tư pháp rất quan tâm. Hàng năm,
Thanh tra Bộ Tư pháp và Thanh tra các Sở Tư pháp đều đưa vào kế hoạch và tiến
hành thanh tra đối với công tác đăng ký và quản lý hộ tịch. Có thể nói, qua theo
dõi và tổng hợp về công tác thanh tra của ngành Tư pháp cho thấy, đây là lĩnh
vực được thanh tra nhiều nhất trong các lĩnh vực thanh tra chuyên ngành Tư
pháp, đặc biệt là đối với Thanh tra các Sở Tư pháp.

Đối với Thanh tra Bộ Tư pháp, chỉ tính từ năm 2007 đến nay, hàng năm,
Thanh tra Bộ đều thực hiện các cuộc thanh tra chuyên ngành về công tác hộ tịch,
trong đó, có năm tập trung thanh tra chuyên ngành về công tác hộ tịch trong
nước, có năm tập trung thanh tra chuyên ngành về hộ tịch có yếu tố nước ngoài.
Cụ thể: từ năm 2007 đến nay, Thanh tra Bộ Tư pháp đã tiến hành 21 cuộc thanh
tra về hộ tịch (bao gồm: 6 cuộc thanh tra về hộ tịch trong nước; 15 cuộc thanh tra
về hộ tịch có yếu tố nước ngoài). Do đặc điểm công tác đăng ký và quản lý hộ
tịch được thực hiện trên phạm vi toàn quốc đến tận cấp xã, phường và bao gồm
rất nhiều nội dung khác nhau, nên Thanh tra Bộ chủ yếu thanh tra đến cấp tỉnh.
Còn thanh tra công tác hộ tịch đối với cấp huyện, xã chủ yếu do Thanh tra các Sở
Tư pháp thực hiện.

Qua công tác thanh tra của Thanh tra Bộ, các đơn vị được thanh tra đều có
những tồn tại, sai sót nhưng chưa tới mức phải bị xử lý vi phạm nên Thanh tra
Bộ chỉ yêu cầu các đơn vị có sai sót cần chấn chỉnh, rút kinh nghiệm thực hiện
nghiêm túc kết luận thanh tra.

Những giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra và
xử lý vi phạm trong công tác đăng ký, quản lý hộ tịch:

Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước công tác hộ tịch đã có những bước
tiến cơ bản và đạt được những thành tựu quan trọng trong việc củng cố hệ thống
cơ quan quản lý, đăng ký hộ tịch, tăng cường đội ngũ công chức làm công tác hộ
tịch; hệ thống sổ sách, dữ liệu hộ tịch được lưu trữ và sử dụng lâu dài; đáp ứng
yêu cầu cải cách thủ tục hành chính trong đăng ký hộ tịch; khẳng định vai trò
trong quản lý nhà nước và bảo đảm quyền nhân thân của cá nhân. Tuy nhiên bên
cạnh những kết quả đạt được, công tác đăng ký và quản lý hộ tịch đã bộc lộ hạn

85

chế. Hiện tại còn tình trạng đăng ký không kịp thời, chưa đầy đủ và thiếu chính
xác; dữ liệu hộ tịch của cá nhân bị phân tán; đăng ký quá hạn, đăng ký lại còn
chiếm tỷ lệ tương đối cao. Tình trạng kết hôn giữa công dân Việt Nam và người
nước ngoài kết hôn ở một số địa phương vẫn còn xảy ra hiện tượng cán bộ hộ
tịch gây phiền hà, nhũng nhiễu và thậm chí còn có hiện tượng tiêu cực. Để khắc
phục tình trạng trên nhằm tăng cường hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra và xử
lý vi phạm trong công tác đăng ký, quản lý hộ tịch, cần có những giải pháp sau:

Thứ nhất, Lãnh đạo Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp cần tiếp tục quan tâm, chỉ đạo
công tác thanh tra nói chung và thanh tra công tác hộ tịch nói riêng. Tăng cường
thanh tra, kiểm tra việc chấp hành về lĩnh vực đăng ký, quản lý hộ tịch, giúp các
cơ quan, đơn vị hiểu và làm đúng những nguyên tắc, quy định về lĩnh vực này,
ngăn chặn kịp thời những việc làm sai phạm, kiến nghị sửa đổi, bổ sung những
quy định bất cập, không phù hợp với thực tiễn.

Thứ hai, cần tiếp tục nghiên cứu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền hoàn
thiện thể chế liên quan đến công tác thanh tra, kiểm tra đối với lĩnh vực hộ tịch.

Thứ ba, lực lượng Thanh tra các Sở Tư pháp còn mỏng nên công tác thanh
tra chuyên ngành nói chung chưa được thực hiện thường xuyên, chưa đáp ứng
được yêu cầu quản lý nhà nước của Ngành. Do đó, cần tăng cường biên chế cho
Thanh tra các Sở Tư pháp, nâng cao năng lực, trình độ cho công chức làm công
tác thanh tra trong toàn ngành.

