Tranh tung tai phien toa

HungNguyen338 126 views 96 slides Aug 29, 2015
Slide 1
Slide 1 of 96
Slide 1
1
Slide 2
2
Slide 3
3
Slide 4
4
Slide 5
5
Slide 6
6
Slide 7
7
Slide 8
8
Slide 9
9
Slide 10
10
Slide 11
11
Slide 12
12
Slide 13
13
Slide 14
14
Slide 15
15
Slide 16
16
Slide 17
17
Slide 18
18
Slide 19
19
Slide 20
20
Slide 21
21
Slide 22
22
Slide 23
23
Slide 24
24
Slide 25
25
Slide 26
26
Slide 27
27
Slide 28
28
Slide 29
29
Slide 30
30
Slide 31
31
Slide 32
32
Slide 33
33
Slide 34
34
Slide 35
35
Slide 36
36
Slide 37
37
Slide 38
38
Slide 39
39
Slide 40
40
Slide 41
41
Slide 42
42
Slide 43
43
Slide 44
44
Slide 45
45
Slide 46
46
Slide 47
47
Slide 48
48
Slide 49
49
Slide 50
50
Slide 51
51
Slide 52
52
Slide 53
53
Slide 54
54
Slide 55
55
Slide 56
56
Slide 57
57
Slide 58
58
Slide 59
59
Slide 60
60
Slide 61
61
Slide 62
62
Slide 63
63
Slide 64
64
Slide 65
65
Slide 66
66
Slide 67
67
Slide 68
68
Slide 69
69
Slide 70
70
Slide 71
71
Slide 72
72
Slide 73
73
Slide 74
74
Slide 75
75
Slide 76
76
Slide 77
77
Slide 78
78
Slide 79
79
Slide 80
80
Slide 81
81
Slide 82
82
Slide 83
83
Slide 84
84
Slide 85
85
Slide 86
86
Slide 87
87
Slide 88
88
Slide 89
89
Slide 90
90
Slide 91
91
Slide 92
92
Slide 93
93
Slide 94
94
Slide 95
95
Slide 96
96

About This Presentation

Tranh tung tai phien toa


Slide Content

LUẬN VĂN:


Tranh tụng tại phiên tòa - một số vấn
đề lý luận và thực tiễn

mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Những năm qua, tình hình vi phạm pháp luật ở nước ta xảy ra nghiêm trọng, diễn
biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng ảnh hưởng đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Cùng với sự nỗ lực của toàn xã hội, các cơ quan tiến hành tố tụng đã có nhiều
cố gắng trong công tác tư pháp nên đã góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh -
chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Tuy nhiên, chất lượng công tác tư pháp nói chung và công
tác xét xử nói riêng còn chưa ngang tầm với yêu cầu và nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao
phó, còn bộc lộ nhiều yếu kém, bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, xâm phạm đến các
quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của xã hội và công dân (theo số liệu thống kê của
Tòa án nhân dân tối cao, tuy số lượng án oan có giảm dần, nhưng vẫn còn: năm 2002 toàn
bộ ngành Tòa án có 23 trường hợp bị kết tội oan, năm 2003 chỉ còn 7 trường hợp, năm 2004
còn 5 trường hợp), gây nhiều hậu quả đáng tiếc cho người bị kết án oan, người thân và xã
hội. Có người vì bị kết tội oan nên đang là chủ doanh nghiệp tư nhân mà sau khi bị kết án
phải làm thợ mộc để kiếm sống qua ngày, trường hợp khác đã ở tù một thời gian, bị người
thân xa lánh, đầy mặc cảm với xã hội, đến khi kẻ phạm tội đích thực nhận tội mới được trở
về; còn có người vì bị kết án oan nên không biết bao nhiêu năm, tháng miệt mài đưa đơn
đi tìm công lý... Những điều đó đã tạo nên dư luận xã hội không tốt, khiến nhân dân thiếu
lòng tin vào tòa án và nền công lý xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị ra đời vào ngày 02/01/2002 được xem
như sự mở đầu cho công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta. Nghị quyết này đề cập nhiều
nội dung khác nhau của công tác tư pháp từ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử cho đến
việc đào tạo cán bộ tư pháp, nhưng tăng cường yếu tố tranh tụng trong quá trình xét xử
vụ án hình sự được coi là điểm nhấn của cải cách tư pháp và là vấn đề trọng tâm của
Nghị quyết. Theo đó, việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh
tụng tại phiên tòa, phải đảm bảo để bản án, quyết định của Tòa án là hiện thân của công
lý, công bằng xã hội. Như vậy, một vấn đề cấp bách được đặt ra đối với các cơ quan tư

pháp là làm thế nào để đạt được những yêu cầu đó. Trong nỗ lực chung, thì việc nghiên
cứu làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa là cần thiết.
Đã có nhiều bài viết, bài nghiên cứu và sách chuyên khảo đề cập đến vấn đề
tranh tụng trong tố tụng hình sự như: "Tranh tụng trong tố tụng hình sự" của tác giả
Nguyễn Đức Mai trong cuốn kỷ yếu: "Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của tố
tụng hình sự Việt Nam" - Viện kiểm sát nhân dân tối cao năm 1995; bài "Về tranh tụng
tại phiên tòa hình sự" của tác giả Tống Anh Hào trong Tạp chí Tòa án nhân dân số
5/2003; bài "Bàn về vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình sự" đăng trong Tạp chí Kiểm
sát, tháng 9/2003 của tác giả Trần Đại Thắng; bài viết của nhiều tác giả trong Đặc san
nghề luật số 5/2003 về chuyên đề mở rộng tranh tụng; cuốn chuyên khảo "Cải cách tư
pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền" do TSKH Lê Cảm và
TS. Nguyễn Ngọc Chí đồng chủ biên, có nhiều bài viết của các tác giả (Nxb Đại học
quốc gia, 2004)... Nhưng những bài viết đó chỉ đề cập đến một số vấn đề nhất định liên
quan tranh tụng và còn khá nhiều ý kiến trái ngược nhau xung quanh ý tưởng đổi mới
hoạt động xét xử của ngành Tòa án Việt Nam theo hướng tranh tụng.
Trước yêu cầu của thực tế, đảm bảo sự dân chủ, bình đẳng trong hoạt động tố
tụng hình sự tránh bỏ lọt tội phạm làm oan người vô tội; đồng thời góp phần làm sáng tỏ
về mặt lý luận, tác giả chọn đề tài: " Tranh tụng tại phiờn tũa - một số vấn đề lý luận và
thực tiễn " làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Nghiên cứu đề tài này, tác giả hướng tới mục đích làm rõ thêm cơ sở lý luận và
thực tiễn, bản chất, nội dung của tranh tụng tại phiên tòa, chỉ ra những bất cập còn tồn tại
của việc tranh tụng tại phiên tòa ở nước ta hiện nay, thông qua đó đề xuất những giải
pháp thiết thực nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hướng tới xây dựng
một phiên tòa hình sự thực sự công bằng, dân chủ góp phần thực hiện quá trình cải cách
tư pháp.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ của luận văn được đặt ra là:

1- Nghiên cứu cơ sở lý luận của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa như: khái
niệm, đặc điểm, điều kiện, yêu cầu của tranh tụng tại phiên tòa; Cơ sở pháp lý quy định
về tranh tụng tại phiên tòa; ý nghĩa của tranh tụng tại phiên tòa.
2- Sơ lược về lịch sử các qui định của luật tố tụng hình sự Việt Nam về tranh
tụng tại phiên tòa.
3- Phân tích, đánh giá thực trạng tranh tụng tại phiên tòa ở Việt Nam những năm
gần đây, qua đó rút ra những mặt tích cực cũng như những tồn tại, hạn chế trong hoạt
động tranh tụng tại phiên tòa.
4- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu và những đánh giá về thực trạng tranh tụng tại
phiên tòa luận văn nêu ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng tại phiên
tòa xét xử vụ án hình sự ở nước ta trước yêu cầu cải cách tư pháp.
3. Phạm vi nghiên cứu
Tranh tụng là vấn đề lớn trong hoạt động tố tụng, có nhiều nội dung thể hiện ở
các giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án nên trong phạm vi của một luận văn thạc sĩ
không thể xem xét và giải quyết hết mọi vấn đề mà chỉ dừng lại nghiên cứu vấn đề tranh
tụng tại phiên tòa.
Với phạm vi nghiên cứu này, luận văn nghiên cứu về tranh tụng tại phiên tòa dưới
góc độ lý luận, phân tích những quy định của pháp luật về tranh tụng tại phiên tòa, và chỉ ra
vướng mắc trong hoạt động thực tiễn của những chế định này, trên cơ sở khảo sát thực
trạng xét xử từ ngày 01/01/1989 (ngày có hiệu lực thi hành của Bộ luật tố tụng hình sự
1988) đến hết ngày 31/6/2004 (ngày hết hiệu lực thi hành của Bộ luật tố tụng hình sự
1988) và chất lượng phiên tòa hình sự từ sau ngày Nghị quyết 08/NQ-TW ra đời. Từ đó
đưa ra những quan điểm, kiến nghị góp phần thực hiện tốt Nghị quyết 08/NQ-TW, nâng
cao chất lượng của hoạt động xét xử nói riêng và của các cơ quan tư pháp nói chung.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài

Để hoàn thành luận văn, tác giả đã dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử), tư tưởng
Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về pháp luật, về cải cách tư pháp.
Đồng thời, luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: Phương
pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp thống kê, so sánh; phương pháp lịch sử; phương
pháp đàm thoại (trao đổi ý kiến với những chuyên gia đầu ngành, những người làm công
tác thực tiễn lâu năm); phương pháp khảo sát thực tiễn tranh tụng tại những phiên tòa
hình sự.
5. Những điểm mới của luận văn
Là công trình đầu tiên đề cập và giải quyết vấn đề tranh tụng tại phiên tòa, luận
văn có những điểm mới sau:
1- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận về tranh tụng tại phiên tòa, góp phần nâng cao nhận
thức về nội dung, bản chất của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa.
2- Luận văn khảo cứu các quy định pháp luật về tranh tụng tại phiên tòa, đánh giá
thực trạng áp dụng các quy định đó khi xét xử và chỉ ra những hạn chế tồn tại trong hoạt
động tranh tụng tại phiên tòa hình sự, cũng như làm rõ nguyên nhân và điều kiện của tồn
tại đó.
3- Các giải pháp về hoàn thiện pháp luật, về cơ chế tổ chức, về đội ngũ cán bộ..
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hình sự mà luận văn đưa ra sẽ
giúp ích cho các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và Tòa án nói riêng nâng cao hiệu
quả hoạt động tranh tụng tại phiên tòa.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn
bao gồm ba chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Tranh tụng tại phiên tòa trước yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta
hiện nay.
Chương 2: Thực trạng tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự.

Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả tranh tụng tại phiên tòa.

Chương 1
tranh tụng tại phiên tòa
trước yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay

1.1. tranh tụng tại phiên tòa trong tố tụng tranh tụng
1.1.1. Đặc điểm của tố tụng tranh tụng
Trên thế giới đang tồn tại hai hệ thống tố tụng chủ yếu là: tố tụng tranh tụng và tố
tụng xét hỏi. Tố tụng xét hỏi được sử dụng phổ biến ở các nước theo hệ thống luật CIVIL
LAW (các nước Pháp, Italia, Đức,...), còn tố tụng tranh tụng là thủ tục tố tụng được áp
dụng rộng rãi ở các nước theo hệ thống luật án lệ COMMON LAW (các nước Anh, Mỹ,
ấn Độ, Austraylia, New Zealand...). Theo các nhà nghiên cứu về nhà nước và pháp luật
thì tố tụng tranh tụng đã xuất hiện rất sớm, ngay từ thời Hy Lạp cổ đại, sau đó du nhập
vào La Mã với tên gọi là thủ tục hỏi đáp liên tục (Procédure des questions perpétuelles)
và trở nên phổ biến tại Anh và nhiều nước khác.
Trong tố tụng tranh tụng tùy theo tính chất, mức độ của từng vụ mà có những thủ
tục tố tụng tương ứng: Nếu là vi phạm nhỏ, tội ít nghiêm trọng (thông thường những tội
có mức hình phạt cao nhất dưới 5 năm tù) sau khi phát hiện có vi phạm pháp luật hình sự,
cảnh sát có thể trực tiếp truy tố bị cáo ra tòa chỉ có một Thẩm phán. Nếu là tội nghiêm
trọng và bị cáo nhận tội, vụ án sẽ được chuyển cho cơ quan công tố để truy tố ra tòa xét
xử theo thủ tục rút gọn hoặc thủ tục xét xử không có Bồi thẩm đoàn.
Trường hợp bị cáo không nhận tội và đề nghị xét xử bằng thủ tục có Bồi thẩm
đoàn, vụ án sẽ được cơ quan công tố truy tố ra tòa với một Thẩm phán và Bồi thẩm đoàn.
Tại phiên tòa xét xử, Thẩm phán có nhiệm vụ điều hành mọi hoạt động tố tụng để cho các
bên buộc tội (Công tố viên nhân danh Nhà nước) và gỡ tội (bị cáo, Luật sư bào chữa cho
bị cáo) tự xét hỏi, đưa ra chứng cứ, người làm chứng, tự đối chất, phản bác nhau và tự
bảo vệ quan điểm của mình; đồng thời cũng hướng dẫn cho Bồi thẩm đoàn những quy tắc
tố tụng, chứng cứ và luật nội dung. Đáng chú ý, Thẩm phán có vai trò điều khiển các bên
tham gia phiên tòa để đảm bảo những thông tin về chứng cứ đưa ra không tạo nên định

kiến (prejudice) đối với Bồi thẩm đoàn. Việc quyết định bị cáo có tội hay không hoàn
toàn thuộc quyền hạn của Bồi thẩm đoàn. Nếu bị cáo bị tuyên có tội, lúc đó chỉ có Thẩm
phán tiếp tục vụ án với vai trò là người quyết định hình phạt, lượng hình. Nếu bị cáo
được tuyên vô tội, vụ án sẽ chấm dứt ngay và cơ quan công tố cũng không được quyền
kháng nghị phúc thẩm vì nguyên tắc (Hiến pháp) không cho phép xét xử hai lần (Double
jeopardy) đối với một bị cáo về cùng một tội. Việc phúc thẩm chỉ đặt ra đối với cả hai
bên khi bị cáo bị tuyên có tội liên quan đến việc định tội hoặc lượng hình. Các thủ tục tố
tụng như hỏi cung, khám nghiệm, hay các thủ tục tố tụng tại phiên tòa đều phải được ghi
âm hoặc ghi hình và nếu có tranh chấp hay mâu thuẫn giữa các bên về tính đúng đắn và
chính xác thì các bản ghi âm sẽ được đưa ra để Tòa án và các bên cùng xem lại [39].
Qua nghiên cứu thì tố tụng tranh tụng có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, điều tra tại phiên tòa là điều tra chính thức và chủ yếu: Tố tụng tranh
tụng là hệ thống tố tụng mà Tòa án là cơ quan xét xử và tiến hành tố tụng chính, sự tập trung
nhất của hệ thống tố tụng. Các hoạt động khác như điều tra của cảnh sát, truy tố của công tố
viên chỉ là những hoạt động mang tính hành chính - tư pháp không được điều chỉnh bởi Luật
tố tụng hình sự [15, tr. 256]. Chỉ có Tòa án mới là chủ thể tiến hành tố tụng với ý nghĩa đầy
đủ nhất theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Vì vậy, mọi điều tra của Luật sư và của
cảnh sát có thể được tiến hành theo nhiều cách khác nhau, với những phương pháp thu thập
chứng cứ khác nhau, nhưng đều phải được kiểm chứng tại phiên tòa và thông qua sự xem xét
đánh giá của Hội đồng xét xử thì mới được công nhận về mặt pháp lý và được phục vụ cho
vụ án, khi đó chứng cứ do các bên cung cấp mới có ý nghĩa đối với phán quyết của Tòa án.
Chính vì việc điều tra tại phiên tòa là chủ yếu, thông qua việc xem xét đánh giá chứng cứ
do các bên đưa ra nên phiên tòa theo thủ tục tố tụng tranh tụng thường rất dài và triệu tập
nhiều nhân chứng.
Thứ hai, trong tố tụng tranh tụng hình thành hai bên với những lợi ích đối kháng
rõ rệt - bên buộc tội và bên bị buộc tội: Trong tố tụng tranh tụng, Viện công tố và Luật sư
hoàn toàn bình đẳng nhau, họ được pháp luật trao những quyền tương ứng với chức năng
để có thể điều tra độc lập và thu thập chứng cứ phục vụ cho công việc của mình. Viện
công tố dưới danh nghĩa là người đại diện cho quyền lợi của nhà nước đưa ra các quan

điểm, các lập luận, các chứng cứ để buộc tội bị cáo. Còn bên bị buộc tội là bị cáo và
những Luật sư cũng dùng mọi lý lẽ, dùng mọi phương tiện được luật pháp cho phép để
phản bác lại. Hai bên sẽ trực tiếp, liên tục chất vấn và trả lời chất vấn nhau công khai tại
phiên tòa để làm rõ những vấn đề. Khác với tố tụng xét hỏi, tố tụng tranh tụng đặc biệt coi
trọng nguyên tắc bằng miệng, công khai, tất cả các tình tiết, các chứng cứ mà Tòa án áp
dụng để ra bản án đều phải được các bên tranh tụng tại phiên tòa. Với khoa học công
nghệ phát triển như hiện nay các thủ tục tố tụng tại phiên tòa đều phải được ghi âm hoặc
ghi hình, việc xét xử công khai trực tiếp có thể được tiến hành qua điện thoại hội nghị
(Conference call) và cầu truyền hình trực tiếp. Tòa án tiến hành xét xử một vụ án ở một nơi
có thể nghe lời khai trực tiếp của một người làm chứng ở một nơi khác [41, tr. 5-7].
Thứ ba, Thẩm phán giữ vai trò của người trọng tài: Do thủ tục tranh tụng không
có giai đoạn điều tra nên các chứng cứ đều do các bên trực tiếp đưa ra trong quá trình
tranh tụng giữa công tố viên và bị cáo, Luật sư. Thẩm phán ở các nước theo thủ tục này
không có trách nhiệm làm rõ bị cáo phạm tội hay không phạm tội. Đây cũng là điểm khác
so với tố tụng xét hỏi nơi mà trước khi mở phiên tòa các chứng cứ đã được điều tra, thu
thập đầy đủ và thể hiện trong hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa, Thẩm phán chỉ kiểm tra lại tính
hợp pháp và tính có căn cứ của các chứng cứ này. Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng
xét hỏi không phải là một bên trung lập mà là người có vai trò chính trong việc làm sáng
tỏ nội dung vụ án tại phiên tòa, Thẩm phán có thể sẽ trực tiếp chất vấn nếu như lời khai
của bị cáo còn có mâu thuẫn hay bị cáo chối tội. Trong tố tụng xét hỏi, mọi hành vi của
những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng đều chịu sự điều khiển
của Chủ tọa phiên tòa, các bên muốn đặt câu hỏi cho bên kia hoặc những người tham gia
tố tụng khác đều phải thông qua Chủ tọa phiên tòa. Trong khi đó, tại phiên tòa theo tố
tụng tranh tụng mỗi bên có quyền đặt câu hỏi trực tiếp cho bên kia cũng như cho những
người tham gia tố tụng khác. Trong nhiều trường hợp họ có quyền ngắt lời bên kia, phản
đối lại các ý kiến mà bên kia vừa đưa ra.
Thứ tư, tố tụng tranh tụng có ba hệ quy tắc chi phối toàn bộ các hoạt động tố
tụng: Quy tắc tố tụng (rule of procedures), quy tắc chứng cứ (rule of evidence) và quy tắc
về ứng xử của Luật sư (rule of counsel). Trong ba hệ quy tắc này, quy tắc về chứng cứ có
ảnh hưởng lớn nhất vì nó kiểm soát loại chứng cứ nào có thể được đưa ra trước những

người có thẩm quyền quyết định (decision maker) hay nói cách khác, nó quyết định
chứng cứ có được chấp thuận hay không. Ngay cả Thẩm phán cũng không được tự do lựa
chọn chứng cứ mà họ thấy thích hợp nhất mà phải tuân theo các quy tắc chứng cứ đã
được quy định. Quy tắc về chứng cứ được đặt ra nhằm đảm bảo sự công bằng trong tranh
tụng qua việc cấm sử dụng những nguồn chứng cứ không đáng tin cậy, sai lệch hoặc có
thể dẫn đến định kiến cho những người có thẩm quyền phán quyết. Nếu coi tố tụng tranh
tụng là một cuộc đấu giữa hai bên có tranh chấp, thì nó đòi hỏi các bên tham gia tố tụng,
nhất là cơ quan cảnh sát và công tố phải triệt để tuân thủ các quy tắc đã được luật quy
định đó và trao thẩm quyền cho Tòa án là cơ quan phải đảm bảo yêu cầu đó trong quá
trình xét xử.
Tố tụng tranh tụng được thực hiện trực tiếp, bằng lời nói nên nhiều tài liệu trong
tố tụng xét hỏi được xem là những chứng cứ quan trọng của vụ án thì trong tố tụng tranh
tụng lại không được công nhận là chứng cứ. Tuy nhiên, để làm rõ các tài liệu liên quan
đến vụ án, chủ nhân của nó sẽ được mời tham gia tố tụng và trực tiếp trình bày trước tòa.
Thứ năm, ở tố tụng tranh tụng thường có sự tham gia của Bồi thẩm đoàn: Do
vai trò của Thẩm phán trong tố tụng tranh tụng là người trọng tài nên thông thường phải
có Bồi thẩm đoàn tham gia tố tụng. Đoàn bồi thẩm không tham gia vào quá trình tranh
tụng nhưng họ có quyền biểu quyết bị cáo có tội hay không có tội, trên cơ sở đó Thẩm
phán sẽ quyết định về vụ án. Đây là điểm khác biệt so với tố tụng thẩm vấn, trong tố
tụng thẩm vấn Hội thẩm nhân dân tham gia phiên tòa và quyết định cả về việc bị cáo có
tội hay không có tội, quyết định cả về việc lượng hình đối với bị cáo, ở thủ tục tố tụng
thẩm vấn Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa có địa vị pháp lý ngang với Hội thẩm nhân dân.
Thứ sáu, yếu tố thú tội và thỏa thuận thú tội (pleas of guilty and plea-
bargaining): ở nhiều vụ án cơ quan cảnh sát và công tố không thể tìm ra đủ chứng cứ để
có thể "thắng" tại phiên tòa khi họ muốn truy tố một bị cáo, nên luật pháp có những quy
định khuyến khích bị cáo nhận tội hoặc cho phép cảnh sát và cơ quan công tố thỏa thuận
để bị cáo nhận tội, khai báo hay cung cấp thông tin về bị cáo khác. Đổi lại, bị cáo có thể
được miễn truy tố về một hoặc một số tội hay được giảm hình phạt sau này khi Tòa án
lượng hình (ví dụ, nếu bị cáo nhận tội trong giai đoạn đầu, mức giảm là một phần ba mức

hình phạt thông thường). Việc thỏa thuận thú tội được diễn ra giữa cơ quan cảnh sát, viện
công tố và bị cáo cùng Luật sư của họ. Thông thường, cảnh sát và cơ quan công tố thông
báo cho bị cáo biết đã có những bằng chứng gì về hành vi phạm tội của họ, trên cơ sở đó
bị cáo sẽ tham khảo ý kiến Luật sư và cân nhắc có nhận tội hay tiếp tục không khai báo
hoặc chỉ khai báo trong phạm vi nhất định để sau này ra Tòa sẽ phản bác lại việc buộc
tội. Tòa án không tham gia vào thủ tục này vì Tòa án chỉ có thẩm quyền xét xử những vụ
án và bị cáo do cơ quan công tố hay cảnh sát đưa ra truy tố. Cơ chế này tác động tới trình
tự tố tụng vì khi bị cáo nhận tội dù ở bất cứ giai đoạn tố tụng nào, toàn bộ thủ tục đối với
bị cáo sẽ được thay đổi theo hướng không còn "tranh tụng" nữa và lúc đó chỉ còn là trách
nhiệm của Thẩm phán phải thẩm tra lại hồ sơ vụ án và đưa ra hình phạt thích hợp. Tòa án
không có trách nhiệm đối với việc cơ quan Công tố bỏ lọt người hay lọt tội, không truy tố
một tội phạm mà chỉ xét xử những tội phạm do cơ quan Công tố truy tố ra tòa [39, tr. 26-
29]. Tất nhiên, với vai trò không những là cơ quan áp dụng pháp luật và thực thi pháp
luật mà còn là cơ quan bảo vệ công lý, bảo vệ quyền tự do dân chủ của công dân chống
lại những lạm dụng quyền lực, bất công, đảm bảo niềm tin của công chúng vào công
bằng và bình đẳng Tòa án sẽ có trách nhiệm đối với việc đưa ra các bản án một cách
đúng đắn chứ không chỉ đơn thuần dựa vào tài liệu trong hồ sơ trong các vụ án không xét
xử bằng Bồi thẩm đoàn. Nhưng rõ ràng là ở những trường hợp đó, trách nhiệm của Tòa
án trong thủ tục tố tụng tranh tụng không nặng nề bằng Tòa án ở các nước theo thủ tục tố
tụng xét hỏi với tư cách là khâu phán quyết thẩm tra cuối cùng của giai đoạn tố tụng, Tòa
án ở những nước này có quyền khởi tố ngay tại phiên tòa, có quyền xét xử bị cáo theo
khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một
tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố (ở Việt Nam). Và như vậy,
Tòa án sẽ là cơ quan chịu trách nhiệm cuối cùng nếu bỏ lọt tội phạm hoặc làm oan người
vô tội.
Hệ tố tụng xét hỏi nhấn mạnh phương pháp điều tra, thẩm vấn trong toàn bộ quá
trình tố tụng từ khi khởi tố đến xét xử. Hệ tranh tụng lại chú trọng vào hoạt động đối tụng
giữa các bên trong giai đoạn xét xử với các quy tắc nghiêm ngặt về chứng cứ để đảm bảo
rằng bị cáo được xét xử một cách công bằng. Nếu như ở hệ tố tụng tranh tụng vai trò của
Tòa án là thụ động, quá trình thẩm vấn của Thẩm phán ngay tại phiên tòa cũng chỉ mang

tính chất gián tiếp thì Tố tụng xét hỏi luôn đề cao vai trò chủ động của Thẩm phán trong
các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử. Trong hệ tố tụng tranh tụng không có sự phân
chia thành các giai đoạn tố tụng rõ rệt như trong hệ tố tụng xét hỏi nên chứng cứ trong tố
tụng tranh tụng phải tuân theo quy tắc chứng cứ (rule of evidence) ngay cả Thẩm phán
cũng không được tự do lựa chọn chứng cứ mà họ thấy thích hợp nhất.
Viện công tố ở những nước theo thủ tục tố tụng tranh tụng có quyền hạn không
lớn bằng ở những nước theo thủ tục tố tụng xét hỏi nên trong quá trình giải quyết vụ án
nghĩa vụ của các bên đặt ra ngang nhau. Phiên tòa trong tố tụng tranh tụng là một cuộc
đấu giữa hai bên buộc tội - bên gỡ tội, Thẩm phán và Bồi thẩm đoàn là trọng tài; nhưng
phiên tòa trong tố tụng xét hỏi nhiều khi rơi vào tình trạng diễn lại những gì đã được thực
hiện trước đó, trên cơ sở đó Hội đồng xét xử khẳng định lại các tình tiết, các chứng cứ để
ra bản án. Các nước theo thủ tục tranh tụng gọi phiên tòa của tố tụng xét hỏi là các phiên
họp. Vai trò của Luật sư và những người tham gia tố tụng khác đều bị chi phối thông qua
vai trò của Thẩm phán [41, tr. 5-7]. Thẩm phán trực tiếp xét hỏi và phát triển sự kiện theo
cách của mình còn các bên chủ yếu chỉ tranh luận để giải thích những gì liên quan đến
các cứ liệu của vụ án.
1.1.2. Tranh tụng tại phiên tòa
1.1.2.1. Đặc điểm phiên tòa trong tố tụng tranh tụng
Tranh tụng tại phiên tòa là quá trình đấu tụng diễn ra giữa hai bên buộc tội và bên
gỡ tội xung quanh việc bảo vệ quan điểm giải quyết vụ án của mình trong quá trình xét
xử từ khi mở phiên tòa cho đến khi kết thúc phiên tòa. Theo đó, dưới sự chủ trì của Hội
đồng xét xử các bên đưa ra những lý lẽ và chứng cứ nhằm bảo vệ quan điểm của mình.
Việc tranh luận được diễn ra công khai trực tiếp, liên tục và bằng miệng. Kết quả của
việc đấu tụng đó có ý nghĩa quyết định đến việc giải quyết vụ án. Vì vậy, so với phiên tòa
của hệ tố tụng xét hỏi thì phiên tòa trong tố tụng tranh tụng có những đặc điểm sau:
Phiên tòa là trung tâm và duy nhất của hoạt động tố tụng: Tố tụng tranh tụng
không chia thành các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử mà sau khi phát hiện vi
phạm pháp luật hình sự cơ quan công tố sẽ truy tố bị cáo ra tòa với một tội danh, nếu bị
cáo thuê Luật sư bảo vệ quyền lợi thì Luật sư sẽ tham gia tranh tụng khi xét xử. Đây là

giai đoạn duy nhất có sự tham gia đầy đủ của cả bên buộc tội, bên gỡ tội và cơ quan xét
xử có thẩm quyền. Thông qua sự tập trung một cách công khai minh bạch, các chứng cứ,
lý lẽ của hai bên gỡ tội và buộc tội chuẩn bị trước đó mới được Tòa án kiểm chứng và
thừa nhận. Tòa án là cơ quan tiến hành tố tụng duy nhất [15, tr. 256-257], nên mọi hoạt
động tố tụng được tập trung nhất vào phiên tòa. Và như thế, chỉ có thể thông qua quá
trình hỏi đáp, chất vấn, tranh luận tại phiên tòa, Tòa án mới xem xét và đánh giá bị cáo có
tội hay không ở mức độ nào mà có phán quyết.
Hình thành lợi ích đối kháng rõ rệt giữa hai bên tại phiên tòa: Như trên đã phân
tích, tại phiên tòa các bên sẽ phải đưa ra các chứng cứ, lý lẽ để bảo vệ cho luận điểm của
mình. Bên buộc tội là Viện công tố đại diện cho Nhà nước và bên gỡ tội là bị cáo và
người bảo vệ quyền lợi cho họ sẽ phải chất vấn, tranh luận với nhau để Tòa án nhận định.
Bên nào đưa ra được những chứng cứ, lý lẽ thuyết phục hơn thì sẽ được Tòa án chấp
nhận, đây là cuộc đấu theo đúng nghĩa của nó - không có sự nhượng bộ và như thế quyền
lợi của hai bên tại phiên tòa là đối lập nhau.
Tại phiên tòa Thẩm phán giữ vai trò là người trọng tài: Trong cuộc đấu giữa hai
bên buộc tội và gỡ tội, Tòa án sẽ không can thiệp trừ khi việc tranh luận ra ngoài nội
dung của vụ án. Đây là quá trình tranh luận cam go và có tính quyết định nên việc để cho
các bên tranh luận tự do là để đảm bảo cho quyền tranh tụng của họ, đảm bảo mọi tình
tiết của vụ án đều được đề cập đến; Tòa án trực tiếp tham gia xét hỏi sẽ bị coi là thiên vị
một bên nào đó. Vai trò của Tòa án tại phiên tòa là trung lập, xem xét đánh giá những
chứng cứ, lập luận của mỗi bên để có quyết định cụ thể.
Phiên tòa trong tố tụng tranh tụng thường rất dài, triệu tập nhiều nhân chứng:
Trong tố tụng tranh tụng khi đã phải mở phiên tòa có Bồi thẩm đoàn thì cũng có nghĩa là
tính chất phức tạp của vụ án đã thấy rõ. Tại phiên tòa Bồi thẩm đoàn và Thẩm phán mới
được biết chứng cứ, cũng như là các luận chứng mà mỗi bên đưa ra. Vừa do tính phức
tạp, vừa do phải thẩm tra đánh giá chứng cứ một cách tỷ mỉ và công nhận từng phần nên
phiên tòa thường kéo dài, cá biệt có trường hợp phiên tòa tới một năm. Tại phiên tòa việc
điều tra mới chính thức được Tòa án tiến hành nên nhân chứng đã được cảnh sát lấy lời
khai vẫn phải ra tòa làm chứng, đây là những người không thể thiếu trong phiên tòa của