Thứ tư, kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, sai phạm trong

quản lý, đăng ký hộ tịch được phát hiện qua công tác thanh tra, giải quyết khiếu

nại, tố cáo hoặc kiến nghị, phản ánh.

Một số kiến nghị, đề xuất:

- Sửa đổi quy định về thẩm quyền thanh tra chuyên ngành của Thanh tra
các Sở Tư pháp đối với lĩnh vực hộ tịch, trong đó bổ sung thẩm quyền về thanh
tra chuyên ngành đối với công tác hộ tịch có yếu tố nước ngoài.

- Rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định xử phạt vi phạm hành chính về hộ tịch
tại Nghị định số 110/2013/N Đ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và
gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã cho phù hợp

86

với các quy định của Luật Hộ tịch. Tăng thẳm quyền xử phạt đăng ký quá hạn
cho cán bộ Tư pháp – Hộ tịch. Thực tế cho thấy, tình trạng đăng ký quá hạn diễn
ra phổ biến, cho xử phạt hành chính các trường hợp này vừa là hình thức răn đe
đồng thời có tác dụng nhất đối với việc chấm dứt tình trạng đăng ký quá hạn.

- Hàng năm, cần mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành
cho cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành của Bộ Tư
pháp và Thanh tra các Sở Tư pháp, trong đó có nội dung về nghiệp vụ thanh tra
chuyên ngành trong lĩnh vực hộ tịch để kịp thời phổ biến kiến thức, trao đổi kinh
nghiệm, nắm bắt khó khăn vướng mắc trong thực hiện công tác thanh tra đối với
lĩnh vực này.

- Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp khi tổ chức các hội nghị, các lớp tập huấn, bồi
dưỡng nghiệp vụ về đăng ký và quản lý hộ tịch nên có thành phần tham dự là
công chức làm công tác thanh tra của Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp; hoặc khi có các
văn bản chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ trong công tác này cũng gửi cho Thanh tra
Bộ và Thanh tra Sở để kịp thời nắm bắt, cấp nhật thông tin, quy định pháp luật
trong lĩnh vực này, từ đó mới có thể làm tốt công tác thanh tra lĩnh vực hộ tịch.

3.2.5. Áp dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin trong đăng ký và
quản lý hộ tịch

Công tác đăng ký và quản lý hộ tịch ở địa phương hiện nay được thực hiện
chủ yếu bằng phương pháp thủ công, phương pháp này có những hạn chế nhất
định, công chức Tư pháp - Hộ tịch phải trực tiếp ghi vào sổ đăng ký hộ tịch và
biểu mẫu hộ tịch để cấp cho công dân, nên mất nhiều thời gian cho việc ghi chép
vào 2 sổ đăng ký hộ tịch, nhiều trường hợp không chính xác, sai chính tả, không
đầy đủ các nội dung theo biểu mẫu quy định, đặc biệt có trường hợp nội dung
trong giấy tờ hộ tịch khác với nội dung ghi trong sổ hộ tịch, làm khó khăn cho
công tác quản lý hộ tịch của UBND câp xã, gây phiền hà và ảnh hưởng đến
quyền lợi của công dân.

Trong thực tiễn cuộc sống hiện nay, việc công dân di chuyển nhiều nơi cư
trú là phổ biến, đồng thời với việc di chuyển nơi cư trú dẫn đến các sự kiện hộ
tịch cũng sẽ được đăng ký ở nhiều nơi khác nhau, khai sinh một nơi, kết hôn một
nơi, khai tử lại một nơi. Điều này gây khó khăn cho cả công dân và cơ quan Nhà

87

nước khi có yêu cầu kiểm tra, xác minh các biến động liên quan đến nhân thân
một con người, do hiện tại đang được thực hiện bằng phương pháp thủ công và
phân tán, không có sự kết nối thông tin với nhau.

Việc ứng dụng những thành tựu của công nghệ thông tin trong lĩnh vực
quản lý hành chính Nhà nước là một đòi hỏi cấp thiết. Đặc biệt trong công tác
đăng ký và quản lý hộ tịch thì việc ứng dụng công nghệ thông tin để giải quyết
công việc là rất cần thiết. Nếu triển khai thực hiện tốt việc ứng dụng công nghệ
thông tin trong công tác đăng ký và quản lý hộ tịch sẽ giúp cán bộ hộ tịch xử lý
công việc một cách thuận tiện, nhanh chóng và hạn chế đáng kể những sai sót so
với thực hiện theo cách thủ công. Bên cạnh đó, người dân cũng dễ dàng tìm hiểu
các quy định của pháp luật, các thủ tục hành chính liên quan đến lĩnh vực hộ
tịch, từ đó, xác định được cơ quan có thẩm quyền giải quyết và hồ sơ, giấy tờ cần
thiết để đi đăng ký hộ tịch.