tố tụng tranh tụng, khác hẳn với tố tụng xét hỏi là Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có thể
căn cứ lời khai của người làm chứng tại cơ quan điều tra để quyết định, vì vậy tại phiên
tòa sự tham gia của người làm chứng thường là đông, có phiên tòa triệu tập tới 600 người
[13, tr. 6].
Bồi thẩm đoàn và Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có vị trí ngồi khác nhau cũng
như chức năng công việc: Trong tố tụng xét hỏi, tại phiên tòa Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân ngồi cùng một bàn và họ ngang quyền với nhau khi xét xử cũng như khi đưa ra
những phán quyết. Nhưng trong tố tụng tranh tụng, Bồi thẩm đoàn ngồi ở vị trí khác với
Thẩm phán chủ tọa họ chỉ có quyền nghe và công nhận bị cáo có tội hay không có tội,
còn việc định tội danh và quyết định hình phạt là của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa.
1.1.2.2. Điều kiện để tranh tụng tại phiên tòa
Để xác định sự thật khách quan của vụ án thì phiên tòa phải đảm bảo nguyên tắc
tranh tụng, và như thế cần phải có những cơ chế, điều kiện nhất định để thực hiện:
Trước hết, tham gia vào quá trình tranh tụng bao giờ cũng phải có ba chủ thể
của quan hệ tranh tụng. Một bên là Công tố viên nhân danh Nhà nước thực hành quyền
công tố (bên buộc tội) và một bên là Luật sư, bị cáo (bên gỡ tội) và bên kia là thẩm phán
và bồi thẩm đoàn. Quá trình tranh tụng phải được diễn ra và tiến hành theo đúng những
quy định của pháp luật tố tụng hình sự cả về hình thức, nội dung cũng như về không gian
và thời gian. Trong quá trình này từ khi bắt đầu phiên tòa đến khi kết thúc phiên tòa, vai
trò trung tâm và quyết định luôn luôn thuộc về Hội đồng xét xử, Thẩm phán Chủ tọa phải
đóng vai trò là người điều khiển, không can thiệp vào nội dung tranh tụng nhưng phải
đánh giá, nhận định và xem xét để quyết định chính xác và đúng đắn. Theo tác giả, quá
trình tranh tụng chỉ có ý nghĩa đầy đủ nhất khi có đầy đủ và đồng thời các chủ thể của
quan hệ tranh tụng trong tố tụng hình sự và được thể hiện bằng phán quyết cuối cùng của
Tòa án.
Thứ hai, để việc tranh tụng đạt kết quả cao thì các bên buộc tội và gỡ tội phải có
trình độ năng lực cũng như đạo đức nghề nghiệp, có sự chuẩn bị kỹ càng. Trong quá
trình tranh tụng dân chủ tại phiên tòa, trình độ năng lực của những người tham gia tranh
tụng có ảnh hưởng rất lớn, nếu trình độ năng lực chênh lệch giữa bên buộc tội và bên gỡ

tội thì hiển nhiên tranh tụng không mang lại hiệu quả cao. Công tố viên là bên buộc tội vì
vậy không chỉ việc chuẩn bị chu đáo các tài liệu, nghiên cứu kỹ càng vụ án mà trình độ tư
duy lý luận cao là đòi hỏi quan trọng. Quá trình nghiên cứu hồ sơ cũng chưa hoàn toàn
đánh giá được hết tính chất mức độ vụ án và càng không thể căn cứ vào đó để có lời luận
tội; chỉ có thể qua quá trình thẩm vấn, tranh luận tại phiên tòa mà Kiểm sát viên buộc tội
một cách khách quan, thuyết phục, vì vậy đòi hỏi Kiểm sát viên phải có trình độ cũng
như kinh nghiệm tham gia tranh tụng. Vai trò của Luật sư, người bào chữa trong tranh
luận là hết sức quan trọng, bởi tính chất công việc của Luật sư là một bên trong quá trình
tranh tụng, đồng thời Luật sư có được những quyền tố tụng cho phép để điều tra thu thập
chứng cứ, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bị cáo. Vì vậy, không chỉ năng lực trình độ của
Luật sư, mà đạo đức nghề nghiệp của họ cũng có ảnh hưởng lớn đến việc tận lực cho
công việc bào chữa, đến quá trình tranh tụng.
Nếu trong suốt quá trình trước khi mở phiên tòa xét xử cả hai bên Công tố viên
và bị cáo - Luật sư bào chữa cho bị cáo không có sự chuẩn bị kỹ, không dự trù trước
những tình huống có thể xảy ra trong quá trình tranh tụng thì đến khi tranh luận họ sẽ
có thể bị đuối lý và tất nhiên phán quyết của Tòa án sẽ trên cơ sở của bên thuyết phục.
Vì vậy, tự bản thân hai phía buộc tội và gỡ tội sẽ phải có sự chuẩn bị cho quá trình
tranh tụng của mình và luật pháp cũng có những quy định để đảm bảo cho quá trình
chuẩn bị thu thập chứng cứ của các bên, đảm bảo cho việc tranh tụng đạt kết quả cao
nhất. Hai bên buộc tội và gỡ tội không chỉ chuẩn bị kỹ càng về lý lẽ, về chứng cứ được
thu thập trong suốt quá trình trước khi mở phiên tòa mà còn tự đánh giá xem những
luận điểm nào còn yếu, dự trù những tình huống có thể xảy đến trong quá trình tranh
luận để đến khi ra tranh tụng đạt được kết quả theo mong muốn.
Thứ ba, để quá trình tranh tụng đạt kết quả tốt thì cần có một hệ thống pháp luật
hoàn chỉnh và các điều kiện cơ sở vật chất đảm bảo. Hệ thống pháp luật hoàn chỉnh có vai
trò rất lớn trong việc tạo ra điều kiện cho quá trình tranh tụng, ở những nước áp dụng hệ
thống tố tụng tranh tụng - theo nhiều chuyên gia - là những nước có nền văn hóa pháp lý
cao của toàn xã hội [6, tr. 246-251]; và thực tế cũng cho thấy, để áp dụng được tranh tụng
tại phiên tòa cần có sự đồng bộ của các ngành luật riêng lẻ, đầy đủ và chặt chẽ để tạo ra
cơ chế cho tranh tụng.

Bên cạnh đó, về cơ sở vật chất như phòng xử án phải đáp ứng các điều kiện về
tính trang nghiêm, đảm bảo các phương tiện kỹ thuật như ánh sáng, âm thanh, đảm bảo
phòng cách ly nhân chứng, bị cáo, thậm chí có cả Camera để đảm bảo tính công khai dân
chủ. Quá trình chuẩn bị phiên tòa phải tốt, bởi lẽ chỉ khi triệu tập đầy đủ những người
tham gia tố tụng đến phiên tòa thì mới có điều kiện đầy đủ để tiến hành việc tranh tụng
được tốt. Trường hợp vắng mặt một số người tham gia tố tụng sẽ gây nên tốn kém, làm
cho phiên tòa phải hoãn hoặc phải xử dài ngày, làm ảnh hưởng đến quá trình xét xử.
1.1.2.3. Yêu cầu của tranh tụng tại phiên tòa
Tranh tụng tại phiên tòa phải đảm bảo tính dân chủ, công khai nhưng vẫn thể
hiện tính nghiêm minh của pháp luật. Đây là yêu cầu xuyên suốt quá trình tranh tụng, nếu
thiếu yêu cầu này thì quá trình tranh tụng không thể đưa đến việc xác định sự thật khách
quan của vụ án. Chỉ đạt được yêu cầu về dân chủ thì mới đảm bảo sự ngang bằng giữa
các bên tham gia đấu tụng, trong đó quyền công tố của Nhà nước được đặt ngang với
quyền bào chữa của bị cáo - Luật sư, họ có toàn quyền tranh luận về mọi vấn đề trong vụ
án để làm sáng tỏ những tình tiết còn chưa rõ, qua đó Hội đồng xét xử và những người
tham gia phiên tòa sẽ xác định được sự thật khách quan của vụ án. Việc tranh tụng đó
phải diễn ra công khai để thể hiện tính minh bạch của pháp luật, của quá trình xét xử vụ
án. Chỉ có những trường hợp pháp luật quy định phải xử kín để đảm bảo bí mật Nhà nước
đảm bảo quyền của công dân, còn mọi trường hợp khác đều phải xử công khai. Tranh
tụng tại phiên tòa phải đạt yêu cầu công khai dân chủ, nhưng vẫn phải theo quy định của
pháp luật. Đó chính là thể hiện sự nghiêm minh cần thiết của pháp luật, nếu thiếu đi sự
nghiêm minh đó thì tranh luận giữa phiên tòa là sự tranh luận vô tổ chức mạnh ai người
ấy nói, phiên tòa trở thành cuộc cãi nhau giữa các bên.
Mục đích của tranh tụng tại phiên tòa là làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ
án thông qua sự cọ xát giữa các lập luận, ý kiến. Vì vậy, yêu cầu của nó là hai bên tranh
luận đi vào từng chi tiết của vụ án, sự đối đáp giữa hai bên phải diễn ra liên tục, Công
tố viên, bị cáo, Luật sư, bị hại và tất cả những người tham gia tố tụng khác phải tranh
luận từng vấn đề rõ ràng, mạch lạc, dứt khoát, không tranh luận chung chung, dàn trải,
lạc đề. Công tố viên là bên buộc tội, Luật sư là bên gỡ tội vì vậy họ phải có sự chủ động

trong tranh luận tại phiên tòa, cần hỏi những người tham gia tố tụng nhiều hơn bất cứ ai
để làm rõ mọi tình tiết của vụ án, đặc biệt là các vấn đề, tình tiết mà bị cáo, người làm
chứng đưa ra tại phiên tòa có mâu thuẫn với những kết quả điều tra trước đó của Viện
công tố để trên cơ sở đó có lời luận tội, lời bào chữa khách quan, chính xác. Trong
tranh luận tại phiên tòa không thể có trường hợp Công tố viên chỉ phát biểu quan điểm
là giữ nguyên quan điểm như đã truy tố mà không đưa ra lý lẽ, dẫn chứng nào khác có
sức thuyết phục để bảo vệ quan điểm đó. Do vậy, đây cũng là vấn đề mà trên thực tế đòi
hỏi Chủ tọa các phiên tòa phải định hướng để các bên tham gia tranh luận chất vấn và
trả lời chất vấn những nội dung chính của vụ án, có như vậy tranh tụng mới đạt hiệu
quả.
1.1.2.4. Nội dung của tranh tụng tại phiên tòa
Xuất phát từ bản chất, mục đích của tố tụng tranh tụng nên tại phiên tòa phải giải
quyết các nội dung sau:
Thứ nhất, dưới sự chủ trì của Chủ tọa phiên tòa các bên hỏi và trả lời câu hỏi để
làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Tại phiên tòa để làm sáng tỏ sự thật vụ án thì
tranh tụng là quá trình quan trọng, nó bao gồm việc chất vấn liên tục, tranh luận giữa một
bên đại diện cho Nhà nước thực hành quyền công tố - bên buộc tội, còn bên kia là bên gỡ
tội - bị cáo và Luật sư, người bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bị cáo. Công tố viên nhân
danh Nhà nước sẽ là người đưa ra những chứng cứ, những lập luận để bảo vệ lời buộc tội
(cáo trạng), và đến lượt bị cáo và người bào chữa thể hiện ngay thái độ của họ đối với lời
buộc tội đó. Sau khi xem xét chứng cứ do bên buộc tội đưa ra, Hội đồng xét xử xem xét
đến chứng cứ do bên gỡ tội đưa ra và những lý lẽ để bào chữa. Đây là quá trình mà mỗi
bên đều dùng những lý lẽ, chứng cứ để chứng minh cho luận điểm của mình nên có thể
nói những lý lẽ đó hoàn toàn trên cơ sở ý chí chủ quan của mỗi bên, và chứng cứ là để
phục vụ cho ý chí đó. Vì vậy, cần thiết phải có người đứng ra là trọng tài giữa việc tranh
tụng đó, chỉ có Tòa án mà ở đây là Hội đồng xét xử đảm nhiệm công việc đó là khách
quan và chính xác nhất xét cả về phương diện lý luận cũng như thực tiễn. Chủ tọa phiên
tòa không chỉ là người điều khiển phiên toà nói chung mà họ cũng là phần quan trọng
không thể thiếu của quá trình tranh tụng. Chủ tọa phiên tòa với vai trò chủ trì, điều khiển

phiên tòa có toàn quyền quyết định nội dung việc xét hỏi, hướng cho hai bên hỏi và trả
lời câu hỏi đi vào trọng tâm của vấn đề, nhằm giải quyết vụ án. Chủ tọa phiên tòa tạo
điều kiện cho các bên tranh luận không hạn chế nhưng cũng tránh cho các bên đi vào
những tình tiết vụn vặt không có giá trị làm sáng tỏ nội dung vụ án hoặc Chủ tọa phiên
tòa dừng việc hỏi và đáp giữa hai bên hướng sang vấn đề khác nếu nội dung đó đã được
làm sáng tỏ. Trong quá trình đó Hội đồng xét xử luôn thể hiện sự khách quan, tập trung
lắng nghe việc tranh tụng của các bên để thấy được sự thật khách quan của vụ án, có tội
hay không có tội ở những chứng cứ nào; nếu có tội thì ở mức độ như thế nào, những tình
tiết, chứng cứ nào thể hiện mức độ tăng nặng, những tình tiết, chứng cứ nào là giảm nhẹ.
Những chứng cứ nào là hợp pháp, những chứng cứ nào không được công nhận là hợp
pháp. Nếu có vật chứng thì xem xét vật chứng để thấy sự phản ánh dấu vết tội phạm trên
đó ở mức độ như thế nào. Từ đó để thấy những tình tiết chứng cứ nào còn chưa rõ những
vấn đề còn mâu thuẫn, Chủ tọa phiên tòa cho hai bên tranh luận rõ hơn, chất vấn nhau
nhiều hơn để thấy bật ra được vấn đề, đồng thời dựa trên sự đánh giá khách quan toàn
diện những chứng cứ, tình tiết, quá trình tranh luận trên mà Hội đồng xét xử sau đó có
phán quyết công bằng.
Để tranh tụng tại phiên tòa đạt được kết quả, Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa có
quyền áp dụng quy định của phát luật tố tụng hình sự điều khiển phiên tòa theo đúng
tiến trình tranh tụng. Cũng trên cơ sở của Luật tố tụng hình sự, họ có thể cho phép mọi
người liên quan đến quá trình tranh tụng được vào phiên tòa; trong trường hợp cần
thiết, Chủ tọa phiên tòa cách ly bị cáo, nhân chứng để đảm bảo việc tranh tụng tại phiên
tòa diễn ra khách quan, có hiệu quả.
Thứ hai, áp dụng những quy định của pháp luật để giải quyết vụ án. Để phục vụ
cho quá trình tranh tụng tại phiên tòa, hai bên buộc tội và gỡ tội đều đã chuẩn bị cho
mình những tài liệu chứng cứ cần thiết để bảo vệ lý lẽ của mình. Trong quá trình đó cả
hai bên đều đã phải vận dụng những quy định của pháp luật không chỉ về luật hình thức
mà còn cả luật nội dung. Đó là quá trình dựa vào chứng cứ đã được thu thập, căn cứ vào
các điều khoản được quy định trong luật và các văn bản khác để đối chiếu so sánh tìm ra
những tình tiết buộc tội và gỡ tội, và như thế bên gỡ tội thì tận dụng tối đa những chi tiết
dù là nhỏ nhất để phản bác lại sự buộc tội của bên kia, còn bên buộc tội sẽ cố gắng truy tố

với những chứng cứ chặt chẽ nhất nhằm không bỏ lọt tội phạm vì vậy họ cũng không bỏ
qua những chi tiết dù là nhỏ nhất.
Tới khi ra phiên tòa, cả hai bên đều trình bày sao cho có sức thuyết phục nhất
trước Hội đồng xét xử và những người tham dự phiên tòa. Vì vậy cả hai bên sẽ cố gắng
đề cập đến mọi tình tiết có lợi nhất của vụ án một cách trực tiếp, liên tục. Họ chất vấn
nhau nhưng không phải vô tổ chức mà dưới sự điều khiển của Thẩm phán - Chủ tọa phiên
tòa. Họ có quyền phản đối quan điểm của bên kia đặt câu hỏi, đưa ra những chứng cứ để
chứng minh cho luận điểm của mình phản bác lại bên kia. Trong quá trình đó họ toàn
quyền tranh luận về những vấn đề để làm sáng tỏ vụ án, việc tranh luận không bị hạn chế
nếu như không đi ra ngoài nội dung vụ án. Có quyền vận dụng những quy định của pháp
luật để đề nghị Chủ tọa phiên tòa có những quyết định tại phiên tòa thuận lợi cho việc
tranh tụng và chứng minh sự thật của vụ án. Đây là cuộc đấu giữa hai bên buộc tội và gỡ
tội nên nó có sự đối kháng rõ rệt và phần thắng sẽ thuộc về bên nào có những chứng cứ
thuyết phục, lý lẽ sắc bén hơn để Hội đồng xét xử và người tham dự phiên tòa chấp nhận.
Thứ ba, đảm bảo việc đưa ra xem xét các chứng cứ, tài liệu minh chứng cho luận
điểm của mỗi bên. Trong quá trình tranh tụng, chứng cứ là căn cứ quan trọng để làm sáng
tỏ sự thật của vụ án. Tranh tụng tại phiên tòa là trung tâm của hoạt động tố tụng, ở thủ tục
tố tụng tranh tụng không chia thành các giai đoạn rõ rệt nên cũng không có giai đoạn điều
tra riêng biệt mà chỉ có sự thu thập chứng cứ chuẩn bị của hai bên buộc tội và gỡ tội.
Trên cơ sở sự chuẩn bị ấy, tranh tụng được diễn ra tại phiên tòa. Thông qua phiên tòa Hội
đồng xét xử có phán quyết đối với bị cáo - có tội hay không có tội, ở mức độ nào, hình
phạt ra sao. Quá trình xem xét đánh giá chứng cứ được xác định qua hoạt động tranh
tụng, chứng cứ được đánh giá không đúng làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật
khách quan của vụ án và như vậy hoạt động tranh tụng không còn ý nghĩa. Chủ tọa phiên
tòa sẽ đảm bảo cho việc đưa ra chứng cứ của mỗi bên, thông qua quá trình hỏi đáp, chất
vấn liên tục giữa hai bên buộc tội và gỡ tội Hội đồng xét xử và những người tham dự
phiên tòa có thể thấy được những điểm còn mâu thuẫn của lý lẽ giữa các bên, thấy được
sự không thuyết phục của chứng cứ mà bên nào đó đưa ra. Từ đó xem xét đánh giá chứng
cứ được chính xác. Đây là một cuộc đấu chủ yếu diễn ra giữa hai bên buộc tội và gỡ tội
nhưng để cuộc đấu đó được khách quan và có chất lượng thì phải đảm bảo được sự minh

bạch khách quan của các chứng cứ thông qua việc đưa ra xem xét công khai tại phiên tòa
theo quy tắc về chứng cứ và được Hội đồng xét xử chấp nhận.
1.2. Cơ sở của việc đổi mới hoạt động tố tụng hình sự nước ta theo hướng
tranh tụng tại phiên tòa
1.2.1. Thực trạng phiên tòa trước khi có Nghị quyết 08/NQ-TW
Theo những đánh giá của nhiều nhà nghiên cứu xã hội và pháp luật thì trong suốt
những năm tháng của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, các cơ quan tư pháp
của chúng ta đã đạt được nhiều kết quả, góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, công dân; nhưng hoạt động của các cơ quan đó đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế
mà thể hiện là còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các
quyền tự do, dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với các cơ
quan tư pháp. Những thiếu sót tồn tại đó thể hiện ở tất cả các khâu trong hoạt động tố
tụng, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Những bất cập và hạn chế không chỉ tồn tại
ở các cơ quan tiến hành tố tụng mà các hoạt động bổ trợ tư pháp (bào chữa tư vấn pháp
luật, công chứng, giám định...) cũng chưa đáp ứng yêu cầu.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng công tác xét xử ở nước ta còn có nhiều sai sót
như: xét xử oan do đánh giá không đúng chứng cứ buộc tội. Một số bản án áp dụng
không đúng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, đánh giá không đúng về tính chất, mức độ
nguy hiểm của hành vi phạm tội hoặc nhân thân của bị cáo nên xét xử quá nặng hoặc quá
nhẹ, định sai về tội danh, áp dụng không đúng hình phạt, khung hình phạt và cho hưởng
án treo trái với quy định của pháp luật. Theo báo cáo tổng kết của ngành Tòa án từ năm
1992 đến 2002 thì mặc dù số lượng án oan, hủy có giảm nhưng vẫn còn, việc xét xử tại
phiên tòa còn có lúc có nơi chưa đảm bảo tính dân chủ, công khai, chưa nghiêm minh.
Ngoài những trường hợp oan, sai phát hiện được trong giai đoạn xét xử thì ngay tại hoạt
động điều tra, truy tố vẫn liên tục xảy ra tình trạng lạm dụng bắt khẩn cấp, bắt không đủ
căn cứ, phải trả tự do; chất lượng điều tra, kiểm sát điều tra còn yếu kém, hồ sơ phải trả
đi trả lại nhiều lần dẫn đến giải quyết án quá hạn luật định và đó cũng là nguyên nhân dẫn
đến tình trạng oan, sai trong hoạt động xét xử.

Trong hoạt động của các cơ quan điều tra thì tình trạng vi phạm tố tụng hình sự
nói chung và tình trạng vi phạm quyền lợi chính đáng của bị can, bị cáo nói riêng còn phổ
biến. Việc dùng nhục hình để bức cung người bị tạm giữ, bị can, bị cáo dẫn đến việc bị
can, bị cáo chết trong trại giam vẫn còn. Điều tra viên không đủ năng lực, trình độ hoặc
do thói quen lề lối làm việc nên còn phổ biến việc mớm cung, dụ cung, ép cung.
Theo báo cáo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại kì họp thứ 2
Quốc hội khóa XI, trong giải quyết vụ án hình sự vẫn còn hiện tượng để quá hạn điều tra,
truy tố, xét xử; dùng nhục hình và làm sai lệch hồ sơ vụ án. Cũng theo báo cáo này, trong
năm 2002, tội xâm phạm hoạt động tư pháp khởi tố 178 vụ, trong đó có 3 vụ dùng nhục
hình, 2 vụ làm sai lệch hồ sơ vụ án, 2 vụ thiếu trách nhiệm để người bị giam trốn.
Trong hoạt động tố tụng hình sự ở nước ta, tuy không phải là phổ biến nhưng đã
từng tồn tại rất nhiều những vụ việc dùng thủ đoạn phi nhân tính để ép cung bị can, thậm
chí có những trường hợp dùng nhục hình dẫn đến chết người. Vì vậy cho nên ép cung,
dùng nhục hình, không tôn trọng quyền của bị can, bị cáo, không để cho bị can, bị cáo có
cơ hội tự bảo vệ mình cần phải được loại bỏ trong xã hội ngày nay thông qua các quy
định cụ thể của pháp luật và việc tạo ra một cơ chế để triệt tiêu hoàn toàn những khả năng
có thể phát sinh ra những vi phạm đó.
Mặc dù Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đã dành hẳn một chương quy định về
vấn đề tranh luận tại phiên tòa, nhưng do nghĩa vụ chứng minh tội phạm vẫn là một trách
nhiệm của Tòa án nên còn có Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa sa đà nhiều quá trong việc
xét hỏi, thẩm vấn mà không dành nhiều thời gian cho việc tranh luận. Nội dung thẩm vấn
và cách đặt câu hỏi của Tòa án chủ yếu dựa vào kết luận điều tra và cáo trạng, ngôn
phong thẩm vấn thể hiện sự truy bức khiến bị cáo vốn đã có địa vị pháp lý thấp kém lại
càng thêm lúng túng khi trình bày trước tòa. Có những trường hợp thay vì phải kiểm tra
tính hợp pháp của các chứng cứ một cách công khai tại tòa, Chủ tọa phiên tòa lại nhắc
hoặc công bố lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và cho rằng bị cáo không thành khẩn
khai nhận [35, tr. 4-7]. Do việc xét xử phần lớn và chủ yếu vẫn dựa vào những tài liệu do
cơ quan điều tra thu thập, xây dựng vì vậy chất lượng xét xử phụ thuộc rất nhiều vào kết
quả xây dựng hồ sơ của các cơ quan điều tra. Theo báo cáo của Viện trưởng Viện kiểm

sát nhân dân tối cao tại kì họp thứ 2 Quốc hội khóa XI, công tác điều tra của chúng ta còn
rất nhiều khiếm khuyết và thiếu sót, điều này đã làm cho công tác xét xử gặp rất nhiều
khó khăn, có khi gây ra những tranh luận không đáng có, thậm chí còn có thể dẫn đến
những kết luận về vụ án không đúng bản chất, không đúng thực tế [30, tr. 5]. Quan niệm
án tại hồ sơ là một quan niệm lưu cữu, đã hằn sâu trong nhận thức của nhiều người tiến
hành tố tụng khiến nhiều vụ án đã thoát ly khỏi diễn biến khách quan phát sinh tại phiên
tòa.
Cũng chính vì quan niệm án tại hồ sơ nên việc tranh luận tại phiên tòa rất mờ
nhạt, điều đó đã làm cho các Luật sư chưa thể tạo được chỗ đứng cho mình tại mỗi phiên
tòa. Trên thực tế văn bản pháp luật Việt Nam hiện hành tuy có một pháp lệnh quy định về
cơ chế làm việc của Luật sư và rất nhiều những điều luật quy định về quyền và nghĩa vụ
của Luật sư nhưng trong khi tại phiên tòa Kiểm sát viên dùng những lý lẽ đanh thép để
buộc tội thì Luật sư dường như lại chẳng có gì để nói, hầu hết việc tranh cãi chỉ xoay
quanh quan điểm định tội danh hoặc tìm ra những chỗ chưa hoàn chỉnh của công tác điều
tra để bắt bẻ chứ rất hiếm khi đưa ra được những bằng chứng phản bác đắt giá... chưa kể
sự mâu thuẫn, căng thẳng trong khi tranh cãi thay vì phải xuất phát từ sự cọ xát về chứng
cứ, về luận điểm thì đôi lúc chỉ vì thái độ, ngôn ngữ mang tính hình thức. Nhiều Luật sư
ra đến phiên tòa cũng chẳng đưa ra được những lý lẽ có sức thuyết phục, những chứng cứ
có sức nặng mà chỉ chốt lại ở cuối giai đoạn tranh luận là đề nghị Hội đồng xét xử xem
xét những tình tiết giảm nhẹ thuộc về nhân thân, thái độ khai báo v.v... bị cáo để giảm
nhẹ hình phạt cho bị cáo. Thực tế còn không ít những trường hợp Luật sư có năng lực,
trình độ hạn chế, không đủ khả năng để cãi lý với Kiểm sát viên thì tìm cách giảm nhẹ
hình phạt cho bị cáo bằng con đường không trong sáng.
Những quy định về tranh luận tại phiên tòa đã không được các bên tuân thủ nên
nhiều trường hợp yêu cầu của bị cáo, Luật sư bào chữa đã không được Kiểm sát viên trả
lời. Có không ít trường hợp Kiểm sát viên chẳng thèm cãi lý với Luật sư mà chỉ nhắc đi
nhắc lại mãi cái điệp khúc tôi vẫn bảo lưu quan điểm của mình. Lại có những Kiểm sát
viên ra phiên tòa trong suốt thời gian xét hỏi không xét hỏi một câu nào mà chỉ đọc bản
cáo trạng rồi ngồi xem, đùn đẩy toàn bộ trách nhiệm thẩm vấn lên Hội đồng xét xử, khi
kết thúc phần xét hỏi thì đọc bản luận tội. Có những trường hợp trả lời câu hỏi của Luật

sư thì lại không đi vào trọng tâm vấn đề, khi bác bỏ luận điểm của Luật sư thì không đưa
ra được căn cứ thuyết phục... khiến những phiên tòa với sự đối ứng chan chát, những pha
cãi nhau nảy lửa với những đột biến gay cấn, ly kỳ chỉ có thể được chúng ta mục kích
trên phim ảnh nước ngoài.
Những thiếu sót và sai lầm như trên không khỏi khiến cho những người làm công
tác pháp luật và những chuyên gia nghiên cứu pháp luật phải băn khoăn suy nghĩ.
1.2.2. Đổi mới pháp luật trước yêu cầu hội nhập quốc tế
Cách thức của sự phát triển luôn là sự phủ định cái cũ để tìm đến cái mới ưu việt
hơn, pháp luật cũng vậy những quy định đã lỗi thời cần phải được thay thế bởi những quy
định phù hợp hơn với thực tế cuộc sống. Tuy nhiên, sự phủ định ấy không phải là sự phủ
định sạch trơn mà trên cơ sở kế thừa cái cũ. Theo nhiều nhà nghiên cứu thì hiện nay tồn
tại hai hệ thống tố tụng cơ bản đó là hệ thống tố tụng xét hỏi và hệ thống tố tụng tranh
tụng. Hệ thống tố tụng xét hỏi thường tồn tại ở những nước theo hệ thống luật dân sự
Civil Law - Việt Nam chúng ta cũng được nhận định là theo hệ tố tụng này; hệ thống tố
tụng tranh tụng được áp dụng rộng rãi ở các nước theo truyền thống luật án lệ Common
law (Anh là đại diện điển hình). Mỗi hệ thống tố tụng có những đặc điểm riêng với những
ưu điểm và nhược điểm của nó. Khi so sánh giữa các ưu điểm và nhược điểm của hai loại
hình tố tụng, nhiều quan điểm (như Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Chí) cho rằng, tố tụng tranh
tụng có nhiều ưu điểm hơn bởi so với các kiểu tố tụng khác thì tố tụng tranh tụng đề cao
quyền con người hơn, và biểu hiện của việc phát huy tối đa tinh thần dân chủ trong hoạt
động tố tụng, cơ chế vận hành của nó hạn chế đến mức tối đa các trường hợp kết án oan
người không có tội, nó là biểu hiện của một nền văn hóa pháp lý cao ở một quốc gia [6].
Tiến sĩ Nguyễn Hồng Hải còn cho rằng, theo quá trình lịch sử, tố tụng xét hỏi đã tồn tại
hàng thế kỷ dưới tác động của các tư tưởng tiến bộ đã dần chuyển sang kiểu tố tụng xét
hỏi - tranh tụng và cuối cùng là tố tụng tranh tụng. Như thế tố tụng xét hỏi sẽ tất yếu bị
thay thế bởi hệ thống tố tụng tranh tụng bởi tính ưu việt của nó [15]. Tuy nhiên, Tiến sĩ
Nguyễn Ngọc Chí thì cho rằng, vào thời điểm này chúng ta không thể chuyển hoàn toàn
sang kiểu tố tụng tranh tụng được mà chỉ có thể tiếp thu những điểm tiến bộ, phù hợp với
điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, pháp lý của nước ta. Điều này cũng tương đồng với

những cải cách tư pháp của nhiều nước trên thế giới như Pháp, Nhật Bản, Trung Quốc....
Cùng với sự hội nhập, giao lưu quốc tế, những giao lưu về kinh tế, chính trị, văn hóa
cũng đã mở ra cho các quốc gia những xu hướng tiếp thu những tinh hoa về mọi mặt của
các quốc gia khác, trong đó có pháp luật. Pháp là một nước điển hình của hệ thống pháp
luật Civil Law với hệ tố tụng thẩm vấn truyền thống nhưng cũng nhận thấy sự lạc hậu của
hệ tố tụng này mà đưa những hạt nhân hợp lý của hệ tố tụng tranh tụng vào hệ tố tụng xét
hỏi từ năm 2000. Trung Quốc thì đã mạnh dạn sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự theo hướng
đưa nội dung của tố tụng tranh tụng vào tố tụng xét hỏi từ năm 1997, và thực tế đã cho
thấy việc giải quyết án của các nước này đã tạo ra sự dân chủ thực sự và hạn chế oan sai
rất nhiều... Như thế xu hướng xích lại gần nhau của các quốc gia trong giai đoạn toàn cầu
hóa đã dẫn đến sự xích lại gần nhau trong lĩnh vực pháp luật mà thể hiện là sự tiếp thu
những nhân tố hợp lý của hệ tố tụng tranh tụng vào hệ tố tụng xét hỏi và ngược lại. Đây
là một xu hướng tất yếu của quá trình phát triển, và chúng ta - một thành viên của ngôi
nhà chung thế giới - cũng cần phải có sự đổi mới phù hợp về mặt pháp luật nói chung và
pháp luật tố tụng hình sự nói riêng.
1.2.3. Nghị quyết 08/ NQ-TW của Bộ Chính trị và vấn đề tranh tụng tại phiên
tòa
1.2.3.1. Bản chất của hệ tố tụng hình sự Việt Nam trước khi có Nghị quyết
08/NQ-TW
Trước khi có Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng
tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, ở Việt Nam đã có rất nhiều ý kiến của các
chuyên gia khác nhau bàn về bản chất của hệ tố tụng hình sự ở nước ta hiện nay.
Hầu hết ý kiến của các chuyên gia đều thống nhất cho rằng, hệ tố tụng hình sự ở
Việt Nam tuy có chứa đựng yếu tố tranh luận nhưng không mang đặc trưng của tố tụng
tranh tụng bởi lẽ phán quyết của Tòa án không dựa trên kết quả tranh tụng giữa các bên
và quyền lực tại phiên tòa cũng không được san sẻ cho những ngời tham gia tố tụng.
Theo nhận định của tiến sĩ Lê Hữu Thể thì cần phải thống nhất một số vấn đề cơ bản sau:

Thứ nhất, hệ tố tụng hiện nay ở nước ta thuộc hệ tố tụng thẩm vấn (tất nhiên là
so với các quốc gia cũng theo hệ tố tụng thẩm vấn khác, thì ở Việt Nam có những đặc thù
riêng).
Thứ hai, mặc dù hệ tố tụng ở nước ta là hệ tố tụng thẩm vấn, nhưng bản thân nó
có chứa đựng những hạt nhân hợp lý của hệ tố tụng tranh tụng.
Tiến sĩ Lê Hữu Thể cho rằng, sẽ là không có cơ sở nếu khẳng định hệ tố tụng
hình sự ở nước ta không phải là hệ tố tụng thẩm vấn mà cũng chẳng phải là hệ tố tụng
tranh tụng [40].
Không đồng tình với quan điểm của tiến sĩ Lê Hữu Thể, thạc sĩ Ngô Huy Cương
lại có một cách nhìn nhận khác về bản chất của hệ tố tụng hình sự tại Việt Nam. Ông cho
rằng, các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử... đều là các tầng nấc khác nhau và
cao hơn liên tiếp của hoạt động buộc tội. Song ở đây cần phải lưu ý rằng, Thẩm phán của
Việt Nam chưa phải là nhân vật quan trọng dẫn đầu như vị thế của các đồng nghiệp của
họ ở các nước theo hệ tố tụng thẩm vấn khác, bởi vì hoạt động của họ bị giám sát hay
kiểm sát bởi Viện kiểm sát - nơi mà các quan chức tư pháp giữ quyền công tố trong phiên
xét xử do chính họ là Chủ tọa. Do vậy, thạc sĩ cho rằng, tố tụng hình sự của Việt Nam
không có các đặc trưng quan trọng của tố tụng tranh tụng và cả tố tụng thẩm vấn mà thực
chất đây là một hệ tố tụng riêng biệt có tên gọi là tố tụng buộc tội [8].
Dung hòa giữa hai quan điểm trên, theo ý kiến của bản thân, tác giả cho rằng nếu
chỉ dựa vào một số điều luật quy định không rõ ràng và quá sơ sài mà đã cho rằng hệ tố
tụng Việt Nam có chứa đựng những hạt nhân hợp lý của hệ tranh tụng thì thực sự là chưa
thỏa đáng và chưa thuyết phục. Bản chất của hệ tố tụng hình sự Việt Nam là hệ tố tụng
thẩm vấn nhưng chỉ có điều biểu hiện của nó lại không hoàn toàn giống như các nước
theo hệ tố tụng thẩm vấn khác, mà thực tiễn xét xử cho thấy các cơ quan tiến hành tố tụng
ở Việt Nam đều có chức năng của một cơ quan buộc tội. Điều này không chỉ được chiêm
nghiệm trong thực tế mà cụ thể hơn nó còn được quy định trong chính các văn bản quy
phạm pháp luật (ví dụ: những quy định trong Hiến pháp về cơ quan Tòa án, Viện kiểm
sát, những quy định về chức năng nhiệm vụ trong Luật tố chức Tòa án, Viện kiểm sát,
Pháp lệnh điều tra hình sự, quy định về nghĩa vụ chứng minh tại Điều 11 Bộ luật tố tụng

hình sự 2003). Cho dù có theo quan điểm nào thì một sự thật mà chúng ta không thể phủ
nhận là trong những năm qua, hệ tố tụng hình sự ở nước ta đã dẫn đến tỉ lệ xét xử oan sai
quá lớn, nhiều bê bối làm nhân dân giảm lòng tin nghiêm trọng với hệ thống tư pháp. Do
đó, việc đổi mới hoạt động xét xử theo nguyên tắc tranh tụng là cần thiết.
1.2.3.2. Vấn đề tranh tụng tại phiên tòa trong Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ
Chính trị
Trong những bất cập của hoạt động tư pháp, ngày 2/1/2002 Bộ Chính trị đã ra
Nghị quyết 08/NQ-TW về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian
tới. Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị đề cập đến rất nhiều nội dung khác nhau của
công tác tư pháp, từ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử cho đến việc đào tạo cán bộ tư
pháp. Nhưng đúng như TS. Hoàng Thế Liên đã phát biểu, trong Nghị quyết 08/ NQ-TW
đẩy mạnh tranh tụng được coi là điểm nhấn của cải cách tư pháp và là vấn đề trọng tâm của
trọng tâm.
Nói tới vấn đề tranh tụng thì Nghị quyết số 08/NQ-TW đã đề cập đến một số nội
dung như: "Nâng cao chất lượng hoạt động và đề cao trách nhiệm của các cơ quan và
cán bộ tư pháp", trong đó có nhiệm vụ cụ thể là "nâng cao chất lượng công tố của kiểm
sát viên tại phiên tòa, đảm bảo tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những
người tham gia tố tụng khác". "Khi xét xử, các Tòa án phải bảo đảm cho mọi công dân
đều bình đẳng trước pháp luật,...., việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào
kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý
kiến của kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và
những người có quyền lợi ích hợp pháp. Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều
kiện để Luật sư tham gia vào quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ
sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên tòa".
Điều dễ nhận thấy là ngay sau khi Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị được
ban hành, khi đề cập đến hoạt động tư pháp, nhiều nhà khoa học và thực tiễn luật luôn đề
cập đến vấn đề tăng cường tranh tụng trong hoạt động tố tụng nhưng cho đến nay vẫn còn
tồn tại khá nhiều cách hiểu khác nhau về vấn đề tranh tụng được nhắc tới trong Nghị
quyết 08/NQ-TW và tựu trung lại thì các ý kiến đó tập trung vào hai quan điểm sau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng, để thực hiện yêu cầu của Nghị quyết 08/ NQ-TW
của Bộ Chính trị thì cần phải chuyển hoạt động xét xử sang hệ tố tụng tranh tụng. Quan
điểm này đã tồn tại mặc dù không thu hút được đông đảo ý kiến đồng tình. Sở dĩ ý kiến
này chỉ chiếm thiểu số vì bản thân các câu chữ của Nghị quyết 08/NQ-TW cũng không
hề đề cập tới việc chúng ta sẽ chuyển sang hệ tố tụng tranh tụng. Mặt khác, nếu chúng ta
thực hiện việc chuyển đổi hoạt động tố tụng hình sự sang hệ tranh tụng thì đòi hỏi phải có
sự thay đổi lớn về hệ tố tụng, về nguyên tắc và thủ tục tố tụng, về tổ chức các cơ quan
điều tra, truy tố, xét xử... Điều này đòi hỏi nhiều thời gian, công sức và cần có sự nghiên
cứu sâu sắc, đồng bộ chứ không thể một sớm một chiều mà thực hiện ngay được.
Quan điểm thứ hai mà các nhà nghiên cứu đưa ra là Nghị quyết 08/NQ-TW của
Bộ Chính trị yêu cầu nhiệm vụ trung tâm là nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án qua
việc nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa giữa các chủ thể tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án, đảm bảo cho việc xét
xử được đúng người, đúng tội; quan điểm này xem ra được đa số các nhà nghiên cứu ủng
hộ vì nó sát với câu chữ của Nghị quyết 08/NQ-TW hơn và có vẻ cũng dễ thực hiện hơn.
Theo tác giả khóa luận thì quan điểm thứ hai hợp lý hơn vì: Như trên đã nêu ngay
trong nghị quyết không hề đề cập đến việc chuyển đổi hệ tố tụng hiện hành sang hệ tố
tụng tranh tụng, đồng thời trong giai đoạn hiện nay với điều kiện kinh tế, chính trị, xã
hội, pháp lý nước ta không thể chuyển sang hoàn toàn kiểu tố tụng tranh tụng được.
Cùng với việc nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án thì Nghị quyết cũng đã đề
cập đến việc nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp và bổ trợ tư pháp
như cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, cơ quan giám định, tổ chức Luật sư bởi chất lượng
và hiệu quả của việc tranh tụng tại phiên tòa phụ thuộc rất nhiều ở kết quả giám định, thu
thập chứng cứ, điều tra và kiểm sát hoạt động điều tra, hoạt động bào chữa gỡ tội...
Tuy nhiên, việc thực hiện Nghị quyết 08/NQ-TW như thế nào để đảm bảo thực
sự nâng cao được hiệu quả hoạt động của các cơ quan đó, hay nói một cách khác là cơ
chế để tạo ra sự chuyển biến rõ nét trong hoạt động của các cơ quan tư pháp mới là vấn
đề quan trọng, và điều này cần có giải pháp đồng bộ từ việc hoàn thiện pháp luật để tạo ra
cơ chế, đến việc nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của những người tham gia vào

quá trình tranh tụng đó như Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư và cả những cơ quan mà
hoạt động nghiệp vụ của họ có liên quan trực tiếp đến việc giải quyết vụ án như cơ quan
điều tra, cơ quan giám định...
* *
*
Tố tụng tranh tụng và tranh tụng tại phiên tòa là những khái niệm rộng và phức
tạp, việc nghiên cứu về nó đã rút ra được những đặc điểm, yêu cầu, điều kiện của tranh
tụng tại phiên tòa. Điều này có ý nghĩa quan trọng khi thực trạng tư pháp nước ta còn có
những yếu kém nhất định, cần tiếp thu những yếu tố tích cực của tố tụng tranh tụng.
Trong quá trình tố tụng, phiên tòa là giai đoạn trung tâm, chỉ có đến giai đoạn này thì mới
có sự tập hợp đầy đủ và đồng thời của các bên, chỉ có thể thông qua quá trình tranh luận
công khai, minh bạch tại phiên tòa thì mọi tình tiết của vụ án mới được làm sáng tỏ thông
qua sự cọ xát về luận điểm của mỗi bên. Cũng qua đó mà những chứng cứ đã được các
bên thu thập theo quy định của pháp luật được công khai phơi bày và kiểm chứng. Nếu
tranh tụng tại phiên tòa được các bên tham gia nghiêm túc thực hiện thì hiệu quả giải
quyết vụ án sẽ rất cao, khắc phục được việc xét xử oan, sai, bỏ lọt tội phạm, tình trạng
yếu kém của hệ thống tư pháp. Như vậy tranh tụng tại phiên tòa có giá trị rất lớn trong
việc làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo
và những người tham gia tố tụng khác. Cũng chính vì lẽ đó, Bộ Chính trị đã có Nghị
quyết 08/NQ-TW ngày 2/1/2002 "Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong
thời gian tới", trong đó nhiệm vụ nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án là khâu trung
tâm, đột phá, thông qua việc nâng cao tính dân chủ khách quan trong tranh tụng tại phiên
tòa. Đi đôi với nhiệm vụ đó thì việc nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát và các cơ quan bổ trợ tư pháp cũng là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu
để sao cho "...nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm
tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác...
khi xét xử các Tòa án phải đảm bảo cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật,
thực sự dân chủ, khách quan; Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật; việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại

phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên,
của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền,
lợi ích hợp pháp...". Tuy nhiên, để nghị quyết đi được vào thực tế áp dụng pháp luật thì
cần có một cơ chế đồng bộ cả về phương diện hoàn thiện pháp luật, ý thức của những
người người tiến hành và tham gia tố tụng, trình độ năng lực của những bên tham gia vào
quá trình tranh tụng... Những đòi hỏi này của thực tiễn không phải là đơn giản, vì vậy
thực tế tranh tụng tại phiên tòa hiện nay phải chăng đã hoàn toàn đáp ứng được những
yêu cầu đó?

Chương 2
Thực trạng tranh tụng
tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự

2.1. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về tranh tụng tại phiên tòa
2.1.1. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về tranh tụng tại phiên tòa trước
khi có Nghị quyết 08/NQ-TW
2.1.1.1. Quy định pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về về tranh tụng tại
phiên tòa trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988
Kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa ngày 2/9/1945, nhiều văn bản pháp luật có hàm chứa quy
phạm tố tụng hình sự đã được Nhà nước ban hành, nhưng phải đến những năm 1960 thì
những quy định về pháp luật tố tụng hình sự mới được hình thành một cách cơ bản, trong
đó có hàm chứa những quy định về xét xử tại phiên tòa. Sau khi Nhà nước ta đã thông
qua một số Luật tổ chức các cơ quan có trách nhiệm tiến hành tố tụng như: Luật tổ chức
Tòa án nhân dân ngày 14/7/1960, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân ngày 15/7/1960
và Pháp lệnh ngày 16/7/1962 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Cảnh sát nhân dân.
Trong các văn bản đó có rất nhiều quy phạm pháp luật điều chỉnh việc tổ chức phiên tòa
và tiến hành tố tụng tại phiên tòa của Tòa án nhân dân. Nhìn chung các quy phạm tố tụng
trong giai đoạn này chủ yếu điều chỉnh quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan và người
có trách nhiệm tiến hành tố tụng tại phiên tòa, một số nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố
tụng trong việc tiến hành và tổ chức các phiên tòa của Tòa án như: quyền dùng tiếng nói
chữ viết của công dân, quyền bào chữa, việc xét xử công khai và xử kín, việc mở phiên
tòa tại trụ sở hay xử lưu động... Đồng thời các quy phạm pháp luật tố tụng về tổ chức và
tiến hành tố tụng tại phiên tòa trong giai đoạn này thường mang tính đại cương, thiếu cụ
thể. Thực tiễn xét xử mang nặng tính chất thời chiến, tạm thời, thiếu thống nhất giữa các
Tòa án và chịu ảnh hưởng nhiều về hình thức và khuôn mẫu của các phiên tòa trong chế
độ cũ. Nhìn chung thì hình thức tổ chức và việc thực hiện các quy định của pháp luật tố

tụng trong thời kỳ này chỉ có thể chấp nhận trong giai đoạn chiến tranh và thời kỳ mới
độc lập.
Sau khi Nhà nước ta ban hành Hiến pháp 1959 và các luật tổ chức Tòa án nhân
dân và Viện kiểm sát nhân dân, đến năm 1964 căn cứ vào các quy định của pháp luật,
những kinh nghiệm thực tiễn của gần 20 năm thực tiễn tiến hành tố tụng và việc tham
khảo học tập pháp luật tố tụng của Liên Xô và nhiều nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu,
Tòa án nhân dân tối cao đã hệ thống lại các quy định của pháp luật tố tụng lúc bấy giờ
thành Bản đề án về trình tự xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, trong đó có quy định tương đối
cụ thể về hình thức và thủ tục tiến hành tố tụng tại phiên tòa của Tòa án nhân dân, để gửi
về các Tòa án nhân dân địa phương thống nhất áp dụng. Bản đề án đã trở thành tài liệu
hướng dẫn thống nhất áp dụng pháp luật tố tụng tại phiên tòa cho tất cả các Tòa án, xác
định những hành vi tố tụng cần thiết mà Thẩm phán và Hội thẩm phải tiến hành kể từ khi
thụ lý vụ án cho đến khi mở phiên tòa, kết thúc phiên tòa. Tuy nhiên, qua 10 năm thực
hiện Bản đề án, Tòa án nhân dân tối cao đã có báo cáo tổng kết chỉ ra nhiều nhược điểm,
tồn tại của Bản đề án này. Ví dụ như trong việc tổ chức phiên tòa, nhiều Thẩm phán đã
khoán trắng cho Thư ký việc triệu tập và tổ chức phiên tòa, tiến hành mở phiên tòa trong
khi chưa có đủ điều kiện cho phép, tại phiên tòa một số Thẩm phán chưa nắm vững
những yêu cầu của việc xét hỏi là phải kiểm tra lại toàn bộ chứng cứ tại phiên tòa hoặc vi
phạm các nguyên tắc xét xử công khai, trực tiếp và liên tục. Đặc biệt, do Bản đề án chưa
hướng dẫn cụ thể dẫn đến tình trạng một số Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân chỉ tin vào
chứng cứ đã có trong hồ sơ mà coi nhẹ việc thẩm vấn và tranh luận tại phiên toà công
khai, hậu quả là Toà án ra các quyết định không phù hợp với thực tế khách quan.
Để khắc phục nhược điểm này, ngày 27/9/1974 Tòa án nhân dân tối cao đã ban
hành bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm (kèm theo Thông tư số 16-TATC), trong
đó có phần thứ 3 quy định về trình tự tố tụng chuẩn bị cho việc xét xử tại phiên tòa và
phần thứ 4 quy định về trình tự tố tụng xét xử tại phiên tòa của Tòa án nhân dân.
Tại phần chuẩn bị cho việc xét xử trước phiên tòa Thông tư số 16-TATC đã hướng
dẫn cụ thể các hoạt động tố tụng của Tòa án trong các khâu nghiên cứu hồ sơ, họp trù bị
với Viện kiểm sát, những việc phải làm để đưa vụ án ra xét xử như: ra quyết định đưa vụ

án ra xét xử, triệu tập bị cáo và những người tham gia phiên tòa, chuẩn bị kế hoạch thẩm
vấn, xử công khai hay xử kín v.v...
Trong phần trình tự tố tụng xét xử tại phiên tòa Thông tư số 16-TATC cũng
hướng dẫn rất chi tiết về việc thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng về nguyên tắc
và điều kiện chung về xét xử tại phiên tòa, việc chuẩn bị các điều kiện để xét hỏi và tiến
hành xét hỏi tại phiên tòa, tranh luận tại phiên tòa, nghị án, tuyên án...
Thông tư 16-TATC đã có bước phát triển cao hơn về tri thức hoàn thiện pháp
luật tố tụng so với giai đoạn trước đó, nó đã tổng kết được những kinh nghiệm thực tiễn
của nhiều chục năm trước đây và đặc biệt đã có những quy định thể hiện nội dung tranh
tụng trong quá trình xét xử. Thông tư là sự kết hợp tốt giữa thực tiễn xét xử với việc
nghiên cứu lý luận và làm nền tảng vững chắc, nội dung chủ yếu của Bộ luật tố tụng hình
sự sau này.
Tuy nhiên, điều dễ nhận thấy với pháp luật ở giai đoạn này: do thời kỳ chiến
tranh, ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Pháp và các nước xã hội chủ nghĩa nên khái
niệm tranh tụng trong khoa học pháp lý không có, những quy định mang tính chất tranh
tụng rất ít.
2.1.1.2. Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 với những quy định về tranh tụng
tại phiên tòa
Qua hàng chục năm chuẩn bị Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đã được Quốc hội thông qua ngày 28/6/1988, lần đầu tiên những quy
định về xét xử tại phiên tòa được hệ thống hóa và có tính pháp lý cao với tư cách là
những quy phạm của một Bộ luật.
Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988 tranh tụng tại phiên tòa chưa được
nhà làm luật nước ta ghi nhận với tính chất là một nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình
sự nhưng những dấu hiệu về tranh tụng cũng đã được quy định rải rác ở một số điều luật.
Ví dụ như một vài điều ở chương XVII quy định về thủ tục tố tụng tại phiên tòa, một số
điều tại chương XVIII thủ tục bắt đầu phiên tòa, chương XX thủ tục xét hỏi tại phiên tòa,
chương XXI tranh luận tại phiên tòa.

Tại Điều 159 quy định về việc xét xử phải trực tiếp, bằng lời nói và liên tục, đây
thực chất cũng là một trong những nội dung của tranh tụng. Theo Điều 159 thì Tòa án
phải trực tiếp xác định các tình tiết của vụ án bằng cách hỏi và nghe ý kiến của bị cáo,
nghe lời bào chữa. Bản án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại
phiên tòa. Và để đảm bảo cho quyền bào chữa của bị cáo, đảm bảo cho việc xét xử được
khách quan Điều 162 quy định bị cáo phải có mặt tại phiên tòa theo giấy triệu tập của
Tòa án, nếu vắng mặt không có lý do chính đáng thì bị áp giải, nếu bị cáo vắng mặt có lý
do chính đáng thì phải hoãn phiên tòa. Tòa án chỉ xử vắng mặt bị cáo nếu bị cáo trốn
tránh và việc truy nã không có kết quả, bị cáo đang ở nước ngoài và không thể triệu tập
đến phiên tòa, sự vắng mặt của bị cáo không trở ngại cho việc xét xử và họ đã được giao
giấy triệu tập hợp lệ. Tránh cho việc thông cung hoặc ảnh hưởng đến quá trình tranh
tụng, bị cáo đang bị tạm giam khi ra phiên tòa chỉ được tiếp xúc với người bào chữa, việc
tiếp xúc với những người khác phải được sự đồng ý của Chủ tọa phiên tòa. Tại phiên tòa
bên buộc tội là Kiểm sát viên bắt buộc phải có mặt nếu không phải hoãn phiên tòa theo
điều 164 Bộ luật tố tụng hình sự. Người bào chữa cho bị cáo là bên gỡ tội cũng có nghĩa
vụ phải tham gia phiên tòa trừ trường hợp có gửi trước bản bào chữa. Trong một số trường
hợp người bào chữa vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa theo quy định tại Điều 165 Bộ luật
tố tụng hình sự. Ngoài ra, để đảm bảo cho quá trình tranh luận, xác định sự thật vụ án,
đảm bảo cho phán quyết của Tòa án khách quan sự có mặt của người bị hại, nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc những người
đại diện hợp pháp của họ, sự có mặt của người làm chứng, người giám định cũng được
quy định tại các điều 166, 167, 168 Bộ luật tố tụng hình sự.
Bước vào quá trình tranh tụng, trước hết Kiểm sát viên sẽ đọc cáo trạng, sau đó
Hội đồng xét xử sẽ xét hỏi theo thứ tự xét hỏi hợp lý. Khi xét hỏi từng người, Chủ tọa
phiên tòa hỏi trước rồi đến các Hội thẩm nhân dân, sau đó đến Kiểm sát viên, người bào
chữa. Những người tham gia phiên tòa cũng có quyền đề nghị với Chủ tọa phiên tòa hỏi
thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ. Trong quá trình xét hỏi, Hội đồng xét xử xem
xét những vật chứng có liên quan trong vụ án. Tiếp đó, Kiểm sát viên (bên buộc tội) sẽ
luận tội, bị cáo, người bào chữa cho bị cáo (bên gỡ tội) cũng trình bày quan điểm của
mình, trong quá trình tranh luận đó người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của

người khác nhưng chỉ được phát biểu một lần đối với mỗi ý kiến mà mình không đồng ý.
Chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận, nhưng có quyền cắt những ý
kiến không liên quan đến vụ án. Sau khi những người tham gia tranh luận không còn
trình bày gì thêm, Chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc tranh luận. Bị cáo được nói lời sau
cùng. Đến đây giai đoạn tranh tụng tại phiên tòa đã cơ bản hoàn thành. Kết quả của quá
trình tranh tụng tại phiên tòa được xác định bởi phán quyết của Hội đồng xét xử và đó
cũng đánh dấu sự kết thúc của quá trình tranh tụng tại phiên tòa.
Như vậy, mặc dù chưa đầy đủ nhưng Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đã có một
số quy định mà bản chất của nó là tranh tụng. Tuy nhiên, những quy định này vẫn quá sơ
sài vẫn chưa thể tạo ra cơ chế tranh luận dân chủ và khách quan tại phiên tòa, chưa tạo ra
sự bình đẳng giữa Luật sư và Viện kiểm sát với tư cách là hai bên của quá trình tranh
tụng, trách nhiệm chứng minh tội phạm đặt nặng lên vai Hội đồng xét xử, không có quy
định bắt buộc phải tranh luận của Kiểm sát viên v.v... và những hạn chế ảnh hưởng đến
chất lượng xét xử như vậy đã là những cơ sở để Bộ luật tố tụng hình sự mới ra đời.
2.1.2. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ khi có Nghị quyết 08/NQ-TW
ngày 2/1/2002
2.1.2.1. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
Kể từ khi có Nghị quyết 08/NQ-TW, giới chuyên môn cũng như những người
làm công tác pháp luật chờ đợi sự ra đời của một văn bản pháp luật mà nó là cơ sở pháp
lý quan trọng nhất để những hành vi tố tụng của tất cả những cá nhân và tổ chức có liên
quan phải tuân theo, nhằm đáp ứng được yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ
quan tư pháp nói chung và nâng cao hiệu quả tranh tụng tại phiên tòa nói riêng. Bộ luật tố
tụng hình sự mới đã được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 26/11/2003.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã có những quy định mới, theo đó tạo điều
kiện hơn cho việc tranh tụng giữa các bên. Tại điều 50 đã ghi nhận bị cáo có quyền trình
bày ý kiến và tranh luận tại phiên tòa, được giải thích về quyền và nghĩa vụ và để thực
hiện quyền đó thì Bộ luật cũng đã mở rộng hơn các quyền của người bào chữa, tạo điều
kiện cho họ hoàn thành tốt nhiệm vụ bào chữa, gỡ tội. Tại Điều 58 quy định: trường hợp
bắt người theo Điều 81 và 82 thì người bào chữa được tham gia tố tụng từ khi có quyết

định tạm giữ. Luật sư có quyền đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa
điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can. Có quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết
liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những
người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật
công tác (đây là những tiền đề để người bào chữa có thể thu thập chứng cứ, chuẩn bị cho
quá trình tranh tụng tại phiên tòa). Điều 209 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 cũng đã
quy định về xét hỏi đối với bị cáo theo hướng cụ thể hơn với các bên tranh tụng: Kiểm
sát viên hỏi về những tình tiết buộc tội, người bào chữa hỏi về tình tiết gỡ tội...
Đặc biệt tại Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 khi quy định về tranh luận và đối
đáp tại phiên tòa đã có những quy định mới đảm bảo cho việc luận tội của Viện kiểm sát
tại phiên tòa được khách quan - Điều 217: "Luận tội của Kiểm sát viên phải căn cứ vào
những tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên tòa và ý kiến của bị cáo, người bào
chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và những người tham gia tố tụng khác tại phiên
tòa". Và để đảm bảo cho quá trình tranh tụng tại phiên tòa được khách quan, sau khi nghe
lời luận tội bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác có quyền:
"Trình bày ý kiến về luận tội của Kiểm sát viên và đưa ra đề nghị của mình, Kiểm sát
viên phải đưa ra những lập luận của mình đối với từng ý kiến" - Điều 218 Bộ luật tố tụng
hình sự. Chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho
những người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến. Chủ tọa phiên tòa có quyền đề nghị
Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa và
những người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh
luận.
Như vậy, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã có những tiến bộ hơn so với Bộ
luật tố tụng hình sự năm 1988 trong việc tạo điều kiện để các bên tranh luận tại phiên
tòa. Theo những quy định đó thì Bộ luật đã bước đầu tạo ra sự khách quan trong quá
trình tranh luận cũng như những tiền đề để quá trình tranh tụng tại phiên tòa đạt hiệu
quả. Tuy nhiên, theo tác giả thì những quy định đó trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003
vẫn còn chưa cụ thể và chưa tạo ra cơ chế hoàn toàn đầy đủ cho quá trình tranh tụng
của các bên: trách nhiệm chứng minh tội phạm vẫn đặt nặng lên vai Hội đồng xét xử;
Kiểm sát viên và Luật sư vẫn chưa có vị thế bình đẳng với nhau, những quy định chưa

tạo ra được sự trung lập trọng tài của Hội đồng xét xử, những cơ chế bắt buộc Kiểm sát
viên và Luật sư phải chủ động chứng minh tội phạm và chứng minh sự vô tội, những
quy định để Luật sư có thể thực hiện quyền gỡ tội một cách dễ dàng nhất... Và như thế
quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo cũng như những bên tham gia vào quá trình tranh
tụng chưa hoàn toàn được đảm bảo. Bộ luật mà chúng ta mong chờ sau bao lâu cũng
vẫn chưa thể hiện được một cách triệt để tinh thần tranh tụng của cải cách tư pháp, cần
có sự quy định trong Bộ luật tố tụng sâu rộng hơn nữa về tranh tụng tại phiên tòa và
những điều kiện để đảm bảo thực hiện.
2.1.2.2. Những văn bản khác
Sau khi có Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị,
Ban chỉ đạo cải cách tư pháp đã có văn bản gửi kèm Công văn số
13-CV/BCĐCCTP ngày 4/11/2002, trong đó đưa ra một số gợi ý về việc tổ chức phiên
tòa hình sự theo tinh thần Nghị quyết số 08. Trong đó nêu rõ mục đích tổ chức phiên tòa
hình sự theo tinh thần Nghị quyết 08 phải đảm bảo sự tôn nghiêm, dân chủ và văn minh
của pháp luật, bảo đảm phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng
tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của đại diện Viện
kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa, của người bào chữa, bị cáo, người làm chứng,
người bị hại, người giám định, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và những người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc những người đại diện hợp pháp của họ, góp
phần nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án, nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát
viên tại phiên tòa. Các bản án, quyết định của Tòa án phải đúng pháp luật, không để xảy
ra oan, sai.
Yêu cầu của việc tổ chức phiên tòa: Đảm bảo tính uy nghiêm, tính công bằng, dân
chủ và nghiêm minh của pháp luật trên cơ sở thực hiện nghiêm túc các quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự, chú ý đảm bảo cho những người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ
các quyền và nghĩa vụ pháp lý của họ. Thể hiện văn hóa pháp lý nơi xét xử thông qua
Chủ tọa phiên tòa với vai trò người điều khiển mọi hoạt động tố tụng tại phiên tòa phải
công minh, không được để cảm xúc cá nhân chi phối; đồng thời có biện pháp nhằm duy
trì văn hóa pháp lý trong phòng xử án. Chủ tọa và Hội đồng xét xử phải luôn luôn ý thức

được mình là nhân danh quyền lực Nhà nước để phán xét đối với bị cáo và các đương sự
khác. Khi nghị án phải đảm bảo đúng pháp luật và dựa trên kết quả của quá trình xét xử,
tránh hình thức. Bản án được viết ra nhất thiết phải đánh giá xác thực những quan điểm,
luận cứ của đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa, của bị cáo và người
bào chữa, nếu bác bỏ quan điểm của bên nào thì phải có lập luận thuyết phục. Bản án
được tuyên phải làm cho người bị kết án "tâm phục, khẩu phục", phải có tính giáo dục
đối với người phạm tội và được những người đến dự phiên tòa đồng tình.
Bên cạnh đó, Ban chỉ đạo cải cách tư pháp còn có những gợi ý về tổ chức phiên
tòa như cách xưng hô, trang phục của Hội đồng xét xử, có khu vực dành riêng cho báo chí
và có nơi cách ly người làm chứng, người bị hại, nơi quản lý bị cáo. Có trang phục riêng
đối với bị cáo đang bị tạm giam, có quy định về cách ăn mặc của những người đến dự
phiên tòa, lối đi của Kiểm sát viên và Hội đồng xét xử phải khác nhau, thời điểm bước
vào phòng xét xử cũng khác nhau, có cảnh sát hỗ trợ tư pháp để bảo vệ trật tự và tôn
nghiêm của Tòa án...
Cũng trong văn bản này, Ban chỉ đạo cải cách tư pháp đã đưa ra những gợi ý có
tính chất định hướng đối với những người tham gia vào quá trình tranh tụng cũng như
những người tham dự phiên tòa khác. Theo đó Chủ tọa - người điều khiển việc tranh tụng
tại phiên tòa, phải đặt ra câu hỏi, xác định những vấn đề để các bên tranh luận với nhau,
hướng cho việc tranh luận đi vào đúng vấn đề. Bên cạnh đó, Hội thẩm nhân dân cũng
phải chủ động nêu vấn đề để các bên tranh luận làm sáng tỏ nội dung sự việc. Mọi hành
vi tố tụng phải theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các bên tranh luận có quyền
yêu cầu bên kia giải thích những vấn đề chưa rõ, Chủ tọa phiên tòa phải là người quyết
định bên bị yêu cầu có phải trả lời yêu cầu đó hay không. Đối với đại diện Viện kiểm sát
phải bảo vệ cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo tại phiên tòa, chứng minh mọi luận
điểm trong cáo trạng bằng việc chủ động xét hỏi, thẩm vấn cùng Hội đồng xét xử và chú
ý đưa ra những chứng cứ để chứng minh tội phạm. Những chứng cứ gián tiếp phải đi sâu
xem xét tính lôgíc, sự liên hệ bên trong với các chứng cứ khác. Chú ý kiểm tra tính có
căn cứ và hợp pháp của chứng cứ mới phát sinh tại phiên tòa. Nếu tại phiên tòa phát hiện
được nhiều tình tiết mới khác với nội dung cáo trạng thì phải giải quyết theo pháp luật tố
tụng hình sự quy định, không được bỏ qua những tình tiết đó. Lời luận tội phải trên cơ sở

đánh giá tổng hợp các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và các chứng cứ đã kiểm tra, đánh
giá tại phiên tòa. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa phải tranh luận,
làm rõ cả những ý kiến, lời bào chữa của bị cáo, của Luật sư hoặc của người bào chữa
khác và những người tham gia tố tụng khác, nhất là trong trường hợp những ý kiến đó
khác nhau. Phải đảm bảo việc tranh luận thật sự bình đẳng, dân chủ, xác định sự thật của
vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Đối với người bào chữa: được tự do
tranh luận. Nếu được Chủ tọa phiên tòa đồng ý, người bào chữa có thể đặt câu hỏi, phản
đối câu hỏi với những người tham gia tố tụng và những người được hỏi có trách nhiệm
trả lời trực tiếp. Khi được sự ủy quyền của người mình bào chữa, Luật sư có quyền trả lời
mọi câu hỏi chất vấn của đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại tòa.
Ngoài ra, trong gợi ý còn nêu rõ đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa có quyền
quyết định ngay việc thay đổi mức án đề nghị và thay đổi tội danh cho phù hợp với
những gì mà diễn biến phiên tòa đem lại, tránh trường hợp chỉ nghĩ nhiệm vụ của mình
tại phiên tòa là giữ nguyên quan điểm của cáo trạng. Cáo trạng chỉ xuất phát từ những
chứng cứ có trong giai đoạn điều tra. Những vấn đề diễn ra trong phiên tòa mới là quan
trọng và Kiểm sát viên không nhất thiết phải bảo vệ quan điểm luận tội trong cáo trạng.
Chỉ khi gặp trường hợp phức tạp và tình tiết mới đặc biệt thì đại diện Viện kiểm sát giữ
quyền công tố mới nên xin hoãn phiên tòa để xin ý kiến chỉ đạo. Hoặc khi có thay đổi đột
xuất, Kiểm sát viên có quyền quyết định thay đổi quan điểm luận tội ngay tại phiên tòa
rồi mới báo cáo sau, Kiểm sát viên là người chịu trách nhiệm về kết luận vụ án đó chứ
không phải là người ký cáo trạng.
Như vậy, những hướng dẫn của Ban chỉ đạo cải cách tư pháp ngoài những gợi ý
mang tính chất định hướng chung chung, đã có nhiều điểm cụ thể hóa nội dung tranh
tụng tại phiên tòa, qua đó đưa ra những yêu cầu cụ thể với những hành vi tố tụng cho quá
trình tranh tụng, tạo ra được cơ chế khá hoàn chỉnh cho việc tranh tụng tại phiên tòa,
nhưng đáng tiếc là văn bản này chỉ mang tính chất gợi ý mà không phải có giá trị bắt
buộc như một văn bản luật, và nó cũng đã không được cụ thể hóa tại Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003.

Triển khai việc thực hiện Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị
về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp, ngày 5/11/2002 Tòa án nhân dân tối
cao đã có kết luận về cuộc hội thảo "Tranh tụng tại phiên tòa hình sự". Theo đó, để phục
vụ cho quá trình tranh tụng tại phiên tòa hình sự cần phải làm tốt ngay từ giai đoạn chuẩn
bị xét xử, cụ thể là phải nghiên cứu hồ sơ, dự kiến tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa,
trao đổi với Kiểm sát viên tham gia phiên tòa về kế hoạch xét hỏi (đề cương thẩm vấn),
bàn các biện pháp triệu tập đầy đủ những người tham gia tố tụng, nhất là những người
nếu không có mặt tại phiên tòa sẽ ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan của vụ
án. Đồng thời, trong kết luận cũng nêu rõ, để đảm bảo khách quan khi xét hỏi Chủ tọa
phiên tòa chỉ nên hỏi có tính chất nêu vấn đề, còn lại những câu hỏi có tính chất buộc tội
hoặc gỡ tội dành cho Kiểm sát viên và người bào chữa. Mặc dù quy định tại Điều 11 Bộ
luật tố tụng hình sự là trách nhiệm chứng minh thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng
trong đó có Tòa án nhưng tại phiên tòa nhiệm vụ chứng minh tội phạm vẫn chủ yếu thuộc
về Kiểm sát viên, vì vậy Hội đồng xét xử không được có những lời lẽ khẳng định hay phủ
định bất cứ một vấn đề nào mà Kiểm sát viên, người bào chữa và những người tham gia
tố tụng khác nêu ra, cũng không được đánh giá, nhận xét đúng sai ngay tại phiên tòa. Nếu
cần giải thích cho người tham gia tố tụng thì chỉ giải thích quyền và nghĩa vụ tố tụng,
tuyệt đối không được giải thích những quy định của Bộ luật hình sự. Để phần tranh luận
diễn ra được dân chủ, khách quan, Hội đồng xét xử phải chú ý lắng nghe những ý kiến
của Kiểm sát viên, Luật sư và những người tham gia tố tụng khác tránh định kiến sẵn, đặc
biệt phải chú ý lắng nghe ý kiến của Luật sư, của bị cáo về những ý kiến khác với lời luận
tội của Kiểm sát viên. Nếu trong quá trình tranh luận có những tài liệu chứng cứ mới
được đưa ra bởi bất cứ ai thì Hội đồng xét xử có thể coi đó là chứng cứ để xác định sự
thật của vụ án nếu có đủ cơ sở về tính khách quan, chân thực của chứng cứ. Nếu chưa đủ
căn cứ thì trả hồ sơ và nếu có cơ sở rằng chứng cứ đó là giả thì bác bỏ trong phần nhận
định của bản án. Trong trường hợp bị cáo không có người bào chữa hoặc tuy có người
bào chữa nhưng bị cáo thấy cần bào chữa bổ sung thì Chủ tọa phiên tòa phải giải thích để
bị cáo và những người tham gia tố tụng khác hiểu về quyền được bào chữa của bị cáo và
quyền được đưa ra những yêu cầu. Khi có những ý kiến phản bác đối với lời luận tội của
Kiểm sát viên thì Chủ tọa phiên tòa yêu cầu Kiểm sát viên phải có ý kiến phản bác,

không để xảy ra trường hợp Kiểm sát viên không tranh luận mà chỉ trả lời "vẫn giữ
nguyên quan điểm đã truy tố hoặc không có ý kiến gì tùy Hội đồng xét xử xem xét".
Trong bản án, chỉ những vấn đề đã được thẩm tra tại phiên tòa mới được dùng
làm căn cứ để nhận định, đánh giá, kết luận và quyết định. Vì vậy, trong khi thảo luận và
nghị án, để tránh sai sót, Hội đồng xét xử cần yêu cầu Thư ký phiên tòa giao biên bản
phiên tòa để đối chiếu xem các vấn đề đưa ra thảo luận đã được thẩm tra tại phiên tòa
chưa.
Cũng giống như một số gợi ý về tranh tụng của Ban chỉ đạo cải cách tư pháp, kết
luận số 290 ngày 5/11/2002 của Tòa án nhân dân tối cao đã có nhiều điểm quy định chi
tiết, cụ thể về việc tranh tụng tại phiên tòa, tạo ra tiền đề khá đầy đủ cho tranh tụng,
nhưng kết luận này cũng chỉ mang tính chất hướng dẫn đối với các Tòa án chứ chưa phải
là có tính bắt buộc về mặt pháp lý đối với những người tham gia vào quá trình tố tụng.
Như vậy, có thể thấy rằng, những định hướng được nêu ra trong gợi ý của Ban chỉ đạo
cải cách tư pháp, kết luận của Tòa án nhân dân tối cao về hội thảo tranh tụng tại phiên tòa
khi triển khai trên thực tế sẽ rất khó trong việc áp dụng đồng bộ và tuyệt đối.
2.2. Thực trạng tranh tụng tại phiên tòa
2.2.1. Tình hình xét xử từ năm 1989 - 2001 (năm Bộ luật tố tụng hình sự 1988 có
hiệu lực thi hành đến trước khi có Nghị quyết 08/NQ-TW)
Hàng năm, các Tòa án đã xét xử một số lượng rất lớn án hình sự (thống kê tại
bảng 2.1), số lượng án phải giải quyết theo hướng tăng dần, năm sau cao hơn năm
trước. Nếu năm 1989 chỉ có 16.465 vụ thì năm 2001 đã là 46.347 vụ nghĩa là tăng gần
gấp 3 lần. Số lượng án xét xử thì tăng lớn như vậy nhưng chất lượng xét xử thì có
những vấn đề cần phải bàn tới. Nếu con số thực tế Tòa án phải thụ lý - giải quyết là
(xem bảng 2.1) thì con số xét xử của Tòa án các cấp đã tăng lên rất nhiều, ví dụ năm
1989 số lượng án hình sự Tòa án phải thụ lý - giải quyết là 16.465 vụ thì thực tế các
Tòa án đã phải giải quyết là 21.796 vụ tăng lên thành 132,37%. Hoặc lấy con số của
năm 2001 để so sánh thì cũng vậy số lượng thụ lý - giải quyết là 46.347 vụ thì thực tế
các Tòa án các cấp phải giải quyết 62.786 vụ tăng lên đến 133,74%. Nhìn vào bảng
thống kê 2.1 ta có thể thấy rằng, sở dĩ số lượng án Tòa án các cấp phải giải quyết tăng

cao lên đến vậy là do các Tòa án phải giải quyết án phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái
thẩm khá nhiều. Số lượng án phúc thẩm chỉ đánh giá phần nào chất lượng xét xử của
Tòa án cấp sơ thẩm nhưng số lượng án giám đốc thẩm và tái thẩm là căn cứ nói lên
những hạn chế trong việc giải quyết án của Tòa án cấp dưới. Đáng lưu ý là tỷ lệ đó
hầu như không thuyên giảm: năm 1989 tỷ lệ án giám đốc thẩm, tái thẩm là 0,99% thì
năm 2001 tỷ lệ án phải giám đốc thẩm, tái thẩm là 0,98%. Từ những hạn chế đó của
một số Tòa án mà đã có những trường hợp để xảy ra án oan: năm 1998 có 34 người bị
oan thì năm 1999 còn 32 người, năm 2000 có 106 người (do thực hiện bộ luật hình sự
1999), năm 2001 còn 37 người (theo Báo cáo tổng kết ngành toà án nhân dân hàng
năm từ 1998 đến 2001). Đây thực là những con số biết nói, đáng để những người
nghiên cứu luật và làm luật chúng ta phải suy nghĩ.
Bảng 2.1: Bảng tổng hợp số liệu xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của
ngành Tòa án từ 1989 - 2001
Vụ


Năm
Sơ thẩm

(1)
Phúc thẩm

(2)
Giám đốc thẩm,
tái thẩm
(3)
Tổng cộng

(4)
Tỷ lệ %
(2)/(1)
Tỷ lệ %
(3)/(1)
Tỷ lệ %
(4)/(1)
1989 16465 5167 31,38 164 0,99 21.796 132,37
1990 21452 5180 24,15 176 0,82 26.808 124,96
1991 20046 5296 26,42 181 0,9 25.523 127,32
1992 25376 6596 25,99 267 1,05 32.239 127,04
1993 30219 7891 26,11 405 1,3 38.515 127,45
1994 31195 9359 30 364 1,17 40.918 131,16
1995 33135 10360 31,26 427 1,29 43.922 132,55
1996 41058 11449 27,88 456 1,11 52.963 128,99
1997 42440 11570 27,26 656 1,54 54.666 128,80
1998 48670 13817 28,39 595 1,22 63.082 129,61

1999 50461 12488 24,75 428 0,85 63.377 125,59
2000 46946 15399 32,8 441 0,94 62.786 133,74
2001 46347 13627 29,4 455 0,98 60.429 130,38
Nguồn: Phòng Tổng hợp - Tòa án nhân dân tối cao.
2.2.2. Tình hình xét xử từ khi có Nghị quyết 08/NQ-TW đến nay
Từ năm 2002, Ngành Tòa án quán triệt Nghị quyết 08 đến từng cán bộ nên ý thức
về tranh tụng trong mỗi Thẩm phán, cán bộ đã được nâng lên rõ rệt và điều đó cũng đã đ-
ược thể hiện qua số liệu xét xử của ngành Tòa án so với những năm trước đó, tuy số l-
ượng án phải giải quyết có tăng lên:
Bảng 2.2: Bảng tổng hợp số liệu xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của
ngành Tòa án từ 2002 - 2004
Vụ


Năm
Sơ thẩm

(1)
Phúc thẩm

(2)
Giám đốc thẩm,
tái thẩm
(3)
Tổng cộng

(4)
Tỷ lệ %
(2)/(1)
Tỷ lệ %
(3)/(1)
Tỷ lệ %
(4)/(1)
2002 43.851 11.032 25,16 474 1,08 55.357 126,23
2003 49.373 12.970 26,27 290 0,59 62.633 126,85
2004 52.999 13.921 26,27 238 0,45 67.158 126,71
Nguồn: Phòng Tổng hợp - Tòa án nhân dân tối cao.
Mặc dù năm 2004 số lượng án thụ lý - giải quyết của Tòa án cấp sơ thẩm tăng lên
gần 10.000 vụ so với năm 2002 nhưng tỷ lệ án phải giám đốc thẩm, tái thẩm lại giảm đi
hơn một nửa (1,08% và 0,45%), qua đó có thể thấy chất lượng án giải quyết đã tăng lên
đáng kể. Tuy nhiên, năm 2002 tỷ lệ các bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị hủy
là 3,71%; sửa án 11,5%. Năm 2002, các Tòa án các cấp tuyên bố không phạm tội đối với
47 bị cáo. So với năm 2002, năm 2003 tỷ lệ các vụ án có kháng cáo, kháng nghị đã giảm
4% số bản án, quyết định bị sửa đã giảm 2,4%, số bản án quyết định bị hủy chiếm 0,9%

trong tổng số các bản án, quyết định của các Tòa án các cấp, số người bị kết tội oan tuy
đã giảm nhiều nhưng vẫn còn (năm 2002 có 23 trường hợp bị kết tội oan, năm 2003 chỉ
còn 7 trường hợp - Theo Báo tổng kết ngành Toà án nhân dân năm 2002, 2003); các Tòa
án cấp sơ thẩm đã tuyên bố không phạm tội đối với 41 trường hợp. Trong số các bản án,
quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị Tòa án cấp phúc thẩm cải sửa thì có một số trường
hợp Tòa án cấp sơ thẩm không có lỗi vì có tình tiết mới tại phiên tòa phúc thẩm hoặc do
có thay đổi về chính sách hình sự.
Năm 2004 tỷ lệ các bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị hủy là 0,71%,
sửa là 4,85%. Tỷ lệ các bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm bị hủy là 0,21%, bị
sửa là 0,02%. Năm 2004 chất lượng xét xử các vụ án hình sự của Tòa án các cấp có nhiều
chuyển biến tốt hơn so với các năm trước, có 5 trường hợp kết án oan người vô tội đều đã
được Tòa án cấp phúc thẩm tuyên bố không phạm tội; qua công tác giám đốc việc xét xử,
không phát hiện trường hợp bản án có hiệu lực pháp luật mà Tòa án kết án oan người vô
tội.
Thông qua số liệu thống kê số lượng giải quyết án của Tòa án nhân dân các cấp
một điều có thể rút ra được rằng sau khi Nghị quyết 08/NQ-TW được quán triệt đến từng
cán bộ Thẩm phán, chất lượng tranh tụng tại phiên tòa đã được nâng lên và ảnh hưởng rõ
rệt đến chất lượng giải quyết án, mặc dù tình hình tội phạm hình sự vẫn diễn biến rất
phức tạp, các tội phạm có xu hướng gia tăng. Sau khi có Nghị quyết 08/NQ-TW các vụ
án trọng điểm, phức tạp và những vụ án dư luận quan tâm, theo dõi đã được tổ chức xét
xử kịp thời với những mức hình phạt thích đáng, đúng pháp luật vừa đáp ứng được đòi
hỏi của đông đảo nhân dân, vừa đảm bảo tính giáo dục và phòng ngừa chung. Những vụ
án đó phải kể đến vụ án Trương Văn Cam và đồng bọn, vụ án Lã Thị Kim Oanh ở Hà
Nội, vụ án Trương Thị Thanh Hương cùng đồng bọn ở tỉnh An Giang, một số vụ lừa đảo
chiếm đoạt tiền hoàn thuế giá trị gia tăng tại Hà Nội, vụ án nhận hối lộ tại Hải quan cửa
khẩu Tân Thanh - Lạng Sơn.
Thực tế cho thấy, hầu hết các vụ án đã được đưa ra xét xử với sự đổi mới thủ tục
xét hỏi và tranh luật tại phiên tòa trên cơ sở những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
mới và theo tinh thần cải cách tư pháp của Bộ Chính trị. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã

thể hiện được tính khách quan, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của cả Kiểm sát viên, Luật sư,
bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Phiên tòa đã thể hiện được tính dân chủ,
bình đẳng giữa những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong việc đưa ra
chứng cứ, bày tỏ quan điểm khác nhau đều được Hội đồng xét xử tôn trọng và giành thời
gian phiên tòa thỏa đáng cho các bên tranh luận xác định sự thật khách quan. Cùng với
việc xét hỏi, Hội đồng xét xử còn chấp nhận Luật sư, bị cáo và những người tham gia tố
tụng xuất trình chứng cứ mới. Các chứng cứ đã được Kiểm sát viên phân tích, đánh giá
khi luận tội bảo vệ cáo trạng, phát biểu tại phiên tòa. Hội đồng xét xử xem xét đầy đủ,
toàn diện các chứng cứ mới, chứng cứ có trong hồ sơ, quan điểm của Kiểm sát viên, của
người bào chữa và những người tham gia tố tụng để ra phán quyết cuối cùng, đảm bảo
đúng yêu cầu của Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị
là: "Bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố
tụng khác; việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại
phiên tòa".
Ngành Tòa án đã tiến hành tổ chức các phiên tòa hình sự mẫu theo hướng cải
cách một bước về thủ tục xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa nhằm rút kinh nghiệm chung
để tiếp tục triển khai, phổ biến, nhân rộng trong việc giải quyết các loại án. Và thực tế
cũng đã cho thấy số lượng các vụ án xét xử theo đúng tinh thần của Nghị quyết 08/NQ-
TW cũng đã tăng dần.
2.2.3. Một số phiên tòa điển hình của việc xét xử theo hướng tranh tụng
trước yêu cầu cải cách tư pháp
2.2.3.1. Phiên tòa mẫu
Nghị quyết 08/NQ-TW ra đời ngày 2/1/2002, Ban chỉ đạo cải cách tư pháp đã kịp
thời có hướng dẫn việc tổ chức những phiên tòa mẫu để các Tòa án học tập. Phiên tòa
đầu tiên mà Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh chọn làm phiên tòa xét xử theo
tinh thần của Nghị quyết 08/NQ-TW là phiên tòa xét xử Nguyễn Văn Lắn, tức Lũng "đầu
bò", cùng 20 bị cáo khác về các tội "tổ chức đánh bạc, gá bạc và đánh bạc". Tiếp theo
Thành phố Hồ Chí Minh, Thủ đô Hà Nội đã chọn hai vụ án đặc biệt nghiêm trọng để tổ
chức phiên tòa mẫu theo hướng đổi mới hoạt động xét xử theo Nghị quyết 08/NQ-TW

của Bộ Chính trị. Đó là vụ trọng án cướp của giết người xảy ra vào ngày 17/9/2002 mà ba
bị cáo Ngô Anh Dũng, Nguyễn Anh Tú và Nguyễn Quý Anh đều bị Viện kiểm sát đề
nghị mức án là tử hình. Vụ trọng án xảy ra tại trước cửa khách sạn số 7 phố Lê Văn Hưu,
bị cáo Nguyễn Văn Cường bị truy tố về tội giết người.
Qua những phiên tòa mẫu, nhìn chung những người tham dự phiên tòa, những
người quan tâm và giới chuyên môn đã có những nhận xét khá tốt. Dưới sự điều khiển
của Chủ tọa, phiên tòa đã thể hiện việc đề cao tinh thần dân chủ, công khai tại phiên tòa.
Chủ tọa chỉ gợi mở vấn đề chứ không tham gia thẩm vấn, tranh luận, trong suốt quá trình
đại diện Viện kiểm sát và các luật sự bào chữa tham gia thẩm vấn, tranh luận. Hội đồng
xét xử cũng để Viện kiểm sát và các Luật sư đề cập sâu hơn, kỹ hơn trong tranh luận về
các tình tiết định khung, định tội. Các Luật sư bào chữa và đại diện quyền công tố đều sử
dụng những quyền được pháp luật cho phép để đối đáp với nhau thật gay gắt nhằm bảo
vệ luận điểm của mình. Quyết định của Hội đồng xét xử căn cứ vào những chứng cứ
được các bên đưa ra trong quá trình tranh luận. Để có được kết quả này là cả một quá
trình chuẩn bị phiên tòa khá công phu từ việc nghiên cứu hồ sơ của Hội đồng xét xử, có
kế hoạch điều khiển phiên tòa và xét hỏi những khi cần thiết, đến việc triệu tập đầy đủ
những người tham gia tố tụng tạo tiền đề cho quá trình tranh tụng. Kiểm sát viên và Luật
sư cũng đều phải có quá trình nghiên cứu hồ sơ và các chứng cứ kỹ lưỡng để có thể đấu
lý với nhau tại phiên tòa.
Dù vậy, cũng còn có những ý kiến cho rằng, ở một số phiên tòa Kiểm sát viên
vẫn chưa chủ động xét hỏi để chứng minh tội phạm (ví dụ phiên tòa xét xử ba bị cáo Ngô
Anh Dũng, Nguyễn Anh Tú và Nguyễn Quý Anh), có phiên tòa Hội đồng xét xử đặt quá
nặng vai trò xét hỏi cho Kiểm sát viên (phiên tòa xét xử Lũng đầu bò), nhưng ý kiến của
tác giả khóa luận cũng hoàn toàn đồng ý với ý kiến của Chủ tọa phiên tòa này - Hội đồng
xét xử chỉ nên đặt câu hỏi ở những vấn đề chính, dành thời gian cho Kiểm sát viên, Luật
sư tham gia xét hỏi một cách năng động hơn, để cho Công tố - Luật sư tranh tụng trên cơ
sở công khai và dân chủ. Tuy nhiên, Chủ tọa phiên tòa điều khiển phiên tòa cần phải
nhạy bén và kiên quyết hơn trong quá trình điều khiển phiên tòa để các bên tranh luận...,
nhưng đây không phải là vấn đề đơn giản bởi nó thuộc về kỹ năng điều khiển phiên tòa,

kỹ năng xét xử mà đôi khi chưa chắc đã phải là kiến thức đã được học mà lại thuộc về
khả năng giải quyết tình huống cũng như kinh nghiệm xét xử của mỗi người.
Tại các phiên tòa mẫu, Luật sư cũng đã dành được một vị thế tương đối xứng
đáng, nhưng kết thúc phần tranh luận các Luật sư thường xoay quanh việc khai thác các
tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, còn để có được một bài bào chữa mang tính đột phá thì có lẽ
cần phải trông chờ vào tương lai.
Quá trình xét xử tại các phiên tòa mẫu dù còn có những ý kiến chưa hoàn toàn
tán thưởng nhưng thành công đáng ghi nhận là nó đã cơ bản hoàn thành nhiệm vụ xét xử
theo tinh thần cải cách tư pháp, mở đường cho những phiên tòa dân chủ, công khai, đề
cao tranh tụng.
2.2.3.2. Một số phiên tòa khác
Sau khi có phiên tòa mẫu, các Tòa án đã rút kinh nghiệm để tổ chức xét xử theo
tinh thần cải cách tư pháp. Nhiều phiên tòa xét xử đã thể hiện được sự công bằng dân chủ
nghiêm minh, đảm bảo cho việc tranh tụng công khai bình đẳng giữa Luật sư và Kiểm sát
viên, ví dụ như phiên tòa: từ ngày 17 đến 22 tháng 11 năm 2004 xét xử bị cáo Nguyễn
Văn Thông bị truy tố về tội cướp tài sản theo điểm d khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự.
Chủ tọa phiên tòa đã lắng nghe lời bào chữa của Luật sư bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho
bị cáo, yêu cầu Kiểm sát viên tranh luận với những lập luận mà Luật sư đưa ra, căn cứ
vào những chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, sự phù hợp giữa các chứng cứ đó để
kết luận tội danh mà Viện kiểm sát truy tố với bị cáo là không có căn cứ, bị cáo phạm tội
theo tội danh khác với khung hình phạt nhẹ hơn, qua đó có được phán quyết khách quan
đúng pháp luật, đúng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện, đảm bảo được tính giáo dục của
pháp luật.
Một ví dụ khác về phiên tòa xét xử theo đúng tinh thần cải cách tư pháp là vụ án
xét xử Bùi Huy Viết vào ngày 7/12/2004. Bị cáo bị truy tố tội cố ý gây thương tích theo
khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự. Quá trình tranh luận tại phiên tòa diễn ra khá sôi động
với việc đưa ra những chứng cứ và chứng minh luận điểm của mình, giữa Kiểm sát viên
thực hành quyền công tố tại phiên tòa và Luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị cáo. Luật sư
bào chữa cho bị cáo đã đưa ra những câu hỏi để chứng minh cho luận điểm: với điều kiện

hoàn cảnh khách quan cũng như tình thế buộc bị cáo phải dùng dao để tự vệ, tuy nhiên đã
vượt quá giới hạn cho phép. Nên hành vi của bị cáo chỉ có thể phạm tội cố ý gây thương
tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Còn Kiểm sát viên lại hỏi bị cáo về
những tình tiết để bảo vệ cáo trạng, bảo vệ quan điểm: bị cáo phạm tội trong bối cảnh
hoàn toàn có thể dùng cách thức khác để tự vệ, đồng thời thương tích của bị hại là do bị
cáo mong muốn gây ra. Căn cứ vào kết quả tranh luận đó của các bên, qua việc đánh giá
kiểm tra các chứng cứ tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định: hành vi vi phạm của phía
bị hại dẫn đến sự kích động mạnh của bị cáo về mặt tâm lý và hậu quả đáng tiếc đã xảy
ra, do đó Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội truy tố bị cáo về tội cố ý gây thương
tích là chưa chính xác, mà hành vi của bị cáo phạm tội cố ý gây thương tích trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh theo Điều 105 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, Luật sư bào
chữa cho rằng bị cáo phạm tội cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng là không có căn cứ. Từ nhận định đó Tòa án đã có phán quyết đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật.
Trong tranh tụng tại phiên tòa, ngoài vai trò chính điều khiển phiên tòa của Hội
đồng xét xử, vai trò xét hỏi của Kiểm sát viên và Luật sư cũng rất quan trọng bởi họ là
hai bên đối tụng. Luật sư xét hỏi để chuẩn bị cho quá trình tranh luận có những chứng cứ
thuyết phục những người tham dự phiên tòa theo hướng gỡ tội cho bị cáo. Đại diện Viện
kiểm sát là bên buộc tội, nên việc chủ động xét hỏi để có lời luận tội khách quan phù hợp
với những chứng cứ được thẩm tra đánh giá tại phiên tòa. Có những phiên tòa đã diễn ra
như vậy mà phiên tòa ngày 16 đến 18/8/2004 là một ví dụ: Các bị cáo Đỗ Văn Thanh,
Đặng Tùng Giang, Ngô Duy Hoàng, Đặng Thị Ngọc Kim, Nguyễn Thị Kim Thoa, Hoàng
Thanh Tùng, Hà Duy Linh, ứng Trường Giang, Nguyễn Phương Thảo bị truy tố về "Tội
cướp tài sản" theo điểm d khoản 2 Điều 133 và "Tội bắt giữ hoặc giam người trái pháp
luật" theo khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự. Sau phần xét hỏi đại diện Viện kiểm sát tại
phiên tòa đã đánh giá chứng cứ, phân tích tính chất của hành vi phạm tội mà các bị cáo đã
thực hiện, căn cứ Điều 221 Bộ luật tố tụng hình sự rút truy tố các bị cáo Đỗ Văn Thanh,
Đặng Tùng Giang, Ngô Duy Hoàng, Đặng Thị Ngọc Kim, Nguyễn Thị Kim Thoa, Hoàng
Thanh Tùng, Hà Duy Linh, ứng Trường Giang, Nguyễn Phương Thảo về "Tội bắt giữ hoặc
giam người trái pháp luật" theo điểm d khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự.