Hiện nay, tại địa phương việc lưu trữ sổ hộ tịch và cơ sở dữ liệu chủ yếu
lưu giữ bằng sổ sách, giấy tờ do công chức Tư pháp – Hộ tịch giúp UBND cấp
xã quản lý. Công chức Tư pháp – Hộ tịch thường xuyên thay đổi đã ảnh hưởng
không nhỏ đến việc lưu trữ các dữ liệu đăng ký hộ tịch như: thất lạc, hư hỏng,
hoặc bị mối, mọt do không được bảo quản cẩn thận, khi chuyển công tác không
thực hiện bàn giao sổ hộ tịch và hồ sơ lưu về hộ tịch...

Ở một số địa phương đã triển khai thí điểm phần mềm về đăng ký và quản
lý hộ tịch tại ủy ban nhân dân cấp xã, tất cả dữ liệu đăng ký hộ tịch đều được cập
nhật vào hệ thống lưu trữ của phần mềm quản lý, nên công chức Tư pháp – Hộ
tịch dễ dàng cập nhật hồ sơ và truy xuất dữ liệu khi cần thiết.

Theo quy định tại Thông tư 08a/2010/TT-BTP ngày 25/3/2010 của Bộ Tư
pháp về ban hành và hướng dẫn việc ghi chép, lưu trữ, sử dụng sổ, biểu mẫu hộ tịch,
mặc dù đã có sự đơn giản hóa nhưng trên thực tế việc đăng ký và quản lý hộ tịch tại
các xã, phường, thị trấn được thực hiện bằng phương pháp viết tay trực tiếp và các
sổ hộ tịch. Vì vậy, việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác hộ
tịch là xu thế tất yếu và rất cần thiết, giúp cho công tác đăng ký hộ tịch được thực
hiện một cách khoa học, chính xác. Bên cạnh đó, việc kết nối các thông tin dữ liệu
hộ tịch bằng phần mềm quản lý hộ tịch sẽ đem lại nhiều tiện ích cho người dân


88

và các cơ quan Nhà nước. Tuy nhiên, hiện nay công chức Tư pháp – Hộ tịch khi
thực hiện đăng ký khai sinh cho công dân vẫn phải thực hiện viết tay vào sổ đăng
ký khai sinh sau đó nhập thông tin vào phần mềm đăng ký khai sinh, việc này
làm tốn thời gian, công sức, đôi khi thông tin ghi chép trong sổ hộ tịch có sai sót
với thông tin trên phần mềm đăng ký khai sinh. Do đó, để đảm bảo sự thống
nhất, chính xác thông tin trong sổ đăng ký khai sinh và phần mềm đăng ký khai
sinh tôi kiến nghị Bộ Tư pháp phối hợp cùng Bộ công nghệ thông tin cải tiến cho
phép công chức Tư pháp – Hộ tịch có thể in luôn thông tin đã nhập trên phần
mềm để làm thành sổ đăng ký khai sinh lưu trữ tại địa phương.

Áp dụng công nghệ thông tin trong đăng ký, quản lý hộ tịch sẽ tạo điều kiện
thuận lợi trong đăng ký và tra cứu thông tin cũng như công tác thanh tra, kiểm
tra và hướng dẫn nghiệp vụ, tạo được tính thống nhất và xuyên suốt trong công
tác quản lý Nhà nước về hộ tịch từ Trung ương đến địa phương. Đồng thời, đây
cũng là một giải pháp quan trọng để thực hiện có hiệu quả Chương trình tổng thể
cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2011-2020 của Chính phủ về nội dung
hiện đại hóa nền hành chính.

3.2.6. Cải cách thủ tục hành chính trong việc đăng ký hộ tịch

Cải cách thủ tục hành chính là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của
mục tiêu cải cách hành chính nói chung, cải cách thủ tục hành chính nhằm đảm
bảo tính pháp lý, hiệu quả, minh bạch và công bằng trong khi giải quyết các công
việc hành chính, loại bỏ những thủ tục rờm rà, chồng chéo dễ bị lợi dụng để
tham những, gây khó khăn cho dân. Mẫu hóa thống nhất các giấy tờ mà công dân
cần phải làm khi có yêu cầu giải quyết các công việc…Từ những mục tiêu quan
trọng của chương trình tổng thể cải cách hành chính, việc cải cách thủ tục hành
chính về hộ tịch được Quốc hội và các cơ quan quản lý nhà nước về hộ tịch đặc
biệt quan tâm, việc ban hành Luật hộ tịch, bộ thủ tục hành chính trong lĩnh vực
hộ tịch theo hướng cải cách về thủ tục hành chính là cần thiết.