Sau khi nhận định Hội đồng xét xử thấy rằng: Trong hoàn cảnh các bị cáo và bị
hại cùng rủ nhau vui chơi. Sau khi tra hỏi, dọa nạt người bị hại và các bị cáo vẫn ngồi
chung với nhau một phòng không thể hiện việc các bị cáo giam cầm, bắt trói người bị hại
vào một nơi khác. Hành vi các bị cáo thực hiện chỉ là thủ đoạn để thực hiện hành vi cướp.
Hơn nữa, các bị cáo không giữ hai người bị hại để tra hỏi, đe dọa thì các bị cáo không
thực hiện được hành vi cướp tài sản. Nên không cấu thành "Tội bắt giữ hoặc giam người
trái pháp luật" như bản cáo trạng truy tố. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên rút truy tố các bị
cáo Đỗ Văn Thanh, Đặng Tùng Giang, Ngô Duy Hoàng, Đặng Thị Ngọc Kim, Nguyễn
Thị Kim Thoa, Hoàng Thanh Tùng, Hà Duy Linh, ứng Trường Giang, Nguyễn Phương
Thảo về "Tội bắt giữ hoặc giam người trái pháp luật" là có căn cứ đúng pháp luật.
Như vậy, tiếp sau phiên tòa mẫu rất nhiều phiên tòa của Tòa án các cấp đã được
tổ chức theo đúng tinh thần công bằng, dân chủ, công khai, phán quyết trên cơ sở quá
trình tranh tụng tại phiên tòa, nhưng thực tế cho thấy cũng còn những phiên tòa chưa đáp
ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp, và tinh thần tranh tụng.
2.2.4. Một số phiên tòa còn hạn chế khi thực hiện tranh tụng
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực nhưng bên cạnh những phiên tòa xét xử đúng với tinh
thần tranh tụng còn có những phiên tòa không đạt yêu cầu như việc áp dụng các thủ tục
tố tụng, điều khiển phiên tòa, viết bản án... cũng như các hoạt động khác của Tòa án, kể
cả phiên tòa được coi là xét xử điển hình ngay tại Thủ đô hoặc một vài vụ án quan trọng
khác mà các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước quan tâm theo dõi, thực ra mới đạt yêu
cầu ở việc áp dụng mức hình phạt, ở đường lối xét xử, còn tác dụng giáo dục phòng ngừa
chung, tôn vinh tính tối cao của pháp luật thông qua quá trình tranh tụng tại phiên tòa mà
cụ thể là hoạt động của Hội đồng xét xử tại phiên tòa, qua bản án hoặc bản luận tội của
Viện kiểm sát nhân dân, thì còn chưa đạt yêu cầu của công tác xét xử. Chất lượng phiên
tòa như thế không chỉ ở Tòa án cấp huyện, cấp tỉnh, mà còn ở cả một số phiên tòa của các
Tòa phúc thẩm của Tòa án nhân dân tối cao. Có những trường hợp xét xử thiếu chính
xác, chẳng những xảy ra ở cấp sơ thẩm, phúc thẩm, mà có khi cả ở cấp giám đốc thẩm.
Sự thiếu chính xác đó vừa làm cho việc giải quyết vụ án bị kéo dài, vừa gây phiền hà cho
nhân dân, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với cơ quan bảo vệ công lý.

Ví dụ: Vụ án Bùi Minh Hải bị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt tù chung
thân về tội giết người và hiếp dâm, sau đó Công an bắt được tên Nguyễn Văn Tèo và Tèo
khai nhận chính Tèo là người đã giết và hiếp nạn nhân Trần Thị Thanh Dung. Tại cơ
quan điều tra Bùi Minh Hải khai nhận tội nhưng tại phiên tòa bị cáo không nhận tội, bị
cáo khai rằng do bị ép cung nhưng Hội đồng xét xử sơ thẩm đã không thận trọng xem xét
đầy đủ các chứng cứ buộc tội và gỡ tội, không kiểm tra tính xác thực của các chứng cứ,
chỉ căn cứ vào lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, nên đã kết tội bị cáo. Thậm chí còn
cho rằng bị cáo không thành khẩn. Lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra hay tại phiên
tòa chỉ là một chứng cứ và không thể chỉ căn cứ vào chứng cứ này để kết tội bị cáo mà
cần phải xem xét toàn diện đầy đủ và khách quan các tài liệu, chứng cứ khác. Trong vụ
án này, nếu Hội đồng xét xử thực sự tôn trọng tinh thần tranh tụng, lắng nghe lời khai của
bị cáo, không có định kiến về hành vi phạm tội, phán quyết dựa trên cơ sở những chứng
cứ được đánh giá thẩm tra tại phiên tòa, thì chắc hẳn hậu quả đáng tiếc là kết tội oan một
người đã không xảy ra.
Thực tế kiểm tra giám đốc án và thống kê chất lượng giải quyết án cho thấy số
lượng án sai, sửa, hủy vẫn rất nhiều, những sai sót đó gắn liền với những tồn tại như: có
những trường hợp Thẩm phán thiếu trách nhiệm, không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, cẩu
thả trong công tác chuẩn bị phiên tòa và trong phiên tòa cũng như trong viết bản án... đánh
giá chứng cứ không đầy đủ, không chính xác nên xét xử oan người không có tội, vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng hình sự, không áp dụng đầy đủ các quy định của pháp luật
hoặc các hướng dẫn phải áp dụng trong công tác xét xử.... Ví dụ: Tại bản án hình sự sơ
thẩm xét xử hai bị cáo Nguyễn Hữu Hoành và Nguyễn Hữu Thắng về tội cố ý gây thương
tích. Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo kháng cáo kêu bị xét xử oan, hai người bị hại
kháng cáo yêu cầu tăng hình phạt đối với các bị cáo. Tại bản án hình sự phúc thẩm số 26
ngày 15/5/2000, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đã xử y án sơ thẩm. Việc anh Lý và anh
Sơn bị đánh là có thật nhưng ai là người gây thương tích cho họ thì các cơ quan tiến hành
tố tụng chưa làm rõ. Theo biên bản giám định pháp y thì thương tích của anh Lý và anh
Sơn là do vật sắc nhọn gây ra, trong khi đó thì tài liệu trong hồ sơ lại thể hiện Nguyễn
Hữu Thắng là người cầm gậy, Nguyễn Hữu Hoành không có hung khí mà chỉ dùng tay
chân đấm đá anh Lý và anh Sơn. Lời khai của các bị cáo và người bị hại không thống

nhất, không phù hợp với thương tích của người bị hại. Tại phiên tòa hai bị cáo cũng
không nhận đã gây ra thương tích như vậy cho anh Lý và anh Sơn. Người có hung khí
sắc nhọn là Hoàng Tiến Long nhưng Long đang bỏ trốn. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án
cấp phúc thẩm không lắng nghe lời khai của bị cáo tại phiên tòa, không xem xét sự phù
hợp giữa các chứng cứ, sẵn định kiến do phụ thuộc quá nhiều vào hồ sơ vụ án, việc tranh
luận tại phiên tòa chỉ mang tính hình thức, dựa trên những cơ sở chưa vững chắc mà có
phán quyết các bị cáo phạm tội Cố ý gây thương tích. Do vậy, Tòa hình sự Tòa án nhân
dân tối cao đã ra quyết định hủy cả hai bản án nói trên để giải quyết lại từ giai đoạn điều
tra.
Ngược lại, có những trường hợp do đánh giá chứng cứ không chính xác, nhận
thức không đầy đủ về quy định của pháp luật nên lẽ ra phải kết án đối với bị cáo lại tuyên
bị cáo không có tội. Chẳng hạn, vụ án xảy ra tại khu vực phía Nam cầu Thanh Quýt, xã
Điện Thắng, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Tòa án nhân dân huyện Điện Bàn, tỉnh
Quảng Nam đã kết án Huỳnh Quảng về tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông
vận tải nhưng đã tuyên bố Nguyễn Tấn Anh không có tội. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng
Nam xử y án sơ thẩm.
Việc Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không kết án Nguyễn Tấn
Anh về tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải là không đúng, bởi lẽ qua
gương phản chiếu Nguyễn Tấn Anh biết rõ xe của Huỳnh Quảng đang vượt xe của mình,
trong khi đó, phía trước, bên phải đường cùng chiều với xe của Tấn Anh không có chư-
ớng ngại vật gì nhưng Tấn Anh đã không cho Huỳnh Quảng vượt mà còn chạy song song
một đoạn sau đó lại lái sang bên trái đường nên đã gây ra va chạm với xe của Huỳnh
Quảng và gây tiếp tai nạn giao thông. Nguyễn Tấn Anh đã không tuân thủ Điều lệ trật tự
an toàn giao thông đường bộ và trật tự an toàn đô thị quy định nên đã gây ra tai nạn. Bản
án trên đã bị hủy để xét xử lại từ giai đoạn sơ thẩm. Từ vụ án này có thể thấy rằng, Tòa
án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm do không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, nên đã
không đánh giá chứng cứ một cách đầy đủ toàn diện, không thấy được đề nghị truy tố của
Viện kiểm sát đã bỏ lọt tội phạm, khiến việc xét xử tại phiên tòa chỉ còn là hình thức,
việc tranh luận tại phiên tòa để làm rõ những điểm còn mâu thuẫn trong chứng cứ không
được coi trọng bởi đã dễ dàng thỏa mãn với kết luận điều tra và cáo trạng.

Ngoài những vụ án trên, còn những sai lầm trong các bản án khác khi xét xử
vắng mặt bị cáo nhưng không có lệnh truy nã và kết quả truy nã, xét xử bị cáo chưa thành
niên mà không có người đại diện hợp pháp của bị cáo hoặc nhà trường tham gia; xét xử
vắng mặt những người tham gia tố tụng khác- những người mà pháp luật cho phép tham
gia vào quá trình tranh tụng để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình (ví dụ như bản án
sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Hải Châu và bản án của Tòa án nhân dân thành phố
Đà Nẵng xét xử Lê Văn Ty khi phạm tội mới hơn 16 tuổi). Việc bị cáo và đại diện hợp
pháp cho bị cáo có mặt tại phiên tòa là những quy định bắt buộc của Luật tố tụng hình sự,
đó không chỉ là tuân thủ quy định tố tụng mà còn đảm bảo cho bị cáo được bào chữa, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình qua quá trình tranh tụng tại phiên tòa. Chính vì
vậy những bản án vi phạm đều đã bị hủy để giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.
Một ví dụ khác: Nguyễn Văn Thiết và đồng bọn có hành vi giết anh Nguyễn Huy
Hồng. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử vắng mặt người đại diện hợp pháp của người bị hại nhưng
có gửi bản án sơ thẩm nên đại diện hợp pháp của người bị hại đã làm đơn kháng cáo và gửi
cho Tòa án cấp sơ thẩm trong thời hạn luật định. Khi xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc
thẩm lại không triệu tập người đại diện hợp pháp của người bị hại tham gia phiên tòa và cũng
không xét kháng cáo của họ là không đúng pháp luật, và như vậy không đảm bảo cho bên bị
hại được trình bày trước tòa không chỉ là đưa ra những chứng cứ buộc tội bị cáo mà còn về
phần đòi bồi thường thiệt hại, không đảm bảo cho quyền lợi chính đáng của bên bị hại.
Mọi hoạt động xét xử các vụ án hình sự của Tòa án đã được quy định rất chặt chẽ
ở Bộ luật tố tụng hình sự từ giai đoạn chuẩn bị xét xử đến khi tuyên án, mọi diễn biến của
phiên tòa đều phải được phản ánh qua biên bản phiên tòa. Tuy nhiên, qua công tác giám
đốc việc xét xử cho thấy nhiều hoạt động tố tụng không được thể hiện trong hồ sơ vụ án,
diễn biến phiên tòa không được thể hiện trong biên bản phiên tòa, việc xét xử vắng mặt
những người tham gia tố tụng không đúng với quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự, nhiều
trường hợp người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa hay không cũng không được thể
hiện trong biên bản phiên tòa và trong bản án, nhiều trường hợp trong biên bản phiên tòa
ghi vắng mặt, còn trong bản án lại ghi có mặt, nhiều bản án hình sự sơ thẩm và bản án
hình sự phúc thẩm kết án đúng tội danh, quyết định đúng hình phạt nhưng xác định
không chính xác các tình tiết của vụ án, giữa phần nhận định với phần quyết định của bản

án không thống nhất, việc xác định họ tên của người phạm tội không chính xác. Ví dụ:
Trong quá trình chuẩn bị và xét xử vụ án Nguyễn Văn Tiễn phạm tội giết người theo
khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 1985, Tòa án cấp sơ thẩm đã có nhiều vi phạm về
tố tụng như: Quyết định đưa vụ án ra xét xử chỉ ghi họ tên Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa
và thư ký phiên tòa, không ghi những người tiến hành tố tụng khác và những người tham
gia tố tụng, sau bẩy ngày kể từ khi giao quyết định đưa vụ án ra xét xử đã mở phiên tòa,
tại phiên tòa Hội đồng xét xử không tiến hành thủ tục bắt đầu phiên tòa, biên bản phiên
tòa không thể hiện nội dung ý kiến của Luật sư bào chữa cho bị cáo, không thể hiện bị
cáo có nói lời sau cùng hay không, Chủ tọa phiên tòa không ký biên bản phiên tòa, như
vậy những vi phạm này không chỉ là vi phạm trong sự cẩu thả về tác phong lề lối làm
việc, trong quá trình chuẩn bị xét xử và xét xử tại phiên tòa mà còn cho thấy Hội đồng
xét xử không đề cao vai trò của tranh tụng trong quá trình xét xử vụ án (thiếu người tham
gia tố tụng, không thể hiện quá trình tranh tụng).
Ví dụ: Vụ án Nguyễn Đình Dăm, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 12 tháng tù
về tội trộm cắp tài sản. Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo kháng cáo. Tòa án cấp phúc thẩm
triệu tập Nguyễn Đình Dăm ngày 24/4/2003 phải có mặt để xét xử phúc thẩm, nhưng
ngày 22/4/2003 Tòa án cấp phúc thẩm đã mở phiên tòa xét xử vắng mặt bị cáo Dăm, khi
ra bản án lại đề ngày 24/4/2003.
Trong vụ án Nguyễn Quốc Yên có hành vi hiếp dâm chị Trần Bích Ngọc. Theo
lời khai của người bị hại và một số người làm chứng thì khi bị xâm hại người bị hại chưa
đủ 18 tuổi. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm cũng không khẳng định người bị
hại sinh ngày, tháng, năm nào, nhưng vẫn áp dụng khoản 1 Điều 111 Bộ luật hình sự đối
với bị cáo là không đúng. Trong giai đoạn xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng
xét xử phải yêu cầu Kiểm sát viên hỏi để xác định chính xác tuổi của người bị hại có căn
cứ quyết định xét xử bị cáo theo khoản 1 hay khoản 4 Điều 111 Bộ luật hình sự hoặc trả
hồ sơ để điều tra bổ sung.
Việc xem xét chứng cứ khi nghiên cứu hồ sơ và đánh giá chứng cứ trong quá
trình tranh tụng tại phiên tòa có vai trò rất lớn trong việc xác định sự thật khách quan của
vụ án nhưng vẫn có những trường hợp có Tòa án đánh giá không đúng dẫn đến bỏ lọt tội

phạm. Ví dụ: Vụ án Nguyễn Văn Hưng, Nguyễn Đình Tuấn, Bùi Văn Ninh. Tòa án cấp sơ
thẩm xác định Nguyễn Đình Tuấn và Bùi Văn Ninh phạm tội Giết người và tội Gây rối
trật tự công cộng, còn Nguyễn Văn Hưng phạm tội gây rối trật tự công cộng. Tòa án cấp
phúc thẩm tuyên bố cả ba bị cáo: Nguyễn Văn Hưng, Nguyễn Đình Tuấn, Bùi Văn Ninh
không phạm tội Gây rối trật tự công cộng. Trong hồ sơ vụ án thể hiện Nguyễn Văn Hưng
không trực tiếp gây nên cái chết cho anh Đỗ Văn Thành, nhưng đã cùng đồng bọn sử
dụng gậy đuổi theo và đánh anh Thành và anh Dũng. Đây là điểm còn chưa được làm
sáng tỏ, đáng ra Hội đồng xét xử cần tách riêng từng bị cáo ra để hỏi, hướng cho Kiểm
sát viên và Luật sư bào chữa tranh luận để làm rõ thêm về hành vi của Hưng xem có đồng
phạm tội giết người hay không? Riêng về tội gây rối trật tự công cộng trên trục đường
giao thông thuộc khu vực dân cư làm mất trật tự công cộng, anh Thành bị chết là hậu quả
nghiêm trọng của hành vi gây rối trật tự công cộng do Hưng và đồng bọn gây ra. Tòa án
cấp phúc thẩm cho rằng, hành vi gây rối của Nguyễn Văn Hưng chưa gây hậu quả
nghiêm trọng nên tuyên bố bị cáo không phạm tội gây rối trật tự công cộng là bỏ lọt tội
phạm. Như vậy, mặc dù trong hồ sơ cũng như tại phiên tòa đều có thể hiện hành vi phạm
tội của bị cáo Nguyễn Văn Hưng nhưng rõ ràng Hội đồng xét xử không hướng cho việc
tranh luận đi vào chiều sâu, việc tranh tụng tại phiên tòa mang tính hời hợt hình thức nên
đã bỏ lọt tội phạm. Đây là sai lầm rất nghiêm trọng nên Tòa án cấp giám đốc thẩm đã hủy
án.
Thực tế còn có những sai sót như có hành vi tuy Viện kiểm sát không truy tố
nhưng Tòa án vẫn xét xử, công tác chuẩn bị xét xử còn có trường hợp chưa thật chu đáo,
ngay cả những vụ án lớn được dư luận quan tâm. Đây là những sai sót thể hiện còn có
Thẩm phán vẫn chưa thực sự thấm nhuần tinh thần của Nghị quyết 08/NQ-TW về cải
cách tư pháp, nâng cao hiệu quả tranh tụng tại phiên tòa. Có trường hợp việc lập kế hoạch
xét hỏi còn sơ sài nên khi có tình huống mới phát sinh tại phiên tòa thì Chủ tọa thường
lúng túng trong cách xử lý. Ví dụ: Có bị cáo ra tòa không nói gì chỉ im như bị câm, mặc
dù bị cáo không bị câm, Chủ tọa phiên tòa không biết xử lý thế nào đành hoãn phiên tòa
và hỏi Tòa án cấp trên để hướng dẫn hoặc bị cáo ra phiên tòa không chịu trả lời những
câu hỏi của Chủ tọa mà lại nói về những việc không có liên quan gì đến vụ án, Chủ tọa

yêu cầu bị cáo ngừng nói nhưng bị cáo không ngừng mà còn nói hăng hơn, vậy là Chủ
tọa đành để bị cáo nói chán rồi thôi.
Có trường hợp tại cơ quan điều tra bị cáo nhận tội nhưng tại phiên tòa bị cáo
không nhận tội, trong trường hợp này thay vì hướng cho Kiểm sát viên tranh luận với bị
cáo để làm rõ những chứng cứ buộc tội, gỡ tội thì Hội thẩm nhân dân lại hỏi bị cáo rằng:
Bị cáo Hùng có biết bị cáo không nhận tội như vậy là bị cáo rất ngoan cố hay không? Bị
cáo nên biết rằng, nếu bị cáo thành khẩn khai nhận thì sẽ được hưởng tình tiết giảm nhẹ
theo điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Trong trường hợp đó rõ ràng là sự truy chụp
đối với bị cáo, bởi trách nhiệm chứng minh bị cáo phạm tội hay không phạm tội thuộc về
các cơ quan tiến hành tố tụng.
Có trường hợp ngay từ khi bị khởi tố bị can đến khi ra phiên tòa bị cáo luôn kêu
rằng không phạm tội, nhưng Chủ tọa cũng không triệu tập người làm chứng để trực tiếp
thẩm vấn công khai tại phiên tòa, mà công bố lời khai của người làm chứng tại cơ quan
điều tra để quyết định. Ví dụ như vụ án xét xử bị cáo Vân và Loan về tội Mua bán trái
phép chất ma túy, ngay từ khi bị bắt cho đến phiên tòa xét xử bị cáo Loan luôn kêu oan,
bị cáo Vân cũng khai rằng chỉ có mình bị cáo bán hêrôin, chỉ có lời khai của nhân chứng
khẳng định bị cáo Loan bán hêrôin nhưng nhân chứng không có mặt tại phiên tòa, hơn
nữa trong lời khai nhân chứng khi thực hiện hành vi bán hêrôin bị cáo Loan mặc áo màu
xanh nhưng tại phiên tòa bị cáo Loan khai rằng không có áo nào màu xanh. Bên cạnh đó,
các trinh sát vòng ngoài báo cáo nhìn thấy con nghiện đưa tiền cho bà Vân rồi bà Vân đã
cho con nghiện một gói thuốc chứ không nêu gì đến việc bị cáo Loan bán ma túy. Nhưng
Tòa án cấp sơ thẩm vẫn tuyên bị cáo Loan phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy, Tòa
phúc thẩm đã hủy án để điều tra lại. Quá trình đọc hồ sơ của Hội đồng xét xử chỉ là để
nắm được vấn đề để ra phiên tòa có được kế hoạch thẩm vấn lôgíc nhằm thẩm tra đánh
giá các chứng cứ được khách quan chứ không phải là tạo nên sự định kiến về tội đối với
bị cáo, nhưng đáng tiếc là còn có những Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân không nắm được
điều này nên việc tranh tụng tại phiên tòa không có ý nghĩa trong việc ra phán quyết.
Thực tiễn xét xử cho thấy, còn có phiên tòa được chuẩn bị rất công phu nhưng
Chủ tọa phiên tòa thiếu kinh nghiệm điều khiển phiên tòa, thậm chí không biết tiến hành

việc gì trước, việc gì sau, do đó kết quả đạt được tại phiên tòa không cao mà còn phản tác
dụng hoặc vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng tại phiên tòa. Việc xét hỏi tại phiên tòa
có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định bị cáo có tội hay vô tội, là giai đoạn quan trọng
trong quá trình tranh tụng, nên đòi hỏi Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên và những người
tham gia tố tụng phải tuân theo những quy định của pháp luật, đồng thời phải có một ph-
ương pháp xét hỏi phù hợp để xác định sự thật của vụ án. Ví dụ, trong vụ án Nguyễn
Thanh Long và Bạch Minh Nhật phạm tội tham ô tài sản, tại phiên tòa Luật sư bảo vệ
quyền lợi hợp pháp cho bị cáo Nhật phản bác cáo trạng rằng bị cáo không phạm tội do đã
khắc phục toàn bộ số tiền mà bị cáo chiếm đoạt của công ty TNHH Đại Phát, Luật sư đưa
ra giấy xác nhận của bộ phận thủ quỹ của công ty TNHH Đại Phát - bị cáo đã thanh toán
khoản tiền mà bị cáo có trách nhiệm quản lý trước ngày khởi tố vụ án. Với tình huống đó
Hội đồng xét xử đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Trong trường hợp này, Hội đồng xét xử
hoàn toàn có thể tách riêng hai bị cáo ra để thẩm vấn từng người, yêu cầu Kiểm sát viên
có ý kiến tranh luận về vấn đề này, kiểm tra xem giấy nhận tiền của bộ phận thủ quỹ có
dấu của công ty hay không hay chỉ có chữ ký của một cá nhân, căn cứ vào đơn trình báo
của công ty TNHH Đại Phát, lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, những dấu hiệu
trong hành vi của bị cáo Nhật tỏ rõ ý thức chiếm đoạt số tiền đó hay không v.v... và khi
các chứng cứ có mâu thuẫn với nhau, không có căn cứ khẳng định chứng cứ Luật sư đưa
ra là giả hay thật được làm sau khi khởi tố hay thực sự là trước khi khởi tố thì Hội đồng
xét xử mới trả hồ sơ.
Thực tiễn có những trường hợp nếu người tham gia tố tụng yêu cầu triệu tập
thêm nhân chứng mới hoặc đưa ra xem xét vật chứng tài liệu mới thì Hội đồng xét xử lại
đòi hỏi người đó phải đưa theo nhân chứng hoặc tài liệu, vật chứng đó ra trước phiên tòa
thì Hội đồng xét xử mới chấp nhận, điều đó là trái với quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự. Trong trường hợp này, nếu người tham gia tố tụng yêu cầu triệu tập thêm nhân chứng
hay chứng cứ mới và họ trình bày được tính liên quan của chứng cứ đó thì Tòa án phải có
trách nhiệm thu thập hợp pháp để đánh giá, xem xét trong giải quyết vụ án. Và trong trường
hợp đó phải hoãn phiên tòa để thu thập thêm chứng cứ mới theo quy định của pháp luật.
Có trường hợp thì lại có biểu hiện xét hỏi phiến diện, thiếu tính khách quan như
chỉ hỏi những tình tiết có ý nghĩa buộc tội (nếu đã có định kiến là bị cáo phạm tội) hoặc

ngược lại chỉ hỏi về các tình tiết gỡ tội (nếu đã cho là bị cáo không phạm tội - mặc dù
trường hợp này ít xảy ra). Chúng tôi cho rằng, để việc xét hỏi tại phiên tòa xét xử vụ án
hình sự có thể đạt được kết quả tốt, Hội đồng xét xử phải luôn luôn giữ được vai trò là
người trọng tài, mọi lời nói, cử chỉ tại phiên tòa phải được thể hiện vai trò trọng tài, phải
làm sao cho những người tham gia phiên tòa và những người đến dự phiên tòa nhận thấy
được điều đó.
Thực tế tại phiên tòa có Thẩm phán còn giải thích những tình tiết về nội dung vụ
án đối với những người tham gia tố tụng khác, đây là một nguyên nhân làm cho việc xét
xử thiếu khách quan, không đảm bảo dân chủ và cũng là cái cớ để những người tham gia
phiên tòa cho rằng, Tòa án và Viện kiểm sát là một, việc xét xử chỉ là hình thức còn mọi
thứ đã được quyết định sẵn. Có Chủ tọa phiên tòa, Kiểm sát viên có thói quen hoặc công
bố lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra trước khi họ khai tại phiên tòa về những tình
tiết của vụ án, nhất là những vụ án bị cáo thay đổi lời khai ngay tại cơ quan điều tra. Ví
dụ: Tại phiên tòa xét xử bị cáo Nguyễn Văn Hạnh, bị cáo không nhận tội, Chủ tọa đã giáo
dục bị cáo: "bị cáo có biết tại cơ quan điều tra bị cáo khai như thế nào không" rồi sau đó
lấy bản cung ra đọc và giáo dục bị cáo phải khai báo thành khẩn... việc làm này không
chỉ trái với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành mà còn vi phạm tinh thần
tranh tụng [35].
Có những trường hợp Chủ tọa phiên tòa cũng như Kiểm sát viên không để bị cáo
trình bày ý kiến về bản cáo trạng và những tình tiết của vụ án mà thường đặt câu hỏi ngay
về hành vi phạm tội của họ. Có trường hợp Chủ tọa phiên tòa còn giải thích cho bị cáo là:
"những ý kiến không đồng ý với bản cáo trạng sẽ trình bày sau ở giai đoạn tranh tụng".
Việc làm này cũng đã vi phạm quy định tố tụng tại Điều 209 Bộ luật tố tụng hình sự, tr-
ước hết Chủ tọa nghe bị cáo trình bày toàn bộ ý kiến của họ về bản cáo trạng, về những
điểm đồng ý và không đồng ý, sau đó có kế hoạch thẩm vấn cũng như chủ trì cho Kiểm
sát viên và Luật sư tranh luận về những điểm bị cáo đưa ra đó, như vậy mới khách quan
và đúng với tinh thần tranh tụng.
Luật đã quy định người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ được quyền trình bày ý kiến

để bảo vệ quyền và lợi ích của mình, nếu những người này có Luật sư bảo vệ quyền lợi
thì Luật sư trình bày trước, những người đó bổ sung sau; nhưng thực tiễn cho thấy rằng
nhiều vụ án do hạn chế về thời gian mà thủ tục này bị vi phạm, những đương sự này
không được trình bày hoặc trình bày không hết ý kiến của mình. Thậm chí có trường hợp
họ cũng không được xét hỏi ở giai đoạn trước đó. Đây là những vi phạm thủ tục tố tụng
nghiêm trọng và cũng là vi phạm tinh thần của tranh tụng tại phiên tòa.
Có trường hợp sau khi Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, bị cáo không đồng ý
với lời luận tội đó Chủ tọa cũng không yêu cầu bị cáo, Luật sư đưa ra lý do tại sao không
đồng ý, yêu cầu đưa ra những chứng cứ, những căn cứ phản bác lại lời luận tội mà lại công
bố lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, như vậy là vi phạm tố tụng và vi phạm tinh thần
tranh tụng đã được hướng dẫn.
Thực tiễn xét xử hiện nay còn tồn tại thiếu sót của Thẩm phán - Chủ tọa phiên
tòa là khi xét hỏi bị cáo thường thẩm vấn theo hướng buộc tội như cáo trạng của Viện
kiểm sát, giúp Viện kiểm sát bảo vệ cáo trạng. Không ít trường hợp Kiểm sát viên tham
gia phiên tòa trong suốt thời gian xét hỏi không hỏi một câu nào mà chỉ đọc bản cáo trạng
rồi ngồi xem Hội đồng xét hỏi khi nào kết thúc phần xét hỏi thì đọc bản luận tội. Vai trò
của Kiểm sát viên tại phiên tòa chỉ như người chứng kiến, rõ ràng là Kiểm sát viên đã
không ý thức được mình là một bên không thể thiếu của quá trình tranh luận tại phiên tòa,
dường như việc xét hỏi và tranh luận là của Hội đồng xét xử.
Thực tiễn cho thấy, có những Kiểm sát viên không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án,
không có sự chuẩn bị kỹ càng nên ra phiên tòa không thể hỏi nhiều và điều hiển nhiên là
đến phần tranh luận không thể đối đáp, nên nhiều khi cuộc tranh luận đang được Luật sư
trình bày rất hùng hồn thì trở lên tắt ngấm bởi những câu trả lời rập khuôn, máy móc của
đại diện Viện kiểm sát.
Có những phiên tòa còn diễn ra một cách tẻ nhạt và như được sắp đặt trước, kết
luận của Kiểm sát viên theo một khuôn mẫu chung, thiếu dẫn chứng cụ thể để lý giải rành
mạch, chi tiết, nhất là những vấn đề còn mâu thuẫn. Những lý lẽ, lập luận, đối đáp của
Kiểm sát viên thường không đúng bản chất từng việc mà Luật sư đưa ra hoặc trả lời
không đầy đủ, dẫn đến việc tranh luận mang tính hình thức, phiến diện. Ví dụ, trong vụ