Kế thừa những điểm cơ bản các Nghị định quản lý hộ tịch trước đây, Luật
hộ tịch, Nghị định 123/2015/NĐ-CP, thông tư số 15/2015/TT-BTP đã bổ sung
các quy định cụ thể về trình tự, thủ tục giải quyết các việc về hộ tịch, nhằm cái
cách thủ tục, công khai minh bạch hóa các trình tự, thủ tục, quy định thời gian
giải quyết hồ sở từng lĩnh vực trong quy trình, tương ứng với trách nhiệm và

89

tính chất công việc phải giải quyết của từng cơ quan, rút ngắn đáng kể thời gian
giải quyết, các giấy tờ phải nộp khi đăng ký hộ tịch tạo điều kiện cho người dân
có cơ sở pháp lý yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết kịp thời,
đúng pháp luật các việc về hộ tịch.

Tuy nhiên, để cải cách thủ tục hành chính trong vấn đề hộ tịch cần các giải
pháp sau:

- Đơn giản hóa các giấy tờ về đăng ký hộ tịch;

- Đơn giản hóa các thủ tục về cải chính hộ tịch;

- Thực hiện cơ chế một cửa trong việc giải quyết các thủ tục liên quan đến
hộ tịch;

- Giảm thời gian cũng như rà soát và giảm các thủ tục liên quan đến thủ tục
đăng ký hộ tịch.

Thực hiện Kế hoạch số 98/KH-UBND ngày 25/6/2016 của UBND Thành phố
về việc Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước Thành
phố Hà Nội năm 2016, trên cơ sở kết quả triển khai thí điểm tại UBND quận Long
Biênvà UBND quận Nam Từ Liêm, UBND thành phố Hà Nội ban hành Kế hoạch
triển khai hệ thống dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 lĩnh vực tư pháp cấp phường,
liên thông thủ tục hành chính theo Thông tư liên tịch số 05/2015/TTLT-BTP-BCA-
BYT ngày 15/5/2015 của Liên Bộ: Tư pháp, Công an, Y tế về việc hướng dẫn thực
hiện thực hiện liên thông các thủ tục hành chính về đăng ký khai sinh, đăng ký
thường trú, cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 06 tuổi (gọi tắt là Thông tư liên
tịch số 05/2015/TTLT-BTP-BCA-BYT) tại 10 quận trên địa bàn Thành phố (UBND
các quận: Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng, Đống Đa, Ba Đình, Cầu Giấy, Tây Hồ, Hoàng
Mai, Thanh Xuân, Bắc Từ Liêm, Hà Đông). Tiếp tục triển khai hệ thống dịch vụ
công trực tuyến mức độ 3 lĩnh vực tư pháp, liên thông thủ tục hành chính theo
Thông tư liên tịch số 05/2015/TTLT-BTP-BCA-BYT tại 144 phường thuộc 10
Quận, đảm bảo thống nhất và đồng bộ. Nâng cao chất lượng, hiệu quả trong giải
quyết thủ tục hành chính về lĩnh vực tư pháp, hộ tịch của UBND các phường nhằm
cải cách hành chính, phục vụ tốt hơn cho người dân.

Trên cơ sở kết quả thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 lĩnh vực tư
pháp tại 144 phường tiếp tục nhân rộng thực hiện tại ủy ban nhân dân các xã, thị
trấn trên địa bàn thành phố Hà Nội nói chung và UBND huyện Mê Linh nói riêng.

90

Kết luận chƣơng 3

Chương 3 của luận văn đã đưa ra được định hướng nâng cao hiệu quả
công tác thực hiện pháp luật về hộ tịch. Chương 3 luận văn cũng đề xuất được
các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả công tác thực hiện pháp luật về hộ
tịch ở huyện Mê Linh, Thành phố Hà Nội.

Từ đó đưa ra các kiến nghị đối với UBND huyện Mê Linh, phòng Tư
pháp, UBND các xã, phường, thị trấn nhằm nâng cao hiệu quả công tác thực hiện
pháp luật về hộ tịch.



















































91

KẾT LUẬN


Quản lý dân cư là một trong những lĩnh vực trọng yếu của nền hành chính
mà mọi quốc gia, dù ở bất kỳ chế độ chính trị với trình độ phát triển nào cũng
đều quan tâm. Một Chính phủ hoạt động hiệu quả không thể không nắm chắc và
cập nhật thường xuyên các thông tin, dữ liệu về dân cư có được từ từ hoạt động
quản lý hộ tịch. Hộ tịch là một trong những vấn đề trung tâm của hoạt động quản
lý nhà nước về dân cư. Những sự kiện hộ tịch là những vấn đề nóng, va đập, cọ
sát hàng ngày, hàng giờ, gắn liền với đời sống của người dân. Từ thời phong kiến
cho đến nay, quản lý hộ tịch luôn được coi trọng như một công cụ của nhà nước
để bảo vệ quyền nhân thân và hoạch định các chính sách kinh tế - xã hội. Quản
lý hộ tịch là những dữ liệu cần có trong mọi bài toán hoạch định chính sách phát
triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng, mặt khác nó là hoạt động thể hiện tập
trung, sinh động mối quan hệ giữa nhà nước và công dân. Để quản lý dân cư,
mỗi quốc gia có những phương thức quản lý khác nhau nhưng đều hướng đến
mục đích quản lý một cách đầy đủ, kịp thời, chính xác các dữ liệu về đặc điểm
nhân thân cơ bản của từng công dân. Ở nước ta, quản lý hộ tịch được xác định là
khâu trung tâm của toàn bộ hoạt động quản lý dân cư. Vậy những giá trị tiềm
tàng như vậy, công tác quản lý hộ tịch đã khẳng định vai trò vô cùng quan trọng
của nó trong tiến trình phát triển của xã hội. Đăng ký và quản lý hộ tịch là hoạt
động luôn được Nhà nước ta quan tâm thực hiện. Thông qua hoạt động đăng ký,
quản lý hộ tịch, giúp cho công dân thực hiện các quyền, lợi ích của mình, tạo cơ
sở để Nhà nước quản lý dân cư từ khi sinh ra đến khi chết đều được cơ quan nhà
nước đăng ký, quản lý chặt chẽ.