án xét xử bị cáo Lục Văn Dũng và Nguyễn Văn An về tội Môi giới mại dâm, Luật sư bào
chữa cho bị cáo Lục Văn Dũng trình bày lời bào chữa rằng hành vi của bị cáo Dũng chưa
đủ yếu tố cấu thành tội Môi giới mại dâm, vì Dũng không phải là người trung gian do
không biết người mua dâm cũng như không giới thiệu gái bán dâm cho khách. Hành vi
của Dũng chỉ là giúp sức cho gái bán dâm. Đồng thời, Luật sư cho rằng các bị cáo không
phạm tội có tổ chức vì giữa các bị cáo không có sự câu kết chặt chẽ. Hành vi phạm tội lần
này của bị cáo Dũng không phải là tái phạm nguy hiểm vì không thuộc một trong hai
trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự. Xét hành vi của bị cáo Dũng
không thuộc trường hợp rất nghiêm trọng bởi các cô gái bán dâm cần một người giúp đỡ
nên không gặp Dũng thì sẽ là một người khác. Lời bào chữa như trên của Luật sư không
phải là khó bác bỏ bằng cách chứng minh từng vấn đề với các chứng cứ đã được thẩm tra
tại phần xét hỏi, vả lại ngay chính lời bào chữa cũng có những điểm mâu thuẫn, không
lôgíc và chặt chẽ nhưng đại diện Viện kiểm sát đã không tranh luận hết về từng vấn đề
Luật sư đưa ra mà chỉ nêu rằng: giữa bị cáo Lục Văn Dũng và Nguyễn Văn An có sự câu
kết chặt chẽ thực hiện hành vi môi giới mại dâm. Bị cáo Dũng còn một tiền án chưa được
xóa án tích nên bị cáo phạm tội lần này là tái phạm nguy hiểm.
Một vấn đề rất phổ biến là khi Chủ tọa yêu cầu Kiểm sát viên tranh luận với Luật
sư và bị cáo về vấn đề cần làm sáng tỏ thì đại diện Viện kiểm sát thường là nêu lại lời
khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, đọc lại bản cáo trạng hoặc chỉ kết luận rằng tôi giữ
nguyên quan điểm như đã truy tố, đây là việc thể hiện rõ nét nhất của năng lực, trình độ
hạn chế của Kiểm sát viên, và như thế đã vi phạm tinh thần tranh tụng đã được nêu trong
Nghị quyết 08/NQ-TW, đồng thời vi phạm quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Thực tiễn xét xử cho thấy, Luật sư là một bên của quá trình tranh tụng nhưng
nhiều trường hợp bài bào chữa chỉ mang nặng việc khai thác các tình tiết tăng nặng, giảm
nhẹ hoặc bắt bẻ về câu chữ, hay những lỗi tố tụng nhỏ mà không đi vào những tình tiết
của vụ án một cách toàn diện, để khai thác bảo vệ quyền lợi chính đáng của bị cáo. Có
trường hợp tại phiên tòa Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng biện pháp tư
pháp đưa vào trường giáo dưỡng, thì luật sư bào chữa cho bị cáo lại đề nghị Hội đồng xét
xử "phạt tù nhưng cho hưởng án treo". Có những bài bào chữa hành vi phạm tội đã quá rõ
ràng nhưng Luật sư vẫn cố tình bảo vệ quyền và lợi ích không hợp pháp của bị cáo, quên

mất rằng Luật sư cũng có nhiệm vụ phải bảo vệ pháp luật. Có những Luật sư ra phiên tòa
chỉ vì trách nhiệm được mời theo yêu cầu của các cơ quan tiến hành tố tụng nên hiệu quả
không cao.
Tại nhiều phiên tòa, Luật sư tuổi đã ngoài bẩy mươi nhưng vẫn tham gia bào
chữa, khi đó họ nói nghe còn không rõ, còn nói gì đến việc tranh luận yêu cầu phải có sự
nhạy bén trong tư duy, lời nói phải vang vọng đầy sức thuyết phục.
Có những Luật sư nhận lời bào chữa cho bị cáo rồi nhưng đồng thời cũng nhận
bào chữa cả cho bị cáo khác, việc tập trung bảo vệ quyền lợi cho các bị cáo không được
đảm bảo nên tại phiên tòa vắng mặt chỉ gửi lời bào chữa hoặc bào chữa quýnh quáng, bào
chữa không dựa vào tình tiết gỡ tội được kiểm chứng tại phiên tòa mà theo chương trình
bào chữa có sẵn. Có trường hợp bào chữa cấp cứu đọc hồ sơ "tốc hành" viết luận cứ bào
chữa cũng "tốc hành" nên chỉ mượn cáo trạng của Viện kiểm sát đọc qua rồi cũng nhất trí
với quan điểm của Viện kiểm sát miễn sao có bài bào chữa tại phiên tòa. Nhiều trường
hợp vắng mặt tại phiên tòa mà không báo trước, không gửi bản bào chữa khiến Tòa án
phải hoãn phiên tòa v.v...
Chính vì chất lượng, đạo đức nghề nghiệp của Luật sư còn có những hạn chế mà
nhiều phiên tòa Luật sư có mặt cũng vẫn không đem lại hiệu quả. Điều này không chỉ là
không thuyết phục được Hội đồng xét xử, mà còn gây phản cảm cho những người tham
dự phiên tòa.
Tranh tụng tại phiên tòa trong giai đoạn hiện nay còn có những bất cập, hạn chế
như vậy không khỏi khiến những người học luật và làm công tác luật phải băn khoăn suy
nghĩ, việc tìm ra nguyên nhân của những hạn chế đó nhằm góp một tiếng nói trong việc
hoàn thiện tranh tụng, nâng cao hiệu quả tranh tụng là nhiệm vụ của mỗi chúng ta.
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế
2.3.1. Về pháp luật
Pháp luật tố tụng hình sự hiện hành ở nước ta tuy đã có những quy định cho việc
đảm bảo tranh tụng tại phiên tòa, tuy nhiên những quy định đó vẫn chưa đáp ứng được

yêu cầu của cải cách tư pháp, vẫn còn những hạn chế, bất cập. Trong phạm vi nghiên cứu
này, chúng tôi nêu ra những hạn chế sau:
Trước hết, trong Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành chưa quy định tranh tụng là
một nguyên tắc của hoạt động xét xử, vì vậy trong từng điều luật tại các chương về xét xử
cũng chưa thể hiện hết toàn bộ tinh thần của tranh tụng và như thế việc đảm bảo cho
tranh tụng tại phiên tòa chưa đạt hiệu quả cao nhất.
Trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nên có vai trò là trọng tài phán
quyết vụ án, để việc xét hỏi theo hướng buộc tội là của đại diện Viện kiểm sát việc xét
hỏi theo hướng gỡ tội là của luật sư bào chữa. Tuy nhiên, Bộ luật tố tụng hình sự hiện
nay vẫn có những điểm chưa phù hợp, điều đó làm cho các chủ thể tham gia tranh tụng
không nhận thức đúng và đầy đủ về vai trò của mình trong tranh tụng nên không tích cực,
chủ động trong việc thực hiện chức năng của mình mà ỷ lại và phụ thuộc vào Tòa án. Ví
dụ những quy định tại các điều từ Điều 207 đến Điều 215 như hiện nay vẫn còn đặt quá
nặng trách nhiệm chứng minh lên vai Hội đồng xét xử.
Tòa án nên có vai trò là trọng tài trong quá trình giải quyết vụ án nhưng hiện nay quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự còn quy định tại Điều 104 là được quyền khởi tố vụ án,
theo quy định này rõ ràng là Tòa án lại thực hiện chức năng buộc tội, quy định như vậy
không nhất quán và không khách quan. Hơn nữa thực tiễn cho thấy những vụ án do Hội
đồng xét xử khởi tố là hầu như không có. Quy định này vừa không có chỗ đứng trong
thực tiễn cũng như trong lý luận nhưng cho đến nay vẫn còn tồn tại. Cũng như vậy quy
định tại Điều 10 Bộ luật tố tụng hình sự: "Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về
các cơ quan tiến hành tố tụng" trong đó có Tòa án, như vậy phải chăng Tòa án cũng là
một cơ quan có chức năng buộc tội, vì quy định như vậy nên còn có quan điểm "tố tụng
hình sự Việt Nam là một hệ tố tụng riêng biệt có tên gọi là tố tụng buộc tội" không phải
là không có cơ sở của nó [8], các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đều phải
chứng minh tội phạm và là các tầng nấc khác nhau và cao hơn cả liên tiếp của hoạt động
buộc tội.
Nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử có mối liên hệ chặt chẽ với các
nguyên tắc khác của tố tụng hình sự tạo thành một hệ thống thống nhất, đồng thời chịu sự

tác động qua lại lẫn nhau đặc biệt là đối với các nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của
bị can, bị cáo nguyên tắc xác định sự thật khách quan về vụ án và nguyên tắc giả định bị
cáo vô tội. Nguyên tắc này là điều kiện bảo đảm cho nguyên tắc kia và ngược lại. Nguyên
tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử bảo đảm cho các chủ thể (trong đó bị cáo, người
bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bị cáo là một bên) tham gia tranh tụng các quyền tố tụng
bình đẳng tức là tạo ra khả năng để các chủ thể nói chung và bị cáo nói riêng bảo vệ một
cách có hiệu quả các quyền và lợi ích hợp pháp của mình và chính nhờ vậy mà Tòa án có
thể xem xét vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ để có quyết định đúng đắn
về vụ án.
Thứ hai, bảo đảm sự bình đẳng giữa các chủ thể tham gia tranh tụng là một điều
kiện cơ bản của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa (đã được quy định tại Điều 19 Bộ luật
tố tụng hình sự 2003). Nó là cơ sở để xác định tư cách tố tụng của người bào chữa, bị cáo
không chỉ là một chủ thể mà còn là một bên tham gia tranh tụng bình đẳng với bên buộc
tội. Tuy nhiên, việc thể hiện nội dung ấy tại các điều luật cụ thể vẫn chưa được các nhà
làm luật quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Ví dụ: tại các điều 187, 189, 190,
245, 280 Bộ luật tố tụng hình sự quy định trong mọi trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt
phải hoãn phiên tòa, trong khi đó người bào chữa hoặc bị cáo và các chủ thể khác vắng
mặt thì vẫn có thể tiến hành xét xử vụ án. Chúng tôi cho rằng, quy định như vậy là chưa
đảm bảo sự bình đẳng giữa các bên trong tranh tụng, tuy tiện lợi cho các cơ quan tiến
hành tố tụng nhưng sẽ không bảo đảm được các quyền lợi của công dân đặc biệt là của bị
cáo. Sự vắng mặt của Luật sư và của bị cáo ở phiên tòa sẽ làm cho quá trình tranh tụng
mất đi ý nghĩa của nó bởi thiếu một bên tham gia và một chức năng quan trọng là bào
chữa không được thực hiện.
Thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử cho thấy rằng, phần lớn các trường hợp vi
phạm nghiêm trọng pháp luật từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng đều không có sự tham
gia của Luật sư vào quá trình tố tụng hình sự. Sự tham gia của Luật sư trong quá trình tố
tụng quan trọng như vậy, nhưng những quy định của pháp luật tạo điều kiện cho hoạt
động nghiệp vụ của Luật sư còn bó buộc. Ví dụ như: Việc cấp giấy chứng nhận bào chữa
cho Luật sư còn phức tạp, Luật sự chỉ được hỏi người bị tạm giữ, bị can; được tham gia
các hoạt động điều tra khi Điều tra viên đồng ý; hoặc tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi

thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao
cho cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án
v.v...
Các bên có được những chứng cứ xác thực, có giá trị để tham gia tranh tụng tại
phiên tòa thì việc tham gia thu thập chứng cứ ngay từ giai đoạn đầu tiên là rất quan trọng,
nhất là ở giai đoạn khởi tố, điều tra, nhưng chỉ có cơ quan điều tra là có điều kiện nhiều
nhất để làm việc đó, còn việc đảm bảo để người bào chữa cho bị can được tham gia bào
chữa ngay từ giai đoạn đầu chưa thực thi được trên thực tế. Theo khoản 2 Điều 57 Bộ
luật tố tụng hình sự, nếu bị can hoặc người đại diện hợp pháp cho họ không mời người
bào chữa thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải yêu cầu đoàn luật sư chỉ định Văn phòng
luật sư cử người bào chữa cho họ; nhưng quy định này đã không được các cơ quan điều
tra và Viện kiểm sát quan tâm, và ngay cả khâu kiểm tra việc thực hiện cũng không được
chú trọng nên thường bỏ mặc cho bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ mời người
bào chữa; phải đến khi Tòa án có quyết định ra xét xử thì Tòa án mới mời.
Theo quy định của Điều 107 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003: "Trước khi hỏi
cung, điều tra viên phải giải thích các quyền và nghĩa vụ cho bị can". Trên thực tế, hầu
hết các bị can, nhất là bị can đang bị tạm giam (kể cả các trường hợp bị can theo quy định
tại khoản 2 Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự) đều không được điều tra viên giải thích hoặc
giải thích không đầy đủ về quyền được nhờ người khác bào chữa, quyền được cơ quan
tiến hành tố tụng yêu cầu Đoàn Luật sư chỉ định Văn phòng Luật sư cử người bào chữa
cho mình. Cho nên, trong thời gian chưa kết thúc điều tra vụ án, hầu hết các bị can đang
bị tạm giam đều không nhờ người khác bào chữa cho mình thông qua cơ quan điều tra
hay được cơ quan điều tra yêu cầu Văn phòng Luật sư cử người bào chữa, mặc dù họ
đang có nhu cầu này (nếu họ có người bào chữa là do người khác mời).
Đối với trường hợp người đại diện hợp pháp của bị can đang bị tạm giam mời
người bào chữa: Hiện nay, do chưa có quy định thống nhất về trình tự, thủ tục này, cũng
như cơ quan điều tra không muốn người bào chữa tham gia tố tụng khi vụ án chưa kết thúc
điều tra, nên việc mời người bào chữa cho bị can phải thông qua nhiều công đoạn với những
thủ tục phức tạp. Trước hết, họ phải có đơn mời người bào chữa cho bị can (đơn phải được

cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận về nhân thân pháp lý của họ). Đơn này phải nộp
cho cơ quan điều tra để lấy chữ ký của bị can đang bị tạm giam trong việc chấp nhận người
bào chữa (chỉ khi có chữ ký của bị can, đơn mới hợp lệ). Khi có đủ các điều kiện này, luật sư
mới "đủ tư cách" đến cơ quan điều tra đăng ký bào chữa cho bị can.
Mặc dù đã có các thủ tục cần thiết, nhưng đối với các trường hợp đăng ký bào
chữa cho bị can trong thời gian điều tra vụ án đều bị cơ quan điều tra tìm cách từ chối
khéo việc chấp nhận người bào chữa. Còn nếu được chấp nhận tham gia bào chữa từ giai
đoạn này, họ cũng khó có cơ may thực hiện được đầy đủ trách nhiệm bào chữa của mình
vì theo các Điều tra viên, sự có mặt của người bào chữa sẽ gây khó khăn, phức tạp trong
việc lấy lời khai bị can, thậm chí còn gây trở ngại cho công việc của họ. Cho nên họ đều
không muốn người bào chữa biết thời gian họ lấy lời khai bị can và các hoạt động tố tụng
liên quan. Vì thế, người bào chữa thường phải "đứng ngoài cuộc" trong các hoạt động tố
tụng của cơ quan điều tra. Nếu trường hợp được tiếp xúc với bị can, thì do pháp luật
không quy định và hướng dẫn cụ thể trường hợp nào người bào chữa được gặp riêng bị
can, trường hợp nào việc gặp bị can phải có sự giám sát của người tiến hành tố tụng,
giám thị trại giam v.v... Vì thế, mọi trường hợp người bào chữa tiếp xúc với bị can đều có
điều tra viên hoặc giám thị ngồi bên cạnh, nên nếu dù họ bị bức cung hoặc dùng nhục
hình thì vì địa vị pháp lý của họ mà không dám thổ lộ với người bào chữa.
Chức năng bào chữa là một chức năng quan trọng trong quá trình tranh tụng, đây
là trách nhiệm nghề nghiệp đồng thời cũng là nghĩa vụ của Luật sư trước bị can, bị cáo.
Tuy nhiên, trong Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật hiện hành chưa xác
định rõ tư cách tố tụng của Luật sư bào chữa trong tranh tụng và nghĩa vụ pháp lý của họ
trước bị can, bị cáo; các tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, năng lực và sức khỏe đối với
những người hành nghề Luật sư cũng chưa được quy định chặt chẽ. Điều đó làm hạn chế
đến khả năng thực hiện chức năng và nghĩa vụ của Luật sư trong quá trình tranh tụng.
Thứ ba, về giới hạn xét xử của Tòa án. Tại phiên tòa phán quyết của Tòa án phải
dựa trên việc xem xét đánh giá những chứng cứ được đưa ra và tranh luận giữa các bên.
Thế nhưng khi qua thẩm tra và đánh giá chứng cứ nếu xét thấy bị cáo phạm tội khác nặng
hơn thì Hội đồng xét xử cũng không có quyền ra phán quyết về tội nặng hơn đó theo quy

định tại Điều 196 Bộ luật tố tụng hình sự: "Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành
vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố... Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác
với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng
hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố". Trong trường hợp này Hội đồng xét xử
chỉ có thể căn cứ vào Điều 179 Bộ luật tố tụng hình sự trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều
tra bổ sung. Như vậy, thủ tục này phải qua những khâu tố tụng lòng vòng mới giải quyết đ-
ược vụ án, từ đó cho thấy tranh tụng tại phiên tòa chưa phải là căn cứ có tính quyết định
với phán quyết của Tòa án.
Thứ tư, Viện kiểm sát là cơ quan đại diện cho Nhà nước thực hành quyền công
tố, nói một cách khác, Viện kiểm sát là bên buộc tội thế nhưng Viện kiểm sát lại kiêm
luôn cả chức năng kiểm sát việc xét xử, như vậy rõ ràng là không thể khách quan. Cần
phải xác định Viện kiểm sát chỉ thực hành quyền công tố vì như vậy mới tránh tình trạng
vừa đá bóng và thổi còi, đồng thời Viện kiểm sát sẽ chuyên sâu hơn về nhiệm vụ của
mình. Trong khi đó hiện tại chức năng kiểm sát xét xử của Viện kiểm sát cũng không
phát huy được tác dụng.
Cuối cùng, ngoài những nguyên nhân trong những quy định tại pháp luật tố tụng
hình sự còn có những hạn chế trong các văn bản pháp luật khác về tổ chức hoạt động của
cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, tổ chức luật sư, tổ chức giám định tư pháp. Ví dụ
như: Văn bản có tính pháp lý cao nhất điều chỉnh lĩnh vực giám định tư pháp chỉ mới là
Nghị định 117/HĐBT, chưa có sự quy định hoàn toàn đầy đủ về lĩnh vực này như: phạm
vi giám định tư pháp, mô hình giám định tư pháp, quyền và nghĩa vụ của người giám
định tư pháp, vấn đề trưng cầu giám định v.v...
2.3.2. Nguyên nhân về những người liên quan đến tranh tụng tại phiên tòa
Trong tất cả những nguyên nhân dẫn đến việc tranh tụng tại phiên tòa không
đúng với tinh thần tranh tụng nổi lên một nguyên nhân cơ bản đó là yếu tố con người.
Những sai lầm trong việc xét xử oan sai, là một sai lầm nghiêm trọng và tại phiên tòa nó
được thực hiện bởi Hội đồng xét xử và Kiểm sát viên. Hiện nay còn có những trường hợp
mà năng lực, phẩm chất của Thẩm phán, Kiểm sát viên, Hội thẩm nhân dân không đạt
yêu cầu. Trong đó vấn đề cơ bản nhất là ý thức trách nhiệm, bản lĩnh chính trị và nghề

nghiệp của một số người tiến hành tố tụng chưa cao, một số khác thì sa sút về phẩm chất
đạo đức, không chịu rèn luyện bản lĩnh chính trị và nghề nghiệp. Trong quá trình xét xử,
chất lượng phụ thuộc rất nhiều vào vai trò điều khiển của Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa,
vai trò chủ động xét hỏi tranh luận của Kiểm sát viên. Do đó đòi hỏi họ phải vừa là người
có cái tâm trong sáng đồng thời vừa là người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững
vàng. Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị đã có từ ngày 2/1/2002 nhưng tinh thần
của nó về tranh tụng không phải là đã được toàn bộ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân,
Kiểm sát viên quán triệt. Ngay khi có Nghị quyết, việc đổi mới thủ tục xét hỏi và tranh
luận tại phiên tòa đã được Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao triển
khai thực hiện ngay và quán triệt đến từng cán bộ, nhưng việc nắm bắt và vận dụng nó
còn tùy thuộc vào ý thức mỗi người, nhất là trong giai đoạn hiện nay cơ chế để tạo ra
tranh tụng vẫn còn chưa hoàn thiện.
Năng lực của Thẩm phán, Kiểm sát viên có vai trò rất lớn đến chất lượng của quá
trình tranh tụng tại phiên tòa, được thể hiện ở hai khía cạnh là trình độ chuyên môn
nghiệp vụ và kinh nghiệm khi tham gia phiên tòa, đối với Thẩm phán là kỹ năng điều
khiển phiên tòa và Kiểm sát viên là kỹ năng tranh tụng. Trong đó trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ có ảnh hưởng rất lớn vì chủ yếu các trường hợp án bị cải sửa, hủy là do việc
nắm và vận dụng pháp luật của Thẩm phán và Kiểm sát viên còn hạn chế.
Kinh nghiệm cũng có vai trò rất quan trọng bởi thực tiễn và lý thuyết rất khác xa
nhau, có những trường hợp do kinh nghiệm xét xử chưa nhiều nên khi gặp những tình
huống phức tạp thì ngay lập tức đưa hoạt động xét xử tại phiên tòa vào đúng quỹ đạo là
rất khó khăn. Đối với Kiểm sát viên ngoài việc nắm vững những chi tiết của vụ án, việc
nắm được những quy định của pháp luật thì kỹ năng tranh tụng cũng đóng vai trò quan
trọng bởi đôi khi những điều nắm được ấy phải thể hiện ra bằng sự diễn thuyết và đối đáp
ngay lập tức với Luật sư. Và để kỹ năng được nhuần nhuyễn trở thành khả năng hùng
biện thì họ cũng cần phải có sự trải nghiệm nhiều lần qua các phiên tòa.
Chất lượng Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân phụ thuộc rất nhiều vào
việc họ tự học tập nâng cao trình độ, nhưng còn có những người không chịu học tập nâng
cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, vì vậy có những sai sót trong công tác. Đặc biệt về đội

ngũ Kiểm sát viên hiện nay trình độ cao đẳng và trình độ trung cấp là rất phổ biến, như vậy về
trình độ chuyên môn là chưa đảm bảo.
Thực hiện tinh thần cải cách tư pháp theo Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính
trị về đề cao tranh tụng tại phiên tòa, hầu hết các phiên tòa đều đã thể hiện việc tranh
tụng, có điều việc tranh tụng thực sự mang tính bình đẳng, hiệu quả hay chỉ mang tính
hình thức thủ tục lại là điều chúng ta phải bàn bởi lẽ, hiện nay một trong những nhân tố
chính đem lại thành công của một phiên tòa tranh tụng ở nước ta là Luật sư xem ra lại
thiếu về số lượng và kém về chất lượng. ở nước ngoài, đặc biệt là ở các nước theo hệ
tranh tụng, phiên tòa xét xử vụ án hình sự nào cũng có Luật sư tham gia, còn ở nước ta
với đội ngũ Luật sư mới chỉ khoảng 2.000 người thì việc tổ chức một phiên tòa tranh tụng
sẽ trở nên rất khó khăn vì số lượng luật sư quá ít so với hơn 40.000 vụ án mà chúng ta đem
ra xét xử hàng năm. Hơn nữa, đội ngũ Luật sư ở nước ta chủ yếu tập trung ở thành phố, thị
xã, thị trấn; ở vùng sâu, vùng xa tìm được Luật sư là rất khó.
Luật sư tham gia bào chữa còn nặng về khai thác các tình tiết gỡ tội, giảm nhẹ
nên các bài bào chữa của họ cũng ít quan tâm tới việc làm rõ các tình tiết của vụ án một
cách đầy đủ, toàn diện; thậm chí có những Luật sư có việc làm không trong sáng, làm lộ
bí mật điều tra hòng chạy tội cho bị can, bị cáo. Chính những biểu hiện, việc làm của
Luật sư đã tự cản trở việc thực hiện quy định người bào chữa tham gia tố tụng kể từ khi
khởi tố vụ án và tiếng nói của Luật sư bào chữa trong một vài vụ án chưa được người dân
đồng tình, coi trọng [30, tr. 6-7].

Có thể nói, để Luật sư tham gia vào tranh tụng trong tố tụng hình sự cũng có
nghĩa là chúng ta mở ra một sân chơi thực sự cho các Luật sư, đây cũng là cơ hội lớn để
các Luật sư có thể phát huy được sở trường của mình, nhưng liệu họ có thể làm hài lòng
các nhà lập pháp, làm nản lòng các công tố viên và tìm được sự đồng lòng của nhân dân
hay không thì điều đó không ai dám chắc.
Theo Cục trợ giúp pháp lý của Bộ Tư pháp thông báo thì trong các vụ án mà
chúng ta đưa ra xét xử có tới 70% số vụ án không có Luật sư, 30% số vụ án hình sự còn
lại mà có sự tham gia của Luật sư thì hầu hết việc tranh cãi chỉ xoay quanh quan điểm
định tội danh hoặc tìm ra những chỗ chưa hoàn chỉnh của công tác điều tra để "bắt bẻ"

chứ rất hiếm khi đưa ra được những bằng chứng phản bác đắt giá... chưa kể sự mâu
thuẫn, căng thẳng trong khi tranh cãi thay vì phải xuất phát từ sự cọ xát về chứng cứ, về
luận điểm thì đôi lúc chỉ vì thái độ, ngôn ngữ mang tính hình thức. Nhiều lúc công đoạn
tranh luận chỉ là sự công kích giữa hai phía buộc tội và gỡ tội, tuy là có kịch tính nhưng
nhiều khi lại làm mất đi vẻ uy nghiêm của một phiên tòa. Điều này có một phần nguyên
nhân từ năng lực của Luật sư. Thực tế hiện nay là điều kiện kinh tế để bị cáo và người nhà
thuê Luật sư là không phổ biến nên nhiều khi Luật sư phải làm thêm các dịch vụ pháp lý
khác, chưa kể có người còn có những công việc khác bên cạnh nghề Luật sư, nhiều Luật
sư hiện nay là các cán bộ hưu trí, điều này làm cho kinh nghiệm và kỹ năng của Luật sư
bị dàn trải, hạn chế năng lực chuyên sâu của Luật sư. Đồng thời, việc đào tạo Luật sư còn
nhiều bất cập như chưa thực sự chuyên sâu về đào tạo nghề, những Luật sư thực sự giỏi
trong nghề hiện nay là do tố chất của bản thân kết hợp với kinh nghiệm thực tiễn mà có. Cơ
chế đào tạo cũng như quy trình để được cấp bằng Luật sư vẫn chưa thật sự thúc đẩy chất
lượng kiến thức và kỹ năng hành nghề Luật sư. Một thực tế cho thấy còn nhiều Luật sư
Việt Nam chưa được đào tạo theo chức danh pháp lý, nhiều Luật sư chưa có trình độ trung
cấp, cao đẳng hoặc đại học luật.
Pháp lệnh luật sư quy định điều kiện để hành nghề luật sư quá đơn giản nên trình
độ của nhiều Luật sư sẽ không đáp ứng được với yêu cầu bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho
bị cáo với tư cách là một bên tranh tụng. Một người vừa tốt nghiệp đại học luật, không
ràng buộc về loại hình đào tạo có thể thi tuyển vào khóa đào tạo Luật sư 6 tháng, sau khi
tốt nghiệp tập sự 2 năm là có thể hành nghề Luật sư. Khi trình độ của Luật sư không đáp
ứng được với nhu cầu của thực tế, ngay bản thân họ lúc làm việc cũng gặp khó khăn mà
trình độ yếu kém dễ dẫn đến những tắc trách trong nghề nghiệp hoặc thậm chí tham gia
vào đường dây chạy án. Trong khi đó Thẩm phán, Kiểm sát viên dù trẻ cũng phải có
thâm niên công tác trong ngành theo luật định ít nhất là 4 năm và thực tế còn nhiều hơn
như thế. Từ sự không ngang bằng về trình độ thì dù cho pháp luật có tạo điều kiện bình
đẳng về địa vị pháp lý giữa bên bị buộc tội và bên gỡ tội thì Luật sư cũng không thể bình
đẳng được trên thực tế.
Với một số lượng Luật sư ít ỏi lại có chuyên môn không cao, đây thực sự là một
vật cản rất lớn trong quá trình đổi mới hoạt động xét xử ở nước ta theo hướng tranh tụng.

Kết quả hoạt động của đội ngũ giám định viên cũng rất quan trọng, nhiều trường
hợp kết quả giám định có tính chất quyết định đến việc bị cáo có tội hay không có tội;
trong khi đó hệ thống pháp luật của nước ta về đội ngũ này chưa hoàn thiện, nên đội ngũ
giám định viên còn thiếu, trình độ của nhiều người còn hạn chế không đảm bảo hoàn
thành được một cách tốt nhất nhiệm vụ được giao, từ đó có ảnh hưởng nhất định đến chất
lượng và hiệu quả công tác xét xử của Tòa án.
Tham gia vào quá trình tranh tụng còn có bị cáo, người bị hại, người liên quan
v.v... nhưng nhận thức, ý thức pháp luật trong một bộ phận nhân dân vẫn còn hạn chế. Họ
tham gia vào các giai đoạn tố tụng còn chưa nắm vững được luật để bảo vệ quyền lợi hợp
pháp cho mình, nên chưa thể ý thức được rằng họ tham gia vào quá trình tố tụng ấy cũng
là để bảo vệ pháp luật, giám sát việc thực thi pháp luật của các cơ quan tư pháp; Nhất là
hiện nay công tác hướng dẫn, tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về lĩnh vực tư
pháp chưa sâu rộng.
Chế độ chính sách đối với cán bộ tư pháp nói chung và cán bộ ngành Tòa án nói
riêng còn quá hạn chế. Nhìn chung các cán bộ Tòa án và Thẩm phán ở các nước phát
triển luôn có chế độ lương cao hơn so với các công chức khác trong cơ quan nhà nước, ví
dụ ở nước láng giềng Trung Quốc lương trung bình của một Thẩm phán là 4000 tệ/1 tháng
(khoảng 8 triệu đồng Việt Nam).
Trong khi ở Việt Nam các chế độ chính sách về lương của cán bộ Tòa án là thấp
và thậm chí so với nhiều ngành khác chế độ chính sách còn thấp hơn. ở các Tòa án do
ngân sách hạn hẹp nên dịp lễ tết và kinh phí để xét xử lưu động phải trông chờ ủy ban
nhân dân hỗ trợ. Và chế độ lương quá thấp như vậy chưa thực sự bảo đảm để họ tận tâm,
tận lực với công việc.
Đây cũng là một nguyên nhân dễ dẫn đến còn có cán bộ tư pháp thoái hóa biến
chất vi phạm pháp luật làm trái với lương tâm và đạo đức nghề nghiệp để kiếm tiền.
Trong giai đoạn hiện nay, số lượng đội ngũ cán bộ trong cơ quan tư pháp nói
chung và Viện kiểm sát, Tòa án nói riêng là rất ít. Thực tế lượng công việc phải giải
quyết hàng năm của các cơ quan bảo vệ pháp luật năm sau cao hơn năm trước rất nhiều
nhưng số lượng cán bộ tăng lên không đáng kể. Mới đây ủy ban Thường vụ Quốc hội đã

thông qua tổng biên chế của Tòa án nhân dân các cấp là 12.024 người, tuy nhiên hiện nay
số lượng Thẩm phán của Tòa án nhân dân các cấp mới chỉ dừng ở con số 3.543 người,
như vậy là còn thiếu rất nhiều, nhất là ở Thành phố Hồ Chí Minh và đồng bằng Nam Bộ.
Với số lượng công việc như hiện nay thì các Tòa án cần tăng 1,5 lần so với số biên chế
hiện có, mới đảm bảo cho việc giải quyết vụ án không bị quá tải. Mặc dù các Thẩm phán,
cán bộ phải làm thêm ngoài giờ, làm thứ bẩy, chủ nhật mà vẫn không hết việc. Chính vì
số lượng án quá nhiều nhưng việc giải quyết vụ án phải kịp thời hạn luật định nên nhiều
khi thời gian nghiên cứu hồ sơ của Thẩm phán không đủ, khó có thể đảm bảo về chất
lượng của mọi vụ án.
Đội ngũ Kiểm sát viên thì đỡ bức bách hơn về số lượng nhưng với lượng công
việc như hiện nay thì cũng vẫn không đủ. Do số lượng còn thiếu nên việc nghiên cứu hồ
sơ và việc chuẩn bị cho phần tranh luận tại phiên tòa chắc chắn sẽ còn hạn chế.
Nguyên nhân này rất khó khắc phục đối với các cơ quan tư pháp trong việc hoàn
thành nhiệm vụ nói chung và trong yêu cầu của cải cách tư pháp hiện nay bởi về số lượng
cán bộ họ không thể chủ động mà phải qua duyệt biên chế và ngân sách hành chính sự
nghiệp của Quốc hội. Chính vì vậy việc thiếu cán bộ không thể bổ sung ngay một sớm
một chiều. Những cơ quan thiếu cán bộ thường phải làm thêm giờ hoặc điều động cán bộ
từ địa phương này đến địa phương khác công tác. Tuy nhiên, việc điều động như vậy vừa
mang tính tạm thời vừa có những khó khăn nhất định cho cán bộ được điều động, ít nhiều
có ảnh hưởng công tác chuyên môn của cán bộ.
2.3.3. Về cơ chế thực hiện việc tranh tụng tại phiên tòa
Như phần trên đã nêu, hệ thống pháp luật tố tụng hình sự của chúng ta hiện nay
theo luận chứng của nhiều chuyên gia là hệ thống pháp luật đặc trưng của tố tụng thẩm
vấn, kiểu tố tụng này đã cùng chúng ta trải qua những năm tháng trong công cuộc đấu
tranh phòng ngừa tội phạm và đã phần nào hình thành ý thức trong những người tiến
hành tố tụng. Do vậy quan điểm, tác phong, thói quen, lề lối làm việc đã được hình thành
bởi những năm tháng gắn bó với nghề nghiệp đã có ảnh hưởng không ít đến việc thực
hiện theo tinh thần tranh tụng mới, để có sự thay đổi ngay lập tức về ý thức tranh tụng
trong mỗi người là điều không thể.