Tuy nhiên trong bối cảnh đất nước bước sang giai đoạn phát triển mới,
tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế diễn ra ngày càng sâu
rộng, việc dịch chuyển dân cư trong nước và quốc tế ngày càng gia tăng, công
tác đăng ký và quản lý hộ tịch đã bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế. Hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật về hộ tịch gồm Nghị định, Thông tư hướng dẫn, và mới
có Luật Hộ tịch năm 2014 nên việc thi hành trên thực tế đang gặp nhiều khó
khăn. Phương thức đăng ký hộ tịch vẫn chủ yếu là phương pháp thủ công, ghi

92

chép bằng tay, người dân phải xuất trình nộp nhiều loại giấy tờ khi đăng ký hộ
tich, gây khó khăn, phiền hà. Thủ tục hành chính trong đăng ký hộ tịch còn chưa
triệt để, chưa bảo đảm tiện lợi cho người đăng ký hộ tịch. Công tác quản lý, lưu
trữ hồ sơ, sổ sách, thông kê hộ tịch còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng
được yêu cầu tra cứu, sử dụng của người dân, chưa đóng góp nhiều cho công
cuộc xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Những bất cập, hạn chế
trên đây vừa ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền, lợi ích hợp pháp của công dân,
vừa ảnh hưởng đến chất lượng đăng ký và quản lý hộ tịch, làm giảm hiệu quả
công tác quản lý dân cư, quản lý nhà nước và xã hội. Do đó, để giải quyết những
khó khăn trong công tác quản lý hộ tịch thì vấn đề quan trọng hàng đầu là phải
xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho công
tác quản lý hộ tịch trong giai đoạn trước mắt và lâu dài.

Quá trình thực hiện pháp luật về hộ tịch cũng đã giúp chúng ta đúc rút
được những kinh nghiệm quý báu, làm cơ sở để đề ra phương hướng, cùng với
những giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao hơn nữa vai trò, chất lượng, hiệu quả
thực hiện pháp luật về hộ tịch của các chủ thể. Các giải pháp nhằm đảm bảo và
nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hộ tịch bao gồm giải pháp về nâng cao
nhận thức, phát huy vai trò các chủ thể, góp phần đảm bảo về kinh tế và thể chế
thành pháp luật về hộ tịch. Trên cơ sở nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa
của việc thực hiện pháp luật về hộ tịch đối với sự phát triển của địa phương và
đất nước, luận văn đã nghiên cứu toàn diện quá trình triển khai, những kết quả
đạt được cũng như những tồn tại, hạn chế trong việc thực hiện pháp luật về hộ
tịch trên địa bàn huyện Mê Linh và đề xuất hệ thống các giải pháp để khắc phục
những tồn tại, hạn chế đó, góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hộ
tịch ở huyện Mê Linh nói riêng và trên địa bàn cả nước nói chung.

Tuy nhiên, nhận thức và thực hiện pháp luật về hộ tịch hiện nay là một
vấn đề rất mới và phức tạp, phụ thuộc nhiều vào điều kiện đặc thù của từng địa
phương và trong phạm vi luận văn mới chỉ có điều kiện nghiên cứu, đánh giá
thực trạng tình hình và những vấn đề xảy ra trong thực hiện pháp luật về hộ tịch

ở mô hình một huyện, đề ra một số giải pháp pháp lý chung ở tầm vĩ mô và




93

những giải pháp thực hiện cụ thể áp dụng cho huyện Mê Linh mà chưa có điều
kiện nghiên cứu sâu và rộng hơn.

Vì vậy, để nâng cao hơn nữa hiệu quả thực hiện pháp luật về hộ tịch, làm
cho pháp luật về hộ tịch thực sự đi vào cuộc sống, cần có những công trình
nghiên cứu ở cấp độ cao hơn, sâu sắc và khái quát hơn về từng mảng vấn đề
trong thực hiện pháp luật về hộ tịch, về quá trình thực hiện pháp luật hộ tịch của
các nhóm địa phương có điều kiện tương đồng và đặt trong tương quan so sánh
với các địa phương khác trong nước và kết quả thực hiện chung cả nước, từ đó sẽ
có cái nhìn tổng quát, toàn diện, chính xác và đầy đủ hơn.

















































94

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Bộ Tư pháp (2008), Thông tư số 01/2008/TT-BTP ngày 02/6/2008
hướng dẫn thực hiện một số quy định của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày
27/5/2005 về việc đăng ký và quản lý hộ tịch, Việt Nam.

2. Bộ Tư pháp (2010), thông tư số 08a/2010/TT-BTP ngày 25/3/2010 của
Bộ Tư pháp ban hành và hướng dẫn việc ghi chép, lưu trữ, sử dụng số, biểu
mẫu hộ tịch, Việt Nam.

3. Bộ Tư pháp (2015), Thông tư số 15/2015/TT-BTP quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày
15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành
Luật hộ tịch, Việt Nam.

4. Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Y tế (2015), Thông tư 05/2015/TTLT-
BTP-BCA-BHYT ngày 15/5/2015, Thông tư liên tịch hướng dẫn thực hiện liên
thông các thủ tục hành chính về đăng ký khai sinh, đăng ký thường trú, cấp thẻ
bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 06 tuổi, Việt Nam.

5. Bộ Tư pháp, Báo cáo Tổng kết công tác đăng ký, quản lý hộ tịch và việc
thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về hộ tịch ngày 12/6/2012, Việt Nam.

6. Chính Phủ (1998), Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 về
đăng ký hộ tịch, Việt Nam.

7. Chính phủ (2005), Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/5/2005 về
đăng ký và quản lý hộ tịch, Việt Nam.

8. Chính phủ (2012), Nghị định số 06/2012/NĐ-CP ngày 20/2/2012 sửa
đổi Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/5/2005 về đăng ký và quản lý hộ
tịch, Việt Nam.

9. Chính phủ (2015), Nghị định 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 quy

định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật hộ tịch, Việt Nam.

10. Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực (2013), Báo cáo kinh nghiệm một
số nước về đăng ký và quản lý hộ tịch trong mối liên hệ với pháp luật về đăng ký
và quản lý hộ tịch tại Việt Nam, Việt Nam.




95

11. Vương Tất Đức, Nguyễn Thanh Xuân (2010), “Quy định về thay đổi họ,
tên của một người cần được hướng dẫn cụ thể”, Tạp chí dân chủ và pháp luật.

12. Nguyễn Công Khanh (2013), Giới thiệu một số nội dung cơ bản của
dự án Luật Hộ tịch, Hội thảo Đơn giản hóa thủ tục hành chính giấy tờ công dân
trong dự án Luật hộ tịch.

13. Quốc hội (1995), Bộ luật Dân sự, Việt Nam

14. Quốc hội (2000), Luật Hôn nhân và gia đình năm, Việt Nam.

15. Quốc hội (2006), Luật cư trú, Việt Nam.

16. Quốc hội (2008), Luật Cán bộ, công chức, Nxb Chính trị quốc gia,
năm 2012, Việt Nam.

17. Quốc hội (2014), Luật Hộ tịch, Việt Nam.

18. Quốc hội (2016), Hiến pháp, Việt Nam.

19. Uyên San (2014), Tích cực hơn nữa để loại bỏ giấy tờ hộ tịch không
cần thiết, Báo Pháp luật Việt Nam.

20. Sở Tư pháp thành phố Hà Nội - cơ quan thường trực Hội đồng phối
hợp phổ biến, giáo dục pháp luật thành phố Hà Nội, “Tìm hiểu một số quy định
của pháp luật về Hộ tịch”, Nhà xuất bản Hà Nội năm 2015.

21. Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Lý luận nhà nước và
pháp luật, NXB Công an nhân dân.

22. UBND huyện Mê Linh; Báo cáo kiểm tra sổ hộ tịch năm 2015 của các
xã trên địa bàn huyện năm 2015, Việt Nam.

23. UBND huyện Mê Linh; Báo cáo công tác hộ tịch 06 tháng đầu năm

2016, Việt Nam.

24. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, Nxb Chính
trị quốc gia năm 2010;

25. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb Chính
trị quốc gia năm 2011;

26. Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, NXB Từ điển Bách
khoa – NXB Tư pháp.