Hiện nay cơ chế để đảm bảo cho việc thực hiện tranh tụng tại phiên tòa còn nhiều
vấn đề. Từ việc tạo ra hành lang pháp lý để tạo ra cơ chế, ý thức của người tham gia tranh
tụng đến những quy chế kiểm tra giám sát để đảm bảo thực hiện, với những chế tài
nghiêm khắc khi phát hiện vi phạm và kịp thời khen thưởng những trường hợp hoàn
thành tốt nhiệm vụ vẫn chưa hoàn thiện. Chẳng hạn, tại phiên tòa nếu Viện kiểm sát
không chủ động xét hỏi làm rõ những tình tiết buộc tội, không đối đáp trực tiếp đúng vấn
đề mà luật sư đưa ra; đồng thời việc ghi lại diễn biến của toàn bộ vụ án tại phiên tòa
không chính xác, khách quan thì sẽ xử lý như thế nào v.v... Thu thập tài liệu chứng cứ là
việc rất quan trọng để Luật sư có thể tham gia tranh luận một cách bình đẳng tại phiên
tòa, nhưng nếu cơ quan điều tra, Viện kiểm sát gây khó khăn trong việc cấp giấy phép
bào chữa cho Luật sư thì chế tài nào xử lý v.v... Và rất nhiều vấn đề cần phải có sự quy
định cụ thể để tạo ra một cơ chế đồng bộ chuẩn xác cho việc thực hiện tranh tụng.
2.3.4. Về cơ sở vật chất
Một nguyên nhân cũng không kém phần quan trọng ảnh hưởng đến quá trình
tranh tụng tại phiên tòa, đảm bảo tính trang nghiêm của Tòa án là cơ sở vật chất, trang
thiết bị của ngành Tòa án phần lớn đã xuống cấp, lạc hậu, không phù hợp với yêu cầu của
công tác xét xử trong tình hình mới. Trong khi số lượng án hàng năm phải giải quyết rất
lớn thì trụ sở làm việc của các Tòa án lại quá chật hẹp, xuống cấp, thậm chí còn phải đi
thuê. Tòa án thường được coi là biểu tượng công lý, biểu tượng của pháp luật nhưng có
Tòa án phải thuê trụ sở làm việc, xét xử ngay trong khuôn viên khu vui chơi giải trí,
masage. Những Tòa án quá chật hẹp thì nhiều khi phải xử án tại phòng làm việc, xử án
xong lại kê bàn ghế như cũ. Phòng xử như vậy không đảm bảo tính trang nghiêm của Tòa
án; chỗ ngồi cho Luật sư chật hẹp, không có phòng cách ly người làm chứng và các bên
tham gia tố tụng, nói gì đến quá trình tranh tụng tại phiên tòa. Trụ sở đã như thế, các
trang thiết bị khác thì quá cũ kỹ và thiếu thốn, một Tòa án cấp huyện giải quyết hàng
trăm vụ án lưu động một năm nhưng không có phương tiện vận tải phục vụ cho công tác xét
xử lưu động v.v... Hiện nay còn có 130 trụ sở Tòa án các cấp cần xây dựng mới, 217 trụ
sở Tòa án các cấp cần mở rộng, đây là một bài toán khá nan giải khi giải quyết vấn đề
kinh phí và mặt bằng xây dựng trụ sở Tòa án.

Trong điều kiện hiện nay hầu hết các phiên tòa đều không có cảnh sát bảo vệ, chỉ
những vụ án lớn hoặc những phiên tòa lưu động thì mới mời lực lượng công an hoặc
cảnh sát tư pháp. Đây là một khó khăn đối với công tác xét xử bởi không có lực lượng
bảo vệ thường xuyên nhiều phiên tòa đang diễn ra bị các phần tử quá khích gây rối trật
tự, ngay lúc đó không có lực lượng đủ mạnh để trấn áp nên có phiên tòa phải hoãn. Vừa
không đảm bảo tính nghiêm minh của phiên tòa vừa không hoàn thành được nhiệm vụ
xét xử.
* *
*
Từ những số liệu thực tế và việc khảo sát tình hình xét xử tại các phiên tòa có thể
khẳng định một số phiên tòa việc tranh tụng còn diễn ra hình thức và hời hợt dẫn đến việc
xét xử còn nhiều sai sót nhiều bản án phải hủy, sửa. Sau khi có Nghị quyết 08/NQ-TW,
tranh tụng tại phiên tòa đã được Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Luật sư thực hiện tốt
hơn thể hiện ở những phiên tòa mẫu và nhiều phiên tòa khác, thế nhưng vẫn còn những
phiên tòa diễn ra không đúng với tinh thần của tranh tụng, không đáp ứng đòi hỏi của cải
cách tư pháp, việc xét hỏi diễn ra phiến diện hoặc vi phạm các quy định của pháp luật tố
tụng về xét xử tại phiên tòa, không thận trọng xem xét đầy đủ các chứng buộc tội và gỡ
tội..., phiên tòa nhiều khi diễn ra tẻ nhạt một chiều. Kiểm sát viên tham gia phiên tòa chỉ
như người chứng kiến không ý thức tranh tụng, kết luận của Kiểm sát viên theo một
khuôn mẫu chung, chất lượng bào chữa của Luật sư tại phiên tòa chưa cao, ít có những bài
bào chữa đặc sắc mà chỉ tập trung vào những tình tiết vụn vặt hoặc câu chữ v.v... Từ thực
trạng xét xử và tranh tụng tại phiên tòa như đã nêu trên thì việc tìm ra nguyên nhân là vô
cùng quan trọng. Pháp luật tố tụng hình sự là cơ sở quan trọng nhất để việc thực hiện tranh
tụng tại phiên tòa đạt hiệu quả nhưng thực tế cho thấy những quy định của pháp luật để tạo ra
sự tranh tụng thực sự nghiêm túc và bình đẳng giữa các bên vẫn còn sơ hở, những cơ chế
thực hiện nó cũng như những quy định khác của pháp luật tạo điều kiện cho quá trình
tranh tụng còn thiếu và không đồng bộ. Bên cạnh đó, năng lực trình độ, phẩm chất đạo
đức của những người tham gia vào quá trình tranh tụng chưa đáp ứng được với yêu cầu
của tranh tụng, cơ sở vật chất còn nghèo nàn lạc hậu... Những nguyên nhân và tồn tại trên

đang là những đòi hỏi cấp bách phải có những giải pháp đúng đắn và đồng bộ để tranh
tụng tại phiên tòa thực sự được diễn ra hiệu quả nhất trên thực tế.

Chương 3
Các giải pháp nâng cao hiệu quả
tranh tụng tại phiên tòa

Trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta đang chủ trương xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa thì vấn đề nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan tư
pháp nói chung và của Tòa án nói riêng là hết sức cấp bách. Ngày 2/1/2002 Bộ Chính trị
đã có Nghị quyết số 08/NQ-TW "Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong
thời gian tới", trong đó đề cao vấn đề tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự.
Để thực hiện tốt yêu cầu cải cách tư pháp nâng cao hiệu quả tranh tụng tại phiên tòa xét
xử vụ án hình sự cần có những giải pháp đồng bộ về nhiều mặt.
3.1. Hoàn thiện pháp luật
3.1.1. Tranh tụng phải được đưa lên thành một nguyên tắc trong hoạt động
xét xử
Để nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng tại phiên tòa thì điều tiên quyết và
quan trọng nhất trong Bộ luật tố tụng hình sự phải thể hiện rõ tranh tụng là một nguyên
tắc cơ bản trong hoạt động xét xử, từ đó cụ thể hóa hơn nữa những quy định về tranh tụng
tại phiên tòa, tạo ra cơ chế thích hợp và hiệu quả cho quá trình tranh tụng. Từ việc thừa
nhận là một nguyên tắc thì tất cả các cơ quan bảo vệ pháp luật và các chủ thể khác tham
gia vào quá trình tố tụng đều phải ý thức và hướng mọi hoạt động của họ theo nguyên tắc
ấy.
Khi đã coi tranh tụng là vấn đề có tính xuyên suốt trong việc xét xử tại phiên tòa,
tức là tại phiên tòa quyết định của Tòa án chỉ có thể căn cứ vào quá trình tranh tụng, trên
cơ sở xem xét, thẩm tra, đánh giá chứng cứ được đưa ra từ các bên một cách khách quan,
toàn diện thì vấn đề giới hạn xét xử đối với Tòa án không nên đặt ra nữa. Bởi vì nếu như
vậy, dù Tòa án có ra phán quyết vẫn phải dựa trên cơ sở khung, tội mà Viện kiểm sát đưa
ra chứ không phải là căn cứ vào kết quả tranh luận công khai tại phiên tòa.

Trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nên có vai trò là trọng tài phán
quyết vụ án, để việc xét hỏi theo hướng buộc tội là của đại diện Viện kiểm sát việc xét
hỏi theo hướng gỡ tội là của Luật sư bào chữa. Tuy nhiên Bộ luật tố tụng hình sự hiện
nay vẫn có những quy định chưa phù hợp, điều đó làm cho các chủ thể tham gia tranh
tụng không nhận thức đúng và đầy đủ về vai trò của mình trong tranh tụng nên không tích
cực, chủ động trong việc thực hiện chức năng của mình mà ỷ lại và phụ thuộc vào Tòa
án. Mặc dù đã có sự sửa đổi nhưng quy định tại các điều từ Điều 207 đến Điều 215 như
hiện nay vẫn còn đặt quá nặng trách nhiệm chứng minh lên vai Hội đồng xét xử. Theo
chúng tôi, các quy định về trình tự thủ tục xét hỏi tại phiên tòa trong Bộ luật tố tụng hình
sự cần phải sửa đổi theo hướng để cho các bên tranh tụng thực hiện trách nhiệm chứng
minh và tiến hành xét hỏi là chủ yếu, còn Tòa án thực hiện việc giám sát, duy trì trình tự
xét hỏi và có quyền tham gia vào quá trình đó ở bất kỳ thời điểm nào khi thấy cần thiết
phải làm sáng tỏ các tình tiết nào đó về vụ án chưa được các bên làm rõ trong quá trình
xét hỏi. Trong các điều luật về xét hỏi cần quy định: khi xét hỏi Kiểm sát viên hỏi trước
sau đó đến người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Các thành viên Hội
đồng xét xử có thể hỏi ở bất kỳ thời điểm nào về các tình tiết cần làm sáng tỏ.
Cũng về quy định Tòa án nên có vai trò là trọng tài trong quá trình giải quyết
vụ án, Điều 104 Bộ luật tố tụng hình sự cho phép Tòa án được quyền khởi tố vụ án;
theo quy định này rõ ràng là Tòa án lại thực hiện chức năng buộc tội, khi Tòa án đã
khởi tố thì việc xét xử sẽ theo hướng ấy, nên không đảm bảo sự khách quan. Hơn nữa
thực tiễn cho thấy những vụ án do Hội đồng xét xử khởi tố là hầu như không có, quy
định này đã không còn phù hợp bởi vậy nên bãi bỏ.
3.1.2. Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát đối với
Tòa án cần phải loại bỏ
Hiện nay, Viện kiểm sát vẫn đồng thời có chức năng thực hành quyền công tố và
chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong đó có kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án.
Một cơ quan vừa có thẩm quyền buộc tội, vừa có thẩm quyền giám sát hoạt động của cơ
quan khác ra phán quyết về hoạt động buộc tội của mình thì sao có thể bình đẳng và độc
lập được, vì vậy chức năng giám sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát đối với

Tòa án cần bị loại bỏ. Sửa đổi như vậy vừa đảm bảo nhất quán về mặt pháp luật, tạo ra sự
độc lập trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của Tòa án vừa tạo điều kiện để Viện kiểm sát
tập trung hơn, hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ công tố của mình.
3.1.3. Đối với Kiểm sát viên
Kiểm sát viên là một bên của quá trình tranh tụng nên việc nâng cao chất lượng
cũng như ý thức tranh tụng của Kiểm sát viên rất quan trọng, theo chúng tôi cần có những
quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự và trong những văn bản về tổ chức hoạt động của
Viện kiểm sát:
- Nhiệm vụ buộc tội tại phiên tòa là của Kiểm sát viên.
- Trong thứ tự xét hỏi và tranh luận Kiểm sát viên luôn phải là người đầu tiên.
- Những tranh luận và lời buộc tội của Kiểm sát viên không đúng với những tình tiết
tại phiên tòa là những tiêu chí để đánh giá chất lượng Kiểm sát viên.
- Có quy chế về sự kiểm tra của lãnh đạo Viện kiểm sát về chất lượng tranh tụng
tại phiên tòa của Kiểm sát viên.
3.1.4. Đối với người bào chữa
Quyền nhờ người khác bào chữa của bị can, bị cáo đã được pháp luật tố tụng
hình sự nước ta quy định nhưng nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu bình đẳng giữa
bên buộc tội và bên gỡ tội. Hiện nay Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã có sự sửa đổi
và quy định nhiều hơn về quyền của người bào chữa như: sự tham gia tố tụng của của
Luật sư từ khi có quyết định tạm giữ; có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ; quyền
thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa; đưa ra tài liệu và đồ vật;
sao chụp tài liệu... Tuy nhiên, để thực sự bình đẳng trong tranh tụng thì cần sửa đổi Bộ
luật tố tụng hình sự theo hướng đảm bảo hơn nữa quyền bình đẳng của Luật sư trước và
trong phiên tòa để họ có thể tranh tụng một cách dân chủ, bình đẳng với bên buộc tội. Bộ
luật tố tụng hình sự 2003 chưa hoàn toàn tạo ra cơ chế, điều kiện thuận lợi nhất để thực
hiện quyền bình đẳng của Luật sư - với tư cách là một bên tranh tụng.

Vì vậy, để tranh tụng thực sự dân chủ và có hiệu quả, cần bổ sung một số quyền
cho bên gỡ tội:
- Luật sư, bị cáo là bên gỡ tội trong quá trình tranh tụng, hoàn toàn bình đẳng
với Viện kiểm sát là bên buộc tội.
- Quyền đề xuất nhân chứng cần triệu tập đến phiên tòa.
- Quyền bác bỏ nhân chứng do phía buộc tội đưa ra.
- Bỏ quy định khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, thì người
bào chữa phải có trách nhiệm giao cho cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án.
- Bỏ quy định Luật sư phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án nếu như không
phải là phiên tòa xét xử.
- Bỏ việc cấp giấy chứng nhận bào chữa cho Luật sư theo từng giai đoạn tố tụng
vì như thế sẽ khó khăn cho quá trình bảo vệ quyền lợi cho bị cáo. Khi Luật sư tham gia
bào chữa từ khi bắt tạm giữ, từ giai đoạn khởi tố, thì có quyền bảo vệ quyền lợi hợp pháp
cho bị cáo đến khi án có hiệu lực pháp luật (trừ trường hợp bị cáo không yêu cầu).
Theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì
người bào chữa có quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ
những cơ quan tổ chức, cá nhân nhưng phải theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo. Theo chúng tôi, khi người bào chữa đã được bị can, bị cáo yêu cầu để bảo vệ quyền
lợi thì có nghĩa là họ đã mong muốn người bào chữa làm mọi biện pháp theo quy định
của pháp luật để bảo vệ quyền lợi cho họ, hơn nữa khi tiếp xúc với người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo thì người bào chữa mới có thể biết được những thông tin về những cá nhân, tổ
chức cần thu thập tài liệu, chứng cứ vì vậy không cần thiết phải quy định "theo yêu cầu
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo" mà chỉ cần quy định "để phục vụ cho hoạt động bào
chữa cho bị can bị cáo, nếu không thuộc bí mật Nhà nước, bí mật công tác" là đủ.
Để Luật sư thực sự tranh tụng bình đẳng với Kiểm sát viên tại phiên tòa, thì Luật
sư phải có thời gian nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị những chứng cứ lý lẽ, nhất là việc thu
thập những chứng cứ ngay từ giai đoạn bị can, bị cáo bị tạm giữ nên cần phải quy định cụ
thể:

Đối với các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự thì
ngay tiêu đề của điều luật phải quy định "Bắt buộc phải cử người bào chữa". Đồng thời
phải có cơ chế kiểm tra và quy rõ trách nhiệm cụ thể với trường hợp luật đã bắt buộc mời
nhưng những người có trách nhiệm không mời. Những trường hợp này cần phải coi là vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Nếu trong quá trình tiến hành tố tụng có các vấn đề mới phát sinh như bị can từ
chối người bào chữa theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, bị can đã đến tuổi thành
niên, bị can có nhu cầu mời người khác bào chữa... Lúc này cơ quan tiến hành tố tụng sẽ
tùy theo từng trường hợp cụ thể, từng giai đoạn tiến hành tố tụng cụ thể để giải quyết nội
dung phát sinh mới cho phù hợp với thực tế sự việc đã xảy ra.
Theo quy định của Điều 107 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003: "trước khi hỏi
cung, điều tra viên phải giải thích các quyền và nghĩa vụ cho bị can". Trên thực tế, hầu
hết các bị can, nhất là bị can đang bị tạm giam (kể cả các trường hợp bị can theo quy định
tại khoản 2 Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự) đều không được điều tra viên giải thích hoặc
giải thích không đầy đủ về quyền được nhờ người khác bào chữa, quyền được cơ quan
tiến hành tố tụng yêu cầu Đoàn Luật sư chỉ định Văn phòng Luật sư cử người bào chữa
cho mình. Để khắc phục tình trạng này, trong mẫu giấy về quyết định tạm giữ, khởi tố bị
can, nên in sẵn thông báo cho người bị tạm giữ, bị can biết quyền đó.
Để tạo điều kiện thuận tiện nhất cho người đại diện hợp pháp của người bị tạm
giam, bị can mời người bào chữa cần quy định khi người nhà người bị tạm giữ, bị can có
đơn (có xác nhận địa chỉ của ủy ban nhân dân cấp xã) mời Luật sư bào chữa, Cơ quan điều
tra phải bố trí Luật sư gặp bị can, người bị tạm giữ. Nếu họ đồng ý để Luật sư bào chữa thì
Cơ quan điều tra phải cấp ngay giấy phép, những trường hợp vì bí mật an ninh quốc gia
hoặc những lý do khác Luật sư không thể tham gia ngay từ giai đoạn này pháp luật cũng
cần quy định rõ.
Mặc dù pháp luật đã quy định, nhưng việc tham dự của người bào chữa trong các
buổi điều tra viên lấy lời khai bị can gặp nhiều khó khăn. Vì theo họ, sự có mặt của người
bào chữa sẽ gây khó khăn, phức tạp trong việc lấy lời khai bị can, thậm chí còn gây trở ngại
cho công việc của họ. Khi người bào chữa tiếp xúc với bị can đều có điều tra viên hoặc giám

thị ngồi bên cạnh, nên dù bị can bị bức cung hoặc dùng nhục hình thì họ cũng không dám thổ
lộ với người bào chữa.
Để khắc phục tình trạng này, Bộ luật tố tụng hình sự cần có quy định rõ những
trường hợp Luật sư được tiếp xúc riêng với bị can mà không có sự giám sát của giám thị
trại giam hoặc của điều tra viên. Những trường hợp luật đã cho phép có mặt Luật sư
tham gia khi hỏi cung bị can, được tham gia các hoạt động nghiệp vụ mà Điều tra viên
không thông báo, không tạo điều kiện cần có những chế tài xử lý.
Các quy định tại các điều 187, 189, 190, 245, 280 Bộ luật tố tụng hình sự quy
định trong mọi trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt phải hoãn phiên tòa trong khi đó
người bào chữa hoặc bị cáo và các chủ thể khác vắng mặt thì vẫn có thể tiến hành xét xử
vụ án. Chúng tôi cho rằng, quy định như vậy là chưa đảm bảo sự bình đẳng giữa các bên
trong tranh tụng, nhất là đảm bảo quyền lợi của bị cáo. Sự vắng mặt của Luật sư và của bị
cáo ở phiên tòa sẽ làm cho quá trình tranh tụng mất đi ý nghĩa của nó bởi thiếu một bên
tham gia và một chức năng quan trọng là bào chữa không được thực hiện. Vì vậy cần bổ
sung: trong những trường hợp Luật sư vắng mặt vì trường hợp bất khả kháng không gửi
được bản bào chữa (như tai nạn, bị bệnh...) thì Tòa án phải hoãn phiên tòa. Trong
trường hợp đó bị cáo có thể mời Luật sư khác. Nếu Tòa án đã hoãn phiên tòa theo thời
hạn luật định mà Luật sư vẫn không thể có mặt và bị cáo không mời Luật sư khác thì Tòa
án sẽ vẫn tiến hành xét xử.
Chức năng bào chữa là một chức năng quan trọng trong quá trình tố tụng, đây là
trách nhiệm nghề nghiệp đồng thời cũng là nghĩa vụ của Luật sư trước bị can, bị cáo. Tuy
nhiên trong Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật hiện hành chưa xác định rõ
nghĩa vụ pháp lý của Luật sư trước bị can, bị cáo; các tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn,
năng lực và sức khỏe đối với những người hành nghề Luật sư cũng chưa được quy định chặt
chẽ. Điều đó làm hạn chế đến khả năng thực hiện chức năng và nghĩa vụ của Luật sư trong
quá trình tranh tụng. Trong Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật khác cần quy
định rõ trách nhiệm pháp lý của Luật sư bào chữa trước bị can, bị cáo trong những trường
hợp Luật sư không làm tròn nghĩa vụ và chức năng nghề nghiệp của mình là bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo. Trách nhiệm đó phải là trách nhiệm vật chất

dân sự: như phải hoàn trả lại cho thân chủ tiền thù lao đã nhận và bị phạt một khoản tiền nào
đó hoặc là trách nhiệm kỷ luật - hành chính trước tổ chức đoàn Luật sư (phê bình, cảnh cáo,
tạm đình chỉ hành nghề có thời hạn...) thậm chí cả trách nhiệm hình sự nếu để xảy ra hậu quả
nghiêm trọng ví dụ như bị cáo bị xử phạt oan, bị can bị bắt giam trái pháp luật mà Luật sư
không can thiệp bảo vệ kịp thời dẫn đến bị can tự tử hoặc bị dùng nhục hình dẫn đến chết
người..) với hình phạt bổ sung cấm hành nghề Luật sư. Cũng cần xác định rõ thời điểm bắt
đầu và kết thúc nghĩa vụ của Luật sư đối với bị can, bị cáo (Ví dụ từ thời điểm Luật sư nhận
làm người bào chữa cho đến khi bản án có hiệu lực pháp luật). Để nâng cao chất lượng của
đội ngũ Luật sư hiện nay cần quy định rõ tiêu chuẩn chuyên môn của người hành nghề Luật
sư phải có bằng cử nhân luật, có thời gian làm thực tiễn từ 4 đến 6 năm trở lên, tuổi đời
cũng cần giới hạn không quá 65 tuổi và phải qua sát hạch thi tuyển trước khi cấp giấy phép
hành nghề Luật sư. Được như vậy thì trình độ của Luật sư mới được nâng lên, đảm bảo hoàn
thành được một cách tốt nhất nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bị cáo.
3.2.Cơ chế đảm bảo thực hiện tranh tụng tại phiên tòa
3.2.1. Giai đoạn chuẩn bị xét xử
Đây là giai đoạn quan trọng có ý nghĩa chuẩn bị cho kế hoạch thẩm vấn, kế
hoạch điều khiển phiên tòa và tranh tụng của các bên, do vậy cần có sự chuẩn bị kỹ càng:
Chủ tọa phiên tòa và các Hội thẩm phải nghiên cứu kỹ hồ sơ, các tình tiết trong
vụ án không phải là thấy ngay bị cáo phạm tội hay không phạm tội và phạm tội gì theo
điều khoản nào, mà phải tìm ra những điểm còn mâu thuẫn giữa các chứng cứ để khi ra
phiên tòa điều khiển cho các bên tranh luận về những vấn đề còn mâu thuẫn đó để làm
sáng tỏ.
Nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án để xác định những chứng cứ nào là buộc tội, những
chứng cứ nào là gỡ tội. Ra phiên tòa có kế hoạch xét hỏi và điều khiển cho các bên hỏi,
tranh luận về những chứng cứ đó để kiểm tra tính xác thực, từ đó có phán quyết.
Nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án để triệu tập những người cần thiết phải có mặt tại
phiên tòa như người làm chứng, người giám định, người phiên dịch v.v... Bởi thực tế là có

nhiều nhân chứng triệu tập rất khó, hoặc không tìm được thì phải có kế hoạch triệu tập
hoặc dẫn giải.
Nghiên cứu kỹ hồ sơ để có được kế hoạch điều khiển cho các bên tranh luận, có kế
hoạch thẩm vấn và xét hỏi, dự trù những khả năng có thể xảy ra để khi ra phiên tòa ứng
phó kịp thời với những tình huống bất ngờ tại phiên tòa.
Để thực hiện điều này trên thực tế cần có quy định một cách cụ thể trong những
điều luật về trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng trong quá trình chuẩn bị
tham gia phiên tòa tranh tụng.
3.2.2. Đảm bảo việc thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
trong tổ chức xét xử tại phiên tòa
Nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự không thể
không đề cập đến cơ chế để đảm bảo thực hiện nó, trong đó có vấn đề tổ chức phiên tòa.
Việc tổ chức phiên tòa sao cho:
Phải thể hiện rõ địa vị pháp lý (quyền và nghĩa vụ tố tụng) của các cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Phiên tòa phải đảm bảo
để không những nghĩa vụ tố tụng mà các quyền tố tụng của những người tham gia tố
tụng, nhất là của bị cáo được thực hiện đầy đủ. Các cơ quan tiến hành tố tụng như Viện
kiểm sát, Tòa án (Hội đồng xét xử) thực hiện đúng chức năng của mình được pháp luật
quy định: Tòa án thực hiện chức năng xét xử thông qua việc xem xét đánh giá các chứng
cứ buộc tội, chứng cớ gỡ tội do hai bên đưa ra tại phiên tòa để ra bản án hoặc quyết định
giải quyết các vấn đề của vụ án; Viện kiểm sát thực hành quyền công tố phải chủ động
hoàn toàn trong vấn đề buộc tội và chịu trách nhiệm về việc buộc tội đó theo pháp luật;
phiên tòa phải được thể hiện trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc tố tụng nói chung và các
quy định chung về xét xử nói riêng. Thực tiễn xét xử cho thấy rằng nếu tuân thủ không
nghiêm chỉnh các nguyên tắc tố tụng hình sự thường dẫn đến những sai lầm nghiêm
trọng. Phiên tòa phải được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định.
Tuyệt đối tránh trường hợp đơn giản hóa các quy định của pháp luật về thủ tục tố tụng tại
phiên tòa từ giai đoạn bắt đầu phiên tòa đến thủ tục xét hỏi, giai đoạn tranh luận, nghị án
và tuyên án. Các quy định đó đảm bảo cho quá trình xét xử được chính xác, khách quan,

đảm bảo cho những người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng
của mình. Vi phạm những quy định đó ít hay nhiều đều ảnh hưởng tới kết quả xét xử.
Vì vậy theo chúng tôi vi phạm các thủ tục xét xử tại phiên tòa cần được coi là vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng - căn cứ để Tòa án cấp phúc thẩm hay giám đốc thẩm
hủy án để xét xử lại.
3.2.3. Về quá trình điều khiển phiên tòa của Thẩm phán
Để đảm bảo cho việc tranh luận tại phiên tòa phát huy được tác dụng đích thực
của nó, theo chúng tôi:
Thẩm phán, Kiểm sát viên phải nhận thức hồ sơ vụ án chỉ là tài liệu do Cơ quan
điều tra thu thập chưa chắc đã phải là chính xác, lúc này nguyên tắc giả định bị cáo vô tội
phải được quán triệt. Cần thực hiện đúng nguyên tắc "bản án chỉ căn cứ vào những chứng cứ
đã được xem xét tại phiên tòa". Và thực hiện đúng tinh thần chỉ đạo của Nghị quyết 08/NQ-
TW việc giải quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên
cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào
chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp
để đưa ra những bản án, quyết định đúng pháp luật có sức thuyết phục.
Bị cáo, các đương sự và người bào chữa cho bị cáo, bảo vệ quyền lợi cho đương
sự phải chủ động và tích cực đưa ra những chứng cứ, lý lẽ, cơ sở pháp luật để tranh luận với
Kiểm sát viên cũng như giữa các đương sự trong vụ án.
Để tạo điều kiện cho bị cáo tranh luận với Kiểm sát viên tại phiên tòa, các cơ
quan tiến hành tố tụng phải tạo điều kiện cho bị cáo biết được cụ thể, đầy đủ những
chứng cứ, cơ sở pháp lý buộc tội bị cáo có thời gian chuẩn bị hoặc nhờ Luật sư tìm ra
chứng cứ, lý lẽ, cơ sở pháp lý để thực hiện việc tranh luận tại phiên tòa.
Khi xét hỏi Hội đồng xét xử chỉ nên thẩm tra lại tất cả các chứng cứ đã thu thập
được trong hồ sơ vụ án để bị cáo xác nhận một cách công khai họ đồng ý hay không đồng
ý với các chứng cứ đó. Đối với các chứng cứ bị cáo không thừa nhận, Hội đồng xét xử
cần lưu ý kiểm sát viên, bị cáo, Luật sư để đi sâu phân tích, tranh luận làm rõ.