27. Viện ngôn ngữ học (1998), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.




96

28. Quang Vinh (2014), “Sẽ có nhiều đổi mới trong công tác hộ tịch”, Báo
pháp luật Việt Nam.

Ngoài ra luận văn còn tham khảo thông tin trên các website
sau: www.Thudo.hanoi.gov.vn;

www.moj.gov.vn (cổng thông tin điện tử Bộ tư pháp)
www.melinh.hanoi.gov.vn (cổng thông tin điện tử huyện Mê Linh)























































97

PHỤ LỤC

Bảng 1. KẾT QUẢ ĐĂNG KÝ NUÔI CON NUÔI TẠI UBND CẤP XÃ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN [23, tr.2]

Đơn vị tính: Người

Chia theo tình
Chia theo nơi cƣ trú
trạng sức khỏe
của trẻ em trƣớc khi
Chia theo độ tuổi của trẻ em đƣợc nhận làm con nuôi của trẻ em đƣợc
đƣợc nhận làm con
nhận làm con
Tổng

nuôi


nuôi


số



Dưới 01 tuổi
Từ 01 đến Từ 05 đến
Trên 10 tuổi

Trẻ em
Cơ sở



dưới 05 tuổi dưới 10 tuổi Bình có nhu Gia Nơi
nuôi

thường cầu đặc đình khác


Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ dưỡng
biệt



A 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14

Tổng số trên
địa bàn huyện 1 0 0 1 0 0 0 0 0 1 0 0 1 0

Xã Tráng Việt 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0

Xã Tiền Phong 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0

Xã Đại Thịnh 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0

Xã Mê Linh 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0

Xã Hoàng Kim 1 0 0 1 0 0 0 0 0 1 0 0 1 0

Xã Thạch Đà 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0

Xã Tam Đồng 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0

Xã Văn Khê 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0

Xã Liên Mạc 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0

Xã Chu Phan 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0

Xã Tiến Thịnh 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0

Xã Vạn Yên 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0

Xã Tư Lập 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0

Xã Tiến Thắng 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0

Xã Thanh Lâm 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0

Xã Kim Hoa 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0

TT Quang Minh 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0

TT Chi Đông 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0

Bảng 2. KẾT QUẢ ĐĂNG KÝ KHAI SINH, KHAI TỬ, KẾT HÔN TRONG NƢỚC TẠI UBND CẤP XÃ TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN [23, tr3]
ĐĂNG KÝ KHAI SIN H ĐĂNG KÝ KHAI TỬ (Trường ĐĂNG KÝ KẾT HÔN
(Trường hợp) hợp) (Trường hợp)

Đăng ký mới Đăng ký mới Đăng ký mới

Chia theo giới Chia theo thời
Đăng
Chia theo thời
Đăng Tổng
Trong đó
Đăng
Tổng

tính điểm đăng ký Tổng điểm đăng ký

Kết hôn


ký lại ký lại số

ký lại

số

số

lần đầu


Đúng Quá Đúng Quá


Nam

Nữ

(cặp)


hạn hạn

hạn hạn

(Cặp)



(A) (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (10) (11) (12) (13)

Tổng số trên
1592 888

704 1563 29 714 423 358 65 20 712

647

33
địa bàn huyện



1. Đại Thịnh 84 48 36 83 1 61 10 9 1 7 29 26 5

2. Tiến Thịnh 109 51 58 107 2 24 28 26 2 0 35 35 0

3. Chu Phan 74 44 30 74 0 43 34 32 2 0 34 32 0

4. Tam Đồng 60 35 25 58 2 53 20 16 4 0 27 26 2

5. Văn Khê 155 73 82 154 1 53 36 31 5 0 49 48 1

6. Liên Mạc 120 67 53 115 5 151 41 17 24 0 60 60 5

7. Thạch Đà 90 48 42 88 2 37 24 13 11 0 65 64 1

8. Quang Minh 90 49 41 90 0 15 18 18 0 6 30 0 0

9. Tráng Việt 76 74 2 73 3 9 20 19 1 0 46 44 5

10. Hoàng Kim 35 17 18 35 0 24 10 10 0 0 30 30 2

11. Vạn Yên 46 23 23 44 2 7 10 8 2 1 20 18 2

12. Kim Hoa 60 35 25 59 1 18 17 13 4 0 24 22 0

13. Mê Linh 80 42 38 80 0 66 20 19 1 1 39 37 2

14. Chi Đông 88 46 42 85 3 18 19 16 3 5 39 34 1

15. Tự Lập 63 33 30 59 4 1 28 28 0 0 45 40 2

16. Tiền Phong 137 73 64 136 1 63 42 41 1 0 49 49 0

17. Thanh Lâm 116 66 50 114 2 33 26 22 4 0 48 44 5

18. Tiến Thắng 109 64 45 109 0 38 20 20 0 0 43 38 0

- Số liệu ước tính dòng Tổng số Cột 1: 798; Cột 6: 357; Cột 7: 212.;
Cột 10:10; Cột 11:356; Cột 13:17

Bảng 3. KẾT QUẢ ĐĂNG KÝ KHAI SINH, KHAI TỬ, KẾT HÔN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN [23, tr4]

Kỳ báo cáo 6 tháng năm 2016

(Từ ngày 01 tháng 01 năm 2016

Đến ngày 30 tháng 6 năm 2016)

KẾT QUẢ ĐĂNG KÝ KHAI SINH, KHAI TỬ , KẾT HÔN CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI TẠI UBND CẤP HUYỆN


Tổng số
Chia theo giới tính


Nam

Nữ

(A) (1) (2) (3)

I Khai sinh (Chia theo quốc tịch của cha, mẹ) 0

1 Con có cha và mẹ là người nước ngoài

2 Con có cha hoặc mẹ là người nước ngoài còn người kia là công dân Việt Nam

II Khai tử 0

1 Người nước ngoài

2 Công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài

- Số liệu ước tính Phần I (dòng Khai sinh) Cột 1: 0 ; Phần II (dòng Khai tử) cột 1: 0

III. KẾT HÔN

Số cuộc kết hôn Số người kết hôn chia theo giới
chia theo đối tượng kết hôn tính công dân Việt Nam cư trú
(Cặp) trong nước (Người)

Công dân Công dân VN Công dân Người
Tổng số Việt Nam cư cư trú ở trong VN định nước
trú ở trong nước với cư ở ngoài với
Tổng số Nam Nữ
nước với

công dân VN nước người
người nước định cư ở ngoài với nước
ngoài nước ngoài nhau ngoài

(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8)

3 2 1 1 0 3 0 3

- Số liệu ước tính: 01 tháng đối với báo cáo 6 tháng; 02 tháng đối với báo cáo năm;

- Số liệu ước tính Cột 1: 2

Bảng 4. KẾT QUẢ ĐĂNG KÝ CÁC VIỆC HỘ TỊCH KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN [23, tr5]

Kỳ báo cáo 6 tháng năm 2016

(Từ ngày 01 tháng 01 năm 2016 đến ngày 30/4/2016)


I. CÁC VIỆC HỘ TỊCH THỰC HIỆN TẠI UBND CẤP HUYỆN

Đơn vị tính: Trường hợp

SỰ KIỆN HỘ TỊCH Tổng số

A 6

1. Thay đổi hộ tịch 1

2. Cải chính hộ tịch 5

3. Điều chỉnh hộ tịch 0

4. Bổ sung hộ tịch 0

5. Xác định lại dân tộc 0

6. Xác định lại giới tính 0

7. Cấp lại bản chính Giấy khai
0
sinh

II. CÁC VIỆC HỘ TỊCH KHÁC THỰC HIỆN TẠI UBND CẤP XÃ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN

Đơn vị tính: Trường
hợp

Nhận cha, mẹ,
Giám hộ
Ghi vào sổ Cấp giấy xác nhận

con


các thay đổi hộ tịch khác

tình trạng hôn nhân




Con Con

Chấm
Để KH với Để kết hôn

Thay Cải Điều Bổ

Hủy Chấm

người với người Sử
Cha,
chưa đã Đăng dứt, Xác
Thay
Để kết hôn
đổi chính chỉnh sung
thành thành ký thay định
hôn dứt
với người
nước ngoài nước ngoài dụng
hộ hộ hộ hộ mẹ đổi Ly nhân việc tại cơ quan tại cơ quan vào
tịch tịch tịch tịch nhận niên niên việc đổi cha, quốc hôn trái nuôi VN ở trong có thẩm có thẩm mục

con
nhận nhận giám việc mẹ,
tịch

pháp con
nước
quyền của quyền của đích
cha, cha, hộ giám con


luật nuôi

VN

nước ngoài khác
mẹ mẹ

hộ



Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ



A 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21

Tổng
số trên
địa 14 15 11 3 6 4 5 6 7 9 9 20 11 12 32
391
0 3 2 3 177
bàn


huyện


Tráng 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 4 0 0 2 11 0 0 0 0 7
Việt


Tiền 1 0 0 0 1 0 0 0 0 1 0 0 0 0 0 22 0 0 0 0 24
Phong

Xã Đại
0 2 0 0 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 20 0 0 0 0 6
Thịnh

Xã Mê
1 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 3 27 0 0 1 0 15
Linh


Hoàng 1 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 2 12 0 0 0 0 3
Kim


Thạch 2 5 7 0 0 0 0 0 0 0 0 6 0 0 0 20 0 0 0 0 8
Đà


Tam 0 0 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 2 15 0 1 0 0 8
Đồng


Văn 0 3 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 4 25 0 0 0 0 5
Khê


Liên 1 0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 3 35 0 0 0 0 14
Mạc


Chu 1 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 3 36 0 0 0 1 10
Phan


Tiến 4 0 0 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 3 26 0 0 0 0 3
Thịnh


Vạn 0 2 2 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 4 10 0 0 0 0 2
Yên

Xã Tự
0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 11 0 1 0 1 12
Lập


Tiến 0 0 0 0 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 35 0 0 0 0 0
Thắng


Thanh 3 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 33 0 1 1 0 20
Lâm


Kim 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 22 0 0 0 1 17
Hoa

TT
Quang 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 4 17 0 0 0 0 4
Minh

TT Chi
0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 14 0 0 0 0 19
Đông
Tags