Hội đồng xét xử không nên tranh luận với bị cáo, các đương sự về các chứng cứ
đó. Và đặc biệt không được đưa ra những nhận xét đánh giá về các chứng cứ đó tại phiên
tòa. Việc đánh giá chứng cứ và cơ sở pháp lý để giải quyết vụ án chỉ được diễn ra trong
phòng nghị án.
Khi xét hỏi Hội đồng xét xử không phê phán bị cáo quanh co chối tội, không
được hỏi mang tính chất truy chụp, lăng mạ bị cáo. Không nên giải thích pháp luật quá nhiều
nhất là giải thích bị cáo thành khẩn khai nhận thì sẽ được hưởng lượng khoan hồng bởi vì bị
cáo không có nghĩa vụ chứng minh là mình vô tội.
Thái độ của Hội đồng xét xử phải khách quan, vô tư, tránh sự nóng nảy dẫn đến
không khí căng thẳng ảnh hưởng đến diễn biến của phiên tòa.
Trình tự tiến hành phiên tòa phải theo đúng các quy định tại Bộ luật tố tụng hình
sự nhưng Chủ tọa phiên tòa là người phải chịu trách nhiệm chính về việc này, và để tạo
điều kiện cho các bên tranh luận tại phiên tòa một cách công khai dân chủ, xác định được sự
thật của vụ án cần tránh những trường hợp sau:
Không được định kiến sẵn rằng bị cáo phạm tội hoặc không phạm tội.
Không cho bị cáo hoặc những người khác chủ động trình bày, tranh luận về các
tình tiết của vụ án mà đã cắt ngang để đặt câu hỏi, trừ trường hợp sa đà vào những tình
tiết vụn vặt.
Tránh hỏi bị cáo với tính chất buộc tội như cáo trạng, mà hướng cho Kiểm sát
viên hỏi cả về những tình tiết buộc tội và gỡ tội để làm sáng tỏ nội dung vụ án, trừ những
điểm nào đã yêu cầu Kiểm sát viên hỏi rồi vẫn chưa rõ, Hội đồng xét xử mới hỏi. Bởi Hội
đồng xét xử giữ vai trò là trọng tài.
Tại phiên tòa, Chủ tọa phiên tòa cần hỏi:
Nội dung cáo trạng mà bị cáo được tống đạt có đúng với nội dung cáo trạng mà
đại diện Viện kiểm sát vừa công bố không? Vì thực tế có những trường hợp cáo trạng bị
cáo được tống đạt đã bị thay đổi so với cáo trạng được công bố tại phiên tòa.
Phần đối đáp chỉ được thực hiện sau khi Kiểm sát viên và những người tham gia tố
tụng đã trình bày lời luận tội và ý kiến của mình. Theo quy định thì mỗi người tham gia tranh

luận chỉ được đáp lại một lần với mỗi vấn đề mà mình không đồng ý. Để theo dõi chặt quá
trình tranh luận, nhất là đối với những vụ án lớn, kéo dài Chủ tọa cần phải ghi lại những nội
dung tranh luận, đối đáp của từng người.
Diễn biến phiên tòa nên theo những đề xuất đã nêu trên và phải bám sát vào quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự để không bỏ sót quy trình và đảm bảo quyền lợi cho các bên
tham gia tranh tụng, nhưng để thực hiện như vậy cần có cơ chế giám sát và biên bản phiên
tòa là nơi thể hiện rõ nhất diễn biến của phiên tòa.
3.2.4. Tăng cường việc giám đốc của Tòa án cấp trên với hoạt động xét xử
của Tòa án cấp dưới
Trong việc tạo ra cơ chế đảm bảo cho quá trình tranh tụng thì không thể không
nói đến hoạt động giám đốc của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới, biên bản phiên
tòa thể hiện lại diễn biến của quá trình xét xử tại phiên tòa. Vì vậy, đòi hỏi người viết
biên bản phiên tòa phải có trình độ, có phẩm chất đạo đức tốt để việc ghi chép không chỉ
đúng mà còn đủ diễn biến của quá trình xét xử. ở những nước có điều kiện kinh tế phát
triển thì phiên tòa thường được trang bị camera và ghi âm để lưu lại toàn bộ quá trình
diễn biến tại phiên tòa, khi có khiếu nại về hoạt động xét xử thì mở ra xem lại. ở nước ta
hiện nay chưa có điều kiện để trang bị thì cần có quy định cụ thể chế tài xử lý đối với
những trường hợp biên bản phiên tòa ghi không đúng diễn biến của quá trình xét xử, hoặc
không hoàn thành biên bản theo đúng quy trình tố tụng. Biên bản phiên tòa bao giờ cũng
phải có chữ ký của Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa nên cả Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
và Thư ký ghi biên bản đều phải chịu trách nhiệm. Tùy theo những lỗi nặng nhẹ khác
nhau mà xử lý.
Nếu biên bản phiên tòa thể hiện diễn biến phiên tòa không đảm bảo quy trình tố
tụng, không tuân theo tinh thần tranh tụng của Nghị quyết 08/NQ-TW và Kết luận số 290
của Tòa án nhân dân tối cao về hội thảo "Tranh tụng tại phiên tòa hình sự" cần xác định
là lỗi nghiêm trọng và hủy án.
3.2.5. Về các cơ quan bổ trợ tư pháp

Kết quả hoạt động của các cơ quan bổ trợ tư pháp cũng có ảnh hưởng rất lớn đến
quá trình tranh tụng tại phiên tòa. Với trình độ dân trí như hiện nay bị cáo thường không tự
bảo vệ được quyền lợi của họ, nếu có chăng quyền lợi của họ được đảm bảo nhất là nhờ
người bào chữa nhưng với điều kiện kinh tế hiện nay nhiều người không có tiền để thuê. Vì
vậy cần có sự hỗ trợ của Nhà nước, có quy chế rõ ràng để những gia đình nghèo vẫn có thể
nhờ người bào chữa miễn phí.
Bên cạnh đó, tổ chức bộ máy của các cơ quan giám định tư pháp còn nhiều bất
cập: một là không đủ lớn mạnh, không đúng tầm với nhiệm vụ; hai là đội ngũ giám định viên
còn thiếu lại không được đào tạo cơ bản chuyên sâu. Để khắc phục tình trạng này chúng tôi
đề nghị thành lập Cơ quan giám định quốc gia.
3.2.6. Cải tiến hình thức phiên tòa
Trong quá trình tranh tụng, việc bố trí sắp xếp phiên tòa cũng phần nào thể hiện
địa vị pháp lý của những người tham gia và tiến thành tố tụng. Đồng thời việc bố trí sắp xếp
tại phiên tòa cũng thể hiện tính uy nghiêm của pháp luật, qua đó tuyên truyền phổ biến giáo
dục pháp luật đến người dân một cách hiệu quả.
Vì vậy, phòng xử án cần phải có diện tích nhỏ nhất là 60 m
2
được bố trí làm sao để
thể hiện được rằng Hội đồng xét xử là trung tâm của việc xét xử, được ngồi bàn riêng trên
cùng dưới Quốc huy. Do các Tòa án đều nhân danh Nhà nước, cho nên không cần thiết phải
có băng rôn ghi tên Tòa án cụ thể bên dưới Quốc huy. Tuy nhiên, vị trí của đại diện Viện
kiểm sát phải đối diện với người bào chữa lùi hơn so với Hội đồng xét xử và gần bị cáo để có
điều kiện thực hiện nhiệm vụ, thư ký phiên tòa phải được bố trí ở nơi thuận lợi nhất để có thể
nghe rõ tất cả những người tiến hành và tham gia tố tụng để ghi biên bản phiên tòa, để có thể
thực hiện sự liên hệ giữa Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng trong quá trình
xét xử như chuyển tài liệu cho bị cáo, nhân chứng, các đương sự để xác nhận tại phiên tòa,
chuyển chứng cứ, tài liệu do những người tham gia tố tụng xuất trình tại phiên tòa cho Hội
đồng xét xử v.v... Vị trí của bị cáo là sau vành móng ngựa, những người tham gia tố tụng
khác mà lời khai có thể đối lập mâu thuẫn nhau như người bị hại, nguyên đơn, bị đơn dân sự,
nhân chứng... tùy theo từng trường hợp được bố trí ở phòng cách ly và khai báo ở vị trí riêng

với bị cáo. Cảnh sát bảo vệ phiên tòa cần bố trí chỗ ngồi gần bị cáo hoặc ngay sau bị cáo
(nếu là những tội phạm đặc biệt nguy hiểm).
Mặc dù cũng đã có những nghiên cứu đề cập đến cách thức bố trí phiên tòa
nhưng tác giả cũng vẫn đưa ra ý tưởng của mình về bố trí phiên tòa, bởi hiện nay vị trí
ngồi của Kiểm sát viên và Luật sư tại các phiên tòa vẫn chưa bình đẳng. Mời tham khảo
hình vẽ dưới.
















3.3. Về lương và chế độ chính sách
Lương và chế độ chính sách đối với cán bộ công chức nói chung và của cán bộ
ngành Tòa án nói riêng cần được tăng lên đáp ứng đủ cho nhu cầu sinh hoạt bình thường
Quốc huy
Hội đồng xét xử
Thư ký
Viện
kiểm
sát
Luật sư
Bào chữa
cho bị cáo
Vành móng
ngựa
Bị cáo
Luật

khác
Bàn
nơi những
người tham
gia tố tụng
đứng khai

Ngừơi
giám
định
Người
phiên dịch
Bị hại Bị hại
những người tham gia
tố tụng khác

những người tham gia
tố tụng khác

Cảnh sát bảo vệ Cảnh sát bảo vệ

của họ và gia đình. Về vấn đề này chúng ta có thể học tập kinh nghiệp của Singapore,
vừa tăng lương vừa có những chế tài xử lý chặt chẽ, kiên quyết đối với những trường hợp
phát hiện vi phạm.
Để góp phần độc lập trong xét xử và tận tâm công tác của Thẩm phán cần nghiên
cứu chế độ bổ nhiệm Thẩm phán suốt đời (có thể tham khảo chế độ bổ nhiệm Thẩm phán
suốt đời của Mỹ), với chế độ chính sách lương cao, kể cả việc trả lương sau khi nghỉ hưu,
đồng thời quy định việc bãi miễn chỉ có thể được thực hiện thông qua việc cáo buộc.
Có như vậy mới đảm bảo đội ngũ cán bộ công chức nói chung tận tâm toàn ý với
công việc của mình mà thực hiện nhiệm vụ được giao hiệu quả nhất.
3.3.1. Tăng cường cơ sở vật chất cho các cơ quan tiến hành tố tụng nói
chung và ngành tòa án nói riêng
Những cơ quan có trụ sở chật hẹp thì các cấp ngành cần có sự phối hợp chặt chẽ,
đề ra kế hoạch chi tiết từng bước giao đất và cấp kinh phí để các cơ quan đó được xây dựng
sớm. Việc thực hiện cần có cơ chế giám sát theo từng bước và dự kiến thời gian nào sẽ hoàn
thành việc xây dựng trụ sở. Vì đây là đòi hỏi cấp bách của các cơ quan tư pháp nói chung và
cơ quan xét xử nói riêng, nên việc sớm có trụ sở sẽ tạo điều kiện rất lớn cho các cơ quan đó
hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Những phương tiện và những thiết bị thiết yếu ở các cơ quan xét xử đều là nhằm
phục vụ nhiệm vụ xét xử nên việc thiếu thốn sẽ gây trở ngại rất lớn. Những cơ quan phải
xét xử lưu động ở cấp huyện cần được cấp kinh phí để phục vụ phiên tòa hoặc cấp xe tải
nhỏ để phục vụ nhiệm vụ này. Những cơ sở vật chất, trang thiết bị thiết yếu cần được sự
quan tâm để cấp đủ...
3.3.2. Tăng cường số lượng, chất lượng cán bộ tòa án
Số lượng cán bộ ở các cơ quan xét xử hiện nay là quá ít, cán bộ luôn phải làm
việc trong tình trạng thêm giờ, ngày nghỉ. Đây là một sức ép lớn dẫn đến quá tải công
việc. Số lượng cán bộ ở các cơ quan tăng lên không phụ thuộc vào việc tuyển chọn cán
bộ của ngành Tòa án mà phải phụ thuộc chỉ tiêu biên chế Quốc hội giao, do đó mong
rằng Quốc hội sớm bổ sung biên chế ngân sách cho ngành Tòa án.

Cùng với việc tăng về số lượng thì cũng cần nâng cao về chuyên môn nghiệp vụ,
phẩm chất chính trị, đạo đức, khuyến khích việc tự học tập nâng cao trình độ để đáp ứng
yêu cầu của nhiệm vụ, đòi hỏi của cải cách tư pháp.
3.3.3. Tuyên truyền phổ biến pháp luật
Nhà nước và chính quyền địa phương cần đẩy mạnh hơn nữa việc phổ biến tuyên
truyền giáo dục pháp luật cho nhân dân, để họ tham gia vào quá trình tố tụng, có thể tự
bào chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình đồng thời giám sát việc thực thi pháp luật
của các cơ quan tư pháp.
* *
*
Tranh tụng tại phiên tòa có vai trò lớn trong việc xác định sự thật khách quan vụ án,
tránh bỏ lọt tội phạm làm oan người vô tội, nhưng quá trình thực thi trên thực tế đã thấy
có nguyên nhân, tồn tại làm cản trở tiến trình thực hiện tranh tụng. Vì vậy, cần có những
giải pháp đồng bộ và phù hợp để có thể nâng cao hiệu quả tranh tụng góp phần thực hiện
thành công cải cách tư pháp. Những giải pháp đó có thể là hoàn thiện nhiều lĩnh vực khác
nhau của pháp luật như những sửa đổi trong Bộ luật tố tụng hình sự, trong các văn bản
pháp luật khác về các cơ quan tư pháp và bổ trợ tư pháp, các văn bản pháp luật về tổ chức
và hoạt động của Viện kiểm sát, Tòa án.., tạo ra những cơ chế đảm bảo cho thực hiện
tranh tụng tại phiên tòa, có những chế độ về lương và chính sách phù hợp...
Và với tất cả những giải pháp đó có thể chưa chuẩn xác và hoàn toàn đầy đủ
nhưng tác giả cũng mong góp một tiếng nói trong việc hoàn thiện pháp luật, hoàn thiện
cơ chế để tranh tụng phát huy được hiệu quả trên thực tiễn.

Kết luận

Tranh tụng tại phiên tòa có vai trò hết sức quan trọng, nó không chỉ là sự đánh
giá kết quả hoạt động của các giai đoạn điều tra, truy tố mà còn có tác dụng to lớn đối với
chính giai đoạn xét xử. Nó chính là cơ chế tối ưu nhất để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
bị cáo, đảm bảo việc truy tố, xét xử là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Chính vì tầm
quan trọng của nó nên Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị "Về một
số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới" đã đề cập đến việc nâng cao
chất lượng xét xử của Tòa án là khâu trung tâm đột phá, quyết định của hoạt động tư
pháp, phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả tranh tụng tại phiên tòa, phát huy được tối đa mặt tích
cực của nó thì cần có sự nghiên cứu sâu sắc cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng
tranh tụng tại phiên tòa. Bởi vậy, luận văn đã giải quyết nhiệm vụ:
1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa như: khái
niệm, đặc điểm, những điều kiện và yêu cầu của tranh tụng tại phiên tòa, cơ sở pháp lý
quy định về tranh tụng tại phiên tòa, ý nghĩa của tranh tụng tại phiên tòa.
2. Sơ lược về lịch sử các quy định của luật tố tụng hình sự Việt Nam về tranh
tụng tại phiên tòa. Trên cơ sở đó sơ bộ đánh giá được những điểm còn chưa đầy đủ của
pháp luật về tranh tụng tại phiên tòa.
3. Phân tích, đánh giá thực trạng tranh tụng tại phiên tòa ở Việt Nam những năm
gần đây, qua đó rút ra những mặt tích cực cũng như những tồn tại, hạn chế trong quá
trình xét xử tại phiên tòa.
4. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu và những đánh giá về thực trạng tranh tụng tại
phiên tòa, luận văn nêu ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng tại phiên
tòa xét xử vụ án hình sự.
Từ những hướng nghiên cứu trên cho thấy để xác định sự thật khách quan của vụ
án thì phiên tòa phải đảm bảo nguyên tắc tranh tụng, và như thế cần phải có những cơ
chế, điều kiện nhất định để thực hiện:

Thứ nhất, tham gia vào quá trình tranh tụng bao giờ cũng phải có ba chủ thể của
quan hệ tranh tụng.
Thứ hai, để việc tranh tụng đạt kết quả cao thì các bên buộc tội và gỡ tội phải có sự
chuẩn bị kỹ càng, có trình độ năng lực cũng như đạo đức nghề nghiệp.
Thứ ba, có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và các điều kiện về cơ sở vật chất
đảm bảo.
Yêu cầu của tranh tụng tại phiên tòa:
- Tranh tụng tại phiên tòa phải đảm bảo tính dân chủ, công khai nhưng vẫn thể
hiện tính nghiêm minh của pháp luật.
- Mục đích của tranh tụng tại phiên tòa là làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ
án thông qua sự cọ xát giữa các lập luận, ý kiến. Vì vậy, yêu cầu của nó là bên buộc tội
và bên gỡ tội chủ động tranh luận tại phiên tòa về từng chi tiết của vụ án.
Tuy nhiên, trên thực tế tranh tụng tại phiên tòa hiện nay không có đủ các điều
kiện và yêu cầu trên. Những khảo cứu lịch sử quy định của pháp luật tố tụng hình sự từ
1945 đến nay cho thấy hệ thống pháp luật hiện hành còn chưa cụ thể và chưa tạo ra cơ
chế hoàn toàn đầy đủ cho quá trình tranh tụng của các bên:
Thứ nhất, chưa tạo ra được sự trung lập, trọng tài của Hội đồng xét xử.
Thứ hai, Kiểm sát viên và Luật sư vẫn chưa có vị thế bình đẳng với nhau.
Thứ ba, những cơ chế bắt buộc, đảm bảo thực hiện tranh tụng với các bên tham
gia tranh tụng.
Thứ tư, có những văn bản quy định khá hoàn chỉnh và chi tiết về tranh tụng tại
phiên tòa (một số gợi ý của Ban chỉ đạo cải cách tư pháp về việc tổ chức phiên tòa hình
sự theo tinh thần Nghị quyết 08/NQ-TW, Kết luận số 290 của Tòa án nhân dân tối cao về
hội thảo "Tranh tụng tại phiên tòa hình sự") nhưng lại không có tính pháp lý bắt buộc đối
với mọi chủ thể giam gia vào quá trình tranh tụng.
Và như vậy, thực tiễn tranh tụng tại phiên tòa còn diễn ra hình thức và hời hợt,
nhiều khi vi phạm tinh thần tranh tụng đã được nêu trong Nghị quyết 08/NQ-TW dẫn đến

việc xét xử còn nhiều sai sót nhiều bản án phải hủy, sửa. Những nguyên nhân và tồn tại
đó đang là những đòi hỏi cấp bách phải có những giải pháp đúng đắn và đồng bộ để tranh
tụng tại phiên tòa thực sự được diễn ra hiệu quả nhất trên thực tế. Luận văn đã đưa ra
những giải pháp sau:
1. Hoàn thiện pháp luật.
2. Cơ chế đảm bảo thực hiện tranh tụng tại phiên tòa.
3. Về lương và các chế độ chính sách.
Tranh tụng tại phiên tòa là một vấn đề lớn trong luật tố tụng hình sự. Tính phức
tạp và nhiều mặt về nội dung, về sự thể hiện của nó không chỉ ở giai đoạn xét xử đã là
những khó khăn cho những người nghiên cứu về chế định này. Vì nhiều lý do, đề tài này
chưa có điều kiện đi sâu nghiên cứu một cách triệt để và toàn diện tất cả những vấn đề
đang được thực tiễn xây dựng và áp dụng pháp luật đặt ra. Những kết quả khiêm tốn của
đề tài này hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ bé về mặt lý luận và thực tiễn trong việc
hoàn thiện và nâng cao hiệu quả tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự, góp phần
thực hiện thành công công cuộc cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước ta đề ra.

danh mục Tài liệu tham khảo

1. Ban chỉ đạo cải cách tư pháp (2002), Một số gợi ý về việc tổ chức phiên tòa hình sự
theo tinh thần Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp.
2. Bộ Công an (2003), Thông tư số 15/2003/TT-BCA(V19) ngày 10-9 của Bộ trưởng Bộ
Công an hướng dẫn hoạt động hỗ trợ tư pháp của lực lượng cảnh sát bảo vệ và
hỗ trợ tư pháp thuộc công an nhân dân.
3. Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1988), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Nguyễn Ngọc Chí (2002), "Hiệu quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng khi
giải quyết vụ án hình sự trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam", Kinh tế luật, (2), tr. 12-21.
6. Nguyễn Ngọc Chí (2004), "Tố tụng, tranh tụng và vấn đề cải cách tư pháp ở Việt
Nam trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền", trong cuốn chuyên khảo:
Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền,
Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
7. Chính phủ (2002), Chỉ thị số 10 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thực hiện
nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới.
8. Ngô Huy Cương "Đổi mới hoạt động xét xử theo nguyên tắc tranh tụng", Nghiên cứu
lập pháp.
9. Nguyễn Bá Diến (2003), "Về hai hình thức xét xử dưới góc độ so sánh", Đặc san
nghề luật, (5), tr. 23-26.
10. Đại học Quốc gia Hà Nội (2001), Giáo trình Luật tố tụng hình sự, (TS Nguyễn Ngọc Chí
chủ biên), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương (2002), Nghị quyết số 08-
NQ/TW ngày 02-01 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công
tác tư pháp trong thời gian tới.
13. Elisabeth Pelsez (2003), "Tố tụng, tranh tụng và tố tụng xét hỏi", Thông tin khoa học
xét xử, (1), tr. 3-6.
14. Hoàng Ngọc Giao (2004), "Minh bạch, bình đẳng, năng lực - những yêu cầu không
thể thiếu của cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay", trong cuốn chuyên khảo:
Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền,
Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
15. Phạm Hồng Hải (2004), "Tiến tới xây dựng tố tụng hình sự ở Việt Nam theo kiểu tố
tụng tranh tụng", trong cuốn chuyên khảo: Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong
giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
16. Nguyễn Thanh Hạo (2003), "Xây dựng pháp luật: Diễn đàn đóng góp ý kiến sửa đổi, bổ
sung dự án Bộ luật tố tụng hình sự", Pháp lý, (8), tr. 29-30
17. Tống Anh Hào (2004), "Về tranh tụng tại phiên tòa hình sự", Tòa án, (5), tr. 2-4.
18. Nguyễn Văn Hiện (Chủ nhiệm đề tài) (1999), Vấn đề tổ chức phiên tòa và việc thực
hiện các quy định của pháp luật tố tụng tại phiên tòa của Tòa án nhân dân, Đề
tài khoa học cấp bộ.
19. Nguyễn Văn Hiện (2003), Kết luận bế mạc Hội nghị tổng kết công tác Ngành Tòa án
nhân dân năm 2002 và triển khai nhiệm vụ công tác năm 2003.
20. Phan Trung Hoài (2002), "Phán quyết của Tòa án phải dựa vào kết quả tranh tụng tại
phiên tòa", Báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh, số ra ngày 10-10.
21. Nguyễn Huy Hoàn (2004), "Bảo đảm quyền nhờ người khác bào chữa cho bị can
trong hoạt động tố tụng hình sự", Dân chủ và pháp luật, (10), tr. 55-58.

22. Quốc Huy (2000), "Lời tranh luận của kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử các vụ án
hình sự", Kiểm sát, (5).
23. Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2004), Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai
đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
24. Trần Linh (2004), "Về thực hiện Nghị quyết 08/NQ-TW", Tòa án, (8), tr. 2.
25. Trần Đức Lương (2002), Kết luận Hội nghị triển khai thực hiện Nghị quyết 08/NQ-
TW của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời
gian tới.
26. Vũ Mộc (2002) "Hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nhằm nâng cao
chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ
với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác theo tinh
thần của Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ chính trị", Thông tin khoa học pháp lý,
(5).
27. Vũ Mộc (2002) "Hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nhằm nâng cao
chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ
với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác theo tinh
thần của Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ chính trị", Thông tin khoa học pháp lý,
(6).
28. Từ Văn Nhũ (2002), "Nhận thức về tranh tụng tại phiên tòa hình sự và những kiến
nghị giải pháp", Thông tin khoa học pháp lý, (5).
29. Từ Văn Nhũ (2002), "Nhận thức về tranh tụng tại phiên tòa hình sự và những kiến
nghị giải pháp", Thông tin khoa học pháp lý, (6).
30. Từ Văn Nhũ (2002), "Đổi mới thủ tục xét xử nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng
tại phiên tòa hình sự", Tòa án nhân dân, (10).
31. Từ Văn Nhũ (2002), "Đổi mới thủ tục xét xử nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng
tại phiên tòa hình sự", Tòa án nhân dân, (11).

32. Ngô Hồng Phúc (2003), "Vấn đề nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa hình
sự", Tòa án, (2), tr. 1-2.
33. Lê Kim Quế (2003), "Một số vấn đề cần nghiên cứu thêm trong dự thảo Bộ luật tố
tụng hình sự", Tòa án, (10), tr. 10-11.
34. Lê Kim Quế (2004), "Người bào chữa trong giai đoạn điều tra", Dân chủ và pháp
luật, (12), tr. 45- 47.
35. Đinh Văn Quế (2004), "Vai trò của Hội đồng xét xử trong việc tranh tụng tại phiên
tòa sơ thẩm hình sự", Tòa án, (1), tr. 4-8.
36. Đinh Văn Quế (2004), "Về chế định người bào chữa", Tòa án, (3), tr. 17-22.
37. Đinh Văn Quế (2004), "Một số vấn đề về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ
thẩm", Tòa án, (8), tr. 3-10.
38. Huỳnh Sáng (2004), "Về việc thực hiện thủ tục xét hỏi kết hợp với tranh tụng tại
phiên tòa", Tòa án, (3), tr. 4-5.
39. Trần Đại Thắng (2003), "Bàn về vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình sự", Kiểm sát,
Số chuyên đề (9), tr. 25-30.
40. Lê Hữu Thể (2002), "Vấn đề tranh tụng trong hoạt động tố tụng hình sự và việc thể
chế hóa trong quá trình hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam", Thông tin
khoa học pháp lý, (5 + 6). tr, 4-5.
41. Phan Hữu Thư (2003), "Kết hợp các yếu tố tranh tụng vào thủ tục tố tụng xét hỏi - một
yêu cầu của cải cách tư pháp", Đặc san nghề luật, (5), tr. 3-12.
42. Đỗ Gia Thư (2004), "Thực trạng đội ngũ thẩm phán nước ta - Những nguyên nhân và
bài học kinh nghiệm từ quá trình xây dựng", Tòa án nhân dân, (7).
43. Nguyễn Thị Thanh Thủy (Chủ nhiệm đề tài) (2001), Nâng cao chất lượng thủ tục tố
tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Đề
tài khoa học cấp cơ sở.
44. Tòa án nhân dân tối cao (1989), Báo cáo tổng kết ngành Tòa án năm 1989, Hà Nội.
45. Tòa án nhân dân tối cao (1990), Báo cáo tổng kết ngành Tòa án năm 1990, Hà Nội.

46. Tòa án nhân dân tối cao (1991), Báo cáo tổng kết ngành Tòa án năm 1991, Hà Nội.
47. Tòa án nhân dân tối cao (1992), Báo cáo tổng kết ngành Tòa án năm 1992, Hà Nội.
48. Tòa án nhân dân tối cao (1993), Báo cáo tổng kết ngành Tòa án năm 1993, Hà Nội.
49. Tòa án nhân dân tối cao (1994), Báo cáo tổng kết ngành Tòa án năm 1994, Hà Nội.
50. Tòa án nhân dân tối cao (1995), Báo cáo tổng kết ngành Tòa án năm 1995, Hà Nội.
51. Tòa án nhân dân tối cao (1996), Báo cáo tổng kết ngành Tòa án năm 1996, Hà Nội.
52. Tòa án nhân dân tối cao (1997), Báo cáo tổng kết ngành Tòa án năm 1997, Hà Nội.
53. Tòa án nhân dân tối cao (1998), Báo cáo tổng kết ngành Tòa án năm 1998, Hà Nội.
54. Tòa án nhân dân tối cao (1999), Báo cáo tổng kết ngành Tòa án năm 1999, Hà Nội.
55. Tòa án nhân dân tối cao (2000), Báo cáo tổng kết ngành Tòa án năm 2000, Hà Nội.
56. Tòa án nhân dân tối cao (2001), Báo cáo tổng kết ngành Tòa án năm 2001, Hà Nội.
57. Tòa án nhân dân tối cao (2002), Báo cáo tổng kết ngành Tòa án năm 2002, Hà Nội.
58. Tòa án nhân dân tối cao (2003), Báo cáo tổng kết ngành Tòa án năm 2003, Hà Nội.
59. Tòa án nhân dân tối cao (2004), Báo cáo tổng kết ngành Tòa án năm 2004, Hà Nội.
60. Tòa án nhân dân tối cao (2002), Kết luận số 290 ngày 5/11 về hội thảo "Tranh tụng
tại phiên tòa hình sự".
61. Nguyễn Thành Trì (2003), "Những quy định về hoạt động tranh tụng trong Bộ luật tố
tụng hình sự Cộng hòa Liên bang Nga", Đặc san nghề luật, (5), tr. 13-22.
62. Trương Vĩnh Trọng (2002), Đề cương giới thiệu Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ
Chính trị về công tác tư pháp và chương trình trọng tâm công tác tư pháp năm
2002.
63. Trần Văn Trung (2002) " Đổi mới thủ tục xét xử nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng
tại phiên tòa hình sự", Thông tin khoa học pháp lý, (5).
64. Trần Văn Trung (2002) " Đổi mới thủ tục xét xử nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng
tại phiên tòa hình sự", Thông tin khoa học pháp lý, (6).

65. Nguyễn Minh Tuấn (2004), "Vai trò của thẩm phán trước yêu cầu của công tác cải
cách tư pháp ở nước ta hiện nay", trong cuốn chuyên khảo: Cải cách tư pháp ở
Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học quốc
gia, Hà Nội.
66. Viện Khoa học kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1995), Những vẫn đề lý
luận và thực tiễn cấp bách của tố tụng hình sự Việt Nam, Hà Nội.
67. Nguyễn Tất Viễn (2004), "Đổi mới tổ chức và hoạt động giám định tư pháp trong quá
trình cải cách tư pháp", trong cuốn chuyên khảo: Cải cách tư pháp ở Việt Nam
trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học quốc gia, Hà
Nội.
68. Trịnh Tiến Việt (2003), "Tranh tụng và vấn đề nâng cao chất lượng tranh tụng tại
phiên tòa hình sự", Đặc san nghề luật, (5), tr. 26-32.
69. Tiến Việt (2003), "Xây dựng pháp luật: Về người tham gia tố tụng", Pháp lý, (8), tr.
31-32.










phụ lục